Vận dụng phương pháp thống kê phân tích tình hình Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam với ASEAN thời kỳ 1996 – 2005

LỜI NÓI ĐẦU Thế giới ngày nay đang chứng kiến quá trình toàn cầu hoá rộng rãi và sâu sắc. Sự phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Không có quốc gia nào phát triển mà không mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là ngoại thương. Xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa càng thể hiện một cách rõ nét qua sự lớn mạnh của các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới: WTO, EU, ASEAN, APEC… Thêm vào đó, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra như vũ bão và việc theo đuổi ch

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vận dụng phương pháp thống kê phân tích tình hình Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam với ASEAN thời kỳ 1996 – 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính sách mở cửa của hầu hết các quốc gia đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Rất nhiều nước, đặc biệt là những nước đang phát triển đã đạt được những thành công lớn trong quá trình hội nhập kinh tế nhờ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu. Hòa nhập với xu thế trên, từ sau đại hội VI, Đảng và Nhà nước đã khẳng định chiến lược phát ổn định và phát triển kinh tế đất nước đó là: "phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu", "mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty và các tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi" và phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc định ra một chiến lược phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu là một yêu cầu thực sự cấp bách đối với Việt Nam hiện nay. Chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu giúp Việt Nam huy động các tiềm lực về lao động và tài nguyên của mình để phát triển sản xuất Để thực hiện chiến lược trên, trong những năm qua Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới. Một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực ngoại giao là Việt Nam đã ra nhập khối ASEAN (07/1995). Là thành viên của ASEAN, Việt Nam đã cam kết thực hiện CEPT/AFTA. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đặt ra cho Việt Nam những cơ hội và thách thức mới đối với hoạt động ngoại thương. Những cơ hội và thách thức này đòi hỏi trong tiến trình thực hiện chiến lựơc công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu Việt Nam cần đặt ra cho mình các chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu sao cho phát huy được những mặt lợi thế và khắc phục những mặt hạn chế. Từ thực tế đó và dưới sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn GS.TS Phạm Ngọc Kiểm, em đã chọn đề tài “Vận dụng phương pháp thống kê phân tích tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam với ASEAN thời kỳ 1996 – 2005” với mong muốn từ sự phân tích thực trạng xuất khẩu của Việt Nam với ASEAN, sẽ là cơ sở đánh giá các mặt ưu nhược điểm trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.Từ đó đề ra một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đối với Việt Nam trước thềm thiên niên kỷ mới. Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương. Chương I: Một số vấn đề chung về xuất khẩu hàng hóa. Chương II: Một số phương pháp thống kê phân tích tình hình xuất khẩu hàng hóa. Chương III: Vận dụng phương pháp thống kê phân tích tình hình xuất khẩu của Việt Nam với ASEAN thời kỳ 1996 – 2005. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA I. Những vấn đề chung về xuất khẩu hàng hóa. 1. Khái niệm thương mại quốc tế. Xuất khẩu và nhập khẩu là nội dung quan trọng và cốt lõi của thương mại quốc tế. Vì vậy nghiên cứu nguồn gốc ra đời của hoạt động xuất khẩu trước hết ta nghiên cứu về nguồn gốc của thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế có quốc tịch khác nhau (trong đó đối tượng trao đổi thường là vượt ra ngoài phạm vi địa lý của một quốc gia) thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới. Hoạt động thương mại quốc tế ra đời sớm nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế và ngày nay nó vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trên giác độ một quốc gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung của thương mại quốc tế bao gồm: Xuất và nhập khẩu hàng hóa hữu hình: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng…). Đây là bộ phận chủ yếu và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Xuất và nhập khẩu hàng hóa vô hình: (các bí quyết công nghệ, bằng sáng chế phát minh, phần mền máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại hình dịch vụ khác…). Đây là bộ phận có tỷ trọng ngày càng gia tăng phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học- công nghệ và việc phát triển các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công: Gia công quốc tế là một hình thức cần thiết trong điều kiện phát triển của phân công lao động quốc tế và do sự khác biệt về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia. Nó được phân chia thành hai loại hình chủ yếu tùy theo vai trò của bên đặt hàng và bên nhận gia công. Khi trình độ phát triển của một quốc gia còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường thì các doanh nghiệp thường ở vào vị trí nhận gia công thuê cho nước ngoài. Nhưng khi trình độ phát triển ngày càng cao thì nên chuyển qua hình thức thuê nước ngoài gia công cho mình. Hoạt động gia công mang tính chất công nghiệp nhưng chu kỳ gia công thường rất ngắn, đầu vào và đầu ra của nó gắn liền với thị trường nước ngoài nên nó được coi là một bộ phận của hoạt động ngoại thương. Tái xuất khẩu và chuyển khẩu: Trong hoạt động tái xuất khẩu, người ta tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào, sau đó lại tiến hành xuất khẩu sang một nước thứ ba. Như vật ở đây có cả hành vi mua và hành vi bán nên mức rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có thể cao. Còn trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho lưu bãi, bảo quản… Xuất khẩu tại chỗ: Trong trường hợp này hàng hóa và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế… Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh, trong khi vẫn có thể thu được ngoại tệ. 2. Khái niệm xuất khẩu. Xuất khẩu được hiểu là hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước cho người nước ngoài. Tuy nhiên trong bài luận văn này em xin được chú trọng vào hoạt động xuất khẩu hàng hóa (một mảng của hoạt động xuất khẩu). Xuất khẩu hàng hóa được coi là một trong những hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất hiện từ lâu đời và ngày càng phát triển, là việc mua bán hàng hóa với thị trường nước ngoài. Hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với mua bán một sản phẩm nào đó trong thị trường nội địa vì hoạt động này diễn ra trong một thị trường vô cùng rộng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ, hàng hóa được vận chuyển ra khỏi biên giới một quốc gia và đặc biệt là phải quan hệ buôn bán với khách hàng nước ngoài. Do vậy, các quốc gia tham gia vào hoạt động buôn bán giao dịch quốc tế phải tuân thủ các thông lệ quốc tế hiện hành. Theo luật thương mại về hoạt động xuất khẩu: Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là hoạt động mua, bán hàng hóa của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua, bán hàng hóa, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hóa. Theo hệ thông tài khoản quốc gia (viết tắt SNA – System of National Accounts) một chuẩn mực của Liên Hợp Quốc nhằm thống nhất phạm vi, phương pháp và nội dung tính toán các chỉ tiêu thống kê kinh tế trong các nước thành viên được Việt Nam áp dụng từ năm 1993: Xuất khẩu hàng hóa là quan hệ trao đổi, mua bán hàng hóa giữa các đơn vị thường trú với các đơn vị không thường trú. Theo quy định của Tổng cục thống kê Việt Nam: Xuất khẩu là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa với nước ngoài và với các khu chế xuất. Hàng xuất khẩu bao gồm: toàn bộ hàng hóa có xuất xứ trong nước và hàng tái xuất được xuất khẩu ra nước ngoài hoặc đưa vào kho ngoại quan. Trong đó: - Hàng có xuất xứ trong nước là hàng hóa được khai thác, sản xuất, chế biến trong nước theo quy tắc xuất xứ của Việt Nam, kể cả sản phẩm hoàn trả cho nước ngoài sau khi gia công, chế biến, lắp ráp trong nước. - Hàng tái xuất là những hàng hóa đã nhập khẩu, sau đó lại xuất khẩu nguyên dạng hoặc chỉ sơ chế, bảo quản, đóng gói lại, không làm thay đổi tính chất cơ bản của hàng hóa được thực hiện trên cơ sở hợp đồng mua, bán riêng biệt ký với nước ngoài 3. Vai trò của xuất khẩu hàng hóa. Đối với các quốc gia trên thế giới hoạt động xuất khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng, không thể thiếu được trong mụch tiêu phát triển kinh tế đất nước. Mỗi quốc gia đều có điều kiện sản xuất, tài nguyên, thiên nhiên và trình độ kỹ thật khác nhau… vì thế một quốc gia không thể sản xuất tất cả các mặt hàng đáp ứng nhu cầu của người dân. Để khắc phục các khó khăn do sự khác nhau đó, tận dụng các lợi thế, các quốc gia phải tiến hành trao đổi hàng hóa cho nhau. Chính vì vậy mà hoạt động ngoại thương giữ vị trí quan trọng, nó tạo điều kiện phát huy được lợi thế của từng nước trên thị trường quốc tế. Kết quả hoạt động ngoại thương của một nước được đánh giá qua cân đối thu chi ngoại tệ dưới hình thức “Cán cân thanh toán xuất, nhập khẩu”, kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nước. Vì vậy vai trò của xuất khẩu ngày càng được nâng cao và dần trở thành một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Dưới đây là những ảnh hưởng tích cực của hoạt động xuất khẩu hàng hóa. 3.1. Làm tăng nguồn ngoại tệ. Xuất khẩu hàng hóa mang lại nguồn thu nhập ngoại tệ chủ yếu cho đất nước, góp phần quan trọng trong việc cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán, tăng lượng dự trữ ngoại hối, tăng khả năng nhập máy móc thiết bị và nhiên liệu để phát triển công nghiệp. Đối với nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đã trở thành nguồn tích lũy cơ bản cho giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. 3.2. Tạo điều kiện để phát triển các ngành sản xuất. Xuất khẩu sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật đồng thời làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, từng bước đưa nền kinh tế đất nước tiến nhanh trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra nó còn bổ sung kịp thời và làm giảm sự mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế ổn định và mạnh mẽ. Thông qua các hoạt động xuất khẩu mà các ngành công nghiệp chế biến và sản xuất hàng hóa phát triển. Sự phát triển của các ngành này đã đáp ứng những kỹ thuật tiên tiến nhằm sản xuất hàng hóa có hàm lượng kỹ thuật cao, chất lượng tốt, rút ngắn thời gian sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Với nền kinh tế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh là tất yếu khách quan của quá trình phát triển và là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy muốn tồn tại và phát triển được các doanh nghiệp cần phải áp dụng kịp thời những tiến bộ của khoa học công nghệ mới vào trong sản xuất cũng như kinh doanh, đồng thời phải có đội ngũ sáng tạo trong công việc. 3.3. Tăng thu nhập. Nhờ có xuất khẩu mà khả năng thu nhập của nên kinh tế quốc dân tăng lên, từ đó tạo ra nguồn thu để nhập các máy móc thiết bị khoa học công nghệ mới, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế và đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, đồng thời cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao mức sống dân cư. 3.4. Giải quyết việc làm. Có thể nói việc làm là một vấn đề rất nan giải ngay cả thời gian trước đây và hiện giờ. Từ khi hoạt động xuất khẩu ra đời và phát triển, nó đã làm giảm nhẹ đi gánh nặng của Nhà nước cũng như Chính phủ. Nhờ có hoạt động xuất khẩu mà hàng chục vạn người có công ăn việc làm, không những thế mà còn có thu nhập cao hơn các ngành khác. 4. Các yếu tố tác động tới hoạt động xuất khẩu. Hầu hết các nước trên thế giới đều coi trọng việc xuất khẩu. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng hóa là một công việc hết sức phức tạp và chịu tác động của rất nhiều nhân tố trong nước, khu vực và quốc tế. Nó chịu tác động bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài của quốc gia tiến hành hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa thực chất là hoạt động hàng hóa nhưng có điểm khác nhau đó chính là tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ ở quốc gia khác. Do đó hoạt động xuất khẩu hàng hóa chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố sau: 4.1. Xu thế tự do hóa thương mại. Hiện nay xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, không ngừng tạo ra những biến đổi sâu sắc trong nền kinh tế thế giới, thêm vào đó xu thế tự do hóa thương mại đang lan rộng thì hoạt động hợp tác kinh tế thương mại giữa các nước càng có môi trường thuận lợi để phát triển hơn. Khi tham gia vào khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế, các nước thành viên phải mở cửa thị trường, xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan để hàng hóa được tự do lưu chuyển giữa các nước, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Tự do hóa thương mại như một luồng sinh khí mới thổi vào hợp tác kinh tế thương mại giữa các nước, do vậy với môi trường quốc tế như hiện nay thì không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển được trong sự co cụm khép kín đối với thế giới bên ngoài mà phải tham gia vào quá trình hội nhập toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế. Có thể khẳng định rằng: Đây thực sự là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa các nước nói chung và tăng cường khả năng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói riêng. 4.2. Các nhân tố về quản lý Nhà nước. Mặc dù thương mại quốc tế đem lại nhiều lợi ích to lớn nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên hầu hết các quốc gia đều đưa ra những chính sách thương mại quốc tế riêng để đạt được lợi ích quốc gia. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là Chính phủ can thiệp theo chiều hướng tiêu cực mà ngược lại là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Bằng việc sử dụng các công cụ và biện pháp khác nhau, sự tác động này góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội, đẩy nhanh quá trình phân công lao động quốc tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường. Những công cụ chủ yếu mà Chính phủ thường dùng để quản lý hoạt động xuất khẩu là: - Thuế quan: Tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi nước mà các Chính phủ sẽ thay đổi các mức thuế cho phù hợp với từng giai đoạn, mức thuế đặt ra phải hợp lý và đảm bảo lợi ích cho nhà xuất khẩu. - Hạn ngạch xuất khẩu: Mụch đích của Chính phủ khi sử dụng công cụ hạn ngạch xuất khẩu là nhằm quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu quả và điều chỉnh hàng hóa xuất khẩu, hơn nữa là có thể bảo hộ nền sản xuất trong nước. 4.3. Các yếu tố về công nghệ. Yếu tố công nghệ tác động làm tăng hiệu quả công tác xuất nhập khẩu của doanh nghiệp cụ thể như tăng khả năng thu thập thông tin, nắm bắt được những thông tin mới nhất về thị trường… 4.4. Nhân tố về con người. Giáo dục chuyên môn và năng lực công tác là vấn đề rất quan trọng trong hệ thống hoạt động kinh doanh, trong công tác xuất khẩu từ khâu tìm hiểu thị trường khách hàng đến ký kết hợp đồng xuất khẩu và thực hiện hợp đồng, đòi hỏi cán bộ phải có chuyên môn và hết sức năng động. Đây là yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo cho sự thành công của mỗi hoạt động, tạo ra hiệu quả kinh doanh cao nhất. 4.5. Nhân tố về giá cả. Vấn đề về giá cả hàng hóa trong cơ chế thị trường là rất phức tạp vì mỗi thị trường có một loại giá khác nhau (tính cho cùng một loại hàng hóa). Do giá cả thị trừờng bấp bênh không ổn định, nhất là những thị trường như người tiêu dùng chuộng hàng mới lạ nhưng một thời gian sau sức mua lại giảm dần… Do vậy các doanh nghiệp cần phải biết để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu sao cho phù hợp với thị trường về giá cả và thị hiếu khách hàng. 4.6. Các nhân tố thuộc về quan hệ kinh tế quốc tế. Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay nhiều liên minh kinh tế ở những mức độ khác nhau đã được hình thành, nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương giữa các nước, các khối kinh tế cũng được ký kết với các mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả, thúc đẩy hoạt động trong khu vực và toàn thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào những liên minh kinh tế, những hiệp định thương mại thì đó là một tác nhân tích cực trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của quốc gia. Bằng không nó sẽ trở thành rào chắn đối với việc thâm nhập thị trường nước ngoài của hàng hóa đó. Tóm lại, có được những mối quan hệ kinh tế quốc tế mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo ra những tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. II. Xu thế hội nhập. 1. Sự cần thiết của hội nhập Thứ nhất: Tiến hành hội nhập là chúng ta tạo môi trường hòa bình và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, chúng ta triển khai nhiệm vụ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm. Vì vậy môi trường hòa bình, hợp tác khu vực và quốc tế là vô cùng quan trọng để thực hiện nhiệm vụ CNH – HĐH đất nước. Thứ hai: Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo thế và lực cho nền kinh tế nước ta trên trường quốc tế, tạo vị thế bình đẳng của nước ta với các nước trong tổ chức, từ đóng góp tiếng nói xây dựng luật chơi chung đến việc hưởng quyền lợi của một thành viên và các tranh chấp thương mại thì được xử lý theo nguyên tắc chung không bị phân biệt đối xử. Hàng hóa của nước ta cũng được đối xử bình đẳng trên thị trường quốc tế và có cơ hội để nâng cao cạnh tranh. Thứ ba: Tạo cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Việt Nam sẽ có cơ hội để mở rộng xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thủy sản, may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ, các hàng hóa sử dụng nhiều lao động. Mở rộng quan hệ thương mại với các nước khắp các châu lục trên thế giới. Thứ tư: Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Hội nhập quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế làm cho môi trường kinh doanh nước ta phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tăng sự hỗ trợ tài chính, tín dụng cho phát triển kinh tế Việt Nam. Thứ năm: Hội nhập không chỉ tạo cơ hội thu hút vốn đầu tư mà còn tạo cơ hội tiếp nhận các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và quan trọng hơn là tiếp thu những kiến thức mới, những kinh nghiệm quý báu về quản lý kinh tế, những ý tưởng về cải cách kinh tế, kỹ thuật, những ý tưởng về chiến lược phát triển, những hiểu biết về nền kinh tế tri thức. Thứ sáu: Hội nhập cũng tạo ra cơ hội để chúng ta cải cách hệ thống giáo dục, đẩy mạnh chiến lược đào tạo nhân lực cho CNH – HĐH, đào tạo nhân lực cho nền kinh tế mới. Hội nhập với nền kinh tế thị trường cũng tạo điều kiện cho đào tạo và sử dụng nhân tài, có môi trường cho nhân tài phát triển. 2. Sự ra đời của ASEAN. ASEAN ( The Association of South East Asia Nations) ra đời trong bối cảnh tình hình thế giới và tình hình từng quốc gia trong khu vực có nhiều biến động. Các quốc gia Đông Nam Á vừa phải đối phó với sức ép từ ngoài khu vực, vừa đứng trước thách thức về chính trị và kinh tế trong nội bộ, phải giải quyết những khó khăn thậm chí cả xung đột trong quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Nhu cầu liên kết lại dưới hình thức một tổ chức theo tình hình đó để đối phó với những thách thức nêu trên ngày càng trở nên cấp bách. Trong tình hình đó, Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan, Philipin, Singapo đã ra tuyên bố thành lập ASEAN (8/8/1967). Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á chính thức được thành lập. Mười bảy năm sau, 8/8/1984, Brunei là thành viên thứ sáu của ASEAN. Ngày 28/7/1995, Việt Nam ra nhập ASEAN. Đến năm 2000, Lào và Mianma và năm 2002 Campuchia tham gia vào tổ chức này nâng tổng số thành viên cảu ASEAN thành 10 thành viên. Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng với kế hoạch hợp tác kinh tế mà lĩnh vực ưu tiên là cung ứng và sản xuất hàng hóa cơ bản, các thỏa thuận thương mại ưu đãi PTA, kế hoạch hợp tác công nghiệp ASEAN AIC, kế hoạch hợp tác từng khu vực BBC… Tuy đã có rất nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong ASEAN, nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt được mục tiêu như mong đợi. Đồng thời, vào đầu những năm 90, môi trường kinh tế chính trị quốc tế và khu vực đã có những thay đổi quan trọng. Vị trí của ASEAN trong chiến lược khu vực và quốc tế bị hạ thấp. Nên đến năm 1992 khi các nước thành viên ASEAN ký kết một hiệp định về khu mậu dịch tự do ASEAN AFTA (ASEAN Free Trade Area) thì hợp tác kinh tế các nước ASEAN mới thực sự đưa lên một tầm mức mới. Từ đây khu vực mậu dịch tự do ASEAN chính thức ra đời và đi vào hoạt động. Mụch tiêu cơ bản của AFTA là: - Tiến hành tự do hóa thương mại trong nội bộ ASEAN bằng cách loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan - Tiến hành thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường khu vực bằng cách tạo dựng một khối thị trường thống nhất. Việc thành lập AFTA sẽ tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh phân công quốc tế trong nội bộ ASEAN. Nghĩa là các quốc gia khác dù đầu tư vào bất kỳ quốc gia nào trong khối ASEAN đều được thụ hưởng những ưu đãi dành riêng cho thị trường khu vực ASEAN, đồng thời nhờ sự lớn mạnh của thị trừờng khu vực đầu tư nước ngoài vào các quốc gia ASEAN sẽ tăng nhờ sự tăng lên trong sức mua của thị trường khu vực ASEAN. Đây là mụch tiêu trung tâm của AFTA. - Khu vực mậu dịch tự do ASEAN góp phần làm cho ASEAN thích nghi hơn với điều kiện nền kinh tế quốc dân đang diễn ra những thay đổi mạnh mẽ cùng với xu hướng tự do hóa nền kinh tế thế giới, trợ giúp cho các quốc gia thành viên ASEAN thích ứng với chế độ thương mại đa biên đang tăng lên nhanh chóng. III. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình xuất khẩu hàng hóa. 1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu xuất khẩu hàng hóa. Thứ nhất, Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo tính hướng đích, tức là hệ thống chỉ tiêu đó phải phục vụ cho mụch đích nghiên cứu về tình hình xuất khẩu và những vấn đề liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Thứ hai, Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo tính khả thi tức là phải đảm bảo khả năng nhân tài, vật lực cho phép có thể tiến hành thu thập tổng hợp các chỉ tiêu phân tích hoạt động xuất khẩu, từ căn cứ này đòi hỏi người xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải cân nhắc kỹ lưỡng; để xác định được những chỉ tiêu quan trọng nhất làm cho số lượng chỉ tiêu không nhiều mà vẫn đáp ứng được mục đích nghiên cứu. Thứ ba, các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo được tính hệ thống của việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu phải nêu lên được mối liên hệ giữa các mặt của hoạt động xuất khẩu với hiện tượng liên quan trong khuôn khổ của việc đáp ứng mục đích nghiên cứu. Vì vậy, khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải dựa trên cơ sở lý luận để hiểu bản chất chung của hoạt động xuất khẩu và các mối liên hệ chung của nó. Thứ tư, các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung, phương pháp và phạm vi tính toán của các chỉ tiêu cùng loại. Trong thống kê xuất khẩu, việc phân tổ các loại hàng hóa thành các nhóm hàng hóa phải có sự thống nhất về nội dung phương pháp. Cuối cùng, các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo yêu cầu so sánh quốc tế, tiếp cận với nội dung, phương pháp của các nước trên thế giới. Trong thống kê xuất khẩu để đảm bảo so sánh quốc tế các đơn vị tính thường được tính theo USD. 2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê xuất khẩu: 2.1. Quy mô xuất khẩu hàng hóa (q): Chỉ tiêu này cho biết tổng giá trị xuất khẩu trong một năm hoặc trong một giai đoạn là bao nhiêu. Chỉ tiêu quy mô xuất khẩu có thể phân thành các tiêu thức sau: - Chỉ tiêu xuất khẩu theo loại hình kinh tế - Chỉ tiêu xuất khẩu theo hình thức xuất khẩu + Xuất khẩu trực tiếp: doanh nghiệp trực tiếp giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hóa của mình hoặc của doanh nghiệp khác với khách hàng nước ngoài. + Xuất khẩu ủy thác: doanh nghiệp trực tiếp giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hóa với khách hàng nước ngoài theo ủy thác của doanh nghiệp khác. Đơn vị thực hiện xuất khẩu ủy thác được hưởng phí dịch vụ do đơn vị ủy thác chi trả. + Ủy thác xuất khẩu: doanh nghiệp ủy thác và chi trả phí dịch vụ cho doanh nghiệp khác giao dịch, làm thủ tục và thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hóa của mình với khách hàng nước ngoài. - Chỉ tiêu xuất khẩu theo nhóm hàng - Chỉ tiêu xuất khẩu theo thị trường - Chỉ tiêu xuất khẩu theo mặt hàng. 2.2. Giá trị xuất khẩu hàng hóa(Q=pq). Chỉ tiêu này biểu hiện giá trị hàng hóa được trao đổi, mua bán, có thể tính theo giá hiện hành, giá so sánh hay giá cố định, có thể xác định cho nhóm hàng, mặt hàng, thị truờng xuất khẩu. 2.3. Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa là chỉ tiêu thời kỳ và là chỉ tiêu tuyệt đối. Cấu thành và kết cấu xuất khẩu hàng hóa có thể xét theo nhiều tiêu thức khác nhau. - Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa theo loại hình kinh tế + Kinh tế nhà nước + Kinh tế tập thể + Kinh tế cá thể + Kinh tế tư nhân + Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa theo hình thức xuất khẩu + Xuất khẩu trực tiếp + Xuất khẩu ủy thác + Ủy thác xuất khẩu. - Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa theo nhóm hàng - Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa theo thị trường. - Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa theo mặt hàng. CHƯƠNG II MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA I. Lựa chọn phương pháp thống kê. 1. Nguyên tắc lựa chọn. Muốn lựa chọn được phương pháp phân tích thống kê phù hợp trước hết phải xác định rõ được mụch đích nghiên cứu của hiện tượng. Khi đã xác định được mụch đích nghiên cứu ta sẽ chọn được phương pháp tối ưu nhất hoặc có thể kết hợp nhiều phương pháp để có thể phân tích vấn đề theo nhiều chiều. Để làm được như vậy ta phải tiến hành các bước sau: Trước hết phải căn cứ vào kết quả xử lý số liệu và phân tích sơ bộ kết hợp với mụch đích nghiên cứu. Từ đó ta sẽ thành lập các bài toán thống kê đặc trưng trong đó các ý nghĩa thực tế của chỉ tiêu thống kê được chuyển hóa thành ngôn ngữ toán học. Sau đó cần nắm rõ được nội dung, đặc điểm của phương pháp phân tích thống kê được sử dụng. Tuy nhiên cần chú ý cách thức nhập số liệu cần dùng cho phương pháp hay các công cụ phụ trợ như máy tính, các lệnh cần thiết… Việc phân tích càng đi sâu càng phong phú nên thông thường cần sử dụng một số phương pháp khác nhau. Những phương pháp khác nhau sẽ bộc lộ những khía cạnh khác nhau của bản chất hiện tượng làm cho hiệu quả phân tích cao hơn. Cuối cùng phải giải thích được các kết quả thu được và phải hiểu được nó. Có như vậy mới biết được trong tương lai nó diễn biến như thế nào để có thể kịp thời điều chỉnh, khắc phục. 2. Lựa chọn các phương pháp thống kê. Sau khi điều tra, số liệu thống kê thường rất lộn xộn và không theo trật tự như ta mong muốn. Vì vậy, để dễ dàng cho phân tích thì việc sắp xếp lại số liệu là một việc làm quan trọng và cần thiết. Chính vì vậy, bảng thống kê và đồ thị thống kê thường được sử dụng để biểu diễn tất cả các con số thu thập được. Từ đó phương pháp phù hợp sẽ được lựa chọn để phân tích. Mặt khác bảng thống kê thường dùng để nghiên cứu thống kê các chỉ tiêu xuất khẩu như quy mô xuất khẩu, cơ cấu xuất khẩu theo các tiêu thức khác nhau. Bên cạnh đó muôn phân tích được biến đông của xuất khẩu theo thời gian thì cần phải sử dụng phương pháp dãy số thời gian, từ đó tìm ra bản chất, quy luật của sự biến động xuất khẩu và muốn biết được mức độ biến dộng của xuất khẩu như thế nào người ta thường dùng phương pháp số tương đối, số tuyệt đối. Sau khi đã phân tích thì một yêu cầu cũng hết sức quan trọng đó là dự đoán cho những năm tiếp theo thông qua phương pháp dự đoán. Nhờ dự đoán có thể thấy rõ sự biến động xuất khẩu trong tương lai như thế nào. Từ đó sẽ có những chính sách phù hợp để thúc đẩy xuất khẩu trong những năm tiếp theo. Những phương pháp thống kê được dùng để phân tích xuất khẩu hàng hóa bao gồm: Phương pháp phân tổ. Phương pháp bảng và đồ thị thống kê. Phương pháp số tương đối. Phương pháp hồi quy tương quan. Phương pháp dãy số thời gian. Phương pháp chỉ số. Phương pháp dự đoán thống kê ngắn hạn. II. Nội dung các phương pháp thống kê phân tích tình hình xuất khẩu hàng hóa. 1. Phương pháp phân tổ thống kê. Khái niệm: Phân tổ thống kê là phân chia các đơn vị của tổng thể nghiên cứu dựa trên một hay nhiều tiêu thức nào đó thành các tổ hoặc các tiểu tổ có tính chất khác nhau. Có nhiều cách để phân tổ: + Phân tổ theo một tiêu thức: Đây là cách phân tổ đơn giản nhất và cũng thường được sử dụng nhất. Ở đây có thể phân tổ xuất khẩu theo nước, theo mặt hàng, theo thành phần kinh tế… + Phân tổ theo nhiều tiêu thức: Khi nghiên cứu xuất khẩu thì có thể phân tổ xuất khẩu theo các nhóm hàng khác nhau. Sau đó mỗi nhóm hàng này lại phân thành những mặt hàng chi tiết. Đây là cách phân tổ kết hợp. + Phân tổ theo tiêu thức số lượng: là tiêu thức được biểu hiện trực tiếp bằng con số. Ví dụ: giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu, giá trị xuất khẩu từng mặt hàng… Muốn phân tổ xuất khẩu ta phải xác định được khoảng cách tổ. Chênh lệch giữa giới hạn trên và giới hạn dưới của dãy số liệu được gọi là khoảng cách tổ, khoảng cách tổ không nhất thiết phải bằng nhau. Nếu phân tổ có khoảng cách tổ bằng nhau thì giá trị của khoảng cách tổ được tính theo công thức: Trong đó: Xmax là lượng biến lớn nhất của dãy số liệu. Xmin là lượng biến nhỏ nhất của dãy số liệu. n là số tổ định chia. 2. Phương pháp bảng và đồ thị thống kê. 2.1. Phương pháp bảng thống kê. Khái niệm: Bảng thống kê là một hình thức trình bày các tài liệu thống kê một cách có hệ thống, hợp lý và rõ ràng. Các số liệu thống kê được trình bày trong bảng thống kê sẽ sinh động và dễ thuyết phục người nghe hơn. Kết cấu của bảng thống kê bao gồm hai thành phần: + Hình thức bảng: bao gồm các hàng và cột phản ánh quy mô của bảng, tên của bảng phản ánh nội dung được trình bày trong bảng, các số liệu trong bảng được ghi vào các ô và phản ánh đặc trưng của hiện tượng nghiên cứu. + Nội dung bảng: bao gồm hai thành phần là phần chủ đề nêu lên tổng thể hiện tượng được trình bày trong bảng thống kê và phần giải thích dùng để giải thích phần chủ đề của bảng. Kết cấu của bảng thống kê được biểu hiện bằng sơ đồ sau: Phần giải thích Phần chủ đề Các chỉ tiêu giải thích Tổng số 1 2 … n Tên chủ đề Tổng số Dựa vào kết cấu của phần chủ đề có thể chia làm ba loại bảng: + Bảng giản đơn. + Bảng kết hợp. + Bảng phân tổ. Do đặc điểm của số liệu xuất khẩu đươc phân theo nhiều tiêu thức nên người ta thường sử dụng một số loại bảng thống kê chủ yếu sau: + Bảng báo cáo hoàn thành kế hoạch các chỉ tiêu. + Bảng cân đối, thường vận dụng để nghiên cứu sự vận động của các hiện tượng kinh tế._. xã hội số lớn diễn ra trong lĩnh vực xuất khẩu và các nguyên nhân dẫn đến biến động đó. Những yêu cầu đối với việc xây dựng bảng thống kê: + Quy mô của bảng thống kê không nên quá lớn. + Các tiêu đề và tiêu mụch chính xác, gọn, dễ hiểu. + Các chỉ tiêu giải thích trong bảng thống kê cần được sắp xếp theo thứ tự hợp lý, phù hợp với mụch đích nghiên cứu. + Cách ghi các ký hiệu vào bảng thống kê theo nguyên tắc: Ký hiệu (-) biểu hiện hiện tượng không có số liệu đó. Ký hiệu (…) biểu hiện số liệu còn thiếu sẽ bổ sung sau. Ký hiệu (x) nói lên hiện tượng không có liên quan đến điều đó. 2.2. Phương pháp đồ thị Khái niệm: Đồ thị thống kê là phương pháp sử dụng con số kết hợp với các hình vẽ hoặc đường nét hình học dùng để miêu tả, có tính chất quy uớc các tài liệu thống kê khác. Khác với các bảng thống kê chỉ dùng con số, đồ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với các hình vẽ, đường nét và màu sắc để trình bày các đặc điểm số lượng của hiện tượng. Chính vì vậy, đồ thị thu hút sự chú ý của người đọc, nó giúp ta nhận thức được những đặc điểm cơ bản của hiện tượng một cách dễ dàng, nhanh chóng. Đồ thị còn giúp ta kiểm tra bằng hình ảnh độ chính xác của những thông tin. Căn cứ theo nội dung phản ánh đồ thị thống kê được phân chia thành: Đồ thị kết cấu, đồ thị phát triển, đồ thị hoàn thành kế hoạch hoặc định mức, đồ thị liên hệ, đồ thị so sánh, đồ thị phân phối. Căn cứ theo hình thức biểu hiện đồ thị thống kê được phân chia thành: Biểu đồ hình cột, biểu đồ tượng hình, biểu đồ diện tích, đồ thị đường gấp khúc, bản đồ thống kê. Trong phân tích thống kê xuất khẩu, đồ thị thống kê được sử dụng trong các trường hợp sau: - Sự biến động của xuất khẩu theo thời gian bằng đồ thị phát triển. - Nghiên cứu cơ cấu xuất khẩu phân theo nước, nhóm hàng, mặt hàng… 3. Phương pháp số tương đối. Khái niệm: Số tương đối là một loại chỉ tiêu biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của hiện tượng nghiên cứu cùng loại nhưng khác nhau về thời gian hoặc không gian hoặc biểu diễn bằng quan hệ tỷ lệ giữa hai chỉ tiêu thống kê khác có liên quan đến nhau. Số tương đối không phải là con số trực tiếp có được qua điều tra mà là kết quả so sánh giữa hai số tuyệt đối mà có. Do đó người ta thường phải quy định một năm nào đó làm gốc và tính các năm khác theo năm gốc đó. Đơn vị của số tương đối có thể là lần hoặc %. Trong nghiên cứu thống kê xuất khẩu có thể sử dụng hai loại số tương đối là: - Số tương đối kết cấu: phản ánh tỷ trọng của mỗi bộ phận cấu thành trong một tổng thể. Số tương đối kết cấu được tính bằng cách so sánh trị số tuyệt đối của chỉ tiêu từng bộ phận so với trị số của chỉ tiêu của cả tổng thể. Nó thường được biểu hiện bằng lần hoặc %. (lần) hoặc (%) Trong đó: Ybp: là trị số tuyệt đối của xuất khẩu phân theo nước hoặc phân theo mặt hàng, nhóm hàng… Ytt: là trị số tuyệt đối của tổng kim ngạch xuất khẩu phân theo nước hoặc phân theo mặt hàng, nhóm hàng… - Số tương đối động thái: biểu hiện sự biến động về mức độ của hiện tượng nghiên cứu qua thời gian. Nó được xác định bằng cách so sánh hai mức độ của chỉ tiêu cùng loại nhưng khác nhau về thời gian và được biểu hiện bằng lần hoặc %. (lần) hoặc (%) Trong đó: Yo: là xuất khẩu kỳ nghiên cứu. Y1: là xuất khẩu kỳ gốc. 4. Phương pháp hồi quy tương quan. Khái niệm: Hồi quy tương quan là phương pháp toán học được vận dụng trong thống kê để biểu hiện và phân tích mối liên hệ tương quan giữa các hiện tượng kinh tế xã hội. Phương pháp này nhằm giải quyết hai nhiệm vụ nghiên cứu sau: Thứ nhất: xác định tính chất và hình thức của mối liên hệ tức là xác định mô hình để biểu hiện mối liên hệ đó. Tùy theo mối quan hệ đó là mối quan hệ tuyến tính hay phi tuyến mà chúng ta có thể sử dụng các dạng mô hình khác nhau. Gọi y là tiêu thức kết quả hay biến phụ thuộc. x là tiêu thức nguyên nhân hay biến độc lập. Mối quan hệ giữa x và y có thể được biểu diễn bằng một số phương trình sau: + Phương trình hồi quy tuyến tính: biểu diễn mối quan hệ tương quan tuyến tính giữa hai tiêu thức số lượng. Trong đó: a,b: các tham số của mô hình + a: là tham số tự do nói lên mức ảnh hưởng của các tiêu thức nguyên nhân khác ngoài tiêu thức nguyên nhân x tới sự biến động của tiêu thức kết quả y. + b: là hệ số hồi quy nói lên ảnh hưởng của tiêu thức nguyên nhân x tới tiêu thức kết quả y. Ví dụ: Trong nghiên cứu thống kê xuất khẩu thì x có thể là giá cả, tỷ suất chi phí lưu thông, thu nhập bình quân…, còn y là quy mô cơ cấu xuất khẩu hàng hóa. Giá trị của các tham số a, b được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất sao cho: Hay Muốn vậy, đạo hàm riêng của các tham số phải triệt tiêu, tức là ta có hệ phương trình sau đây - được gọi là hệ phương trình chuẩn : Hoặc ta có thể tính trực tiếp các tham số a và b bằng công thức : + Phương trình hồi quy phi tuyến: có nhiều dạng phương trình hồi quy phi tuyến. dưới đây là một sô dạng cơ bản: Phương trình Parabol bậc 2: Phương trình Parabol bậc 2 thường được sử dụng khi các trị số của tiêu thức nguyên nhân tăng lên thì trị số của tiêu thức kết quả tăng (hoặc giảm), việc tăng (hoặc giảm) đạt đến trị số cực đại (hoặc cực tiểu), rồi sau đó giảm (hoặc tăng). Để giải phương trình trên các tham số a, b, c được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất thông qua giải hệ phương trình: Phương trình Hypebol: Phương trình Hypebol được áp dụng trong trường hợp khi các trị số của tiêu thức nguyên nhân tăng lên thì các trị số của tiêu thức kết quả có thể giảm và đến một giới hạn nào đó () thì hầu như không giảm nữa. Các tham số a và b của phương trình hồi quy được tính ra từ hệ phương trình sau đây: Phương trình hàm mũ: Phương trình hàm mũ được áp dụng trong trường hợp cùng với sự tăng lên của các trị số tiêu thức nguyên nhân thì các trị số của các tiêu thức kết quả thay đổi theo cấp số nhân, nghĩa là có tốc độ phát triển xấp xỉ nhau. Các tham số a, b được xác định từ hệ phương trình sau: Ngoài ba dạng phương trình phi tuyến ở trên còn có nhiều dạng phương trình khác như: phương trình Parabol bậc 3, luỹ thừa…. + Phương trình hồi quy bội: Vấn đề được đặt ra ở đây là khi nghiên cứu mối quan hệ giữa một tiêu thức kết quả với nhiều tiêu thức nguyên nhân thì nên chọn tiêu thức nguyên nhân nào cho phù hợp. Sau khi đã chọn được các tiêu thứuc nguyên nhân có ảnh hưởng lớn đến tiêu thức kết quả thì phải chọn dạng hàm phương trình hồi quy để phản ánh mối liên hệ đó. Phương trình hồi quy bội có dạng: Trong đó: a, b, c,…, k là các tham số của phương trình. Để đơn giản hơn ta xét trường hợp hai tiêu thức nguyên nhân là x1 và x2 có ảnh hưởng nhiều nhất đến tiêu thức kết quả y. Khi đó phương trình hồi quy bội có dạng: Các tham số a, b, c thỏa mãn hệ phương trình sau: Thứ hai: là để xác định mức độ chặt chẽ của mối quan hệ thông qua các chỉ tiêu sau: * Hệ số tương quan: ( ký hiệu là r) là một số tương đối (biểu hiện bằng lần) dùng để đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan tuyến tính. Hệ số tương quan có thể được tính theo công thức sau đây: - Tác dụng của hệ số tương quan: + Xác định cường độ của mối liên hệ để chọn ra tiêu thức có tác dụng chủ yếu hoặc thứ yếu từ đó quyết định có tiếp tục nghiên cứu hay không. + Xác định phương hướng cụ thể của mối liên hệ. Nếu r > 0 thì đó là mối liên hệ thuận. Còn r < 0 thì đó là mối liên hệ nghịch. + Hệ số tương quan được dùng trong nhiều trường hợp dự đoán thống kê và tính sai số của dự đoán. - Tính chất của hệ số tương quan: Hệ số tương quan r có giá trị nằm trong khoảng : + Nếu thì đó là mối liên hệ hoàn toàn chặt chẽ . + Nếu không hề có mối liên hệ tương quan tuyến tính. + Giá trị tuyệt đối của r càng gần 1 thì mối liên hệ càng chặt chẽ thì mối liên hệ rất chặt chẽ thì mối liên hệ tương đối chặt chẽ thì mối liên hệ bình thường thì mối liên hệ lỏng lẻo * Hệ số tương quan bội: được dùng để đánh giá trình độ chặt chẽ mối liên hệ giữa tiêu thức kết quả với tất cả các tiêu thức nguyên nhân được nghiên cứu. Công thức tổng quát như sau: Hệ số tương quan bội chỉ được sử dụng trong tương quan bội. Hệ số tương quan bội nhận giá trị trong khoảng và có tính chất tương tự hệ số tương quan. * Tỷ số tương quan: ( ký hiệu là =êta) là một số tương đối (biểu hiện bằng lần) được dùng để đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan phi tuyến. Công thức tính tỷ số tương quan như sau: - Tính chất của tỷ số tương quan: + Tỷ số tương quan lấy giá trị trong khoảng [0,1] tức là . Nếu thì không có liên hệ tương quan giữa x và y Nếu thì có liên hệ hàm số giữa x và y Nếu càng gần 1 thì liên hệ tương quan càng chặt chẽ. + Tỷ số tương quan lớn hơn hoặc bằng giá trị tuyệt đối của hệ số tương quan, tức là . Nếu thì giữa x và y có liên hệ tương quan tuyến tính. 5. Phương pháp dãy số thời gian. Phương pháp dãy số thời gian là phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu sự biến động của hiện tượng theo thời gian. Phương pháp này không những giúp vạch rõ xu hướng, tính quy luật của hiện tượng làm cơ sở dự đoán các mức độ tương lai của hiện tượng mà còn giúp nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng qua thời gian. Khái niệm: Mặt lượng của hiện tượng thường xuyên biến động qua thời gian. Trong thống kê, để nghiên cứu sự biến động này người ta thường sử dụng dãy số thời gian. Dãy số thời gian là dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Thành phần của dãy số thời gian: Một dãy số thời gian được cấu tạo bởi hai thành phần là thời gian và chỉ tiêu về hiện tượng được nghiên cứu. Thời gian có thể là ngày, tuần , tháng, quý, năm…Độ dài giữa hai thời gian liền nhau được gọi là khoảng cách thời gian, chỉ tiêu về hiện tượng được nghiên cứu có thể là số tuyệt đối, số bình quân. Trị số của chỉ tiêu được sắp xếp theo thời gian gọi là mức độ của dãy số. Phân loại: Căn cứ vào đặc điểm tồn tại về quy mô của hiện tượng qua thời gian, dãy số thời gian được chia làm hai loại là dãy số thời kỳ và dãy số thời điểm. Dãy số thời kỳ biểu hiện quy mô (khối lượng) của hiện tượng trong một độ dài (khoảng) thời kỳ nhất định. Các mức độ của dãy số thời kỳ là những số tuyệt đối thời kỳ, do đó độ dài của khoảng cách thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến trị số của chỉ tiêu và có thể cộng các trị số của chỉ tiêu để phản ánh quy mô của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài hơn. Dãy số thời điểm biểu hiện quy mô (khối lượng) của hiện tượng tại những thời điểm nhất định. Mức độ của hiện tượng ở thời điểm sau thường bao gồm toàn bộ hoặc một bộ phận mức độ của hiện tượng tại thời điểm trước. Vì vậy việc cộng các trị số của các chỉ tiêu không có giá trị phản ánh quy mô của hiện tượng. Tác dụng: - Qua dãy số thời gian cho phép thống kê học nghiên cứu các đặc điểm và xu hướng biến động của hiện tượng theo thời gian. Từ đó, chúng ta có thể đề ra định hướng hoặc biện pháp xử lý thích hợp. - Cho phép dự đoán các mức độ của hiện tượng nghiên cứu có khả năng xảy ra trong tương lai. Điều kiện vận dụng: Yêu cầu cơ bản khi xây dựng một dãy số thời gian là phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số. Muốn vậy thì nội dung và phương pháp tính toán chỉ tiêu qua thời gian phải thống nhất, phạm vi của hiện tượng nghiên cứu trước sau phải nhất trí, các khoảng cách thời gian trong dãy số nên bằng nhau (nhất là đối với dãy số thời kỳ). Tuy nhiên, trong thực tế do những nguyên nhân khác nhau, các yêu cầu trên có thể bị vi phạm, khi đó đòi hỏi phải có sự chỉnh lý thích hợp để tiến hành phân tích đạt kết quả cao. 5.1. Mức độ trung bình theo thời gian: Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu của các mức độ tuyệt đối trong một dãy số thời gian, tuỳ theo dãy số thời kỳ hoặc dãy số thời điểm mà có công thức tính khác nhau. *Đối với dãy số thời kì, mức độ trung bình theo thời gian được tính theo công thức sau đây: Trong đó: : mức độ trung bình qua thời gian của xuất khẩu. y1 là xuất khẩu năm đầu tiên của dãy số. yn là xuất khẩu năm cuối cùng của dãy số. *Đối với dãy số thời điểm: + Có khoảng cách thời gian bằng nhau và các lượng biến của dãy số thời gian là biến động tương đối đều đặn trong khoảng thời gian của dãy số thì công thức tính như sau: Trong đó: yi ( i =1,2,3….n ) là các mức độ của dãy số thời điểm có khoảng cách bằng nhau. + Có khoảng cách thời gian không bằng nhau và các lượng biến của dãy số thời gian biến động không đều thì mức độ trung bình theo thời gian được tính bằng công thức sau đây: Trong đó: ti ( i = 1,2,3….n) là độ dài thời gian có mức độ yi 5.2 Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối: Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức độ tuyệt đối giữa hai thời gian nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng lên thì trị số của chỉ tiêu mang dấu dương (+) và ngược lại mang dấu âm (-). Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, ta có các chỉ tiêu về lượng tăng (hoặc giảm) sau đây: -Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn (hay từng kỳ): là hiệu số giữa mức độ kỳ nghiên cứu (yi) và mức độ kỳ đứng liền trước đó (yi-1). Chỉ tiêu này phản ánh mức tăng (hoặc giảm) tuyệt đối giữa hai thời gian liền nhau (thời gian i-1 và thời gian i) ta có công thức tính như sau: di = yi - yi-1 ( i=1,2,3…n) Trong đó : d là lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn của xuất khẩu. yi xuất khẩu của năm thứ i. yi-1 xuất khẩu của năm thứ i-1. -Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc (hay tính dồn): là hiệu số giữa mức độ kỳ nghiên cứu yi và mức độ của một kỳ nào đó được chọn làm gốc, thường là mức độ đầu tiên trong dãy số y1. Chỉ tiêu này phản ánh mức tăng (hay giảm) tuyệt đối định gốc trong thời gian dài, nếu ký hiệu là ∆i là các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc, ta có công thức tính như sau: ∆i=yi-y1 ( i=1,2,3….n) Trong đó: lượng tăng giảm tuyệt đối định gốc của xuất khẩu. y1 xuất khẩu năm đầu tiên của htời kỳ nghiên cứu. yi xuất khẩu của năm thứ i Dễ dàng nhận thấy rằng: Tức là, tổng các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn bằng lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc. Nếu ký hiệu là lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối trung bình, ta có: Trong đó: Lựợng tăng giảm tuyệt đối trung bình của xuất khẩu. Lựợng tăng giảm tuyệt đối liên hoàn của xuất khẩu năm thứ i. Lượng tăng giảm tuyệt đối định gốc của xuất khẩu năm thứ n Chỉ tiêu này chỉ được sử dụng khi dãy số thời gian có các xấp xỉ bằng nhau. 5.3. Tốc độ phát triển: Ý nghĩa: Tốc độ phát triển là một số tương đối (thường được biểu hiện là lần hoăc %) phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng qua thời gian. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, ta có các loại tốc độ phát triển sau đây: +Tốc độ phát triển liên hoàn: phản ánh sự biến động của hiện tượng giữa hai thời gian liền nhau.Công thức tính như sau: ( i = 1,2,3…n) Trong đó: ti: tốc độ phát triển liên hoàn của xuất khẩu. yi-1: là xuất khẩu năm thứ i-1 của dãy số yi: là xuất khẩu năm thứ i của dãy số +Tốc độ phát triển định gốc: phản ánh sự biến động của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài. Công thức tính như sau: ( i = 1,2,3…..n) Trong đó: Ti: là tốc độ phát triển định gốc của xuất khẩu. yi là xuất khẩu của năm thứ i của dãy số liệu. y1 là xuất khẩu của năm thứ nhất của dãy số liệu. Giữa tốc độ phát triển liên hoàn và phát triển định gốc có mối liên hệ sau đây : Thứ nhất: Tích các tốc độ phát triển liên hoàn bằng tốc độ phát triển định gốc. Tức là: t2t3………tn= Tn Hay : ( i = 2,3,….n) Thứ hai: Thương của hai tốc độ phát triển định gốc liền nhau bằng tốc độ phát triển liên hoàn giữa hai thời gian đó. Tức là: ( i=1,2,3,….n) Tốc độ phát triển trung bình là trị số đại biểu của các tốc độ phát triển liên hoàn. Vì các tốc độ phát triển liên hoàn có quan hệ tích, nên để tính tốc độ phát triển bình quân ta sử dụng công thức số trung bình nhân. Nếu ký hiệu là tốc độ phát triển trung bình thì công thức tính như sau: == Chỉ tiêu này cũng chỉ được sử dụng khi dãy số thời gian có các ti xấp xỉ bằng nhau. 5.4. Tốc độ tăng (hoặc giảm): Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ của xuất khẩu giữa hai thời gian đã tăng (hoặc giảm) bao nhiêu lần (%). Tương ứng với các tốc độ phát triển, ta có các tốc độ tăng hoặc giảm sau đây: +Tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn (hay từng kỳ): là tỷ số giữa lượng tăng (hoặc giảm) liên hoàn với mức độ kỳ gốc liên hoàn. Nếu ký hiệu ai (i=1,2,3…..n) là tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn thì: Hay: +Tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc: là tỷ số giữa lượng tăng (hoặc giảm) định gốc với mức độ kỳ gốc cố định. Nếu ký hiệu Ai là các tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc thì: Hoặc +Tốc độ tăng (hoặc giảm) trung bình: là chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng (hoặc giảm) đại biểu trong suốt thời gian nghiên cứu. Nếu ký hiệu là tốc độ tăng (hoặc giảm) trung bình thi: 5.5 .Giá trị tuyệt đối của 1% tăng (hoặc giảm): Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1% tăng (hoặc giảm) của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn thì tương ứng với một trị số tuyệt đối là bao nhiêu.Nếu ký hiệu gi (i=1,2,3….n) là giá trị tuyệt đối của 1% tăng (hoặc giảm) thì: Công thức: (i = 2,3,….n) Chỉ tiêu này chỉ tính cho tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn, còn đối với tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc thì không tính vì nó luôn là một số không đổi và bằng . 6. Phương pháp dự đoán thống kê ngắn hạn. Dự đoán thống kê là dựa vào tài liệu thống kê và sử dụng những phương pháp phù hợp để xác định mức độ của hiện tượng trong tương lai. Có rất nhiều phương pháp để tiến hành dự đoán thống kê. Tuy nhiên trong bản luận văn này em xin đề cập đến ba phương pháp dự đoán thống kê là dự đoán bằng hàm xu thế, dự đoán bằng san bằng mũ và dự đoán bằng mô hình tuyến tính ngẫu nhiên. Đây là các phương pháp cho kết quả dự đoán chính xác nhất. 6.1. Dự đoán bằng ngoại suy hàm xu thế. Nội dung của phương pháp này chính là dựa vào phương trình hồi quy theo thời gian (hay còn gọi là hàm xu thế) để dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai. Dạng tổng quát của hàm này: Như vậy mô hình dự đoán sẽ là: ŷn+l = ƒ(t + l) l = 1,2,… t = 1,2,…,n Sau đây là một số dạng hàm xu thế đơn giản: + Dạng đường thẳng: + Dạng prabol: + Dạng hàm mũ: + Dạng hyperbol: Việc lựa chọn dạng hàm cụ thể của hàm xu thế phải dựa vào việc phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian kết hợp với việc thăm dò bằng đồ thị và một số phương pháp thống kê khác. Để đơn giản trong quá trình thực hiện các thao tác như vậy có thể sử dụng phần mền thống kê SPSS. 6.2. Dự đoán bằng san bằng mũ. 6.2.1. Mô hình đơn giản (Simple) Phương pháp này đựoc áp dụng trong trường hợp dãy số thời gian về xu thế và thời vụ không rõ ràng, để dự đoán ta áp dụng mô hình sau: Với và gọi là tham số san bằng. Từ công từ công thức trên cho thấy việc lựa chọn tham số san bằng có ý nghĩa quan trọng: Nếu được chọn càng lớn thì mức độ càng cũ của dãy số thời gian cũng ít được chú ý và ngược lại, nếu được chọn nhỏ thì các mức độ cũ được chú ý một cách thỏa đáng. Giá trị tốt nhất là giá trị làm cho tổng bình phương sai số dự đoán nhỏ nhất. San bằng mũ được thực hiện theo phép đề quy. Do vậy để dự đoán cần có giá trị ban đầu (yo). Có thể chọn yo bằng cách lấy lấy mức độ đầu tiên (y1) hoặc lấy mức độ trung bình () Với 6.2.2. Mô hình tuyến tính không có biến động thời vụ (Holt) Phương pháp này được áp dụng trong truờng hợp sự biến động của hiện tượng qua thời gian có xu thế tuyến tính và không có biến động thời vụ, để dự đoán ta sử dụng mô hình sau: Trong đó: và là các tham số san bằng và nhận giá trị trong khoảng . Giá trị và được chọn tốt nhất là các giá trị làm cho tổng bình phương của sai số dự đoán bé nhất. 6.2.3. Mô hình xu thế tuyến tính và biến động thời vụ Mô hình xu thế tuyến tính và biến động thời vụ được chia thành hai truờng hợp: +Mô hình dạng cộng: Trong đó: + Mô hình dạng nhân: Trong đó: Với là các tham số san bằng nhận giá trị trong khoảng . Mô hình này được sử dụng khi dãy số thời gian có số liệu các tháng (hoặc các quý) của một số năm (ít nhất là 4 năm). 6.3. Dự đoán bằng mô hình tuyến tính ngẫu nhiên (Phương pháp Box-Jenkins) Trong phương pháp này, dãy số thời gian xem như được sinh ra từ một quá trình ngẫu nhiên. Trên cơ sở đó, một số mô hình quan trọng được xây dựng và tiến hành dự đoán. 6.3.1. Một số mô hình tuyến tính ngẫu nhiên dừng Dãy số thời gian Yt được gọi là dừng nếu không có xu thế và không có biến động thời vụ. 6.3.1.1 Quá trình tự hồi quy Dãy số thời gian Yt được gọi là tuân theo quá trình tự hồi quy bậc p. Ký hiệu AR(p) nếu: Trong đó: là các tham số at là một quá trình dừng đặc biệt đơn giản và được gọi là quá trình thuần khiết hay tạp âm trắng. 6.3.1.2. Quá trình trung bình trượt Dãy Yt được gọi là tuân theo quá trình trung bình trượt bậc p. Ký hiệu MA(p) nếu: Trong đó: là cac tham số 6.3.1.3. Quá trình tự hồi quy trung bình trượt bậc p, q. Ký hiệu ARMA(p, q) Đó là sự kết hợp giữa AR(p) và MA(q): 6.3.2. Mô hình tuyến tính không dừng 6.3.2.1.Mô hình tổng hỗn hợp tự hồi quy - trung bình trượt. Ký hiệu ARIMA(p, d, q). Trong thực tế ta thường có dãy số thời gian với số liệu qua một số năm và có xu thế - tức là không phải dãy số thời gian dừng. Để sử dụng các mô hình dừng thì phải khử xu thế bằng toán tử (với d=1 đối với xu thế tuyến tính, d=2 đối với xu thế parabol…) Giả sử dãy số thời gian có xu thế tuyến tính thi khử xu thế tuyến tính được thực hiện bởi: Như vậy ở mô hình ARIMA(p, d, q) thì: p- Bậc của toán tử tự hồi quy, thường p= 0, 1, 2 d- Bậc của toán tử khử xu thế, thường d= 1, 2 q- Bậc của toán tử trung bình trượt, thường q= 0, 1, 2 6.3.2.2. Mô hình biến động thời vụ Trong thực tế, nhiều dãy số thời gian mà các mức độ của nó là số liệu của các tháng hoặc các quý - tức là có thể có biến động thời vụ. Khi đó phải khử biến động thời vụ bằng toán tử (1-Bs) yt = yt – yt-s với s= 12 đối với số liệu tháng. s=4 đối với số liệu quý. Sau đó mới áp dụng các mô hình đã trình bày ở trên 7. Phương pháp chỉ số. Chỉ số là chỉ tiêu tương đối, phản ánh quan hệ tỷ lệ so sánh giữa hai mức độ của hiện tượng theo thời gian hoặc không gian, nó được biểu hiện bằng lần hoặc % . Đối tượng nghiên cứu của phương pháp chỉ số là các hiện tượng phức tạp, gồm các phần tử, đơn vị có đặc điểm, tính chất khác nhau mà người ta không thể cộng trực tiếp để so sánh. Tùy theo đặc điểm và tính chất mà người ta chia làm nhiều loại chỉ số khác nhau. Trong luận văn này chỉ xin trinh fbày một số chỉ số sau: * Chỉ số đơn: Khi muốn so sánh tỷ số của một hiện tượng nghiên cứu ở kỳ nghiên cứu với kỳ gốc thì ta có thể sử dụng chỉ số đơn. Có hai loại chỉ số đơn là chỉ số đơn vê giá cả và chỉ số đơn về lượng hàng hóa tiêu thụ. + Chỉ số đơn về giá cả: = Trong đó: p0, p1 là giá cả hàng hóa đó ở kỳ gốc và kỳ nghiên cứu + Chỉ số đơn về lượng hàng hóa tiêu thụ: = Trong đó: q0, q1 là sản lượng hàng hóa đó ở kỳ gốc và kỳ nghiên cứu. Chỉ số đơn có tác dụng trong việc phản ánh sự thay đổi các hiện tượng đơn giản, đồng chất. Mặt khác, chung còn có tác dụng trong việc hỗ trợ tính toán các chỉ số tổng hợp khi các chỉ số này không thể tính trực tiếp được. * Chỉ số tổng hợp giá cả: Khác phục nhược điểm của chỉ số đơn là chưa cho biết được tình hình so sánh giá cả của toàn bộ hàng hóa trên thị trường, chỉ số tổng hợp có thể so sánh giá cả của toàn bộ hàng hóa. Điều quan trọng là xác định được quyền số cho phù hợp. Có một số loại chỉ số tổng hợp về giá cả như sau: + Các chỉ số của Laspeyres và của Passche: Nếu chọn quyền số ở kỳ gốc, ta có chỉ số tổng hợp giá cả của Laspeyres: Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số giá cả của Passche: Trong nhiều trường hợp, việc tính các trị số hoặc khá khó khăn do không có số lượng hàng hoá từng loại (q0 hoặc q1), nhưng lại có sẵn các chỉ số giá đơn. Vì vậy công thức tính có thể thay đổi như sau: Và + Chỉ số giá cả của Fisher: Các chỉ số tổng hợp Laspeyres và Paashe có bất lợi là không có tính nghịch đảo và tính liên hoàn. Vì vậy ta có chỉ số tổng hợp của Fisher là: Chỉ số tổng hợp Fisher chính là trung bình nhân của hai loại chỉ số trên. + Chỉ số giá cả bình quân với trọng số: Trong đó m là trọng số. + Chỉ số giá cả không gian: Muốn so sánh giá cả của hàng hóa ở các đại phương khác nhau thì có thể sử dụng chỉ số giá này. Trong đó: A, B là hai địa phương có hàng hóa cần so sánh. * Chỉ số tổng hợp về lượng hàng hóa: giống như chỉ số tổng hợp về giá cả ta cũng có các chỉ số về lượng như sau: + Chỉ số Laspeyres: + Chỉ số Passche: Các chỉ số này cũng tiếp nối tư duy logic khác nhau của chỉ số tổng hợp giá cả. Tuy nhiên, chỉ số Laspeyres được dùng nhiều hơn, nhất là khi ta đã tính chỉ số tổng hợp giá cả theo công thức Passche. + Chỉ số Fisher: Chỉ số này cũng là trung bình nhân của hai loại chỉ số trên. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, ta không có đủ giá so sánh cho tất cả các mặt hàng nên cần sử dụng giá bình quân. Và chỉ số tổng hợp lúc này là: Chỉ số tổng hợp số lượng có tầm quan trọng rộng lớn, khi quan sát sự biến động của tổng sản phẩm trong nước (GDP) hoặc sản lượng sản phẩm hiện vật (của từng ngành), ta phải dùng giá so sánh (chọn từ một mốc thời gian nào đó) để loại trừ ảnh hưởng của biến động giá cả, đó chính là chỉ số tổng hợp Laspeyres. Chỉ số này cũng dùng để so sánh các đại lượng bằng tiền khác, khi muốn loại trừ ảnh hưởng của biến động giá cả. CHƯƠNG III VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM VỚI ASEAN THỜI KỲ 1996 – 2005 I. Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thời kỳ 1996 - 2005 1. Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thời kỳ 1996 – 2005. Đối với các quốc gia trên thế giới hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu được trong mục tiêu phát triển đất nước. Mỗi quốc gia đều có điều kiện sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và trình độ kĩ thuật khác nhau… vì thế một quốc gia không thể sản xuất tất cả các mặt hàng để đáp ứng nhu cầu của người dân mà sẽ tập trung chuyên môn hóa vào sản xuất các mặt hàng đem lại lợi thế cao hơn. Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ giúp quốc gia đó khai thác triệt để lợi thế so sánh và mở rộng khả năng tiêu dùng trong nước. Xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu, là hoạt động kinh doanh đem lại nguồn lợi nhuận lớn và là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam một số năm qua chịu nhiều bất lợi của tình hình kinh tế thế giới song cũng chính là lĩnh vực thể hiện được hiệu quả của các chính sách điều hành, hỗ trợ của Chính phủ nhằm mở rộng thị trường, khuyến khích xuất khẩu và hạn chế những bất ổn do biến động giảm giá trên thị trường quốc tế. Đây có thể coi là nét nổi bật của hoạt động xuất khẩu hàng hóa nước ta trong những năm qua. Quán triệt định hướng mở rộng và đa dạng hóa thị trường. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết thị trường các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. BẢNG 1: THỊ PHẦN BUÔN BÁN HAI CHIỀU PHÂN THEO KHU VỰC Đvt: % Năm Châu Lục 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Châu Á 72,0 69,2 67,0 64,7 64,9 63,8 Đông Nam Á 24,2 22,0 19,8 19,7 20,0 19,2 Đông Á 44,7 43,8 43,5 42,1 41,3 41,5 Trung Á 1,2 1,2 1,4 1,4 1,5 1,2 Tây Á 1,9 2,2 2,3 1,5 2,1 1,9 Châu Âu 17,1 18,2 17,6 17,6 17,1 17,1 Châu Mỹ 4,8 7,1 10,2 12,8 12,9 13,0 Châu Phi 0,6 0,7 0,5 0,8 0,9 0,6 Châu Đại Dương 5,5 4,8 4,7 4,1 4,2 5,5 Qua số liệu bảng 1 chúng ta có thể nhận thấy Châu Á là thị trường có quan hệ buôn bán chủ yếu với Việt Nam (chiếm khoảng 68%). Điều này cũng hết sức dễ hiểu bởi Châu Á là Châu lục có số dân đông nhất thế giới lại có yêu cầu về chất lượng sản phẩm không quá cao . Do vậy quan hệ buôn bán của Việt Nam với thị trường này ngày càng phát triển. Tuy nhiên Châu Á lại là thị trường thường xuyên có những bất ổn về kinh tế, chính trị vì vậy nếu Việt Nam không mở rộng quan hệ với các thị trường Châu lục khác sẽ rất khó khăn cho chúng ta nếu Châu Á gặp khủng hoảng . Trong thị trường Châu Á, quan hệ buôn bán của Việt Nam chủ yếu diễn ra với các nước Đông Á mà trong đó trọng điểm là hai thị trường Nhật Bản và Trung Quốc. Năm 2003, tình hình thị trường khu vực Đông Á có đôi chút trở ngại như đại dịch SARS vì vậy năm 2003 thị phần buôn bán với khu vực này giảm xuống còn 42,1%, năm 2004 còn 41,3%. Nhưng do thuận lợi là kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh chóng, kinh tế Nhật Bản phục hồi, do vây quan hệ thương mại của Việt Nam với khu vực này tăng lên đáng kể (Năm 2005 chiếm 47,7%). Hơn nữa chính sách hướng về khu vực ASEAN của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc thông qua hợp tác trong khuôn khổ ASEAN+3, ASEAN+1 và Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc – ASEAN (CAFTA) là yếu tố thuận lợi trong việc mở rộng quan hệ kinh tế thương mại của ta với khu vực này. Tháng 7 năm 1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN là một sự kiện có ý nghĩa lớn không chỉ đối với nước ta mà đối với cả khu vực. Nó mở ra một giai đoạn mới trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Việt Nam đã ký nghị định thư gia nhập Hiệp định CEPT. Theo Hiệp định này, Việt Nam bắt đầu giảm thuế vào năm 1996 và đến năm 2006 sẽ hòan thành giảm thuế xuống 0 – 5%. Việc thực hiện cam kết AFTA là một bước tập dượt để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường thế giới. Tiến trình giảm thuế trong khuôn khổ CEPT/AFTA tuy có những tiến bộ quan trọng, nhưng những lợi ích thực sự mà AFTA mang lại cho Việt Nam vẫn chưa tương xứng. Trao đổi mậu dịch giữa Việt Nam và ASEAN cũng không thể trông chờ có sự đột biến do việc đẩy nhanh tốc độ cắt giảm thuế bởi các nước ASEAN hầu như đều sản xuất giống nhau và các mặt hàng xuất nhập khẩu cũng tương đồng. Ví dụ, với các mặt hàng thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam như dệt may, da giày các nước ASEAN không nhập còn các mặt hàng Việt Nam cần nhập thì lại từ Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc... Một nguyên nhân nữa là do sự phát triển không đồng đều giữa các nước trong khu vực, trong khi việc cắt giảm thuế lại có sự phân cấp về thời điểm thực hiện. Ngay cả với 6 nước ASEAN cũ không phải đã gỡ bỏ hoàn toàn các hàng rào về thuế, các nước này vẫn giữ biện pháp thuế để bảo hộ cho ngành hàng bị coi là kém cạnh tranh của mình, như công nghiệp ô tô của Malaysia, dầu khí của Philipin. Chính thực tế này đã kh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT396.doc
Tài liệu liên quan