Lời Mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có thể khẳng định các hoạt động đầu tư trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò là một nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Thực vậy, đối với các nước đang phát triển, đầu tư đóng vai trò như “một cái hích ban đầu” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế bởi phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến.
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Có thể coi FDI là một biện pháp rất hữu hiệu để khắc phục tình trạng thiếu vốn - một vấn đề đang đặt ra đối với hầu hết các nước đang phát triển.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tuy mới bắt đầu từ năm 1988 nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đặc biệt kể từ khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và sửa đổi bổ sung năm 2000 hoạt động FDI đã có những bước phát triển mới. Việc đánh giá vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế nhằm thấy rõ hơn tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư này từ đó có các biện pháp thu hút và sử dụng FDI ngày càng có hiệu quả hơn.
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua
CHương một
Cơ sở lý luận
I/ Khái niệm và đặc điểm của FDI
1) Khái niệm:
Có thể hiểu đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kêt quả nhất định nào đó trong tương lai lớn hơn các nguồn lực bỏ ra. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có bản chất như đầu tư nói chung, đó là sự tìm kiếm lợi nhuận từ việc sử dụng các nguồn lực để thực hiện một hoạt động. Tuy nhiên, FDI nhấn mạnh đến địa điểm thực hiện hoạt động này- là ở quốc gia khác chứ không phải tại quốc gia của nhà đầu tư trong đó nước nhận đầu tư gọi là nước chủ nhà còn nước chủ đầu tư gọi là nước đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc chủ đầu tư của quốc gia này (thường là một công ty hay một cá nhân cụ thể) mang các nguồn lực cần thiết sang thực hiện tại một quốc gia khác. Chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào quán trình trình khai thác kết quả đầu tư và chịu trách nhiệm về kết quả sử dụng vốnc của mình.
2) Đặc điểm:
Đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều có những đặc điểm chung như tính rủi ro và khả năng sinh lời, tuy nhiên đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại một một nước khác với những điều kiện có thể hoàn toàn khác biệt với so với nước của mình do đó chủ đầu tư thường gặp rủi ro nhiều hơn so với những dự án thực hiện tại nước của mình. Bên cạnh đó, với việc di chuyển nguồn lực sang nước khác, chủ đầu tư sẽ phải đối mặt với những vần đề về thuế nhập khẩu, thủ tục hải quan và hàng loạt các chính sách liên quan như như chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái... mà chủ đầu tư trong nước không phải lo lắng.
II/ Vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế
1) FDI tác động đến tổng cung và tổng cầu:
- Về mặt cầu: Đầu tư tăng lên làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch chuyển sang D’) kéo sản lượng cân bằng từ tăng theo từ Q0 đến Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0 đến P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1.
P
S
P1 E1
P2 E0 S’
P3 E2
Q0 Q1 Q2 Q
.2) FDI có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế:
Đầu tư làm cho sản lượng tăng, giá cả giảm, kích thích sản xuất, tạo việc làm và duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Tuy nhiên, khi tăng đầu tư làm cho giá các hàng hoá có liên quan tăng (giấ chi phí vốn, công nghệ, lao động, vật tư...) tăng từ đó dẫn đến tình trạng lạm phát, thất nghiệp. Như vậy, đầu tư vừa duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế đồng thời cũng phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Do đó, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác dụng tích cực, duy trì được sự ổn định của nền kinh tế.
3) FDI làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước:
Về công nghệ hiện nay, trình độ của Việt Nam rất thấp so với các nước trên thế giới (theo UNIDO nếu chia quá trình phát triển công nghệ làm 7 giai đoạn thì Việt Nam đang ở giai đoạn thứ 2- là một trong những nước kém nhất về công nghệ).
Công nghệ là trung tâm, là điều kiện rất quan trọng để tiến hành công nghiệp hoá do đó để cải thiện tình hình này thì ngoài việc tự nghiên cứu nhất thiết phải nhập công nghệ từ nước ngoài. Và như vậy vốn đầu tư là rất quan trọng bởi mọi phương án đổi mới công nghệ đều không khả thi nếu không gắn với nguồn vốn đầu tư.
4) FDI góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế được xác định bởi số lượng tỷ trọng các bộ phận trong nền kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy muốn phát triển kinh tế thì cần tập trung vào các bộ phận tạo ra tăng trưởng cao là khu vực công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, chính đầu tư đã quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu nhằm đạt tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, FDI có tác động giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo đồng thời phát huy tối đa những lơị thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
5) FDI có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào vốn đầu tư, quan hệ này được biểu diễn bởi phương trình:
I = ICOR x GDP
ICOR =
ICOR là một hệ số phản ánh thực trạng đầu tư của nền kinh tế, là tỷ lệ giữa lượng vốn đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị GDP gia tăng. Nếu ICOR càng nhỏ thì hiệu quả vốn đầu tư càng cao. Các yếu tô ảnh hưởng đến ICOR như sau:
Thứ nhất là cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế, theo vùng kinh, theo thành phần kinh tế. Đầu tư nhiều vào các cơ sở sản xuất, trực tiếp tạo ra GDP và làm tăng giá trị GDP thì hệ số vốn có xu hướng giảm. Ngược lại, nếu tập trung nhiều hơn vào các ngành và lĩnh vực không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm hàng hoá (đầu tư vào giao thông, hạ tầng xã hội, xoá đói giảm nghèo...) sẽ làm cho hệ số vốn cao hơn, xét vế mặt nào đó kém hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong đầu tư phải cân đối giữa các ngành, lĩnh vực, các vùng và các thành phần kinh tế.
Thứ hai là quy mô của các dự án đầu tư. Có càng nhiều công trình với quy mô lớn, thời gian xây dựng kéo dài thì sẽ có xu hướng làm tăng hệ số vốn. Ngược lại, nếu đầu tư nhiều dự án quy mô nhỏ thì hệ số vốn sẽ nhỏ đi và do nhanh chóng đưa vào khai thác sử dụng, tạo ra sản phẩm hàng hoá.
Thứ ba là trình độ quản lý trong đầu tư và xây dựng cũng có tác dụng tăng hoặc giảm hệ số ICOR. Quản lý tốt, không để thất thoát lãng phí, suất đầu tư nhỏ, sẽ tạo điều kiện để giảm hệ số vốn đầu tư.
Như vậy, việc bố trí cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo điều kiên để tăng hiệu quả đầu tư, tác động không cho hệ số vốn tăng nhanh. Tuy nhiên, xu thế hệ số vốn sẽ tăng dần do càng ngày càng có nhiều công trình dự án với quy mô lớn hơn, càng ngày càng phải đầu tư các dự án ở những nơi kém lợi thế hơn về mặt sử dụng tài nguyên thiên nhiên, suất đầu tư lớn hơn.
Trước mắt, việc kết hợp giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo, tạo nhiều việc làm, giải quyết công bằng xã hội cũng là những yếu tố làm tăng hệ số vốn đầu tư. Do vậy vấn đề đặt ra là phải tìm ra cơ cấu đầu tư thât hợp lý cả về cơ cấu ngành, lĩnh vực; cơ cấu quy mô các loại dự án; cơ cấu điều đầu tư theo các thành phần kinh tế... đồng thời phải có chính sách thích hợp để quản lý tốt hơn nguồn vốn đầu tư.
Do đặc điểm của FDI là ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị, bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất nên FDI ngày càng có vai trò to lớn thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Cụ thế là:
+ Đối với các nước đầu tư, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng. Mặt khác, thông qua việc đầu tư ra nước ngoài các nước đầu tư sẽ mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
+ Đối với nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước đang phát triển, FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp. Quan trọng hơn, FDI còn giúp tăng thu ngân sách thông qua việc đánh thuế các công ty nước ngoài.
Ngoài ra, với các máy móc, thiết bị cũng như những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được đưa vào sản xuất, FDI sẽ giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh cũng như bắt kịp với phương thức quản lý công nghiệp hiện đại góp phần hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi.
Đối với các doanh nghiệp: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trước hết, để tạo dựng cơ sở vật chất cho sự ra đời của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải thực hiện các hoạt động đầu tư (xây dựng nhà xưởng, lắp đặt thiết bị máy móc...). Sau một thời gian hoạt động, để duy trì được hoạt động bình thường cần tiến hành sửa chữa lớn, mua sắm trang thiết bị mới nhằm đáp ứng với điều kiện mới. Điều này cũng có nghĩa là phải đầu tư. Như vậy, sự tồn tồn tại của doanh nghiệp được quyết định bởi đầu tư tái sản xuất giản đơn tài sản cố định và các tài sản khác. Đầu tư quyết định sự phát triển thể hiện ở chỗ đầu tư tái sản xuất mở rộng.
III/ Các hình thức FDI
1) Hợp đồng hợp tác kinh doanh:Là hình thức đầu tư mà các bên tham gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia các kết quả kinh doanh cho các bên tham gia.
Hình thức này không đòi hỏi vốn lớn và thời hạn hợp đồng thường ngắn, cũng chính vì vậy mà ít thu hút được những nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng.
2) Doanh nghiệp liên doanh:
Là doanh nghiệp được hình thành giữa một bên là nước nhận đầu tư (nước chủ nhà) với một bên là hoặc các bên nước ngoài trong đó các bên cùng đóng góp vốn, cùng kinh doanh và hưởng quyền lợi nghĩa vụ theo tỷ lệ góp vốn.
Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư phổ biến được các nước chủ nhà đặc biệt là các nước đang phát triển khuyến khích áp dụng bởi ưu điểm của hình thức này là nước nhận đầu tư được tham gia vào điều hành quá trình kinh doanh do đó tiếp thu được công nghệ tiên tiến đồng thời nâng cao được kinh nghiệm quản lý.
3) Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng vì được tự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo ra đồng thời giữ được các bí mật về công nghệ.
Ngoài ra, còn có một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
+ Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT): Với hình thức này, các chủ đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Saukhi dự án kết thúc, toàn bộ công trình sẽ được chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất cứ một khoản tiền nào.
+ Hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinhdoanh (BTO): Khác với hình thức BTO, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà giành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
+ Hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT): Với hình thức này, sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà, nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
IV/ Các nhân tố ảnh hưởng đến FDI
1) Đối với nước chủ nhà
1.1 Môi trường chính trị
ổn định chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự thu hút đầu tư bởi nó đảm bảo việc thực hiện các cam kết của chính phủ trong các vấn đề sở hữu vốn đầu tư, hoạch định các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư của một nước. ổn định chính trị sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế - xã hội và giảm bớt rủi ro cho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Tình hình chính trị không ổn định sẽ dẫn tới việc bất ổn về chính sách và đường lối phát triển không nhất quán.
1..2 Môi trường luật pháp
Môi trường luật pháp ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để quản lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các chính sách, quy định, luật cần thiết dảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo và có tính hiệu lực cao.
- Chính sách sở hữu: với mục đích chính là kiểm soát các hoạt động của các nhà đầu tư, việc khống chế một mức vốn sở hữu là một biện pháp quan trọng để hạn chế sự can thiệp của nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam quy định các nhà đầu phải góp vốn không ít hơn 30% đối với hình thức liên doanh.
- Chính sách thuế: bao gồm các nội dung liên quan đến các loại thuế, mức thuế, thời gian miễn giảm thuế, thời gian khấu hao và các điều kiện ưu đãi khác.
- Chính sách lệ phí: quy định về các khoản tiền phải nộp như phí dịch vụ cấp giấy phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc...)
- Chính sách quản lý ngoại hối: bao gồm các quy định về việc mở tài khoản ngoại tệ, tỷ giá hối đoái, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Việc chuyển đổi giữa đồng nội tệ và ngoại tệ cũng như việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài được quy định khác nhau giữa các nước.
- Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài: Trong quá trình hình thành và triển khai dự án, chủ đầu tư phải chịu sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền đại diện cho nước chủ nhà từ khâu cấp giấy phép, thẩm định dự án đến quản lý việc thực hiện dự án. Theo đó, một dự án được chấp nhận phải có sự nhất trí của tất cả các cơ quan này gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư. Để khắc phục những hạn chế này, một số nước đã áp dụng hình thức “một cửa”, có nghĩa là nhà đầu tư chỉ phải liên hệ với một cơ quan chức năng để đề nghị thẩm định dự án của mình. Mọi thủ tục thẩm định sẽ do cơ quan này phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan khác tiến hành. Hình thức này đã được áp dụng tại một số nước như Thái Lan, Malayxia, Singapore...
- Các chính sách và quy định khác như chính sách về công nghệ, chính sách môi trường, chính sách lao động tiền lương, chính sách sử dụng các nguồn tài nguyên, thủ tục khai báo hải quan, quy định về việc khiếu nại, tranh chấp...
1.3 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:
Đó là những yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số... liên quan đến việc lựa chọn lĩnh vực để đầu tư và khả năng sinh lời của dự án. Khí hậu nhiệt đới gió mùa thường ảnh hưởng không tốt đến tuổi thọ của máy móc thiết bị có nguồn gốc từ phương Tây. Nguồn nguyên vật liệu đầu vào phong phú sẽ thu hút các nhà đầu tư, giảm chi phí và giá thành. Dân cư đông sẽ là nguồn cung ứng sức lao động dồi dào và là thị trường tiềm năng để tiêu thụ hàng hoá.
1.4 Điều kiện phát triển kinh tế
Mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô thấp dẫn tới các hiện tượng lạm phát cao, nợ nước ngoài nhiều, tham nhũng, thủ tục hành chính rườm rà, tăng trưởng kinh tế thấp... là nguyên nhân tiềm ẩn gây nên khủng hoảng.
Chất lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng kém ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận hành các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của các nhà đầu tư nước ngoài, khiến tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm không cao.
Chất lượng các dịch vụ khác như cung ứng lao động, tài chính cũng là những yếu tố rất cần thiết để thu hút các nhà đâu tư nươc ngoài.
Tính cạnh tranh của nước chủ nhà cao sẽ giảm được rào cản đối với đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư có thể lựa chọn lĩnh vực đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của mình.
1.5 Đặc điểm phát triển văn hoá xã hội
Bao gồm các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mỹ, hệ thống giáo dục, đạo đức...
Sự bất đồng về ngôn ngữ và văn hoá trong một số trường hợp đã mang lại những hậu quả không lường trong kinh doanh. Tinh thần tự trọng dân tộc quá cao cùng với thái độ bài ngoại sẽ là rào cản lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà ĐTNN không muốn đầu tư vào một nước có quá nhiều phong tục tập quán khác nhau bởi điều này khiến cho họ khó hoà nhập và không thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của họ.
Thẩm mỹ dân tộc của nước chủ nhà là một yếu tố quan trọng để thu hút ĐTNN chọ các hình thức quảng cáo và bao bì sản phẩm. Trình độ phát triển giáo dục- đào tạo sẽ quyết định chất lượng của đội ngũ lao động.
2) Đối với nước chủ đầu tư
2.1 Thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô
Sự thay đổi của các chính sách tài chính- tiền tệ tác động mạnh đến lãi suất, làm tăng hoặc giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư. Việc thay đổi chính sách từ “nới lỏng tiền tệ- thắt chặt tài chính” sáng “thắt chặt tiền tệ - nới lỏng tài chính” sẽ làm cho mức lãi suất trong nước cao hơn, cải thiện môi trường đầu tư trong nước từ đó làm giảm đầu tư ra nước ngoài.
Thay đổi chính sách tiền tệ sẽ làm ảnh hưởng đến lạm phát, lạm phát cao có nghĩa là đồng nội tệ mất giá khiến hoạt động đầu tư ra nước ngoài giảm và ngược lại.
ảnh hưởng của chính sách XNK của nước đầu tư đến dòng vốn đầu tư ra nước ngoài được thể hiện ở chỗ: các ưu đãi khuyến khích xuất khẩu trong các hiệp định thương mại sẽ khiến cho hàng hoá và dịch vụ của nước đầu tư có cơ hội thuận lợi thâm nhập thị trường nước khác, do đó động cơ đầu tư ra nước ngoài để vượt qua rào cản thương mại sẽ giảm mạnh. Đối với nhập khẩu cũng vậy, nếu nước đầu tư hạ mức rào cản đối hàng hóa từ nước ngoài nhất là từ các nước đang phát triển thì các nhà đầu tư trong nước sẽ có nhiều cơ hội tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm kiếm nguồn nguyên liệu mới để sản xuất hàng hoá và lại nhập khẩu lại nước mình.
Nếu nước đầu tư nới lỏng các chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá thị trường vốn thì các nhà đầu tư được quyền tự do chuyển vốn ra nước ngoài và ngược lại. Thực tế cho thấy việc xoá bỏ các quy định quản lý ngoại hối của một số nước như Nhật Bản(1983), Anh (1979), Thuỵ Điển (1980)... đã thúc đẩy mạnh mẽ dòng đầu tư ra nước ngoài của những quốc gia này.
2.2 Các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài
Việc ký kết các hiệp định đầu tư với nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng hàng đầu để đảm bảo tin tưởng cho các nhà đầu tư nươc ngoài. Các hiệp định đầu tư song phương và các hiệp định đa biên được ký nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, từ cuối những năm 80, số hiệp định đầu tư song phương giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển tăng nhanh khiến cho dòng đầu tư ra nước ngoài của các nước phát triển vào các nước đang phát triển cũng tăng theo.
Cùng với các hiệp định trên, hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa nước đầu tư với nước ngoài cũng tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư bởi họ chỉ chịu một lần thuế ở nước nhận đầu tư mà thôi.
Việc các nước đầu tư áp dụng chính sách bảo hiểm vốn đầu tư cũng là yếu tố tác động mạnh đến luồng đầu tư ra nước ngoài. Chẳng hạn, năm 1992, chính phủ Nhật Bản tuyên bố bảo hiểm đầu tư cho các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam đã khiến cho dòng đầu tư của Nhật vào Việt Nam tăng mạnh.
2.3 Tiểm lực kinh tế, khoa học công nghệ và các chính sách xã hội
Một nước chỉ có thể đầu tư ra nước ngoài khi tiềm lực kinh tế đã đủ mạnh, lượng tích luỹ lớn nên lượng vốn cần cho đầu tư trong nước dư thừa. Như vậy, mức độ tích luỹ của nền kinh tế có vai trò làm tăng hoặc giảm áp lực đẩy dòng vốn đầu tư ra nước ngoài.
Trình độ khoa học công nghệ luôn là một lợi thế cho nước đầu tư. Một nước có khả năng nghiên cứu thường là nước tạo ra công nghệ nguồn và quyết định giá cả công nghệ trên thị trường. Các công nghệ nguồn tạo ra lợi thế cạnh tranh độc quyền và cần sản xuất với quy mô lớn, đây chính là yếu tố quyết định để đầu tư ra nươc ngoài.
Thông thường việc đầu tư ra nước ngoài và tạo việc làm trong nước có mối quan hệ ngược với nhau, việc tăng cường đầu tư ra nước ngoài dẫn tới giảm đầu tư nội địa và cùng nghĩa với việc giảm cơ hội tạo việc làm trong nước, tăng tình trạng thất nghiệp và gia tăng tệ nạn xã hội. Nếu nuớc đầu tư có chính sách trợ cấp xã hội tốt dặc biệt là trợ cấp thát nghiệp sẽ làm giảm áp lực của làn sóng phản đối đầu tư ra nước ngoài.
3. Môi trường đầu tư quốc tế
3.1. Xu hướng dối thoại giữa các nước
Xu hướng đối thoại chính trị được hiểu là việc giải quyết xung đột giữa các nước được thực hiện bằng đàm phán, là yếu tố quan trọng tác động tích cực tới luồng đầu tư trên thế giới.
3.2. Liên kết khu vực
Sự tạo ra các khối thị trường chung cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy dòng đầu tư bởi tuy không đưa ra những chính sách trực tiếp song thông qua các chính sách tự do hoá thương mại đã xoá bỏ rào cản giữa các nước.
Việc liên kết khu vực tạo sự phát triển ổn định cho các nước thành viên, đồng thời buộc các nước cam kết những chính sách tự do hoá đầu tư tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài.
Chương Hai
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI tại Việt Nam thời gian từ 2001- 2004
I/ Khái quát vể môi trường đầu tư tại Việt Nam thời gian qua
1) Vài nét về Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực từ năm 1/1/1988, là một trong những cải cách quan trọng được hình thành trong khuôn khổ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, Bộ luật này còn rất nhiều điều chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế cần được sửa đổi. Chính vì vậy, Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi bổ xung lần thứ nhất vào ngày 30 tháng 6 năm năm 1990, lần thứ hai vào tháng12 năm 1992 và đặc biệt Luật đầu tư nước ngoài được tiến hành sửa đổi bổ xung lần thứ 3 vào cuối năm 1996 với một số nội dung mới như sau:
- Quy định một số điều kiện cởi mở hơn nhằm khuyến khích ĐTNN tập trung vào các hướng ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
- Theo Luật ĐTNN sửa đổi lần 3, chế độ miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu bị thu hẹp để xích lại gần với chính sách thuế của doanh nghiệp trong nước nhằm đảm bảo sự bình đẳng hơn trong cạnh tranh giữa các loại hình doanh nghiệp. Ngược lại, ưu đãi nhiều hơn đối với các dự án có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao, đầu tư vào những ngành ưu tiên. Mức ưu đãi cao nhất là thuế lợi tức: thuế suất áp dụng ở mức thấp 10% và được miễn thuế suất lợi tức 8 năm thay vì 4 năm trước đây và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo như trước đây.
- Ngoài những khuyến khích về thuế, luật năm 1996 còn quy định một số các chính sách và biện pháp khuyến khích hỗ trợ khác như: (1) Bảo đảm việc cân đối ngoại tệ cho các dự án quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam nhưng thiếu khả năng tự tái tạo ngoại tệ để thu hồi vốn. (2) Cho phép Bên nước ngoài góp vốn bằng tiền Việt Nam có nguồn gốc đầu tư tại VN thay vì chỉ bó hẹp bằng ngoại tệ phải chuyển từ nước ngoài vào như trước đây. (3) Cho phép đầu tư theo một số hình thức mới như BTO, BT, BOT. (4) Thu hẹp tối đa vần để phải biểu quyết 100% trong Hội đồng quản trị xuống còn 4 vấn để chính là bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất, Kế toán trưởng; duyệt quyết toán thu chi hàng năm; sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp, vay vốn đầu tư. (5) Cho phép bệnh viện, trường học viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên được hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Như vậy, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, theo luật lần này tuy có một số quy định thay đổi theo hướng bất lợi cho họ như thuế nhập khẩu vật tư. Bù lại, họ được ưu đãi nhiều hơn, được hỗ trợ nhiều hơn, cụ thể hơn khi thực hiện các dự án thuộc diện khuyến khích.
Việc đẩy mạnh CNH-HĐH trong thời kỳ mới đăt ra những yêu cầu mới do đó Luật ĐTNN được sửa đổi bổ xung lần 4 được tiến hành sửa đổi vào tháng 6 năm 2000 với các định chế hướng vào ngành vùng ưu tiên như ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu, công nghệ cao, CN cơ khí, điện tử là những ngành mà ta có thế mạnh nguyên liệu và lao động. Cụ thể luật ĐTNN sửa đội một số vấn đề sau:
- Tiếp tục thu hẹp phạm vi quy định về nguyên tắc nhất trí trong doanh nghiệp liên doanh.
- Tạo điều kiện cho nhà ĐTNN tự do lựa chọn hình thức và chuyển nhượng vốn đầu tư cho phù hợp với thông lệ quốc tế hơn.
- Giảm bớt mức can thiệp của nhà nước vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trong DN liên doanh bằng việc sửa lại quỹ dự phòng do doanh nghiệp quyết định (trước đây giới hạn ở mức 10% vốn phấp định của doanh nghiệp).
- Một số quy định về tài chính, ngoại hối đã được sửa đổi hoặc luật hoá: (1) Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: điều chỉnh từ mức 5%, 7% và 10% xuống còn 3%, 5% và 7%. (2) Về quy định chuyển lỗ: mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh bao gồm cả DN liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh( trước đây chỉ có DNLD). (4) Về quản lý ngoại hối: các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được mua ngoại tệ ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch khác được phép theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối (trước đây là doanh nghiệp phải tự cân đối). (5) Vè thế chấp tài sản vay vốn: cho phép các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp tài sản gắn liền đất và giá trị quyền sử dụng đất để đảm bảo vay vốn tại các TCTD được phép hoạt động tại Việt Nam.
Bên cạnh Luật ĐTTN, Chính phủ và các cấp ngành có liên quan đã ban hành hàng loạt các văn bản dưới luật để ngày càng hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ĐTNN ở Việt Nam.
Nói tóm lại, kể từ khi Luật ĐTNN chính thức có hiệu lực, trong quá trình thực hiện nhà nước ta đã bổ sung nhằm hoàn thiện dần và ngày càng lôi cuốn được các nhà đầu tư. Nếu so sánh với các nước ASEAN Luật ĐTNN của Việt Nam đã đạt tới mức tương đối hấp dẫn tuy nhiên vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế nhằm thu hút và thực hiện có hiệu quả hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
2) Vài nét về kinh tế- xã hội
2.1 Về tình hình phát triển kinh tế:
Sau một số năm giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và những khó khăn nội tại nền kinh tế, từ năm 2000, nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày càng được phục hồi duy trì được khả năng tăng trưởng cao. Kinh tế phát triển theo chiều hướng tích cực, năm sau tăng hơn năm trước. Dự kiến GDP bình quân thời gian từ 2001- 2005 tăng 7,4%/ năm trong đó nông lâm ngư nghiệp đạt3,4%/năm, khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 10,2% năm và các ngành dịch vụ đạt 6,9%/năm. Đây cũng là mức tăng trưởng khá cao so với các nước trong khu trong cùng thời kỳ.
+ Trong nông nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể về cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm. Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng đa dạng hoá ngành nghề, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, giảm sản xuất thuần nông.
Nhiều làng nghề đã được khôi phục, cơ sở hạ tầng nông thôn nhất là đường giao thông, thuỷ lợi, cấp điện, cấp nước, trường học, bệnh xá, chợ... đã được chú ý đầu tư. Thu nhập của người nông dân cũng từng bước được cải thiện.
+ Trong công nghiệp đã có bước tiến khá rõ nét trong việc cơ cấu lại sản xuất đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, hình thành một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp kỹ thuật cao tạo cơ sở ban đầu cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa; phát huy lợi thế của từng ngành, gắn sản xuất với thị trường, sản phẩm tiêu thụ khá.
+ Các ngành dịch vụ đã có bước chuyển biến tích cực, theo hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư.
Ngành thương mại hoạt động sôi nổi đảm bảo lưu thông hàng hoá và vật tư trong cả nước và trong từng vùng. Dịch vụ vận tải hành khách và hàng hoá tiếp tục phát triển, cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao lưu hàng hoá và đi lại của nhân dân. Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển nhanh, mạng lưới viễn thông về cơ bản đã được hiện đại hoá, chất lượng dịch vụ được cải thiện trong khi giá cả liên tục giảm dần. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn pháp luật, y tế, giáo dục đào tạo... đều có những bước phát triển khá so với thời kỳ trước năm 2000.
Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm xuồng còn 24,5 % trong năm 2000 xuống còn 20,4% năm 2004, các ngành sản xuất dịch vụ đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực và hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Các cân đối chủ yếu trong nến kinh tế như cân đối tích luỹ – tiêu dùng, tổng thu- tổng chi ngân sách đã bắt đầu được duy trì với một mức độ thích hợp để đảm bảo duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế.
Cuối cùng, các quan hệ quốc tế được củng cố và mở rộng bằng việc gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực, các cam kết quốc tế đa phương và song phương.
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn rất nhiều yếu kém tồn tại cần khắc phục như năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, kém bền vững, lĩnh vực xuất nhập khẩu còn gặp nhiều khó khăn, việc sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế đạt hiệu quả chưa cao... trong quá trình phát triển và hội nhập săp tới.
2.2 Về các mặt văn hoá - xã hội:
Nhìn chung, các hoạt động xã hội đều có bước phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, tình hình chính trị và an toàn xã hội được đảm bảo. Cụ thể là:
+ Công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được các kết quả đáng khích lệ.
+ Số lượng lao động được giải quyết việc làm cũng như cơ cấu lao động có sự dịch chuyển theo hướng tích cực.
+ Hệ thống cung cấp y tế đã được mở rộng và ngày càng hoàn thiện, tuổi thọ bình quân ngày càng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0193.doc