Báo cáo Hoàn thiện phân tích tài chính với việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng Công ty Viễn thông Quân đội Viettel

Tài liệu Báo cáo Hoàn thiện phân tích tài chính với việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng Công ty Viễn thông Quân đội Viettel: ... Ebook Báo cáo Hoàn thiện phân tích tài chính với việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng Công ty Viễn thông Quân đội Viettel

doc109 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Hoàn thiện phân tích tài chính với việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng Công ty Viễn thông Quân đội Viettel, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh phải có lãi. Để đạt được kết quả cao nhất trong sản xuất và kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định phương hướng mục tiêu trong đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện sẵn có về các nguồn nhân tài, vật lực. Muốn vậy các doanh nghiệp cần nắm được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh. Phân tích báo cáo tài chính gắn liền với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các Tổng công ty. Trong điều kiện sản xuất chưa phát triển, thông tin cho quản lý chưa nhiều, chưa phức tạp nên công việc phân tích báo cáo tài chính chỉ được tiến hành chỉ là những phép tính cộng trừ giản đơn. Nền kinh tế cáng phát triển, những đòi hỏi về quản lý kinh tế không ngứng tăng lên. Để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh doanh ngày càng cao và phức tạp, phân tích báo cáo tài chính ngày càng hoàn thiện với hệ thống lý luận độc lập. Xuất phát từ vai trò quan trọng của phân tích báo cáo tài chính, cùng với sự giúp đỡ của TS. Trần Quý Liên, tôi đã nghiên cứu chuyên đề: “Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính với việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel”. 2. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu và góp phần hoàn thiện một số vấn đề lý luận về phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp. - Xem xét và đánh giá thực trạng nội dung phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội. - Đưa ra một số giải pháp và phương hướng nhằm hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Công tác tổ chức phân tích, phương pháp và nội dung phân tích báo cáo tài chính. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu phương pháp và nội dung phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội trong ba năm 2006, 2007, 2008. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp: duy vật biện chứng, thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích các số liệu thống kê... 5. Bố cục của luận văn Luận văn thạc sỹ với đề tài “Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính với việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel”, ngoài lời mở đầu và kết luận, được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1. Tổng quan về Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel. Chương 2. Thực trạng phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội. Chương 3. Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội. CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH 1.1. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong bản thân doanh nghiệp mà cả trong nền kinh tế, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia mà tại đây diễn ra quá trình sản xuất kinh doanh: đầu tư, tiêu thụ và phân phối, trong đó sự chu chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hoá. Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính là những mối quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn một cách có hiệu quả. Để nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp mình cũng như tình hình tài chính của các đối tượng quan tâm thì việc phân tích tình hình tài chính thông qua các báo cáo tài chính là rất quan trọng. Thông qua việc phân tích hệ thống báo cáo tài chính, người ta có thể sử dụng thông tin đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh, triển vọng cũng như rủi ro trong tương lai của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm đối tượng khác nhau như Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các nhà cho vay tín dụng, nhân viên ngân hàng, các nhà bảo hiểm và kể cả cơ quan Nhà nước cũng như nhóm có những xu hướng tập trung vào các khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của mỗi doanh nghiệp. 1.1.2. Sự cần thiết phải phân tích báo cáo tài chính nhằm tăng cường quản lý tài chính của doanh nghiệp Hiện nay, nhóm đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp ngày càng mở rộng, từ Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các tổ chức tín dụng cho vay, các nhà quản lý, các nhà bảo hiểm, các cơ quan Nhà nước, người lao động trong doanh nghiệp… Mỗi một nhóm người này có những nhu cầu thông tin khác nhau và do vậy, mỗi nhóm có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của doanh nghiệp. Mặc dù nhu cầu sử dụng thông tin của họ khác nhau nhưng các công cụ và kỹ thuật phân tích cơ bản mà họ sử dụng để phân tích tình hình tài chính nhằm tăng cường quản lý tài chính của họ lại giống nhau. Thông qua việc phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro và triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp. Phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp là khám phá hoạt động tài chính đã được thể hiện bằng con số, là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh tài liệu về tài chính hiện hành với quá khứ, cụ thể: Đối với bản thân doanh nghiệp Việc phân tích báo cáo tài chính sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo và bộ phận tài chính doanh nghiệp thấy được tình hình của đơn vị mình để chuẩn bị lập kế hoạch cho tương lai cũng như đưa ra các quyết định kịp thời phục vụ quản lý. Qua phân tích báo cáo tài chính, các nhà quản lý doanh nghiệp thấy được một cách toàn diện tình hình tài chính doanh nghiệp trong mối quan hệ nội bộ với mục đích lợi nhuận và khả năng thanh toán để trên cơ sở đó, dẫn dắt doanh nghiệp theo mọi hướng sao cho các chỉ số của chỉ tiêu tài chính thoả mãn yêu cầu của chủ nợ cũng như chủ sở hữu. Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng Mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Đồng thời, họ cũng quan tâm đến số lượng vốn chủ sở hữu vì số vốn chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Do đó, phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp sẽ giúp cho các nhà cho vay tránh được rủi ro đáng tiếc trong quan hệ tính dụng, đặc biệt trong quan hệ với doanh nghiệp đang trong tình trạng bấp bênh hay phá sản. Đối với nhà cung cấp Doanh nghiệp là khách hàng của họ trong hiện tại và trong tương lai. Mối quan tâm của nhóm người này là khả năng thanh toán của khách hàng đối với các món nợ để đặt mối quan hệ lâu dài hay từ chối quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp. Thông qua phân tích báo cáo tài chính của các đối tác kinh doanh, các nhà cung cấp quyết định phương thức cho vay và phương thức thanh toán hợp lý nhằm tránh được những tổn thất trong việc thu hồi nợ quá hạn, tới hạn và làm tăng khả năng an toàn trong kinh doanh. Đối với các nhà đầu tư hiện tại và tương lai Như các đối tác tham gia kinh doanh, cổ đông,… thì yếu tố như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lợi, khả năng thanh toán nợ,… là mối quan tâm hàng đầu. Vì vậy, họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý. Phân tích báo cáo tài chính nhằm đảm bảo sự an toàn và hiệu quả của các nhà đầu tư, giúp cho họ có quyết định có nên đầu tư hay không đầu tư vào doanh nghiệp. Phân tích báo cáo tài chính còn rất cần thiết đối với cơ quan tài chính, thuế, thống kê, người lao động,… Sở dĩ họ cần những thông tin tài chính này là do họ có liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm với doanh nghiệp, thậm chí có quan hệ mật thiết về lợi ích kinh tế đối với người lao động. Thông qua phân tích báo cáo tài chính, họ sẽ chủ động hơn trong quan hệ tài chính với doanh nghiệp. Như vậy, phân tích báo cáo tài chính của một doanh nghiệp là rất cần thiết. Việc phân tích báo cáo tài chính tập trung vào việc mô tả quan hệ mật thiết giữa các khoản, mục và các nhóm khoản mục để đạt được mục tiêu cần thiết phục vụ cho doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác trong việc ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng và tiềm năng của doanh nghiệp. 1.1.3. Yêu cầu quản lý tài chính trong các doanh nghiệp Quản lý tài chính là việc sử dụng các thông tin phản ánh chính xác tình trạng tài chính của một doanh nghiệp để phân tích điểm mạnh điểm yếu của nó và lập các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch sử dụng nguồn tài chính, tài sản cố định và nhu cầu nhân công trong tương lai nhằm tăng lãi cổ tức của cổ đông. Việc quản lý tài chính bao gồm việc lập các kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn hạn, đồng thời quản lý có hiệu quả vốn hoạt động thực của công ty. Đây là công việc rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp bởi vì nó ảnh hưởng đến cách thức và phương thức mà nhà quản lý thu hút vốn đầu tư để thành lập, duy trì và mở rộng công việc kinh doanh. Lập kế hoạch tài chính sẽ cho phép qụyết định lượng nguyên liệu thô doanh nghiệp có thể mua, sản phẩm công ty có thể sản xuất và khả năng công ty có thể tiếp thị, quảng cáo để bán sản phẩm ra thị trường. Khi có kế hoạch tài chính, bạn cũng có thể xác được nguồn nhân lực doanh nghiệp cần. “Việc quản lý tài chính không có hiệu quả là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự thất bại của các công ty, không kể công ty vừa và nhỏ hay các tập đoàn công ty lớn.” Lập kế hoạch tài chính gồm lập kế hoạch trong ngắn hạn và lập kế hoạch trong dài hạn. Kế hoạch tài chính ngắn hạn là việc lập kế hoạch về lợi nhuận và ngân quỹ công ty trong khi kế hoạch dài hạn thường mang tính chiến lược và liên quan đến việc lập các mục tiêu tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận trong vòng từ 3 đến 5 năm. 1.2. HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM 1.2.1. Những vấn đề chung về hệ thống báo cáo tài chính 1.2.1.1. Khái niệm Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, các khoản nợ, nguồn hình thành tài sản, tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Nói cách khác, báo cáo tài chính là phương tiện trình bày khả năng sinh lợi và thực trạng tài chính của doanh nghiệp cho những người quan tâm. 1.2.1.2. Vai trò của báo cáo tài chính doanh nghiệp Hệ thống báo cáo tài chính có những vai trò sau đây: - Cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết, giúp kiểm tra phân tích một cách tổng hợp toàn diện có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của doanh nghiệp. - Cung cấp thông tin, số liệu để kiểm tra, giám sát tình hình hạch toán kinh doanh, tình hình chấp hành chính sách chế độ kế toán - tài chính của doanh nghiệp. - Cung cấp thông tin và số liệu để phân tích đánh giá tình hình, khả năng về tài chính - kinh tế của doanh nghiệp, giúp cho công tác dự báo và lập kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp. 1.2.1.3. Mục đích của báo cáo tài chính doanh nghiệp Hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp được lập với mục đích sau: - Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát và toàn diện tình hình biến động về tài sản, công nợ và nguồn vốn chủ sở hữu, tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán. - Cung cấp các thông tin kinh tế tài chính chủ yếu cho việc đánh giá, phân tích tình hình kết quả hoạt động kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động vừa qua, làm cơ sở để đưa ra các quyết định kinh tế trong tương lai. Thông tin của báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng trong việc đề ra các quyết định về quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào doanh nghiệp của chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. 1.2.2. Nguyên tắc lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp Để đáp ứng những yêu cầu và mục đích của hệ thống báo cáo tài chính trong quản lý doanh nghiệp, khi lập các báo cáo tài chính phải đảm bảo đầy đủ và quán triệt những nguyên tắc sau đây: 1.2.2.1. Nguyên tắc “Hoạt động liên tục” Nguyên tắc này đòi hỏi khi lập và trình bày báo cáo tài chính, Giám đốc (hoặc người đứng đầu doanh nghiệp) cần phải đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp. Nguyên tắc hoạt động liên tục cho biết doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi doanh nghiệp có ý định hoặc bắt buộc phải ngừng hoạt động, hoặc phải thu hẹp đáng kể qui mô hoạt động của mình. Để đánh giá khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải xem xét đến mọi thông tin có thể dự đoán được tối thiểu trong vòng 12 tháng tới kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán. 1.2.2.2. Nguyên tắc “Cơ sở kế toán dồn tích” Nguyên tắc này đòi hỏi, báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được lập theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ các thông tin liên quan đến các luồng tiền. Điều đó có nghĩa là: các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên quan. 1.2.2.3. Nguyên tắc “Nhất quán” Nguyên tắc nhất quán yêu cầu việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ kế toán này sang niên độ khác, trừ khi có sự thay đổi đáng kể về bản chất hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình bày báo cáo tài chính cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể trình bày một cách hợp lý hơn các giao dịch và các sự kiện; hoặc một chuẩn mực kế toán khác yêu cầu có sự thay đổi trong việc trình bày. Nguyên tắc nhất quán cũng cho phép doanh nghiệp có thể trình bày báo cáo tài chính theo một cách khác khi mua sắm hoặc thanh lý lớn các tài sản, hoặc khi xem xét lại cách trình bày báo cáo tài chính. Việc thay đổi cách trình bày báo cáo tài chính chỉ được thực hiện khi cấu trúc trình bày mới sẽ được duy trì lâu dài trong tương lai hoặc nếu lợi ích của cách trình bày mới được xác định rõ ràng. Khi có sự thay đổi, thì doanh nghiệp phải phân loại lại thông tin mang tính so sánh sao cho bảo đảm tính so sánh của chỉ tiêu và phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. 1.2.2.4. Nguyên tắc “Trọng yếu” Nguyên tắc trọng yếu cho thấy, một thông tin được coi là trọng yếu nếu không trình bày hoặc trình bày thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào quy mô và tính chất của khoản mục được đánh giá trong các tình huống cụ thể nếu các khoản mục này không được trình bày riêng biệt. Nguyên tắc trọng yếu đòi hỏi từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt trong báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày riêng rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng trong báo cáo tài chính hoặc trình bày trong thuyết minh báo cáo tài chính. Tuy nhiên, có những khoản mục không được coi là trọng yếu để có thể được trình bày riêng biệt trên báo cáo tài chính, nhưng lại được coi là trọng yếu để trình bày riêng biệt trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Nguyên tắc trọng yếu không bắt buộc doanh nghiệp phải nhất thiết tuân thủ các quy định về trình bày báo cáo tài chính của các chuẩn mực kế toán cụ thể nếu các thông tin đó không có tính trọng yếu. 1.2.2.5. Nguyên tắc “Bù trừ” Nguyên tắc bù trừ chỉ rõ: các khoản mục tài sản và nợ phải trả trình bày trên báo cáo tài chính không được bù trừ, trừ khi chuẩn mực kế toán khác quy định hoặc cho phép bù trừ. 1.2.2.6. Nguyên tắc “So sánh” Nguyên tắc so sánh đòi hỏi các thông tin phản ánh trong báo cáo tài chính kỳ này phải đảm bảo so sánh được với thông tin phản ánh trong báo cáo tài chính của kỳ trước. Khi thay đổi cách trình bày hoặc cách phân loại các khoản mục trong báo cáo tài chính, phải phân loại lại các số liệu so sánh (trừ khi việc này không thể thực hiện được) nhằm đảm bảo khả năng so sánh với kỳ hiện tại, và phải trình bày tính chất, số liệu và lý do việc phân loại lại. Nếu không thực hiện được việc phân loại lại các số liệu tương ứng mang tính so sánh thì doanh nghiệp cần phải nêu lý do và tính chất của những thay đổi nếu việc phân loại lại các số liệu được thực hiện. 1.2.3. Hệ thống báo cáo tài chính Theo Quyết định 15/2006/QĐ - BTC, hệ thống báo cáo tài chính nếu xét về niên độ lập bao gồm báo cáo tài chính năm và báo cáo tài chính tài chính giữa niên độ. Hệ thống báo cáo tài chính năm được áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc các ngành và các thành phần kinh tế. Hệ thống báo cáo tài chính giữa niên độ được áp dụng cho doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán và các doanh nghiệp khác khi tự nguyện lập báo cáo tài chính giữa niên độ. Hệ thống Báo cáo tài chính ban hành theo Quyết định 15/2006/QĐ-TC bao gồm các mẫu biểu báo cáo sau: Báo cáo tài chính năm: gồm 4 mẫu biểu báo cáo: - Bảng cân đối kế toán Mẫu số B01 - DN - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Mẫu số B02 - DN - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Mẫu số B03 - DN - Thuyết minh báo cáo tài chính Mẫu số B09 - DN Báo cáo tài chính giữa niên độ: gồm báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ và báo cáo tài chính giữa niên độ dạng tóm lược: Báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ gồm: - Bảng cân đối kế toán giữa niên độ (dạng đầy đủ), mẫu số B01a - DN - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ (dạng đầy đủ), mẫu số B02a-DN - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giữa niên độ (dạng đầy đủ), mẫu B03a-DN - Bản thuyết minh báo cáo tài chính chọn lọc, mẫu số B09a-DN Báo cáo tài chính giữa niên độ dạng tóm lược gồm: - Bảng cân đối kế toán (dạng tóm lược), mẫu số B01b-DN - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ (dạng tóm lược), mẫu số B02b-DN - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giữa niên độ (dạng tóm lược), mẫu B03b-DN - Bản thuyết minh Báo cáo tài chính chọn lọc, mẫu số B09b-DN 1.2.3.1. Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B01 - DN) 1.2.3.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách tổng quát toàn bộ tài sản hiện có của đơn vị tại một thời điểm nhất định, theo hai cách phân loại là kết cấu nguồn vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn kinh doanh. Số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu của tài sản, nguồn vốn. Căn cứ vào bảng cân đối kế toán có thể nhận xét, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Về mặt kinh tế, qua xem xét phần tài sản, cho phép đánh giá tổng quát năng lực và trình độ sử dụng vốn. Khi xem xét phần nguồn vốn, người sử dụng thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai. Phần nguồn vốn cho phép người sử dụng bảng cân đối kế toán thấy được trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với Nhà nước, về số tài sản đã hình thành bằng vốn vay ngân hàng và vốn vay đối tượng khác cũng như trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ với người lao động, với người cho vay, với nhà cung cấp, với cổ đông, với ngân sách Nhà nước… 1.2.3.1.2. Nguồn số liệu để lập bảng cân đối kế toán Khi lập bảng cân đối kế toán, nguồn số liệu được lấy từ: Bảng cân đối kế toán ngày 31/12 năm trước Sổ kế toán tổng hợp và chi tiết (sổ cái và sổ chi tiết) các tài khoản có số dư cuối kỳ phản ánh tài sản, công nợ và nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. 1.2.3.1.3. Kết cấu của Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B01-DN) Bảng cân đối kế toán được thể hiện dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán và sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng cân đối kế toán được chia làm 2 phần là phần “Tài sản” và phần “Nguồn vốn”. Phần “Tài sản” cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo đang tồn tại dưới dạng các hình thái và trong tất cả các giai đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh. Trên cơ sở tổng số tài sản và kết cấu tài sản hiện có mà có thể đánh giá một cách tổng quát quy mô tài sản năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tài sản được chia thành hai mục là: A. Tài sản ngắn hạn B. Tài sản dài hạn Phần “Nguồn vốn” phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán. Các chỉ tiêu ở phần nguồn vốn được sắp xếp theo từng nguồn hình thành tài sản của đơn vị (nguồn vốn của bản thân doanh nghiệp - vốn chủ sở hữu, nguồn vốn đi vay, nguồn vốn chiếm dụng…) Nguồn vốn được chia thành hai mục: A. Nợ phải trả B. Nguồn vốn chủ sở hữu Tính chất cơ bản của Bảng cân đối kế toán là tính cân đối giữa tài sản và nguồn vốn, được thể hiện như sau: Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn Ngoài các chỉ tiêu phản ánh trong bảng cân đối kế toán, còn có các chỉ tiêu ngoài Bảng cân đối kế toán như: tài sản thuê ngoài; vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công; hàng hoá nhận bán hộ, nhận ký gửi; nợ khó đòi đã xử lý; ngoại tệ các loại; hạn mức kinh phí còn lại. 1.2.3.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Mẫu số B02 - DN) 1.2.3.2.1. Khái niệm và ý nghĩa Báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD) là một báo cáo tài chính kế toán tổng hợp phản ánh tổng quát doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán. Báo cáo kết quả kinh doanh là tài liệu quan trọng cung cấp số liệu cho người sử dụng thông tin có thể kiểm tra phân tích và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, so sánh với các kỳ trước và các doanh nghiệp khác trong cùng ngành để nhận biết khái quát kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ và xu hướng vận động nhằm đưa ra các quyết định quản lý và quyết định tài chính cho phù hợp. 1.2.3.2.2. Nguồn số liệu để lập BCKQKD Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được lập dựa trên nguồn số liệu sau: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước Sổ kế toán trong kỳ của các tài khoản từ loại 5 đến loại 9 1.2.3.2.3. Nguyên tắc lập BCKQKD Việc lập và trình bày báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phải tuân thủ 6 nguyên tắc được quy định tại chuẩn mực số 21 - Trình bày báo cáo tài chính là: Hoạt động liên tục, cơ sở dồn tích, nhất quán, trọng yếu và tập hợp, bù trừ, có thể so sánh. Lấy doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ cộng doanh thu hoạt động tài chính trong kỳ trừ đi các khoản chi phí trong kỳ (kể cả chi phí hoạt động tài chính) sẽ được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trong kỳ; lấy thu nhập khác trừ chi phí khác sẽ được lợi nhuận từ hoạt động khác. Tổng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận từ hoạt động khác là tổng lợi nhuận trước thuế trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp sẽ được chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế 1.2.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Mẫu số B03 – DN) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Thông tin về lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cung cấp cho người sử dụng thông tin có cơ sở để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền và việc sử dụng những khoản tiền đã tạo ra đó trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 24 “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ”, tiền tại quỹ, tiền đang chuyển và các khoản tiền gửi không kỳ hạn, còn các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (không quá 3 tháng kể từ ngày mua khoản đầu tư đó), có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành một lượng tiền xác định và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành tiền (kỳ phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ gửi tiền…). Doanh nghiệp được trình bày các luồng tiền từ các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính theo cách thức phù hợp nhất với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Có hai phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Phương pháp gián tiếp và phương pháp trực tiếp. Hai phương pháp này chỉ khác nhau trong phần I “Lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất – kinh doanh”, còn phần II “Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư” và phần III “Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính” thì giống nhau. Lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp Theo phương pháp này, báo cáo Lưu chuyển tiền tệ được lập bằng cách xác định và phân tích trực tiếp các khoản thực thu, thực chi bằng tiền theo từng nội dung thu, chi trên các sổ kế toán tổng hợp và chi tiết của doanh nghiệp. Lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp Theo phương pháp gián tiếp, báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập bằng cách điều chỉnh lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của hoạt động sản xuất kinh doanh khỏi ảnh hưởng của các khoản mục không phải bằng tiền, các thay đổi trong kỳ của hàng tồn kho, các khoản phải thu, phải trả từ hoạt động kinh doanh và các khoản mà ảnh hưởng về tiền của chúng thuộc hoạt động đầu tư. Luồng tiền từ hoạt động kinh doanh được tiếp tục điều chỉnh với sự thay đổi vốn lưu động, chi phí trả trước dài hạn và các khoản thu, chi khác từ hoạt động kinh doanh. 1.2.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu số B09 - DN) Bản thuyết minh báo cáo tài chính là một báo cáo kế toán tài chính tổng quát nhằm mục đích giải trình và bổ sung, thuyết minh những thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo, mà chưa được trình bày đầy đủ, chi tiết hết trong các báo cáo tài chính khác. Căn cứ chủ yếu để lập bản Thuyết minh báo cáo tài chính là: - Bảng cân đối kế toán của kỳ báo cáo (Mẫu B01 – DN) - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ báo cáo (Mẫu B02 – DN) - Báo cáo thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước - Tình hình thực tế của doanh nghiệp và các tài liệu khác có liên quan Để bản thuyết minh báo cáo tài chính phát huy tác dụng cung cấp bổ sung, thuyết minh thêm các tài liệu, chi tiết cụ thể cho các đối tượng sử dụng thông tin khác nhau ra được quyết định phù hợp với mục đích sử dụng thông tin của mình, đòi hỏi phải tuân thủ các quy định sau: - Đưa ra các thông tin về cơ sở lập báo cáo tài chính và các chính sách kế toán cụ thể được chọn và áp dụng đối với các giao dịch và các sự kiện quan trọng. - Trình bày các thông tin theo các quy định của các chuẩn mực kế toán mà chưa được trình bày trong các báo cáo tài chính khác. - Cung cấp thông tin bổ sung chưa được trình bày trong các báo cáo tài chính khác nhưng lại cần thiết cho việc trình bày trung thực và hợp lý. - Phần trình bày bằng lời văn phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Phần trình bày bằng số liệu phải đảm bảo thống nhất với số liệu trên các báo cáo tài chính khác. Mỗi khoản mục trong Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cần được đánh dấu dẫn tới các thông tin liên quan trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính. 1.3. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP Phương pháp phân tích báo cáo tài chính kế toán là một hệ thống các công cụ, biện pháp, các kỹ thuật và cách thức nhằm tiếp cận, nghiên cứu các hiện tượng và các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các luồng tiền chuyển dịch và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Từ đó giúp các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính kế toán có các quyết định phù hợp tuỳ theo mục đích và yêu cầu của từng đối tượng. Để đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng sử dụng báo cáo tài chính kế toán, người ta có nhiều phương pháp phân tích khác nhau như phương pháp so sánh, phương pháp loại trừ, phương pháp liên hệ, phương pháp hồi quy tương quan… để có thể nắm được thực trạng tài chính của doanh nghiệp dưới nhiều góc độ, phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. 1.3.1. Phương pháp so sánh So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích báo cáo tài chính nhằm nghiên cứu kết quả, sự biến động và mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. So sánh số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi tình hình tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay tụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. So sánh số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số trung bình của ngành, của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình là tốt hay xấu, được hay chưa được. So sánh có ba hình thức: so sánh theo chiều dọc, so sánh theo chiều ngang và so sánh theo xu hướng. - So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu với tổng thể. - So sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các kỳ tiếp theo. - So sánh theo xu hướng thường dùng số liệu từ ba năm trở lên để thấy được sự tiến triển của các chỉ tiêu so sánh đặt trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác làm nổi bật sự biến động về tình hình tài chính hiện tại và dự đoán tình hình tài chính của doanh nghiệp trong tương lai. Khi tiến hành so sánh phải giải quyết các vấn đề về điều kiện so sánh và tiêu chuẩn so sánh: Điều kiện so sánh được: Khi so sánh theo thời gian, các chỉ tiêu cần thống nhất về nội dung kinh tế, về phương pháp và đơn vị tính. Khi so sánh về không gian, thường là so sánh trong một ngành nhất định nên cần phải quy đổi về cùng một quy mô với các điều kiện kinh doanh tương tự nhau. Tiêu chuẩn so sánh được: Là các chỉ tiêu được chọn làm căn cứ so sánh (còn gọi là kỳ gốc). Tuỳ theo mục đích, yêu cầu của phân tích mà chọn các chỉ tiêu chuẩn so sánh thích hợp. Để phục vụ cho mục đích cụ thể của phân tích, phương pháp so sánh thường được sử dụng dưới các dạng sau: So sánh bằng số tuyệt đối: Khi so sánh bằng số tuyệt đối, các nhà phân tích sẽ biết được qui mô biến động (mức tăng hay giảm) của chỉ tiêu nghiên cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc biểu hiện bằng tiền, hiện vật hay giờ công cụ thể. So sánh bằng số tương đối: Số tương đối phản ánh kết cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển và mức độ phổ biến của chỉ tiêu nghiên cứu. Do vậy, so sánh bằng số tương đối, ._.các nhà quản lý sẽ nắm được xu hướng biến động của các chỉ tiêu. So sánh bằng số bình quân: Số bình quân phản ánh mức độ bình quân hay đặc điểm điển hình của 1 tổ, 1 bộ phận, 1 đơn vị,… Khi so sánh bằng số bình quân, các nhà quản lý sẽ biết được mức độ mà doanh nghiệp đạt được so với bình quân chung của tổng thể, của ngành… Từ đó, xác định được vị trí của doanh nghiệp trong tổng thể, trong ngành. [1, 17-20] 1.3.2. Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích Việc chi tiết chỉ tiêu phân tích theo các khía cạnh khác nhau giúp cho việc đánh giá kết quả kinh doanh được chính xác hơn. Thông thường trong phân tích, phương pháp chi tiết được thực hiện theo những hướng sau: Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu; Chi tiết theo thời gian; Chi tiết theo địa điểm. Sau đó, nhà phân tích mới tiến hành so sánh mức độ đạt được của từng bộ phận giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc và mức độ ảnh hưởng của từng bộ phận đến tổng thể cũng như xem xét tiến độ thực hiện và kết quả đạt được trong từng thời gian. Việc nghiên cứu các chỉ tiêu phân tích theo phương hướng khác nhau sẽ giúp các nhà quản lý nắm được tác động của các giải pháp mà doanh nghiệp áp dụng trong từng bộ phận cấu thành, từng thời gian hay địa điểm để từ đó tìm ra cách cải tiến các giải pháp cũng như điều kiện vận dụng từng giải pháp một cách có hiệu quả. [1, 14-17] 1.3.3. Phương pháp loại trừ Phương pháp loại trừ được sử dụng nhằm xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của lần lượt từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Theo phương pháp này, khi nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó phải loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố còn lại. Phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích dưới hai cách là phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch: Phương pháp thay thế liên hoàn Thay thế liên hoàn là phương pháp thay thế lần lượt từng nhân tố từ giá trị gốc sang kỳ phán tích để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó đến chỉ tiêu nghiên cứu. Các nhân tố chưa được thay thế phải giữ nguyên kỳ gốc. Sau đó, so sánh trị số của chỉ tiêu nghiên cứu vừa tính được với trị số của chỉ tiêu nghiên cứu trước khi thay thế nhân tố. Mức chênh lệch về trị số của chỉ tiêu nghiên cứu sau và trước khi thay thế nhân tố chính là ảnh hưởng của nhân tố đó đến sự biến động của chỉ tiêu. Để áp dụng phương pháp thay thế liên hoàn cần đảm bảo điều kiện và trình tự sau: - Xác định chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu; - Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu. Các nhân tố này phải có quan hệ chặt chẽ với chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu dưới dạng tích số hoặc thương số. - Sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu vào một công thức toán học theo thứ tự từ nhân tố số lượng đến chất lượng. - Thay thế lần lượt giá trị của từng nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu nghiên cứu. Có bao nhiêu nhân tố thì có bấy nhiêu lần và nhân tố nào đã thay thế thì giữ nguyên giá trị đã thay thế (kỳ phân tích) cho đến lần thay thế cuối cùng. Sau mỗi lần thay thế trị số của từng nhân tố, phải xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố vừa thay thế đến sự biến động của chỉ tiêu phản ánh đối tượng (nếu có); - Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu nghiên cứu giữa kỳ phân tích và kỳ gốc. Phương pháp chênh lệch Điều kiện và trình tự vận dụng phương pháp số chênh lệch cũng tương tự như phương pháp thay thế liên hoàn, chỉ khác ở chỗ: để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào thì trực tiếp dùng số chênh lệch về giá trị kỳ phân tích so với kỳ gốc của nhân tố đó để xác định. [1, 20-24] 1.3.4. Phương pháp liên hệ cân đối Mọi chỉ tiêu tài chính đều có mối liên hệ với nhau giữa các mặt, các bộ phận… Để lượng hoá các mối liên hệ đó, ngoài các phương pháp đã nêu trên, trong phân tích báo cáo tài chính còn sử dụng phổ biến các cách nghiên cứu liên hệ phổ biến như: liên hệ cân đối, liên hệ trực tuyến và liên hệ phi tuyến. Liên hệ cân đối có cơ sở là sự cân bằng về lượng giữa hai mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh: giữa tổng số vốn và tổng số nguồn vốn, giữa nguồn thu, huy động và tình hình sử dụng các quỹ, các loại vốn giữa nhu cầu và khả năng thanh toán, giữa nguồn vốn mua sắm và tình hình sử dụng các loại vật tư, giữa thu với chi,… Liên hệ trực tuyến là mối liên hệ theo một hướng xác định giữa các chỉ tiêu phân tích. Chẳng hạn, lợi nhuận có quan hệ cùng chiều với lượng hàng bán ra, giá bán có quan hệ ngược chiều với giá thành, tiền thuế,… Trong mối liên hệ trực tuyến này, theo mức độ phụ thuộc các chỉ tiêu có thể phân thành hai loại quan hệ chủ yếu: - Liên hệ trực tuyến giữa các chỉ tiêu nhu giữa lợi nhuận với giá bán, giá thành, tiền thuế,… Trong trường hợp này các mối liên hệ không qua một chỉ tiêu liên quan nào: Giá bán tăng sẽ làm tăng lợi nhuận, giá thành giảm lợi nhuận cũng tăng… - Liên hệ gián tiếp là quan hệ giữa các chỉ tiêu trong đó mức độ phụ thuộc giữa chúng được xác định bằng một hệ số riêng. Liên hệ phi tuyến là mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trong đó mức độ liên hệ không được xác định theo tỷ lệ và chiếu hướng liên hệ luôn biến đổi, trong trường hợp này, mối liên hệ giữa các chỉ tiêu phân tích (hàm số) với các nhân tố (biến số) thường có dạng hàm luỹ thừa. Để quy về hàm tuyến tính người ta dùng các thuật toán khác nhau như phép Loga, bảng tương quan và chương trình chuẩn tắc… [1, 24-28] 1.3.5. Phương pháp hồi quy tương quan Phương pháp tương quan là quan sát mối liên hệ giữa một tiêu thức kết quả và một hoặc nhiều tiêu thức nguyên nhân nhưng ở dạng liên hệ thực. Còn hồi quy là một phương pháp xác định độ biến thiên của tiêu thức kết quả theo sự biến thiên của tiêu thức nguyên nhân. Bởi vậy, hai phương pháp này có liên quan chặt chẽ với nhau và có thể tắt là phương pháp hồi quy tương quan. Nếu quan sát, đánh giá mối liên hệ giữa một tiêu thức kết quả và một tiêu thức nguyên nhân gọi là tương quan đơn. Nếu quan sát, đánh giá mối liên hệ giữa một tiêu thức kết quả và nhiều nguyên nhân thì gọi là tương quan bội [1, 28-38]. 1.3.6. Phương pháp Dupont Phương pháp Dupont nhằm đánh giá sự tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính bằng cách biến một chỉ tiêu tổng hợp thành hàm số của một loạt các biến số. Ví dụ như tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như suất sinh lợi của tài sản (thu nhập trên tài sản - ROA), suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu (thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu - ROE) thành tích số của chuỗi tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó với tỷ số tổng hợp. 1.3.7. Phương pháp đồ thị Phương pháp này dùng để minh hoạ các kết quả tài chính thu được trong quá trình phân tích bằng các biểu đồ, sơ đồ,… Phương pháp đồ thị giúp người phân tích thể hiện được rõ ràng, trực quan về diễn biến của các đối tượng nghiên cứu và nhanh chóng có phân tích định hướng các chỉ tiêu tài chính để tìm ra nguyên nhân sự biến đổi các chỉ tiêu, từ đó kịp thời đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. 1.4. NỘI DUNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Xuất phát từ nhu cầu thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác, phân tích báo cáo tài chính phải đạt được các mục tiêu sau: Phân tích báo cáo tài chính phải cung cấp thông tin để đánh giá rủi ro từ hoạt động đầu tư cho vay của nhà đầu tư, ngân hàng. Phân tích báo cáo tài chính phải cung cấp thông tin để đánh giá khả năng tạo ra tiền và tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phân tích báo cáo tài chính phải làm rõ sự biến đổi của tài sản, nguồn vốn và các tác nhân gây ra sự biến đổi đó. Trên cơ sở đó, ta có thể đề xuất các biện pháp hữu hiệu và ra quyết định cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh và nâng cáo hiệu quả kinh doanh. Để cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết có giá trị về xu thế phát triển của doanh nghiệp, về các mặt mạnh, mặt yếu của hoạt động tài chính chúng ta sẽ tiến hành phân tích các nội dung chủ yếu về tình hình tài chính của doanh nghiệp sau đây: - Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp. - Phân tích cấu trúc tài chính doanh nghiệp - Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. - Phân tích hiệu quả kinh doanh - Phân tích rủi ro tài chính - Dự báo các chỉ tiêu tài chính Sau đây chúng ta đi sâu phân tích cụ thể: 1.4.1. Phân tích báo cáo tài chính để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp Sử dụng báo cáo tài chính để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp là việc xem xét, nhận định về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Công việc này sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin khái quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ là khả quan hay không khả quan. Trước hết, cần tiến hành so sánh tổng số tài sản và tổng nguồn vốn giữa cuối kỳ và đầu năm. Bằng cách này sẽ thấy được quy mô vốn mà đơn vị sử dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Cần lưu ý là số tổng cộng “Tài sản” và “Nguồn vốn” tăng, giảm do nhiều nguyên nhân nên chưa biểu hiện đầy đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp được. Vì thế cần đi phân tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán. Đánh giá khái quát tình hình tài chính được thực hiện bằng cách tính ra và so sánh giữa cuối kỳ với đầu kỳ, so sánh kỳ này với kỳ trước… các chỉ tiêu sau: - Hệ số tài trợ: Hệ số tài trợ là chỉ tiêu phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp. Hệ số tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu Tổng số nguồn vốn Hệ số tài trợ cho biết trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu phần. Trị số chỉ tiêu càng lớn chứng tỏ khả năng tự bảo đảm về tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Các chủ nợ có thể căn cứ vào hệ số tài trợ của doanh nghiệp để xác định mức độ tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ - Hệ số tự tài trợ: Hệ số tự tài trợ là chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu tư nguồn vốn chủ sở hữu vào tài sản dài hạn của doanh nghiệp Hệ số tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu Tài sản dài hạn Trị số của chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ nguồn vốn chủ sở hữu được đầu tư vào tài sản dài hạn càng lớn. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này quá cao chứng tỏ doanh nghiệp tự bảo đảm về mặt tài chính nhưng hiệu quả kinh doanh sẽ không cao do vốn đầu tư chủ yếu vào tài sản dài hạn, ít sử dụng vào kinh doanh quay vòng để sinh lợi - Hệ số khả năng thanh toán tổng quát (hiện hành) Hệ số thanh toán tổng quát là một chỉ tiêu tổng quát phản ánh khả năng chi trả nợ của một doanh nghiệp, nó cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản để đảm bảo cho một đồng nợ phải trả. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng tài sản Tổng số nợ phải trả Hệ số khả năng thanh toán tổng quát càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng được tin tưởng và ngược lại. Cụ thể, nếu trị số của chỉ tiêu lớn hơn hoặc bằng 1 thì doanh nghiệp bảo đảm được khả năng thanh toán và ngược lại; trị số này nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp càng mất khả năng thanh toán. - Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn(hiện thời) Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn là thước đo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp với tổng số tài sản ngắn hiện có. Hệ số này được tính như sau: Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn = Tổng giá trị thuần của tài sản ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn Hệ số này cho thấy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là bình thường hoặc khả quan. Ngược lại, nếu hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn càng nhỏ hơn 1 thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng thấp. - Hệ số khả năng thanh toán nhanh (tức thời) Hệ số khả năng thanh toán nhanh là chỉ tiêu được dùng để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bằng tiền, các khoản tương đương tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp có đảm bảo thanh toán kịp thời các khoản nợ ngắn hạn hay không. Hệ số thanh toán nhanh = Tiền, các khoản tương đương tiền Tổng nợ ngắn hạn Trị số của chỉ tiêu này nếu lớn khả năng thanh toán của doanh nghiệp tương đối khả quan, còn nếu trị số của chỉ tiêu này nhỏ hơn sẽ cho thấy doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán công nợ. Thông thường, nếu chỉ tiêu này lớn hơn 0,5 thì doanh nghiệp được coi là đủ khả năng thanh toán. Nếu trị số của chỉ tiêu này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp có khó khăn trong việc thanh toán công nợ và do đó có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán. - Tỷ suất đầu tư Tỷ suất đầu tư là chỉ tiêu phản ánh tỷ trọng của tài sản dài hạn chiếm trong tổng số tài sản, nó phản ánh cấu trúc tài sản của doanh nghiệp. Tỷ suất ngày cao hay thấp phụ thuộc lớn vào ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ suất đầu tư = Tài sản dài hạn ´ 100 Tổng tài sản - Hệ số lợi nhuận so với nguồn vốn chủ sở hữu (suất sinh lời của nguồn vốn chủ sở hữu): Có thể nói, hệ số lợi nhuận so với nguồn vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu phản ánh khái quát nhất hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nó cho biết một đơn vị nguồn vốn chủ sở hữu đầu tư vào kinh doanh thì đem lại mấy đơn vị lợi nhuận. Hệ số lợi nhuận so với nguồn vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân Trị số của hệ số lợi nhuận so với nguồn vốn chủ sở hữu càng cao hiệu quả sử dụng vốn càng cao và ngược lại. Đây là một chỉ tiêu mà các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ có ý định đầu tư vào doanh nghiệp. Ở đây cần chú ý, khi tính chỉ tiêu này các nhà phân tích sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu bình quân chứ không phải là nguồn vốn chủ sở hữu tại một thời điểm vì lợi nhuận là kết quả của cả một kỳ kinh doanh; lợi nhuận có thể tính theo lợi nhuận sau thuế hoặc trước thuế. Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân = Tổng nguồn vốn chủ sở hữu đầu kỳ và cuối kỳ 2 1.4.2. Phân tích cấu trúc tài chính doanh nghiệp Cấu trúc tài chính của một doanh nghiệp không những phản ánh thực trạng tài chính của doanh nghiệp mà còn phản ánh mối quan hệ giữa tình hình huy động vốn với tình hình sử dụng vốn. Khi phân tích cấu trúc tài chính cần xem xét cả cấu trúc tài sản, cơ cấu nguồn vốn và mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn bởi vì cơ cấu tài sản phản ánh tình hình sử dụng tài sản, cơ cấu nguồn vốn phản ánh tình hình huy động vốn, còn mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn phản ánh chính sách sử dụng vốn của doanh nghiệp. Việc phân tích cấu trúc tài chính doanh nghiệp được bắt đầu bằng phân tích cơ cấu tài sản. - Phân tích cơ cấu tài sản là việc xem xét tỷ trọng của từng loại tài sản chiếm trong tổng tài sản và thông qua đó có thể đánh giá được việc bố trí, phân bố vốn, trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lý hay không. Việc bố trí vốn hợp lý hay không hợp lý sẽ ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến việc quản lý, sử dụng vốn cũng như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ cấu cho từng loại tài sản được tính như sau: Tỷ trọng của từng bộ phận tài sản = Giá trị của từng bộ phận tài sản Tổng số tài sản Phân tích cơ cấu tài sản có thể lập theo mẫu sau: Tài sản Kỳ gốc Kỳ phân tích Kỳ phân tích so với kỳ gốc Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tài sản ngắn hạn 1. Tiền & tương đương tiền 2. Đầu tư tài chính ngắn hạn 3. Phải thu Tài sản dài hạn 1. Phải thu dài hạn 2. Tài sản cố định 3. Bất động sản đầu tư 4. Đầu tư tài chính dài hạn 5. Tài sản dài hạn khác Tổng cộng Việc phân tích cơ cấu nguồn vốn cũng tiến hành tương tự như phân tích cơ cấu tài sản. Phân tích cơ cấu nguồn vốn là việc xem xét tỷ trọng từng loại nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn cũng như xem xu hướng biến động của từng nguồn vốn qua các thời kỳ. Khi phân tích cơ cấu nguồn vốn, các nhà phân tích cần tính ra và so sánh tỷ trọng của từng nguồn vốn chiếm trong tổng số giữa cuối kỳ so với đầu kỳ, giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc và dựa vào xu hướng biến động về tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn để nhận xét về mức độ bảo đảm và độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời, so sánh sự biến động giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc theo từng nguồn vốn cụ thể để nhận xét. Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn = Giá trị của từng bộ phận nguồn vốn Tổng số nguồn vốn Khi phân tích có thể thiết lập bảng theo mẫu sau Nguồn vốn Kỳ gốc Kỳ phân tích Kỳ phân tích so với kỳ gốc Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) A. Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn II. Nợ dài hạn B. Nguồn vốn CSH I. Nguồn vốn CSH II. Kinh phí & quỹ khác Tổng cộng Sau khi phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn nhà phân tích sẽ tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn. Phân tích mối quan hệ này sẽ giúp họ phần nào nhận thức được sự hợp lý giữa nguồn vốn kinh doanh huy động và sử dụng chúng trong đầu tư, mua sắm, dự trữ và sử dụng có hợp lý, hiệu quả hay không. Khi phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn nhà phân tích cần tính ra và so sánh các chỉ tiêu. - Hệ số nợ so với tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tài trợ tài sản của doanh nghiệp bằng các khoản nợ. Hệ số nợ so với tài sản = Tổng nợ phải trả Tổng số tài sản hiện có Hệ số này cho biết trong một đơn vị tài sản hiện có bao nhiêu đơn vị được mua bằng vốn vay và chiếm dụng. Hệ số nợ so với tài sản càng cao chứng tỏ mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào chủ nợ càng lớn, mức độ độc lập về mặt tài chính càng thấp. Khi hệ số nợ cao, tức là chủ doanh nghiệp chỉ có một phẩn nhỏ trong tổng số tài sản thì rủi ro trong kinh doanh được chuyển sang chủ nợ gánh chịu một phần. Đồng thời, khi hệ số nợ cao thì chủ doanh nghiệp càng có lợi rõ rệt vì khi đó họ chỉ bỏ ra một lượng vốn nhỏ nhưng lại được sử dụng một lượng tài sản lớn hay là họ đã chiếm dụng được vốn của các đơn vị khác. Tuy nhiên, khi hệ số nợ cao thì mức độ an toàn trong kinh doanh lại kém vì chỉ cần một khoản nợ giới hạn không trả được sẽ rất dễ làm cho cán cân thanh toán mất cân bằng và dễ bị phá sản. - Hệ số tài sản so với nguồn vốn chủ sở hữu Hệ số tài sản so với nguồn vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu tư tài sản của doanh nghiệp bằng nguồn vốn chủ sở hữu. Trị số của chỉ tiêu này nếu càng lớn hơn 1, chứng tỏ mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng thấp vì trong số tài sản của doanh nghiệp chỉ có một phần nhỏ tài sản được tài trợ bằng nguồn vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này được tính như sau: Hệ số tài sản so với nguồn vốn chủ sở hữu = Tổng tài sản Nguồn vốn chủ sở hữu Để giảm hệ số tài sản so với nguồn vốn chủ sở hữu, các nhà quản lý phải tìm mọi biện pháp để giảm tỷ lệ nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu.Có như vậy doanh nghiệp mới tăng cường tính tự chủ về tài chính của mình. - Hệ số khả năng thanh toán tổng quát Chỉ tiêu này được tính bằng cách so sánh tổng số tài sản hiện có so với tổng số nợ phải trả, phản ánh khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp trong thời kỳ báo cáo. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng số tài sản Tổng số nợ phải trả Nếu trị số chỉ tiêu này của doanh nghiệp lớn hơn 01 thì doanh nghiệp bảo đảm khả năng thanh toán và ngược lại, trị số này càng nhỏ hơn 01 thì doanh nghiệp càn mất dần khả năng thanh toán. 1.4.3. Phân tích báo cáo tài chính để xem xét tình hình dảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có tài sản, bao gồm tài sản cố định và tài sản ngắn hạn. Việc đảm bảo đầy đủ nhu cầu về tài sản là một vấn đề cốt yếu để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả. Để đảm bảo đủ tài sản cho hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải tập trung các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động, hình thành nguồn vốn. Nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành trước hết từ nguồn vốn của bản thân chủ sở hữu (vốn góp ban đầu và bổ sung trong quá trình kinh doanh). Sau nữa được hình thành từ nguồn vốn vay và nợ hợp pháp (vay ngắn hạn, dài hạn, trung hạn, nợ người cung cấp, nợ công nhân viên chức,…). Cuối cùng, nguồn vốn được hình thành từ các nguồn bất hợp pháp (nợ quá hạn, vay quá hạn, chiếm dụng bất hợp pháp của người mua, người bán, của công nhân viên chức,…). Có thể phân loại nguồn vốn (nguồn tài trợ) thành 2 loại: - Nguồn tài trợ thường xuyên: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp được sử dụng thường xuyên, lâu dài vào hoạt động kinh doanh, bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay nợ dài hạn, trung hạn (trừ khoản vay, nợ quá hạn). - Nguồn tài trợ tạm thời: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp tạm thời sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong một khoảng thời gian ngắn. Thuộc nguồn tài trợ tạm thời bao gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn, các khoản vay - nợ quá hạn (kể cả vay - nợ dài hạn), các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người bán, người mua, của công nhân viên chức. Khi phân tích tình hình đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh, cần tính ra và so sánh tổng nhu cầu về tài sản (tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn) với nguồn vốn chủ sở hữu hiện có và nguồn vốn vay - nợ dài hạn. Nếu tổng số nguồn vốn có đủ hoặc lớn hơn nhu cầu về tài sản thì doanh nghiệp cần sử dụng số thừa này một cách hợp lý (đầu tư vào tài sản ngắn hạn, tài sản cố định, vào hoạt động liên doanh, trả nợ vay,…), tránh bị chiếm dụng vốn. Ngược lại, khi nguồn vốn không đáp ứng đủ nhu cầu về tài sản thì doanh nghiệp cần phải có biện pháp huy động và sử dụng phù hợp (huy động nguồn tài trợ tạm thời hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư…), tránh đi chiếm dụng vốn một cách bất hợp pháp. Có thể khái quát nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1.01. Nguồn tài trợ tài sản TỔNG SỐ TÀI SẢN TSDH - TSCĐ hữu hình - TSCĐ vô hình - TSCĐ thuê, mua - Đầu tư dài hạn - v.v… Vốn chủ sở hữu Nguồn thường xuyên NGUỒN TÀI TRỢ - Vay dài hạn, trung hạn - Nợ dài hạn, trung hạn TSNH - Tiền - Nợ phải thu - Đầu tư ngắn hạn - Hàng tồn kho - v.v… - Vay ngắn hạn - Nợ ngắn hạn - Chiếm dụng bất hợp pháp Nguồn tạm thời Dựa vào bảng cân đối kế toán và thuyết minh báo cáo tài chính để lập bảng phân tích mức độ đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh. Bảng 1.03. Bảng phân tích mức độ đảm bảo nguồn vốn cho SXKD Chỉ tiêu Số đầu kỳ Số cuối kỳ A. Nguồn tài trợ thường xuyên B. Nhu cầu về tài sản 1. Tài sản ngắn hạn 2. Tài sản dài hạn Mức đảm bảo nguồn vốn (A - B) - Nếu mức độ đảm bảo = 0: nghĩa là nguồn tài trợ thường xuyên đủ để đảm bảo cho tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn. Tuy nhiên, trong thực tế khi mức độ đảm bảo = 0 vẫn xảy ra hiện tượng chiếm dụng và bị chiếm dụng vốn lẫn nhau. - Nếu mức độ đảm bảo > 0: nghĩa là nguồn tài trợ thường xuyên không những đủ để tài trợ cho các nhu cầu về tài sản mà còn dư thừa. Do vậy, doanh nghiệp cần sử dụng số thừa một cách hợp lý như đầu tư vào tài sản cố định, tài sản ngắn hạn, vào hoạt động liên doanh, trả nợ vay,… tránh bị chiếm dụng vốn. - Nếu mức độ đảm bảo < 0: nghĩa là nguồn tài trợ thường xuyên thiếu so với tài sản dự trữ thực tế buộc doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn. Vì vậy, doanh nghiệp cần có những biện pháp phát huy và sử dụng phù hợp như huy động nguồn tài trợ tạm thời hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư,.. tránh đi chiếm dụng vốn một cách bất hợp pháp. 1.4.4. Phân tích báo cáo tài chính để xem xét tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp 1.4.4.1. Phân tích tình hình thanh toán Tình hình thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng công tác tài chính. Nếu hoạt động tài chính có hiệu quả thì sẽ phát sinh ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn cũng như bị chiếm dụng vốn. Ngược lại, hoạt động tài chính kém thì dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, các khoản công nợ phải thu, phải trả sẽ dây dưa kéo dài. Từ số liệu của bảng cân đối kế toán và một số tài liệu khác ta có bảng phân tích sau: Bảng 1.04. Bảng phân tích tình hình thanh toán Các khoản phải thu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch Các khoản phải trả Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch 1. Phải thu khách hàng 2. Trả trước người bán 3. Các khoản phải thu nội bộ 4. Tạm ứng 5. Tài sản thiếu 6. Thế chấp, ký quỹ 7. Các khoản phải thu khác 1. Vay ngắn hạn 2. Phải trả người bán 3. Người mua trả trước 4. Phải nộp ngân sách 5. Phải trả CNV 6. Phải trả nội bộ 7. Nợ dài hạn đến hạn trả 8. Các khoản phải trả khác Tổng cộng Từ bảng trên, ta tiến hành phân tích cụ thể các khoản phải thu, các khoản phải trả như sau: Đối với các khoản phải thu Việc phân tích các khoản phải thu ngoài việc so sánh chênh lệch đầu năm với cuối kỳ còn phải đi sâu phân tích tính chất và khả năng thu hồi cũng như nguyên nhân tác động để có những biện pháp thích hợp cho việc thu hồi công nợ. Để xem xét các khoản nợ phải thu biến động có ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp hay không, cần tính và so sánh các chỉ tiêu sau: Tỷ lệ các khoản phải thu so với phải trả = Tổng số nợ phải thu x 100 Tổng số nợ phải trả Tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn càng nhiều và ngược lại. Nếu T > 1: sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp vì các khoản phải thu quá lớn sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất sử dụng vốn. Do đó, doanh nghiệp phải có biện pháp thu hồi nợ, thúc đẩy quá trình thanh toán đúng hạn. Nếu T £ 1: có giá trị càng nhỏ với phương thức thanh toán không thay đổi theo đúng thời hạn quy định chứng tỏ doanh nghiệp thu hồi vốn tốt, công nợ và số vốn đi chiếm dụng được càng nhiều. Số vòng luân chuyển các khoản phải thu = Tổng doanh thu bán chịu Bình quân các khoản phải thu Chỉ tiêu này cho biết mức độ hợp lý của số dư của các khoản phải thu, hiệu quả của việc thu hồi nợ. Nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng luân chuyển các khoản phải thu sẽ cao và công ty ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, số vòng luân chuyển các khoản phải thu quá cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ (chủ yếu là thanh toán ngay hay thanh toán trong thời gian ngắn). Thời gian một vòng quay các khoản phải thu = Thời gian kỳ phân tích Số vòng quay Chỉ tiêu này cho thấy, để thu được các khoản phải thu cần một khoản thời gian là bao nhiêu. Nếu số thời gian này lớn hơn số thời gian quy định bán chịu cho khách hàng thì việc thu hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại, số ngày quy định bán chịu cho khách hàng lớn hơn thời gian này chứng tỏ việc thu hồi có dấu hiệu đạt trước kế hoạch về thời gian. Phân tích các khoản phải trả Nợ phải trả là một trong hai yếu tố cấu thành lên nguồn vốn của doanh nghiệp. Vì vậy, khi phân tích các khoản phải trả, ta cần đi sâu phân tích vào từng khoản nợ, sau đó xác định tỷ suất nợ theo công thức sau: Tỷ suất nợ = Nợ phải trả = 1 - Tỷ suất tài trợ Tổng nguồn vốn Tỷ suất này cho biết số vốn doanh nghiệp đi vay, đi chiếm dụng vốn của người khác chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng nguồn vốn. Tỷ suất này càng nhỏ thể hiện tình hình tài chính của doanh nghiệp càng ổn định, doanh nghiệp không phải lo lắng đến việc trả nợ. Bên cạnh đó, ta cần tính các chỉ tiêu sau: Tỷ suất các khoản phải trả so với phải thu = Tổng số nợ phải trả x 100 Tổng số nợ phải thu Số vòng luân chuyển các khoản phải trả = Tổng số tiền hàng mua chịu Số dư bình quân các khoản phải trả Thời gian quay vòng các khoản phải trả = Thời gian của kỳ phân tích Số vòng luân chuyển các khoản phải trả Phân tích các chỉ tiêu trên tương tự như tiến hành phân tích các chỉ tiêu liên quan đến các khoản phải thu. Để có nhận xét, đánh giá đúng đắn về tình hình thanh toán của doanh nghiệp, ngoài số liệu trên bảng cân đối kế toán ta phải sử dụng thêm các tài liệu hạch toán hàng ngày để: - Xác định tính chất thời gian và nguyên nhân các khoản phải thu, phải trả. - Các biện pháp mà doanh nghiệp áp dụng để thu hồi hoặc thanh toán nợ. Để đánh giá tình hình thanh toán của doanh nghiệp trước mắt và triển vọng trong tương lai, cần đi sâu phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. [1, 277-283] 1.4.4.2. Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán Để phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán, trước hết, cần tính ra và so sánh giữa cuối kỳ với đầu năm trên các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán như hệ số thanh toán hiện hành, hệ số thanh toán nợ ngắn hạn, hệ số thanh toán của tài sản lưu động, hệ số thanh toán nhanh, hệ số thanh toán nợ dài hạn. Hệ số thanh toán hiện hành Hệ số thanh toán hiện hành = Tổng tài sản Tổng số nợ phải trả Hệ số thanh toán hiện hành là chỉ tiêu được dùng để đánh giá khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Nếu doanh nghiệp có chỉ số này luôn lớn hơn hoặc bằng 1 thì doanh nghiệp đảm bảo được khả năng thanh toán và ngược lại. Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn = Tổng giá trị tài sản ngắn hạn Tổng số nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính bình thường hoặc khả quan. Ngược lại, nếu hệ số thanh toán nợ ngắn hạn càng nhỏ hơn 1 thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng thấp. Hệ số thanh toán tức thời Hệ số thanh toán tức thời = Tổng số tiền và tương đương tiền Tổng số nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nhanh cho biết các khoản tiền và tương đương tiền hiện có của doanh nghiệp có đủ khả năng để trang trải các khoản nợ ngắn hạn hay không. Thực tế cho thấy, nếu chỉ tiêu này > 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan, còn nếu < 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ và do đó, có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán. Tuy nhiên, nếu hệ số này quá cao lại phản ánh một tình hình không tốt vì vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay vốn chậm, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Hệ số thanh toán tài sản ngắn hạn Hệ số thanh toán tài sản ngắn hạn = Tổng số tiền và tương đương tiền Tổng giá trị của tài sản ngắn hạn Chỉ tiêu này cho biết việc khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản ngắn hạn nhanh hay chậm, từ đó xác định được doanh nghiệp có đủ t._.hêm một số chỉ tiêu nhưng nói chung việc phân tích vẫn chưa đầy đủ và toàn diện theo yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi phân tích báo cáo tài chính, Tổng công ty đã bỏ qua một số chỉ tiêu rất quan trọng như phân tích rủi ro tài chính, phân tích giá trị của Công ty, tỷ suất thanh toán của tài sản ngắn hạn, phân tích vốn hoạt động thuần (vốn luân chuyển thuần)... nên việc phân tích không toàn diện và sâu sắc. CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI TỔNG CÔNG TY VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI VIETTEL 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH Định hướng phát triển sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel đến năm 2010 là “xây dựng Tổng công ty trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, lấy kinh doanh bưu chính viễn thông làm nòng cốt, đồng thời phát triển đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng. Từ nay đến năm 2010, xây dựng Viettel trở thành hãng viễn thông có bản sắc riêng, hoạt động có uy tín, có năng lực cạnh tranh, kinh doanh có hiệu quả, hoạt động trong nước và quốc tế trong khu vực là chủ yếu. Từ định hướng như vậy, mục tiêu tổng quát của Tổng công ty là “ Tất cả các đơn vị thành viên của Tổng công ty phải tăng năng lực cạnh tranh, tăng năng lực tài chính để có đủ lượng vốn đầu tư phát triển có hiệu quả thực hiện mục tiêu: Xây dựng Viễn thông Quân đội trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh của Nhà nước, trở thành một hãng viễn thông có uy tín trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và là biểu tượng của Việt Nam đổi mới”. 3.2. MỤC TIÊU HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI TỔNG CÔNG TY VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI VIETTEL 3.2.1. Tăng cường quản lý tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng trở lên đa dạng và cần thiết. Hiện nay, thông tin được xem là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc ra quyết định của các nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà đầu tư,... Bất kỳ nhà quản lý nào cũng căn cứ vào những thông tin từ báo cáo tài chính định kỳ để ra các quyết định của họ nhưng nhu cầu thông tin có thể khác nhau tuỳ thuộc vào cấp độ quản lý. Nếu nhà quản lý với vai trò là người phụ trách cung tiêu nguyên vật liệu thì thông tin họ cần thường xuyên và không khái quát. Ở cấp độ cao hơn, một giám đốc lại cần những thông tin kém thường xuyên hơn nhưng có tính khái quát cao hơn nhằm đưa ra những quyết định có tính chiến lược. 3.2.2. Phản ánh trung thực tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Viễn thông Quân đội Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp và tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, doanh nghiệp có thể kiểm soát chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh bằng việc sử dụng các công cụ tài chính doanh nghiệp thông qua những hoạt động của nó. Điều này cho phép doanh nghiệp kịp thời phát hiện những tồn tại, thiếu sót cũng như ưu điểm trong đầu tư kinh doanh để từ đó đưa ra những quyết định, những giải pháp cần thiết nhằm khắc phục những nhược điểm và phát huy thế mạnh, tiềm năng của doanh nghiệp. Kết quả và tình hình của các mặt hoạt động của doanh nghiệp được phản ánh bằng những chỉ tiêu kinh tế - tài chính trên báo cáo tài chính. Nếu các chỉ tiêu về mặt tài sản như vốn bằng tiền, các khoản phải thu, tài sản cố định, các khoản đầu tư tăng thể hiện công ty mở rộng quy mô kinh doanh, tăng lượng hàng sản xuất và tiêu thụ. Nếu các chỉ tiêu về mặt công nợ, các khoản vay ngắn hạn, dài hạn,... tăng lên thể hiện công ty huy động nguồn vốn bên ngoài vào việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, để đánh giá trung thực hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì phải dựa trên việc đánh giá mối liên hệ tương quan giữa các chỉ tiêu đó. Mối quan hệ giữa các số liệu chủ yếu trong hệ thống báo cáo tài chính không có sự hiển thị rõ ràng nếu không có sự phân tích. Vì vậy, những nhà chuyên môn đã thiết lập những chỉ tiêu biểu thị ý nghĩa của các mối quan hệ và phản ánh các khuynh hướng có thể kết luận được. Người sử dụng báo cáo tài chính có thể chỉ cần so sánh các chỉ tiêu của các doanh nghiệp quan tâm đối với các tiêu chuẩn khách quan định trước hay đối với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành hoạt động. 3.2.3. Giúp các doanh nghiệp có cơ sở xây dựng chiến lược phát triển Các doanh nghiệp muốn tồn tại trong nền kinh tế thị trường cần phải có chiến lược phát triển. Các chiến lược này được xây dựng vừa phù hợp với thực trạng của doanh nghiệp vừa có những dự báo về tình hình nền kinh tế và môi trường kinh doanh. Chiến lược của các doanh nghiệp phải nhằm mục đích tăng thế lực của doanh nghiệp, tập trung vào các biện pháp để tận dụng thế mạnh khắc phục các yếu điểm. Trong khi xây dựng chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp cần xác định phạm vi kinh doanh, mục tiêu và những điều kiện cơ bản để thực hiện mục tiêu. Xác định phạm vi kinh doanh đòi hỏi chiến lược kinh doanh phải đảm bảo không sử dụng dàn trải nguồn lực và sử dụng không hết nguồn lực. Cơ sở để lập kế hoạch kinh doanh là tình hình thực tế của doanh nghiệp trong kỳ và kế hoạch, nhiệm vụ chung của doanh nghiệp trong kỳ tới. Tình hình thực tế của doanh nghiệp về hoạt động sản xuất kinh doanh được thể hiện thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính và việc sử dụng báo cáo tài chính để phân tích tài chính cũng như hoạt động kinh doanh. Do đó, muốn có cơ sở cho việc xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp, có được kế hoạch sản xuất kinh doanh đúng đắn, phù hợp với thực tế và điều kiện phát triển thì các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính phải thể hiện được đầy đủ nội dung kinh tế. Nhờ có số liệu trên báo cáo tài chính, doanh nghiệp tiến hành phân tích báo cáo tài chính mà các nhà lập chiến lược và kế hoạch kinh doanh có thể đưa ra nhận xét, đánh giá một cách khách quan về thực trạng của doanh nghiệp, từ đó dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. 3.3. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI TỔNG CÔNG TY VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI Qua xem xét thực tế công tác phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội, để phân tích báo cáo tài chính là một công cụ đắc lực giúp cho doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm, việc hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính cần được tiến hành trên cơ sở các phương hướng sau: Thứ nhất, công tác phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội cần được tiến hành thường xuyên theo định kỳ. Tổng công ty cần thành lập một bộ phận phân tích báo cáo tài chính riêng biệt khỏi phòng Tài chính – kế toán. Thứ hai, nội dung phân tích báo cáo tài chính cần phải được bổ sung cho phù hợp với chế độ, chuẩn mực và các chính sách tài chính hiện hành của Việt Nam nhằm đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn và hiệu lực, từ đó tăng cường quản lý tài chính đối với Tổng công ty. Thứ ba, về phương pháp phân tích, Tổng công ty nên sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích bao gồm cả phương pháp truyền thống và các phương pháp hiện đại. 3.4. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI TỔNG CÔNG TY VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI VIETTEL Qua thực tiễn cho thấy phân tích báo cáo tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Nó đòi hỏi Tổng công ty phải tổ chức quá trình thu thập tài liệu, từ chứng từ ban đầu đến việc lập báo cáo tài chính phải chính xác và đúng với thực tế. Nhưng để đạt được hiệu quả cao trên cơ sở vật chất, kỹ thuật, tiền vốn và lao động sẵn có, Tổng công ty phải thường xuyên phân tích báo cáo tài chính nhằm tăng cường quản lý tài chính. 3.4.1. Hoàn thiện công tác tổ chức phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel Công tác phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội cần được tiến hành thường xuyên hơn để giúp các nhà quản lý đưa ra những quyết định kịp thời và chính xác khi điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Việc tiến hành có thể được tiến hành hàng quý thay cho hàng năm khi lập báo cáo tài chính và đợi kiểm toán xong. Về thời gian tiến hành phân tích tình hình tài chính thường là khi hoàn thiện báo cáo tài chính và sau khi báo cáo đã được kiểm toán thường kéo dài từ 3 đến 6 tháng sau khi kết thúc năm tài chính. Do đó kết quả phân tích thương không phản ánh kịp thời tình hình tài chính của Công ty, do vậy để nâng cao tính kịp thời của thông tin tài chính. Tổng công ty cần rút ngắn thời gian làm báo cáo tài chính hoặc tiến hành phân tích 6 tháng một lần vì quy mô tài chính của Tổng công ty cũng rất lớn có như vậy thông tin tài chính mới đảm bảo tính kịp thời chính xác cho người đọc thông tin. Công tác tổ chức phân tích báo cáo tài chính có thể được thực hiện theo các bước sau: - Lập kế hoạch phân tích báo cáo tài chính bao gồm việc xác định mục tiêu, nội dung phân tích và các chỉ tiêu phân tích. - Tiến hành phân tích theo trình tự: thu thập thông tin, tính toán các chỉ tiêu phân tích, tổng hợp kết quả và nhận xét về kết quả đạt được. - Lập báo cáo phân tích, trình bày báo cáo phân tích lên lãnh đạo và thông qua báo cáo. - Lưu hồ sơ phân tích. 3.4.2. Hoàn thiện phương pháp phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel Phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội nên sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích để có những thông tin sâu và đa dạng hơn nhằm nâng cao độ chính xác và hữu ích của thông tin. Ngoài hai phương pháp truyền thống chủ yếu được sử dụng là phương pháp tỷ lệ và phương pháp so sánh, Tổng công ty có thể bổ sung thêm phương pháp hiện đại là phương pháp liên hoàn, phương pháp đồ thị và phương pháp Dupont. Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích dựa trên việc chi tiết chỉ tiêu phân tích theo các khía cạnh khác nhau (về bộ phận cấu thành, thời gian hay địa điểm) giúp cho việc đánh giá kết quả kinh doanh được chính xác hơn. Điều này giúp cho người phân tích nắm được tác động của các giải pháp mà doanh nghiệp đã áp dụng trong từng bộ phận cấu thành, từng thời gian hay địa điểm để tìm ra cách cải tiến cũng như điều kiện vận dụng từng giải pháp một cách hiệu quả. Phương pháp đồ thị cung cấp cho người phân tích và người sử dụng kết quả phân tích cái nhìn trực quan, rõ ràng về sự biến động của các chỉ tiêu phân tích. Người phân tích cũng có thể dễ dàng nhận ra những điểm khác biệt không theo xu hướng phát triển trong đó. Phương pháp Dupont nhằm đánh giá sự tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính bằng cách biến một chỉ tiêu tổng hợp thành hàm số của một loạt các biến số. Vì vậy, người phân tích có thể đánh giá ảnh hưởng của nhiều yếu tố đến sự biến động của một yếu tố tài chính đang nghiên cứu. 3.4.3. Hoàn thiện nội dung phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel Ngoài một số nội dung đã được Tổng công ty Viễn thông Quân đội tiến hành phân tích thể hiện trên báo cáo tài chính và báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh hàng năm, Tổng công ty có thể phân tích thêm một số chỉ tiêu tài chính được thể hiện sau đây để đánh giá rõ nét và sâu sắc hơn tình hình tài chính tại doanh nghiệp. 3.4.3.1. Hoàn thiện đánh giá khái quát tình hình tài chính Đối với công việc đánh giá khái quát tình hình tài chính thì bộ phận phân tích của phòng Tài chính – Kế toán của Tổng công ty đã thực hiện tương đối đầy đủ và chính xác như đã phân tích tình hình biến động của tài sản và nguồn vốn, cơ cấu tài sản và nguồn vốn, tính và phân tích tỷ suất đầu tư, tỷ suất tự tài trợ và tỷ suất nợ. Nhưng để đầy đủ hơn, Tổng công ty nên tính và xem xét thêm chỉ tiêu vốn hoạt động thuần (vốn luân chuyển thuần). Một doanh nghiệp muốn hoạt động không bị gián đoạn thì cần thiết phải duy trì một mức vốn luân chuyển thuần hợp lý để thoả mãn các khoản nợ ngắn hạn, dự trữ hàng tồn kho đầy đủ. Vốn hoạt động thuần được tính theo công thức sau: Vốn hoạt động thuần = Tài sản ngắn hạn - Nợ ngắn hạn Vốn hoạt động thuần càng lớn thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao. Tuy nhiên, nếu vốn hoạt động thuần quá cao sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư vì lượng tài sản ngắn hạn quá nhiều so với nhu cầu và phần dư thêm này không làm tăng thêm thu nhập. Theo tình hình thực tế tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội, ta tính được chỉ tiêu vốn hoạt động thuần như sau: Bảng 3.01. Chỉ tiêu vốn hoạt động thuần Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Chênh lệch 1. Tài sản ngắn hạn 3.036.643.810.081 3.661.624.981.020 20,58% 2. Nợ ngắn hạn 1.707.348.608.096 1.902.115.677.692 11,41% 3. Vốn hoạt động thuần 1.329.295.201.985 1.759.509.303.328 32,36% Vốn hoạt động thuần ở cả hai thời điểm đều rất cao và năm 2007 vốn hoạt động thuần tăng 32,36% so với năm 2006. Điều này chứng tỏ Tổng công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán những khoản nợ ngắn hạn. 3.4.3.2. Hoàn thiện phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh Bên cạnh việc phân tích mức độ đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, khi phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh, Tổng công ty cần sử dụng thêm một số chỉ tiêu để việc phân tích cụ thể và chính xác hơn như hệ số tài trợ thường xuyên, hệ số tài trợ tạm thời, hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên. Phân tích hệ số tài trợ thường xuyên và hệ số tài trợ tạm thời Bảng 3.02. Hệ số tài trợ thường xuyên và hệ số tài trợ tạm thời của Tổng công ty Viettel Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Chênh lệch 1. Nguồn tài trợ thường xuyên 5.406.295.282.903 6.420.753.918.851 18,76 2. Tổng số nguồn vốn 7.113.643.890.998 8.322.869.596.543 17,00 3. Hệ số tài trợ thường xuyên 0,76 0,77 0,01 4. Hệ số tài trợ tạm thời 0,24 0,23 -0,01 (Nguồn: Báo cáo tài chính Tổng công ty Viễn thông Quân đội năm 2007) Nhìn vào bảng 3.2 ta thấy, hệ số tài trợ thường xuyên ở cả hai thời điểm đầu năm và cuối năm đều tương đối cao (lớn hơn 0,5) và có xu hướng tăng (cuối năm 2007 tăng so với đầu năm là 0,01%). Ngược lại hế số tài trợ tạm thời cuối năm lại có xu hướng giảm so với đầu năm. Điều này cho thấy tình hình tài chính của Tổng công ty là tương đối ổn định. Từ việc phân tích hệ số tài trợ thường xuyên và hệ số tài trợ tạm thời, ta có nhận xét như sau: trong tổng nguồn tài trợ tài sản của Tổng công ty thì nguồn tài trợ thường xuyên chiếm ưu thế. Điều này cho thấy Tổng công ty hoàn toàn đảm bảo đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Phân tích hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên Bảng 3.03. Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Chênh lệch 1. Nguồn vốn chủ sở hữu 5.131.814.161.217 6.196.794.946.643 20,75 2. Nguồn tài trợ thường xuyên 5.406.295.282.903 6.420.753.918.851 18,76 3. Hệ số VCSH so với nguồn tài trợ thường xuyên 0,95 0,97 0,02 (Nguồn: Báo cáo tài chính Tổng công ty Viễn thông Quân đội năm 2007) Nhìn vào bảng phân tích 3.3, ta thấy hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên ở cả hai thời điểm đầu năm và cuối năm đều lớn hơn 0,5. Điều này cho thấy vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn tài trợ thường xuyên đồng nghĩa với mức độ tự chủ về tài chính của Tổng công ty là rất cao. 3.4.3.3. Hoàn thiện phân tích tình hình và khả năng thanh toán 3.4.3.3.1. Hoàn thiện phân tích tình hình thanh toán Việc phân tích tình hình biến động của các khoản phải thu và khoản phải trả tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, để cung cấp thêm thông tin cho nhà quản lý, Tổng công ty nên xem xét thêm một số chỉ tiêu liên quan đến khoản phải thu và phải trả Các chỉ tiêu liên quan đến khoản phải thu Ngoài chỉ tiêu tỷ lệ khoản phải thu so với khoản phải trả và tỷ lệ khoản phải thu ngắn hạn so với tài sản ngắn hạn, Tổng công ty cần tính và phân tích thêm chỉ tiêu số vòng luân chuyển khoản phải thu và thời gian một vòng quay các khoản phải thu. Tốc độ luân chuyển khoản phải thu phản ánh khả năng thu hồi nợ của Tổng công ty và được xác định bởi công thức sau: Số vòng quay khoản phải thu = Tổng doanh thu thuần Số dư bình quân nợ phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Số ngày trong kỳ (360 ngày) Số vòng quay khoản phải thu Bảng 3.04. Phân tích tình hình luân chuyển khoản phải thu Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Chênh lệch Số tiền % 1. Doanh thu thuần 4.383.878.859.553 15.930.087.443.080 11.546.208.583.527 263,38 2. Khoản phải thu đầu kỳ 696.988.075.158 370.112.951.714 -326.875.123.444 -46,90 3. Khoản phải thu cuối kỳ 370.112.951.714 467.706.354.957 97.593.403.243 26,37 4. Khoản phải thu bình quân 533.550.513.436 418.909.653.335 -114.640.860.100 -21,49 5. Số vòng quay khoản phải thu 8,22 38,03 30 362,82 6. Kỳ thu tiền bình quân (360/5) 43,81 9,47 -34 -78,39 Dựa vào Bảng phân tích 2.15 ta thấy tốc độ luân chuyển khoản phải thu khách hàng tăng từ 8,22 vòng năm 2006 lên 38,03 vòng năm tăng 30 vòng hay 362,82% và kỳ thu tiền giảm 34 ngày. Nguyên nhân là do doanh thu thuần bán hàng của Tổng công ty tăng với tốc độ 263,38% trong khi khoản phải thu bình quân lại giảm với tốc độ 21,49%. . Như vậy với kết quả phân tích giai đoạn 2006-2007 thì tốc độ luân chuyển khoản phải thu khách hàng của Tổng công ty tăng, kỳ thu tiền bình quân có xu hướng giảm, nó thể hiện khả năng thu hồi công nợ của Tập đoàn nhanh, vốn bị các doanh nghiệp chiếm dụng giảm. Đây là dấu hiệu tốt, tình hình tài chính của Tổng công ty khả quan. 3.4.3.3.2. Hoàn thiện phân tích khả năng thanh toán Để đánh giá được đầy đủ và chính xác khả năng thanh toán của Tổng công ty Viettel, bộ phận phân tích cần tính toán thêm các chỉ tiêu sau: Hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn Hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn = Tổng số tiền và tương đương tiền Tài sản ngắn hạn Tống số tiền và giá trị tài sản tương đương tiền là số liệu của dòng Tiền (mã số 110) cộng (+) số liệu của dòng “Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn" (mã số 120). Bảng 3.05. Bảng phân tích hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Chênh lệch 1. Tổng số tiền và tương đương tiền 1.865.847.046.553 1.918.385.583.776 2,82 2. Tài sản ngắn hạn 3.036.643.810.081 3.661.624.981.020 20,58 3. Hệ số thanh toán của TSNH 0,61 0,52 -14,73 Nhìn vào bảng 3.6, ta thấy hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn năm 2006 hơi cao (0,61 lớn hơn 0,5) chứng tỏ trong năm 2006, lượng tiền và tương đương tiền của Tổng công ty là quá nhiều, ảnh hưởng xấu đến vòng quay tài sản ngắn hạn. Tuy nhiên, đến năm 2007, Tổng công ty đã điều chỉnh lượng tiền và tương đương tiền cho phù hợp làm cho hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn đã giảm xuống còn 0,52. Hệ số vốn bị chiếm dụng Hệ số vốn bị chiếm dụng = Tổng số nợ phải thu Tổng tài sản Tổng số nợ phải thu cuối kỳ báo cáo là số liệu dòng phải thu của khách hàng (mã số 131) cộng (+) số liệu của dòng "Trả được cho người bán (mã số l32), cộng (+) số liệu của dòng “Thuế giá trị gia tăng còn được khấu trừ" (mã số l33) cộng số liệu của dòng “các khoản phải thu khác" (mã số l38). Từ bảng cân đối kế toán của Tổng công ty, ta lập bảng: Bảng 3.06. Bảng phân tích hệ số vốn bị chiếm dụng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Chênh lệch 1. Tổng số nợ phải thu 757.553.238.728 987.068.730.723 30,30 2. Tổng tài sản ngắn hạn 7.113.643.890.998 8.322.869.596.543 17,00 3. Hệ số vốn bị chiếm dụng 0,11 0,12 11,37 Nhìn vào bảng phân tích 3.7, ta thấy hệ số vốn bị chiếm dụng năm 2006 và năm 2007 đều thấp, điều đó chứng tỏ Tổng công ty không bị chiếm dụng nhiều vốn. Tình hình tài chính tương đối ổn định. 3.4.3.4. Hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh Phân tích hiệu quả kinh doanh nói chung và phân tích khả năng luân chuyển vốn nói riêng là một vấn đề quan trọng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Tổng công ty. Việc phân tích khả năng luân chuyển vốn giúp Phòng Tài chính - Kế toán đánh giá chất lượng công tác quản lý vốn có hiệu quả hay không, từ đó đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng công ty. Ngoài việc phân tích khả năng luân chuyển của các khoản phải thu, phải trả, khả năng luân chuyển của tài sản ngắn hạn, tài sản cố định thì Tổng công ty cần xem xét thêm khả năng luân chuyển của hàng tồn kho. Hàng tồn kho là một bộ phận tài sản dự trữ với mục đích đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường liên tục. Mức độ tồn kho cao hay thấp phụ thuộc vào loại hình kinh doanh, tình hình cung cấp đầu vào, mức tiêu thụ sản phẩm… Tốc độ luân chuyển hàng tồn kho được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: Số vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán Giá trị hàng tồn kho bình quân Thời gian tồn kho bình quân = Số ngày trong kỳ (360 ngày) Số vòng quay hàng tồn kho Số vòng quay hàng tồn kho thể hiện số lần mà hàng tồn kho bình quân bán được trong kỳ. Thời gian tồn kho bình quân đo lường số ngày hàng hóa nằm trong kho trước khi bán ra. Bảng 3.07. Phân tích khả năng luân chuyển của hàng tồn kho Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Chênh lệch Số tiền % 1. Giá vốn hàng bán 2.123.976.702.862 8.761.548.093.694 6.637.571.390.832 312,51 2. Trị giá HTK đầu kỳ 82.885.999.263 282.585.033.872 199.699.034.609 240,93 3. Trị giá HTK cuối kỳ 282.585.033.872 366.004.888.508 83.419.854.636 29,52 4. Trị giá HTK bình quân 182.735.516.568 324.294.961.190 141.559.444.622 77,47 5. Số vòng quay HTK 11,62 27,02 15,4 132,44 6. Thời gian tồn kho 31,00 13,00 -18 -58,06 Số vòng quay hàng tồn kho năm 2006 là 11,62 vòng, mỗi vòng quay mất 31 ngày. So với năm 2006 thì năm 2007 thì tốc độ luân chuyển hàng tồn kho tăng 15,4 vòng tương ứng với 132,44%, mỗi vòng giảm 18 ngày ngày tức 58,06%. 3.5. ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI TỔNG CÔNG TY VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI VIETTEL 3.5.1. Về phía Nhà nước 3.5.1.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán Trong quá trình thực hiện các chức năng quản lý kinh tế, Nhà nước chủ nghĩa sử dụng kế toán là công cụ để điều hành chỉ đạo các hoạt động kinh tế tài chính trong nền kinh tế quốc dân. Trước những yêu cầu đổi mới mà đại hội VI đã vạch ra, hội đồng nhà nước đã ký lệnh số 06/LCT ngày 20/05/1998 ban hành pháp lệnh về kế toán và thống kế. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên và có giá trị cao nhất quy định tính thống nhất và sự quản lý nhà nước về kế toán ở Việt Nam, xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kế toán và thống kế. Ngay phần mở đầu, pháp lệnh đã ghi rõ: “Kế toán có tác dụng rất lớn đối với việc kế hoạch hoá và quản lý nền kinh tế quốc dân, kế toán là công việc rất cần thiết để đảm bảo sự phát triển không ngừng của nền kinh tế tài chính xã hội chủ nghĩa”. Hiện nay, đổi mới cơ chế quản lý tài chính ở nước ta đã và đang đòi hỏi chính sách tài chính, nền tài chính quốc gia đã phải đổi mới đó, cần sớm tạo dựng môi trường pháp lý, lành mạnh hoá các quan hệ và hoạt động kinh tế tài chính, làm căn cứ cho việc điều hành và chế định các hoạt động trong đó có hoạt động kế toán và kiểm toán. Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính, đảm nhiệm hệ thống tổ chức thông tin, tạo cơ sở cho việc ra quyết định kinh tế đúng đắn. Như vậy, kế toán có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với hoạt động tài chính của một quốc gia mà còn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường, kế toán phải xử lý, tổng hợp và trình bày các thông tin tài chính trung thực, có độ tin cậy cao và có đủ căn cứ pháp lý cho các quyết định kinh tế. Ngoài việc quy định và hướng dẫn các nội dung có tính phương pháp cho công tác kế toán, để đạt được sự thống nhất và có hiệu quả, cần phải có những quy định về mặt pháp lý, chế tài hoạt các hoạt động kế toán và sử dụng thông tin kế toán. Pháp lệnh kế toán và thống kê ban hành năm 1998 đã tạo ra môi trường hoạt động cần thiết cho công tác kế toán. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cho thấy các quy định pháp lý chưa đủ để điều chỉnh các hoạt động kế toán kiểm toán, công tác kế toán chưa đặt trong khuôn khổ pháp lý cần thiết. Vì vậy, việc phân tích các báo cáo tài chính để đưa ra các thông tin kế toán thiếu độ tin cậy. Do đó, để nâng cao tính pháp lý, đòi hỏi công tác kế toán phải được luật hoá các quy định mang tính nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Chỉ có như vậy mới có được các thông tin tài chính lành mạnh. 3.5.1.2. Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính Việc phân tích báo cáo tài chính tại các đơn vị Việt Nam hiện nay vẫn diễn ra khá đơn giản, sơ sài và mang tính hình thức. Trong thời gian qua, Bộ Tài chính mới chỉ quan tâm đến việc phân tích một số chỉ tiêu tài chính cơ bản phục vụ chủ yếu cho công tác quản lý Nhà nước và được thể hiện ngay trong báo cáo tài chính mà cụ thể là trong Thuyết minh báo cáo tài chính. Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ Tài chính cần có những chính sách để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc phân tích báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp thông qua các qui định bắt buộc phải phân tích theo định kỳ, có kiểm tra, kiểm soát, cơ chế khuyến khích và hỗ trợ tư vấn, đào tạo và công bố chỉ tiêu tài chính của các lĩnh vực... Nội dung phân tích báo cáo tài chính cần đề cập trong công tác quản lý hàng năm của cơ quan quản lý Nhà nước mà trước hết có thể chú trọng đối với doanh nghiệp Nhà nước. 3.5.1.3. Nâng cao hiệu quả của hệ thống kiểm toán Kiểm toán báo cáo tài chính sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng của báo cáo tài chính, làm cho thông tin kế toán được cung cấp trở nên đáng tin cậy hơn, hữu ích hơn trong việc ra quyết định kinh tế. Hiện nay, báo cáo tài chính của doanh nghiệp có thể được kiểm toán bởi ba hình thức kiểm toán: kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ. 3.5.2. Về phía Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel Trước xu thế phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế và khu vực, đặc biệt Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), các doanh nghiệp viễn thông đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp bưu chính viễn thông trong khu vực và quốc tế. Trong tình hình đó, với vai trò là một trong những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông lớn nhất nước, lãnh đạo Tổng công ty Viễn thông Quân đội cần phải có những quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh hợp lý và kịp thời để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho công ty, đảm bảo cho Tổng công ty có một nền tài chính lành mạnh, giảm thiểu nguy cơ rủi ro, phá sản và tránh tình trạng lãng phí các nguồn lực của Nhà nước. Để làm được điều đó, Tổng công ty cần hiểu rõ về tầm quan trọng của công tác phân tích báo cáo tài chính trong việc ra quyết định quản lý của mình. Hiện nay việc phân tích báo cáo tài chính của Tổng công ty Viễn thông Quân đội đã được tiến hành bởi bộ phận phân tích thuộc Phòng Tài chính - Kế toán, tuy nhiên cán bộ phân tích tại Tổng công ty chưa được đào tạo kỹ về phân tích báo cáo tài chính. Tổng công ty nên tổ chức, hướng dẫn, cập nhật cho cán bộ quản lý nói chung và cán bộ phân tích tích nói riêng về việc áp dụng các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của Tổng công ty mới được ban hành. Con người là nhân tố quan trọng của mọi quá trình. Chính vì thế Tổng công ty cần phải đưa ra các chính sách ưu đãi hợp lý đối với đội ngũ phân tích tài chính, giúp họ yên tâm công tác và toàn tâm toàn ý cống hiến năng lực của mình cho sự phát triển của Tổng công ty. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. “Chuyên khảo về Báo cáo tài chính và lập, đọc, kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính”, PGS.TS Nguyễn Văn Công (2005) - NXB Tài chính. 2. “Giáo trình kế toán tài chính trong các doanh nghiệp”, PGS.TS Đặng Thị Loan (2005) - NXB Thống Kê. 3. “Phân tích hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp”, PGS.TS Nguyễn Năng Phúc (2005) - NXB Tài chính. 4. “Phân tích hoạt động kinh doanh”, Nguyễn Tấn Bình, NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, năm 2000. 5. “Phân tích kinh tế doanh nghiệp”, Nguyễn Năng Phúc, NXB. Tài chính, năm 2003. 6. “Phân tich hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp”, Nguyễn Năng Phúc, NXB. Tài chính, năm 2005. 7. “Kế toán quản trị và phân tích”, NXB Thống Kê, Phạm Văn Dược, năm 2001. 8. “Kế toán quản trị và phân tích kinh doanh - Lý thuyết và bài tập”, Nguyễn Phú Giang, Nhà xuất bản Tài chính, năm 2005. 9. “Báo cáo tài chính năm 2006”, Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel. 10. “Báo cáo tài chính năm 2007”, Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel. MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU SƠ ĐỒ DANH MỤC BẢNG BIỂU Sơ đồ 1.01. Nguồn tài trợ tài sản - 30 - Sơ đồ 2.01. Sơ đồ tổ chức bộ máy Tổng Công ty Viễn thông Quân đội 50 Sơ đồ 2.02. Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán Tổng công ty Viễn thông Quân đội 53 Sơ đồ 2.03. Sơ đồ tổ chức ghi sổ kế toán của Tổng công ty Viettel 56 Bảng 2.01. Bảng phân tích tình hình biến động của tài sản năm 2007 59 Bảng 2.02. Bảng phân tích tình hình biến động của nguồn vốn năm 2007 64 Bảng 1.03. Bảng phân tích mức độ đảm bảo nguồn vốn cho SXKD - 31 - Bảng 1.04. Bảng phân tích tình hình thanh toán - 32 - Bảng 1.05. Bảng phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán - 36 - Bảng 2.03. Bảng phân tích tỷ trọng tài sản ngắn hạn 67 Bảng 2.04. Bảng phân tích tỷ suất đầu tư 68 Bảng 2.05. Bảng phân tích tỷ suất nợ 70 Bảng 2.06. Bảng phân tích tỷ suất tự tài trợ 71 Bảng 2.07. Bảng phân tích mức độ đảm bảo nguồn vốn cho SXKD 74 Bảng 2.08. Bảng phân tích các khoản phải thu 75 Bảng 2.09. Bảng phân tích các tỷ suất liên quan đến khoản phải thu 76 Bảng 2.10. Bảng phân tích các khoản phải trả 77 Bảng 2.11. Bảng các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán 78 Bảng 2.12. Bảng phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn 80 Bảng 2.13. Bảng phân tích hiệu quả của tài sản cố định 82 Bảng 2.14. Bảng phân tích khả năng sinh lợi của vốn 84 Bảng 3.01. Chỉ tiêu vốn hoạt động thuần 95 Bảng 3.02. Hệ số tài trợ thường xuyên và hệ số tài trợ tạm thời 95 Bảng 3.03. Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên 96 Bảng 3.04. Phân tích tình hình luân chuyển khoản phải thu 97 Bảng 3.05. Bảng phân tích hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn 98 Bảng 3.06. Bảng phân tích hệ số vốn bị chiếm dụng 99 Bảng 3.07. Phân tích khả năng luân chuyển của hàng tồn kho 100 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-29.DOC
Tài liệu liên quan