Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Cùng với sự phát triển xã hội loài người theo quy luật "Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất…" mà C. Mác đã khẳng định, kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa đã bao trùm nền kinh tế của các nước…, thì hàm lượng chất xám, trí tuệ trong mỗi sản phẩm ngày càng chiếm tỷ trọng cao, đặc biệt là có những sản phẩm thuần túy là trí tuệ được lưu thông trong thị trường với giá trị không nhỏ. Cách đây hàng thế kỷ, nhiều

doc222 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3628 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước đã có luật sở hữu công nghiệp. Với các nỗ lực chung của các quốc gia có nền kinh tế thị trường, ngay từ thế kỷ XIX đã ra đời Liên minh quốc tế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp - đó là Công ước Paris năm 1883. Ngày nay, nền kinh thị trường cạnh tranh gay gắt, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa không những bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa với những sản phẩm chất lượng, mẫu mã tương ứng…, mà điều quan trọng hơn là bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng được các quốc gia, các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp… rất quan tâm, vì nó tạo ra sự khuyến khích, bảo đảm cho đầu tư trong, ngoài nước và cũng là động lực tăng trưởng kinh tế. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, trong đó có nhãn hiệu hàng hóa đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Một trong số 16 cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc là Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) có trụ sở ở Géneve, Thụy Sĩ, được thành lập năm 1967 với Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) nhằm thúc đẩy tiến trình bảo hộ sở hữu trí tuệ trên toàn thế giới, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, khuyến khích việc ký kết các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, hiện đại hóa pháp luật quốc gia các nước thành viên, quản lý các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ… Từ tầm quan trọng đặc biệt đó, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa nói riêng trở thành vấn đề thách thức đối với nhiều quốc gia, đã trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để một nước trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đối với nước ta, thách thức đó trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, khi mà việc đàm phán, thương lượng song phương hay đa phương để được trở thành thành viên chính thức của WTO đã ở giai đoạn sắp kết thúc. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở nước ta trong thời gian qua cũng đã có được bước chuyển biến khả quan kể cả trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến cơ chế thực thi, cũng như xử lý các vi phạm…, tuy nhiên trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều bất cập, đó là: - Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa nói riêng còn thiếu, chưa đạt đủ các tiêu chí của Hiệp định TRIPS/WTO; - Hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp còn chưa hạn chế, chưa đẩy lùi được tình trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa đang diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng; - Việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa vẫn còn thiên về xu hướng "hành chính hóa", "hình sự hóa", mà chưa chú ý xử lý vi phạm bằng biện pháp, chế tài dân sự… Tình trạng này đã gây nản lòng các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Xuất phát từ tình hình đó, việc nghiên cứu đề tài: "Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam" sẽ góp phần lý giải nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật, bảo đảm cơ chế và nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa. 2. Tình hình nghiên cứu Ở nước ngoài đã có nhiều công trình nghiên cứu về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa như: Quyền sở hữu công nghiệp của các giáo sư Albert Chavane và Jean Jacques Burst (Cộng hòa Pháp, 1993); Nhãn hiệu hàng hóa - sự sáng tạo, giá trị và sự bảo hộ của Francis Le FEBVRE (Cộng hòa Pháp, 1994); Nhãn hiệu hàng hóa của giáo sư Andrea Semprini Đại học Montpellier III (Cộng hòa Pháp, 1995); Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của Tiến sĩ Gordian N. Hasselblatt (Cộng hòa Liên bang Đức, Beck Mỹnchen, 2001)… Các công trình nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề luật nhãn hiệu hàng hóa của các nước đó. Ở nước ta, một số nhà khoa học, luật gia đã có những công trình khoa học liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa như: "Nâng cao vai trò và năng lực của Tòa án trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" (TS. Đinh Ngọc Hiện - Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, 1999); "Ý nghĩa của Nghị định số 12/1999/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp và vấn đề tổ chức thực hiện" (PGS.TS Đoàn Năng); "Pháp luật về sở hữu trí tuệ - Thực trạng và hướng phát triển trong những năm đầu thế kỷ XXI" (PGS.TS Lê Hồng Hạnh - đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, 2000); "Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật dân sự" (PGS.TS Đinh Văn Thanh, luật gia Đinh Thị Hằng) ...; trong các hội thảo khoa học, nhiều nhà khoa học cũng đề cấp đến vấn đề này, như: "Xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và thực hiện Nghị định 12/CP/1999 của Chính phủ" (PGS.TS Đoàn Năng), "Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam" (TS. Đinh Ngọc Hiện), "Tình hình đăng ký sở hữu công nghiệp và thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam"; "Tầm quan trọng của bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong kỷ nguyên hội nhập kinh tế nhằm tăng cường tính cạnh tranh toàn cầu" (Trần Việt Hùng). Đặc biệt, trong hội thảo tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2001, nhiều bài viết đã đề cập trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu, như: "Bảo hộ quốc tế nhãn hiệu hàng hóa" (Trần Việt Hùng); trong Tạp chí Nhà nước và Pháp luật cũng có bài nghiên cứu, như: "Về thực trạng và phương hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay" (PGS.TS Đoàn Năng)... ; trong Tạp chí Luật học cũng có một số bài như: "Thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa" (PGS.TS Lê Hồng Hạnh)... "Giáo trình Luật dân sự Việt Nam" của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng có mục về sở hữu trí tuệ... Các công trình của các tác giả Việt Nam đề cập vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa trong mối quan hệ chung với các đối tượng khác của sở hữu trí tuệ, có nêu lên thực trạng xâm phạm, có kiến nghị giải pháp khắc phục... Nhưng, nhìn chung chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa. 3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận, cơ sở pháp lý, cơ chế thực thi của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở nước ta và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa. Với mục đích trên, trong luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu nhãn hiệu hàng hóa là một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp trong mối quan hệ chung của việc bảo hộ sở hữu công nghiệp; xây dựng một số khái niệm khoa học có liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa… nhằm tạo ra hệ quan điểm, quan niệm và cách nhìn đúng đắn về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa trong thời đại hiện nay; - Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam, đánh giá hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hiện hành; chỉ ra những hạn chế cần khắc phục trong việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ; - Nghiên cứu thực trạng hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa của các cơ quan nhà nước và của Tòa án nhân dân, từ đó đề xuất các biện pháp đồng bộ nhằm bảo hộ có hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa; - Nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa, bộ máy và biện pháp thực thi bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của các nước, so sánh và tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài, nhất là mô hình Tòa án về sở hữu công nghiệp; - Đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án được hoàn thành trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về sở hữu công nghiệp nói chung. Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án, các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: Tổng kết thực tiễn, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống hóa… cũng được sử dụng triệt để nhằm làm rõ các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa nói riêng. 5. Những đóng góp mới của luận án Là công trình khoa học đầu tiên đi chuyên sâu nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống từ chế định pháp luật, cơ chế thực thi và thực trạng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam, trong nội dung của luận án đã có được một số đóng góp mới, cụ thể như: 5.1. Nêu rõ mọi khía cạnh của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và từ việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam, chỉ rõ hiệu quả và những nguyên nhân, hạn chế trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở nước ta. 5.2. So sánh, đối chiếu các quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa với quy định về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong một số điều ước quốc tế và pháp luật của một số nước khác trên thế giới, từ đó chỉ rõ "tính đầy đủ" và "tính hiệu quả" của pháp luật Việt nam và mục tiêu cụ thể cần đạt tới. 5.3. Xây dựng được một số khái niệm khoa học có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu như: - Nhãn hiệu hàng hóa - đối tượng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; - Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa; - Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa; - Hàng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa; - Hành vi sản xuất hàng giả và hàng giả... 5.4. Nêu ra các khuyến nghị và giải pháp đồng bộ nhằm góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật, tăng cường hiệu quả các hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa theo các tiêu chí "đầy đủ" và "hiệu quả" để các cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả đạt được của luận án góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận trong khoa học chuyên ngành pháp luật dân sự, thống nhất chung về khái niệm nhãn hiệu hàng hóa; bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa… và tầm quan trong của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu và các kiến nghị trong luận án phần nào đã được các cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là đã được thể hiện trong nội dung sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự năm 2005 và dự án Luật sở hữu trí tuệ được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 khóa XI (năm 2005). Nhiều kiến giải trong luận án có ý nghĩa thực tiễn góp phần hoàn thiện cơ chế thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những giải pháp được nêu trong luận án có tác dụng thiết thực đối với các doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình bảo vệ nhãn hiệu hàng hóa của mình. Những kiến nghị có liên quan đến hoạt động của Tòa án nhân dân sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án trong việc đấu tranh chống các hành vi vi phạm đối với nhãn hiệu hàng hoá nói riêng và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp nói chung. Đề xuất thành lập Tòa chuyên trách về sở hữu công nghiệp có thể được thực hiện trong quá trình triển khai chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010. Những luận cứ khoa học và thực tiễn được trình bầy trong luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy khối kiến thức về sở hữu trí tuệ; những kết luận, khuyến nghị trong luận án có thể được tham khảo trong hướng dẫn thi hành và áp dụng pháp luật ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm có 3 chương, 10 mục. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA 1.1. KHÁI NIỆM NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng vô cùng rộng rãi trong nền kinh tế thị trường, nó gắn liền với quá trình sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ… từ thời cổ xưa, khi mà nền kinh tế tự cung, tự cấp bị phá vỡ, sản xuất và trao đổi hàng hóa được hình thành và chiếm vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển của nhân loại. Từ hình thức giản đơn chỉ là tên gọi một sản phẩm, một thương nhân nào đó..., nhãn hiệu hàng hóa đã dần dần được cấu trúc bởi các yếu tố hay hàng loạt các yếu tố đặc trưng cho một sản phẩm hàng hóa, một loại hình dịch vụ cụ thể, để khi nó đến tay người tiêu dùng có được những bảo đảm cần thiết về tính năng sử dụng, chất lượng sản phẩm, độ an toàn và kể cả những cam kết bảo hành... Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của nền sản xuất hàng hóa, thương mại toàn cầu phát triển…, nhiều chủng loại hàng hóa, dịch vụ, kèm theo đó là chiến lược quảng cáo, tiếp thị của các nhà sản xuất, kinh doanh…, thì việc phân biệt các loại hàng hóa, dịch vụ đã làm cho người tiêu dùng "chóng mặt". Người tiêu dùng không những bị "chóng mặt" từ các nhà sản xuất, kinh doanh chân chính, với những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ bảo đảm chất lượng, uy tín, nhưng muôn hình, muôn vẻ của họ, mà còn bị "mất mật" vì hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng… Khi người tiêu dùng "mất mật" thì nhà sản xuất, kinh doanh chân chính cũng khó sống và kéo theo là những tổn hại lớn về kinh tế - xã hội của một nền kinh tế nói chung. Như vậy, nhãn hiệu hàng hóa không chỉ còn là thông điệp và sự bảo đảm của nhà sản xuất, kinh doanh đối với người tiêu dùng mà đã trở thành giá trị kết cấu của nền kinh tế, vì thế sự bảo hộ của Nhà nước và rộng hơn là của pháp luật quốc tế đối với hàng hóa và nhãn hiệu hàng hóa luôn là vấn đề thời sự quan trọng. Bảo hộ đối với một đối tượng nào đó là vấn đề cần phải làm rõ nó là gì, nghĩa là phải xác định được những đặc trưng hay các dấu hiệu của đối tượng. Nói khía cạnh khoa học thì đó là khái niệm về đối tượng bảo hộ và ở đây chính là khái niệm nhãn hiệu hàng hóa. Trong khoa học cũng như trong điều chỉnh pháp luật hay trong quản lý, khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa đã được các học giả, các nhà lập pháp hay các nhà quản lý, các nhà sản xuất, kinh doanh… xác định khá nhiều và cũng rất khác nhau. Tuy không thể nêu và phân tích hết được, song những khái niệm nhãn hiệu hàng hóa được giới thiệu và phân tích dưới đây sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn vấn đề nghiên cứu. 1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo quan niệm của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) là một trong số 16 cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc. WIPO có trụ sở ở Géneve, Thụy Sĩ, được thành lập năm 1967 với các mục là: Thúc đẩy bảo hộ sở hữu trí tuệ trên toàn thế giới; thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ; khuyến khích việc ký kết các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ; giúp cho việc hiện đại hóa pháp luật quốc gia các nước thành viên; quản lý các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ [69, tr. 7]. Theo định nghĩa của WIPO, nhãn hiệu hàng hóa là: Dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp công nghiệp hoặc thương mại hoặc của một nhóm các doanh nghiệp đó. Dấu hiệu này có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ, số, hình, hình ảnh, biểu tượng, màu sắc hoặc sự kết hợp các màu sắc, hình thức hoặc sự trình bày đặc biệt trên bao bì, bao gói sản phẩm. Dấu hiệu này có thể là sự kết hợp của nhiều yếu tố nói trên. Nhãn hiệu hàng hóa chỉ được chấp nhận bảo hộ nếu nó chưa được cá nhân hoặc doanh nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử dụng hoặc nhãn hiệu đó không được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu khác được đăng ký trước đó cho cùng loại sản phẩm. Định nghĩa nhãn hiệu hàng hóa trên đây của WIPO xác định các yếu tố và bản chất của nhãn hiệu hàng hóa. Định nghĩa này đã được WTO tiếp thu, kế thừa và thể hiện trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS/WTO). Cụ thể, tại khoản 1 Điều 15 của Hiệp định TRIPS có quy định: Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các màu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải nhìn thấy được [8, tr. 17]. Phân tích khái niệm trên của Hiệp định TRIPS/WTO thì nhãn hiệu hàng hóa có các yếu tố như: - Một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào đó có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác; - Các dấu hiệu đó có thể là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các màu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó…; - Các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật quốc tế thường được quy định một cách khái quát, chung chung, mang tầm vĩ mô. Việc xác định một đối tượng nào đó bất kỳ có phải là nhãn hiệu hàng hóa hay không thì người ta sẽ căn cứ vào mục đích sử dụng của nó và bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa này với hàng hóa khác thì đều có thể xem là yếu tố cấu tạo nên một nhãn hiệu hàng hóa [56, tr. 22]. Hiệp định TRIPS/WTO xuất phát từ cách tiếp cận mục đích sử dụng của dấu hiệu đó để phân biệt "hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp khác". Đây là phương pháp tiếp cận chung nhất của các nước thành viên Hiệp định TRIPS về nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, Hiệp định này vẫn dành cho các nước thành viên được quyền có cách tiếp cận riêng liên quan đến các yếu tố có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp. 1.1.2. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật của Cộng đồng Châu Âu Theo bản Quy định số 40/94 của Hội đồng Châu Âu ngày 20-12-1993 về nhãn hiệu cộng đồng, thì nhãn hiệu hàng hóa được định nghĩa tại Điều 4 như sau: Được công nhận là nhãn hiệu cộng đồng bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng hiện hữu dưới dạng đồ họa, các chữ cái, tên riêng, các phác họa hình ảnh, từ ngữ, các chữ số, hình dáng của hàng hóa hoặc của bao gói của hàng hóa mà các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ của một chủ thể kinh doanh khác [68]. Quy định trên có hiệu lực chung cho cả Cộng đồng Châu Âu, bao gồm 25 nước có chủ quyền. Nhãn hiệu Cộng đồng có thể là bất kỳ dấu hiệu nào nhưng dấu hiệu đó phải có khả năng thể hiện dưới dạng đồ họa, các chữ cái, tên riêng, các phác họa hình ảnh, từ ngữ, các chữ số… và các dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác nhau. Về cơ bản các điều kiện bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của Cộng đồng Châu Âu phù hợp với quy định của WIPO và Hiệp định TRIPS/WTO. Chức năng phân biệt của nhãn hiệu hàng hóa không giới hạn ở sự phân biệt hàng hóa (dịch vụ) cùng loại của các chủ thể kinh doanh khác nhau. 1.1.3. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật nhãn hiệu hàng hóa của một số nước Để bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho các nhà sản xuất, kinh doanh, mỗi nước đều ban hành luật nhãn hiệu. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong luật của các nước đều dựa trên cơ sở khái niệm nhãn hiệu hàng hóa của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (năm 1883), của WIPO và của Hiệp định TRIPS/WTO. a) Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong luật nhãn hiệu của Cộng hòa Liên bang Đức Luật nhãn hiệu của Cộng hòa Liên bang Đức có hiệu lực từ ngày 01-01-1995 thay thế luật nhãn hiệu năm 1894 [78, tr. 990]. Khoản 1 Điều 3 của Luật quy định nhãn hiệu hàng hóa: Các từ ngữ (bao gồm cả tên riêng), hình ảnh, chữ cái, chữ số, dấu hiệu âm thanh, hình ảnh không gian ba chiều (bao gồm cả hình dáng của hàng hóa và bao bì của hàng hóa) cũng như các màu sắc và sự kết hợp của các màu sắc đó. Các dấu hiệu có liên quan phải có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp khác. Khái niệm nhãn hiệu nêu trên tuy được quy định khái quát chung nhưng cũng đã thể hiện được các điều kiện cơ bản của nhãn hiệu. Các dấu hiệu được quy định trong luật không chỉ bao gồm các dấu hiệu truyền thống được quy định trong các điều ước quốc tế mà còn bao gồm cả các dấu hiệu hiện đại như dấu hiệu âm thanh, hình ảnh không gian ba chiều...; phạm vi bảo hộ được mở rộng cho phù hợp với sự phát triển của khoa học, công nghệ và của nền kinh tế. b) Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong luật nhãn hiệu của Hoa Kỳ Ở Hoa Kỳ, luật nhãn hiệu hàng hóa được ban hành năm 1946 (Luật Lanham). Theo Luật này thì: "Nhãn hiệu hàng hóa là từ hoặc một số từ, chữ số hoặc ký tự, hình ảnh hoặc ký hiệu hoặc thiết kế đồ họa hoặc âm thanh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó mà một doanh nghiệp sử dụng để nhận biết hàng hóa hoặc dịch vụ của mình và phân biệt chúng với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác" [50, tr. 3]. Theo quy định nêu trên, về cơ bản nhãn hiệu hàng hóa ở Hoa Kỳ là các dấu hiệu vừa truyền thống vừa hiện đại tương tự như quy định về nhãn hiệu trong Luật nhãn hiệu của Cộng hòa Liên bang Đức. Doanh nghiệp sử dụng nhãn hiệu nhằm mục đích nhận biết hàng hóa hoặc dịch vụ của mình và phân biệt chúng với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác. c) Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật của Australia Theo pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của Australia, "âm thanh, mùi vị có thể được đăng ký. Thêm vào đó, nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký ngay cả khi chúng không có sẵn tính phân biệt với điều kiện là nhãn hiệu hàng hóa đó đã đạt được tính phân biệt thông qua sử dụng" [42, tr. 16]. Nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ theo quy định nêu trên có những nết đặc thù so với các quy định về nhãn hiệu trong luật của Cộng hòa Liên bang Đức và Hoa Kỳ đó là: ngoài dấu hiệu âm thanh thì mùi vị cũng có thể được đăng ký bảo hộ là nhãn hiệu hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký bảo hộ thông qua việc sử dụng của các nhà sản xuất, kinh doanh; nếu nhãn hiệu đó đã đạt được tính phân biệt thông qua sử dụng mặc dù trước khi sử dụng nhãn hiệu không có sẵn tính phân biệt. Tóm lại, qua khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật nhãn hiệu hàng hóa của các tổ chức quốc tế và của các nước như Đức, Hoa Kỳ, Australia nêu trên, thì thấy rằng: Luật pháp quốc tế và luật pháp của các nước này đều xác định rõ nhãn hiệu phải có những dấu hiệu thể hiện khả năng nhận biết và phân biệt. Dấu hiệu nhận biết và phân biệt được coi là yếu tố định lượng rất quan trọng khi phân biệt nhãn hiệu hàng hóa này với nhãn hiệu hàng hóa khác. Nhãn hiệu hàng hóa có các chức năng phân biệt và nhận biết hàng hóa, dịch vụ (không bắt buộc phải là hàng hóa, dịch vụ cùng loại) của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác (doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác). Đây là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho nhãn hiệu hàng hóa thực hiện chức năng của mình, tạo dựng bản sắc riêng cho từng chủ thể kinh doanh và tránh sự nhầm lẫn khi hàng hóa được đưa vào lưu thông trên thị trường. Các yếu tố cấu thành nhãn hiệu hàng hóa được quy định rõ, cụ thể dễ vận dụng cho doanh nghiệp tìm các dấu hiệu để đăng ký nhãn hiệu hàng hóa và cho cả cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ. Ngoài các yếu tố truyền thống được quy định như từ ngữ, chữ cái, tên riêng, chữ số, hình ảnh, các yếu tố "hiện đại" phát sinh trong điều kiện mới đã được pháp luật của các nước quy định trong phạm vi bảo hộ như dấu hiệu âm thanh, hình ảnh không gian ba chiều (ở Đức, Hoa Kỳ, Australia), mùi vị (ở Australia), đáp ứng yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế, phát triển khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, việc xác định và bảo hộ các dấu hiệu âm thanh, mùi vị là nhãn hiệu hàng hóa cũng sẽ đặt ra cho các cơ quan có thẩm quyền những khó khăn nhất định trong quá trình tiến hành xét nghiệm điều kiện bảo hộ về khả năng phân biệt và nhận biết. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo các luật nhãn hiệu hàng hóa của Đức, Hoa Kỳ, Australia nêu trên đã nhận được sự ủng hộ của WIPO. Đây là sự chuyển hướng về quan điểm nhận thức cho phù hợp với thực tiễn. Trong bài trình bày về khái niệm và các khía cạnh chung của quyền sở hữu trí tuệ tại Hội thảo về tăng cường thực thi quyền sở hữu trí tuệ do WIPO, Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam (NOIP) và Cơ quan sáng chế Nhật Bản (JPO) phối hợp tổ chức tại Hà Nội vào các ngày 5 và 6 tháng 7 năm 2004, bà Louise Van Greunen Vuagat, Phó trưởng phòng thực thi và các dự án đặc biệt của WIPO đã thể hiện quan điểm: Nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ dấu hiệu nào hoặc sự kết hợp của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác. Các dấu hiệu có thể được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa, đặc biệt là các từ ngữ bao gồm cả tên riêng, các chữ cái, các chữ số, các yếu tố hình họa, tổ hợp các màu sắc hoặc tổ hợp của bất kỳ các dấu hiệu đó. Tuy nhiên, các dấu hiệu có khả năng phân biệt theo quy định của các nước đáp ứng điều kiện quy định thì có thể được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu này có thể là dấu hiệu âm thanh, mùi vị [70, tr. 5]. Việc phân tích và so sánh khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của WIPO, Hiệp định TRIPS, Cộng đồng Châu Âu và trong các luật nhãn hiệu hàng hóa của Đức, Hoa Kỳ và Australia là rất cần thiết đối với sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, giúp cho các nhà khoa học, các nhà quản lý có cách tiếp cận mới trong việc phân tích và xây dựng chính sách, pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói riêng và sở hữu trí tuệ nói chung. 1.1.4. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam - Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo quan niệm của các nhà nghiên cứu Trong quá trình hoàn thiện luận án, tác giả đã nghiên cứu nhiều bài báo, công trình khoa học của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Đặc điểm chung nhất là các nhà khoa học, nhà nghiên cứu chủ yếu phân tích khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và coi đó là khái niệm ổn định mà không có khái niệm khoa học về nhãn hiệu hàng hóa. - Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất; đó là Bộ luật dân sự năm 1995 "Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc" [8, tr. 198]. Nhãn hiệu hàng hóa được hiểu bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ. Theo quy định nêu trên, thì đặc điểm trước tiên của một nhãn hiệu hàng hóa là nhãn hiệu hàng hóa đó phải có những dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đã được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. So sánh với quy định tại Điều 15 của Hiệp định TRIPS (về khái niệm nhãn hiệu hàng hóa), thì quy định tại Điều 785 Bộ luật dân sự có những hạn chế hơn về phạm vi bảo hộ, cụ thể như: Điều luật này quy định các dấu hiệu có thể được bảo hộ làm nhãn hiệu hàng hóa chỉ bao gồm các dấu hiệu từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Đây là các dấu hiệu "truyền thống". Các yếu tố khác được quy định tại Điều 15 của Hiệp định TRIPS như tên riêng, các chữ cái, chữ số, tổ hợp các màu sắc, tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ... không được quy định tại Điều 785 Bộ luật dân sự. Điều 15 của Hiệp định TRIPS quy định phạm vi bảo hộ rất rộng, "bất kỳ dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào" sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có nhiều cơ hội, khả năng lựa chọn các yếu tố để được bảo hộ làm nhãn hiệu hàng hóa. Quy định của Bộ luật dân sự về phạm vi bảo hộ hạn chế việc doanh nghiệp lựa chọn các yếu tố đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. So sánh với quy định tại khoản 1 Điều 6 Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ thì nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên người, hình, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận. Những quy định trên trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có tính chất khái quát hơn và phù hợp với chuẩn mực quốc tế theo quy định của WTO về nhãn hiệu hàng hóa. Đó là một khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa tương đối rộng, đầy đủ hơn so với quy định trong Bộ luật dân sự Việt Nam. Điều đó thể hiện tính khái quát cao tại Điều 6 của Hiệp định đối với nền kinh tế và trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa phát triển [56, tr. 25]. Tuy có bước phát triển so với quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam, nhưng Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Bộ luật dân sự Việt Nam vẫn chưa ghi nhận và quy định bảo hộ các yếu tố như âm thanh, mùi vị (nhãn hiệu phi hình thể) như qu._.y định trong luật nhãn hiệu của Đức, Hoa Kỳ và Australia. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay, pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của Việt Nam cần có những quy định sửa đổi, bổ sung các dấu hiệu về nhãn hiệu hàng hóa cần được bảo hộ cho phù hợp với quy định của các điều ước quốc tế, thông lệ quốc tế, sự phát triển kinh tế - xã hội và sự đòi hỏi bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ sở sản xuất, kinh doanh mà không chỉ giới hạn ở các dấu hiệu truyền thống như hiện nay. Đây là một đòi hỏi hết sức khách quan, vì trong nền kinh tế thị trường phát triển, cạnh tranh gay gắt, quốc tế hóa đời sống kinh tế... người sản xuất, kinh doanh muốn tồn tại và phát triển phải thường xuyên đa dạng hóa sản phẩm, phát triển sản phẩm mới. Để giữ uy tín và bảo vệ lợi ích của mình, họ phải sử dụng các dấu hiệu riêng biệt để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ của các cơ sở khác nhằm tránh bị nhầm lẫn. Theo quy định tại Điều 785 Bộ luật dân sự, thì nhãn hiệu hàng hóa bị giới hạn "dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau". Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh, thương mại đã xảy ra trường hợp các cơ sở sản xuất, kinh doanh có nhiều loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau nhưng lại có nhãn hiệu hàng hóa giống nhau trong đó có nhãn hiệu nổi tiếng. Trong điều kiện mới, quy định của Bộ luật dân sự không còn phù hợp nữa mà phải thay đổi theo hướng xác định chức năng phân biệt của nhãn hiệu hàng hóa không chỉ đối với "hàng hóa, dịch vụ cùng loại" mà còn mở rộng đối với cả "hàng hóa, dịch vụ không cùng loại" của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Tóm lại: Nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, tổ chức kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu không được trùng, tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, tổ chức kinh doanh khác. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để đánh giá khả năng được bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của các dấu hiệu đăng ký. Dấu hiệu được dùng làm nhãn hiệu hàng hóa phải có đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa được quy định tại Điều 785 Bộ luật dân sự là khái niệm pháp lý. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý chuyên ngành chưa có khái niệm khoa học về nhãn hiệu hàng hóa. Do đó, trong luận án cần thể hiện rõ khái niệm khoa học về nhãn hiệu hàng hóa như sau: Nhãn hiệu hàng hóa là thuật ngữ pháp lý - kinh tế được sử dụng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và trở thành đối tượng bảo hộ của pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế khi nó bảo đảm các yếu tố về dấu hiệu nhìn thấy được, có thể là chữ cái, chữ số, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc… dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận. 1.1.4.1. Chức năng của nhãn hiệu hàng hóa Vai trò quan trọng nhất của mỗi nhãn hiệu hàng hóa chính là chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, chức năng phân biệt không phải là chức năng duy nhất của nhãn hiệu hàng hóa, mà nhãn hiệu hàng hóa còn có các chức năng khác nhau như: "Chức năng bảo đảm chất lượng, chức năng chỉ dẫn nguồn gốc, chức năng quảng cáo, chức năng kiểm tra và tổ chức thị trường" [76, tr. 19-20]. a) Về chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của nhãn hiệu hàng hóa Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa, dịch vụ rất đa dạng và phong phú. Người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ để mua chủ yếu dựa vào các dấu hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh gắn trên sản phẩm hay bao bì sản phẩm khi đưa ra thị trường. Như vậy, nhãn hiệu hàng hóa có chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhờ có nhãn hiệu hàng hóa mà người tiêu dùng có thể xác định được hàng hóa, dịch vụ mà mình yêu thích. b) Về chức năng thông tin nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ Người tiêu dùng quyết định chọn mua một sản phẩm nào đó mà không hề do dự vì trước đây họ đã mua hàng hóa đó rồi, đã biết hàng hóa của nhà sản xuất nào và hoàn toàn tin tưởng vào hàng hóa của nhà sản xuất đó. Như vậy, chỉ cần nhìn vào nhãn hiệu hàng hóa, người tiêu dùng có thể có quyền nghĩ rằng các sản phẩm mang nhãn hiệu hàng hóa đều có cùng nguồn gốc hoặc có mối liên hệ giữa các nhà sản xuất khác nhau sử dụng nhãn hiệu hàng hóa giống nhau. Đối với các hàng hóa nhập khẩu hoặc sản xuất theo hợp đồng li-xăng, thì nhãn hiệu hàng hóa còn đóng vai trò chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hóa đó. c) Về chức năng thông tin về sản phẩm Người tiêu dùng chọn mua hàng hóa vì họ hài lòng về chất lượng, giá cả của hàng hóa đó. Họ chọn mua hàng hóa đó vì họ biết được chất lượng của hàng hóa, sản phẩm được chế tạo từ loại vật liệu gì, hàng hóa đó phù hợp với nguồn tài chính của họ và nhiều thông tin khác về sản phẩm đó. Như vậy, nhãn hiệu hàng hóa có chức năng thông tin gián tiếp về sản phẩm. d) Về chức năng quảng cáo Thông qua vai trò cá thể hóa sản phẩm, màu sắc, sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu hàng hóa còn thực hiện chức năng quảng cáo sản phẩm cho nhà sản xuất để sản phẩm có thể sớm đến được với người tiêu dùng. e) Về chức năng kiểm tra và tổ chức thị trường Sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa thu hút nhà sản xuất đi đến lựa chọn nhãn hiệu hàng hóa làm phương tiện để kiểm tra thị trường. Nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng chiếm lĩnh thị trường, thị phần càng lớn, thì nhà sản xuất có nhiều cơ hội để kiểm tra và tổ chức thị trường có lợi cho mình. 1.1.4.2. Các loại nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam Một đặc thù của pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam là Bộ luật dân sự chỉ quy định khái niệm chung về nhãn hiệu hàng hóa tại Điều 785. Các khái niệm về các loại nhãn hiệu được quy định trong Nghị định của Chính phủ. Nghị định số 63/CP của Chính phủ đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01-02-2001 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Nghị định số 06/CP của Chính phủ) quy định cụ thể các loại nhãn hiệu hàng hóa như sau: a) Nhãn hiệu tập thể Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu hàng hóa được tập thể các cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử dụng một cách độc lập theo quy chế do tập thể đó quy định (khoản 8 Điều 2 của Nghị định số 63/CP của Chính phủ). Nhãn hiệu tập thể được đăng ký bảo hộ sớm ở nước ta và quốc tế là nhãn hiệu "SEAPRODEX". Tuy nhiên, đây còn là khái niệm mới, chưa được quy định cụ thể và số lượng đơn đăng ký còn ít. b) Nhãn hiệu liên kết Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu hàng hóa tương tự với nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại, tương tự với nhau hoặc có liên quan với nhau và các nhãn hiệu hàng hóa trùng nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch vụ tương tự với nhau hoặc có liên quan tới nhau (khoản 8a Điều 2 Nghị định số 63/CP của Chính phủ). Đây cũng là khái niệm mới, chưa được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự. c) Nhãn hiệu nổi tiếng Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng liên tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng rãi (khoản 8b Điều 2 Nghị định số 63/CP của Chính phủ). Để xác định nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng, thông thường cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào các tiêu chí do pháp luật quy định (như: phạm vi lãnh thổ mà hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu lưu hành; doanh số, uy tín của hàng hóa, dịch vụ; số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu đó...). Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng cũng là khái niệm mới, chưa được quy định trong Bộ luật dân sự. d) Nhãn hiệu dịch vụ "Nhãn hiệu dịch vụ được hiểu là những dấu hiệu dùng để phân biệt dịch vụ này với dịch vụ khác hoặc giữa các dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau" [56, tr. 43]. Hiện nay, trong Bộ luật dân sự chưa có định nghĩa này. Chúng tôi cho rằng nhãn hiệu dịch vụ cần được quy định rõ hơn trong Luật sở hữu trí tuệ. 1.1.5. Phân biệt nhãn hiệu hàng hóa với tên thương mại, nhãn hàng hóa, thương hiệu Nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, nhãn hàng hóa, thương hiệu là những khái niệm khác nhau; thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Việc phân biệt các khái niệm này là rất cần thiết nhằm tránh sự nhầm lẫn gây ảnh hưởng đến việc bảo hộ từng đối tượng và sự lựa chọn của người tiêu dùng. 1.1.5.1. Phân biệt nhãn hiệu hàng hóa với tên thương mại, nhãn hàng hóa Tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hàng hóa đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật; cụ thể như: - Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 3-10-2000 của Chính phủ về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp (sau đây gọi tắt là Nghị định số 54/CP của Chính phủ). - Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg ngày 30-9-1999 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (sau đây gọi tắt là Quyết định số 178/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Tuy nhiên, trong thực tế rất nhiều người lầm tưởng tên thương mại, nhãn hàng hóa và nhãn hiệu hàng hóa là một, nhưng thực ra chúng rất khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa và tên thương mại là hai đối tượng khác nhau thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Còn nhãn hàng hóa không phải là đối tượng do pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp điều chỉnh. 1- Tên thương mại Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Nghị định số 54/CP của Chính phủ thì: Tên thương mại được bảo hộ là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh, đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: a) Là tập hợp các chữ cái, có thể theo chữ số, phát âm được; b) Có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với các chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực kinh doanh. Về thực chất tên thương mại chính là tên của các doanh nghiệp được thành lập theo Luật doanh nghiệp nói riêng và tên của các chủ thể kinh doanh nói chung (các loại hình doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể). Chức năng chủ yếu của tên thương mại là chỉ tên tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh doanh phân biệt một doanh nghiệp này với một doanh nghiệp khác. Khi thành lập doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải đặt tên cho doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp là một trong các nội dung chủ yếu của đơn đăng ký kinh doanh. Chủ doanh nghiệp phải lập và nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực thuộc trung ương (cụ thể là Sở kế hoạch và Đầu tư). Sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thì có quyền hoạt động kinh doanh và được sử dụng tên của doanh nghiệp ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để phân biệt doanh nghiệp của mình với các doanh nghiệp khác. Một doanh nghiệp chỉ có một tên thương mại (có thể có tên đối nội và tên đối ngoại). Tên thương mại được bảo hộ trong phạm vi của một địa bàn và không bị hạn chế về thời hạn bảo hộ. Chừng nào chủ sở hữu vẫn còn duy trì hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó, thì quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại vẫn được bảo hộ. Không phải mọi tên gọi đều có thể được bảo hộ dưới danh nghĩa là tên thương mại. Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 của Nghị định số 54/CP của Chính phủ các tên gọi sau đây không được bảo hộ dưới danh nghĩa là tên thương mại: a) Tên gọi của cơ quan hành chính, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoặc các chủ thể không liên quan tới hoạt động kinh doanh; b) Tên gọi nhằm mục đích thực hiện chức năng của tên thương mại nhưng không có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh của các cơ sở kinh doanh trong cùng một lĩnh vực. c) Tên thương mại gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã được sử dụng từ trước trên cùng một địa bàn và trong cùng một lĩnh vực kinh doanh, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa của người khác đã được bảo hộ từ trước khi bắt đầu sử dụng tên thương mại đó. Ngoài các quy định trên đây của Nghị định số 54/CP của Chính phủ về các trường hợp không bảo hộ tên thương mại, còn có quy định trong Luật thương mại và Luật doanh nghiệp về các trường hợp không bảo hộ. Đó là: - Điều 24 Luật Thương mại quy định về tên thương mại, biển hiệu, tại khoản 2 quy định rõ "tên thương mại và biển hiệu không được vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục Việt Nam" [40]. - Điều 24 khoản 1 Luật doanh nghiệp [19, tr. 25-26] quy định tên của doanh nghiệp phải bảo đảm: + Không trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký kinh doanh; + Không vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc; + Phải viết bằng tiếng Việt và có thể viết thêm bằng một số tiếng nước ngoài với khổ chữ nhỏ hơn; + Phải viết rõ loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn, cụm từ trách nhiệm hữu hạn viết tắt là TNHH; công ty cổ phần, từ cổ phần viết tắt là CP; công ty hợp danh, từ hợp danh viết tắt là HD; doanh nghiệp tư nhân, từ tư nhân viết tắt là TN. Nhãn hiệu hàng hóa là các dấu hiệu có tính phân biệt cao, được sử dụng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác nhau. Vì vậy, nhãn hiệu hàng hóa có thể được cấu thành từ các yếu tố nhìn thấy được như từ ngữ, hình ảnh, con số, màu sắc. Một doanh nghiệp có thể sản xuất nhiều loại hàng hóa hoặc kinh doanh nhiều loại dịch vụ khác nhau; do đó doanh nghiệp đó có thể có một hoặc nhiều nhãn hiệu hàng hóa. Một doanh nghiệp có thể có nhiều nhãn hiệu hàng hóa nhưng chỉ có một tên thương mại. Chủ sở hữu quyền sở hữu đối với tên thương mại có quyền sử dụng tên thương mại vào mục đích kinh doanh bằng cách dùng tên thương mại để xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại đó trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hóa, bao bì hàng hóa và quảng cáo theo quy định tại Điều 16 khoản 1 Nghị định số 54/CP của Chính phủ. 2- Nhãn hàng hóa Nhãn hàng hóa được quy định trong Quyết định số 178/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ [52, tr. 212]; cụ thể như sau: Nhãn hàng hóa là "bản viết, bản in, hình vẽ, hình ảnh, dấu hiệu được in chìm, in nổi trực tiếp hoặc được dán, đính, cài chắc chắn trên hàng hóa hoặc bao bì để thể hiện các thông tin cần thiết, chủ yếu về hàng hóa đó" (khoản 1 Điều 3). Các tổ chức, cá nhân, thương nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa được sản xuất tại Việt Nam để lưu thông trong nước, để xuất khẩu; tổ chức, cá nhân, thương nhân nhập khẩu hàng hóa để bán tại Việt Nam quy định tại Điều 2 của Quy chế phải ghi nhãn đối với hàng hóa đó. Ghi nhãn hàng hóa là việc ghi các thông tin cần thiết, chủ yếu về hàng hóa lên nhãn hàng hóa nhằm cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin cơ bản để nhận biết hàng hóa, làm căn cứ để người mua quyết định việc lựa chọn, tiêu thụ và sử dụng hàng hóa, các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm tra giám sát. Nội dung bắt buộc của nhãn hàng hóa là phần bao gồm những thông tin quan trọng nhất về hàng hóa phải ghi trên nhãn hàng hóa; như: tên hàng hóa, tên và địa chỉ của thương nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa, thành phần cấu tạo, chỉ tiêu chất lượng chủ yếu, ngày sản xuất, thời gian sử dụng, thời hạn bảo quản, hướng dẫn bảo quản, hướng dẫn sử dụng, xuất xứ của hàng hóa. Nhãn hàng hóa không phải là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp nên không được bảo hộ. Mục đích của việc sử dụng nhãn hàng hóa chủ yếu xuất phát từ lợi ích của xã hội. Trong khi đó mục đích của việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa xuất phát từ chính lợi ích của các nhà sản xuất - chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa. Những người này sử dụng nhãn hiệu hàng hóa để phân biệt sản phẩm, dịch vụ của mình với sản phẩm, dịch vụ của cơ sở sản xuất khác và thông qua nhãn hiệu hàng hóa để gây dựng uy tín thương mại cho mình. 1.1.5.2. Phân biệt nhãn hiệu hàng hóa với thương hiệu Trong thời gian qua ở nước ta thuật ngữ "thương hiệu" xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, tại một số cuộc hội thảo, trong một số tạp chí. Đặc biệt là ngày 25-11-2003 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 253/2003/QĐ-TTg phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển Thương hiệu Quốc gia đến năm 2010 [12]. Trên thực tế hiện nay, đang tồn tại hai loại ý kiến khác nhau về các thuật ngữ "nhãn hiệu hàng hóa" và "thương hiệu". Loại ý kiến thứ nhất đồng nhất "nhãn hiệu hàng hóa" với "thương hiệu" (có từ gốc tiếng Anh là "Trademark"); từ đó cho rằng các thuật ngữ này có nội dung như nhau, bản chất như nhau và được sử dụng trong những hoàn cảnh như nhau. Loại ý kiến thứ hai cho rằng "nhãn hiệu hàng hóa" và "thương hiệu" là hai thuật ngữ hoàn toàn khác biệt nhau. Chúng khác nhau về nội dung, bản chất và mục đích sử dụng. Các ý kiến khác nhau trên đây dựa trên các lý lẽ, lập luận khác nhau. Tuy nhiên, để phân biệt được nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu cần phải căn cứ vào các cơ sở pháp lý, các cơ sở khoa học và thực tiễn. Khi nói đến thuật ngữ "nhãn hiệu hàng hóa" là nói đến một trong các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Đối tượng này được quy định trong Bộ luật dân sự, Nghị định số 63/CP của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Trong khi đó, cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định thương hiệu là đối tượng quyền sở hữu công nghiệp, cũng như khái niệm pháp lý về thương hiệu. Ngay trong Quyết định số 253/2003/QĐ-TTg ngày 25-11-2003 của Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ xác định rõ mục đích và nội dung cụ thể là: 1. Mục đích: Xây dựng và phát triển Thương hiệu Quốc gia là một chương trình xúc tiến thương mại quốc gia dài hạn, nhằm xây dựng, quảng bá nhãn hiệu sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ), tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hóa, được mang biểu trưng của Thương hiệu Quốc gia trên thị trường trong và ngoài nước. 2. Nội dung: a) Biểu trưng của Thương hiệu Quốc gia có tựa đề tiếng Anh là "VIETNAM VALUE INSIDE" (giá trị Việt Nam) được gắn vào sản phẩm đã có nhãn hiệu riêng đạt được các tiêu chí do Chương trình quy định. b) Bộ Thương mại cấp quyền sử dụng biểu trưng Thương hiệu Quốc gia đối với những sản phẩm của doanh nghiệp đạt được các tiêu chí do Chương trình quy định. Các điều ước quốc tế như: Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883, Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Sĩ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định TRIPS, Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hóa vẫn sử dụng khái niệm nhãn hiệu hàng hóa mà không sử dụng khái niệm thương hiệu để thay thế. Điều đó chứng tỏ khái niệm nhãn hiệu hàng hóa là khái niệm ổn định phù hợp với đời sống quốc tế và quốc gia, nên vẫn được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia thừa nhận. Còn đối với "thương hiệu" từ góc độ lý luận và thực tiễn, được giới chuyên môn xác định là: "dấu hiệu để người tiêu dùng nhận biết về sản phẩm, chất lượng, giá cả và hình ảnh của doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác", hay nói cách khác "thương hiệu là tổng hợp các yếu tố cấu thành khác nhau đề tạo ra hình ảnh riêng, bản sắc riêng hoặc dấu ấn riêng mà người tiêu dùng liên tưởng trong trí nhớ đối với một doanh nghiệp hoặc một sản phẩm nhất định của doanh nghiệp đó [43, tr. 1]. Từ khái niệm trên đây, thương hiệu được tạo thành từ các yếu tố: - Yếu tố thứ nhất: Sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp biểu hiện tập trung nhất ở chất lượng, kỹ thuật công nghệ, giá cả, nhãn hiệu hàng hóa..., nó có vai trò quan trọng hàng đầu để tạo dựng uy tín của thương hiệu trên thị trường. - Yếu tố thứ hai: Điểm khác biệt của thương hiệu: Khi nhắc tới điểm khác biệt này, người tiêu dùng dễ dàng nhớ ngay đến doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, lợi ích mà doanh nghiệp mang lại cho họ… Người tiêu dùng có thể xác định được vị trí của thương hiệu của doanh nghiệp và so sánh thương hiệu này với thương hiệu khác để trả lời câu hỏi tại sao sản phẩm của doanh nghiệp này lại tốt hơn sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. - Yếu tố thứ ba: Biểu tượng của doanh nghiệp (hay còn gọi là Logo). Theo định nghĩa về nhãn hiệu hàng hóa, thì nhãn hiệu hàng hóa cũng có thể là hình ảnh. Ví dụ nhãn hiệu hàng hóa của thuốc lá VINATABA, bia TIGER, xe máy HONDA… Trong phạm vi nhất định, biểu tượng của doanh nghiệp được bảo hộ chính là nhãn hiệu hàng hóa. Vì vậy, khi nhắc tới biểu tượng "Con voi" người tiêu dùng sẽ nghĩ ngay đến bia HALIDA; nhắc tới biểu tượng "Bông sen vàng" hoặc "Con cò đang bay" người tiêu dùng sẽ nghĩ ngay đến Việt Nam Airline... - Yếu tố thứ tư: Công nghệ quảng cáo, truyền bá thương hiệu của doanh nghiệp trong công chúng. Đây cũng là một yếu tố quan trọng giúp người tiêu dùng tạo sự liên tưởng tới doanh nghiệp khi người tiêu dùng được nghe quảng cáo, truyền bá thương hiệu của doanh nghiệp đó. Ví dụ, khi được nghe quảng cáo: "Chu đáo, tin cậy" nhiều người tiêu dùng sẽ nghĩ ngay tới cửa hàng kinh doanh các loại đồng hồ cao cấp trụ sở tại 77 Hàng Đào, Hà Nội hoặc "Khơi nguồn sáng tạo" nhiều người tiêu dùng sẽ nghĩ ngay tới Cà phê Trung Nguyên nổi tiếng… Ngoài các yếu tố chủ yếu nêu trên, còn các yếu tố khác không thể thiếu như: tên thương mại (yếu tố có khả năng phân biệt), màu sắc sử dụng tạo ra ấn tượng đặc trưng, sâu sắc đối với người tiêu dùng về thương hiệu (Ví dụ: màu đỏ của vỏ đựng nước giải khát Cocacola, màu xanh của vỏ đựng bia Heniken…); các yếu tố về truyền thống, phong cách, bản sắc văn hóa được thể hiện trong thương hiệu. Với các nội dung phân tích nêu trên thì "thương hiệu" và "nhãn hiệu hàng hóa" là hai phạm trù khác biệt nhau. Nhãn hiệu hàng hóa thuộc về phạm trù pháp lý, sở hữu công nghiệp, được bảo hộ theo pháp luật về sở hữu công nghiệp. Thương hiệu thuộc về phạm trù nhận thức của người tiêu dùng đối với sản phẩm, dịch vụ hoặc đối với doanh nghiệp, được xem xét dưới góc độ các hoạt động thương mại của các doanh nghiệp thể hiện tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau trên thị trường trong nước hoặc trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, giữa nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu cũng có mối quan hệ với nhau, chứ không phải hoàn toàn độc lập với nhau. Mối quan hệ này được thể hiện ở chỗ khi thương hiệu được gắn với sản phẩm và đáp ứng các điều kiện bảo hộ, được đăng ký bảo hộ thì thương hiệu trở thành nhãn hiệu hàng hóa. Trong trường hợp này thương hiệu được pháp luật bảo hộ dưới dạng cụ thể của đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là nhãn hiệu hàng hóa. Ví dụ: Thương hiệu Thuốc lá VINATABA, Cà phê TRUNG NGUYÊN…, trong đó dấu hiệu VINATABA, TRUNG NGUYÊN được bảo hộ là nhãn hiệu hàng hóa. Việc phân biệt rõ sự khác nhau giữa "thương hiệu" và nhãn hiệu hàng hóa có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thiết lập cơ chế bảo hộ và thực thi bảo hộ. Việc hiểu không đúng khái niệm "thương hiệu" và nhãn hiệu hàng hóa đã dẫn đến hậu quả là: - Xuất hiện khuynh hướng đồng nhất các khái niệm này với nhau, đòi thay thế khái niệm nhãn hiệu hàng hóa bằng khái niệm "thương hiệu". - Gây nhầm lẫn "thương hiệu" với "tên gọi xuất xứ hàng hóa", ví dụ: khi sử dụng thương hiệu nước mắm Phú Quốc và coi đây là nhãn hiệu hàng hóa thì dẫn đến nguy cơ hiểu lầm là "thương hiệu Phú Quốc" cũng có thể được chuyển nhượng hoặc chuyển giao như các nhãn hiệu hàng hóa khác mà quên rằng pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp Việt Nam quy định địa danh "Phú Quốc" là chỉ dẫn địa lý là tài sản quốc gia không được chuyển giao cho người khác bằng bất cứ hình thức nào. - Doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khi thực hiện đăng ký bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp do không hiểu đúng bản chất của "thương hiệu" là gì nên không biết yêu cầu bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp nào. Nếu doanh nghiệp yêu cầu bảo hộ "thương hiệu", thì sẽ không được bảo hộ vì pháp luật Việt Nam không quy định "thương hiệu' là đối tượng được bảo hộ. Tương tự như vậy doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn khi đăng ký bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp ở nước ngoài. - Ảnh hưởng tới việc xây dựng tổ chức thực thi bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp. Trước ngày 19-5-2003 Cục sở hữu công nghiệp là cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa (Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa). Ngày 19-5-2003 Chỉnh phủ đã ban hành Nghị định số 54/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa học và Công nghệ, tại khoản 6 Điều 2 quy định "Về sở hữu trí tuệ (không bao gồm quyền tác giả về văn học, nghệ thuật và nhãn hiệu hàng hóa)". Theo quy định đó Cục sở hữu trí tuệ tạm ngưng giải quyết các thủ tục liên quan đến các công việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Bộ phận nhãn hiệu hàng hóa của Cục sở hữu trí tuệ sẽ chuyển sang cho một cơ quan khác quản lý. Dự kiến sẽ do Bộ Thương mại quản lý. Vì chưa có bộ phận chuyên trách về nhãn hiệu hàng hóa ở Bộ Thương mại, nên Cục sở hữu trí tuệ vẫn được giao nhiệm vụ tạm thời nhận đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, nhưng không có thẩm quyền cấp Văn bằng bảo hộ (Thông báo số 3080/VPCP-CCHC ngày 20-6-2003 của Văn phòng Chính phủ). Tình trạng này đã dẫn đến sự ùn tắc trong việc xem xét bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Theo thống kê của Cục sở hữu trí tuệ, thì số đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa mà Cục sở hữu trí tuệ đã nhận kể từ ngày 19-5-2003 (ngày ban hành Nghị định số 54/2003/NĐ-CP) khoảng 5.000 đơn nằm chờ được xử lý, đã gây nhiều khó khăn và thiệt hại cho các doanh nghiệp và không phù hợp với thông lệ quốc tế. Để khắc phục bất hợp lý này Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/2004/BĐ-CP ngày 16-01-2004 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 54/203/NĐ-CP nói trên mà cụ thể là khoản 6 Điều 2 "Về sở hữu trí tuệ (không bao gồm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật)" và giao lại chức năng đăng ký nhãn hiệu hàng hóa và tiến hành các thủ tục cấp Văn bằng bảo hộ cho Bộ Khoa học và Công nghệ. Sau một thời gian bị ngừng trệ một số lượng lớn đơn đăng ký đã được giải quyết tại Cục sở hữu trí tuệ. Như vậy, "nếu dùng khái niệm "thương hiệu" để thay thế cho "nhãn hiệu hàng hóa", thì hoàn toàn không chấp nhận được về mặt pháp lý" [29, tr. 22]. 1.2. KHÁI NIỆM BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Tình trạng hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ngày càng trở nên nghiêm trọng và là vấn đề bức xúc có tính thời sự không những đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà còn thu hút sự quan tâm của xã hội. Thuật ngữ hàng giả được ghi nhận trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: - Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định tại các điều: Điều 156 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 157 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh)…; - Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-10-1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả; - Thông tư liên tịch số 10/2000/TTL-BTM-BCA-BKHCNMT ngày 27-4-2000 của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-10-1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT). Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên không định nghĩa "khái niệm hàng giả" là gì mà chỉ quy định các dấu hiệu của hàng giả. - Thứ nhất, về hàng giả. Tại Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT nêu trên các dấu hiệu đặc trưng của hàng giả đã được chỉ rõ. Hàng hóa có một trong các dấu hiệu sau đây được coi là hàng giả: 1. Hàng giả chất lượng hoặc công dụng. 2. Giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa như: 2.1. Hàng hóa có nhãn hiệu hàng hóa trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng hóa kể cả nhãn hiệu hàng hóa đang được bảo hộ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia mà không được phép của chủ nhãn hiệu. 2.2. Hàng hóa có dấu hiệu hoặc có bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên gọi xuất xứ hàng hóa được bảo hộ. 2.3. Hàng hóa, bộ phận của hàng hóa có hình dáng bên ngoài trùng với kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu dáng công nghiệp. 2.4. Hàng hóa có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa gây hiểu sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hóa. 3. Giả về nhãn hàng hóa. 4. Các loại ấn phẩm đã in sử dụng vào việc sản xuất, tiêu thụ hàng giả [61]. Như vậy, căn cứ vào các yếu tố nêu trên có thể coi các dấu hiệu của hàng giả chất lượng hoặc công dụng là các dấu hiệu thuộc về bản chất (hay nói cách khác đây là các dấu hiệu thuộc về nội dung của hàng giả). Còn các dấu hiệu giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa, nhãn hàng hóa được coi là các dấu hiệu thuộc về hình thức của hàng giả. - Thứ hai, về hàng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Khi nghiên cứu các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, thì thấy rằng khái niệm "hàng giả" nêu trên có nội dung trùng với nội dung "hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp"; cụ thể như sau: 1- Bộ luật dân sự quy định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 805. Quy định này được cụ thể hóa tại Điều 53 của Nghị định số 63/CP của Chính phủ. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa là hành vi của người không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa thực hiện hành vi sử dụng nhãn hiệu hàng hóa quy định tại khoản 3 Điều 805 của Bộ luật dân sự và đã được cụ thể hóa tại khoản 3 Điều 34 của Nghị định số 63/CP của Chính phủ mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa đó. 2- Nghị định số 12/1999/NĐ-CP ngày 6-3-1999 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp quy định xử phạt hành vi vi phạm quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 9) với các hình phạt, mức phạt cho các hành vi cụ thể khác nhau. 3- Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171). Cấu thành của tội này được xác định khi: Người vì mục đích kinh doanh mà chiếm đo._.về sở hữu công nghiệp. Đối tượng chủ yếu là đội ngũ cán bộ quản lý, thẩm phán các Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa hành chính và thư ký Tòa án. Hai là, tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cho các cán bộ quản lý, các thẩm phán về các kiến thức cơ bản về sở hữu công nghiệp và kỹ năng giải quyết các tranh chấp về sở hữu công nghiệp để sớm có được đội ngũ thẩm phán chuyên trách về sở hữu công nghiệp trong Tòa án nhân dân hiện nay. Ba là, các nghiên cứu viên, thẩm tra viên, thư ký Tòa án và các thẩm phán còn trẻ tuổi cần được đào tạo cơ bản dài hạn với thời gian từ một đến hai năm để trở thành các chuyên gia giỏi (nguồn cán bộ kế cận). Mỗi năm cần đào tạo khoảng 50 người. Đến năm 2010 toàn ngành Tòa án có khoảng 300 chuyên gia về sở hữu công nghiệp. Những người này sẽ là các thẩm phán chuyên trách làm việc tại các Tòa chuyên trách về sở hữu công nghiệp trong hệ thống Tòa án nhân dân. 3.3.4. Phát triển hệ thống thông tin chuyên ngành về sở hữu công nghiệp nói chung và về nhãn hiệu nói riêng Nhà nước cần đầu tư thỏa đáng cho việc phát triển mạng thông tin quốc gia thống nhất về sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu nói riêng với đầy đủ các cơ sở dữ liệu về các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ, bảo đảm đủ khả năng khai thác dưới dạng online phục vụ cho nhu cầu của mọi đối tượng. Mạng thông tin quốc gia sẽ được kết nối với mạng thông tin toàn cầu WIPONET của WIPO và mạng INTERNET. Hệ thống thông tin này không chỉ phục vụ riêng cho Cục sở hữu trí tuệ trong quá trình xét nghiệm, thẩm định đơn yêu cầu bảo hộ để cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu mà còn phục vụ cho các đối tượng khác như: Doanh nghiệp và doanh nhân; các cán bộ các cơ quan thực thi bảo hộ và các tổ chức, cá nhân khác. Mạng thông tin này phải bảo đảm các đặc tính cơ bản như: - Năng lực tài nguyên thông tin đầy đủ; - Thuận tiện cho việc khai thác; - Sử dụng công nghệ cao, hiện đại, tiếp cận đến tận người sử dụng; - Sản phẩm đa dạng, phù hợp với các loại đối tượng khác nhau. Cục sở hữu trí tuệ cần tiếp tục chủ động xây dựng các kho dữ liệu thông tin sở hữu công nghiệp nói chung, trong đó bảo đảm đủ các dữ liệu thông tin cơ bản mới nhất về nhãn hiệu. Đồng thời phát triển các công cụ tra cứu hữu hiệu, phù hợp bảo đảm cho người sử dụng khai thác có hiệu quả thông tin về nhãn hiệu. Để thực hiện được mục tiêu này cần phải trang bị các thiết bị phiên dịch, đưa các thiết bị đó vào sử dụng trong mạng. Chủ động đóng gói lại các thông tin theo chuyên đề, theo lĩnh vực và theo người dùng tin. Gói thông tin về nhãn hiệu được xây dựng theo phân loại hàng hóa, dịch vụ để thuận tiện cho việc tra cứu. Phát triển đội ngũ chuyên gia về thông tin sở hữu công nghiệp có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu hiện nay là một trong những đòi hỏi cấp thiết ở nước ta. Phải đưa các cơ sở dữ liệu thông tin sở hữu công nghiệp nói chung đến tận người sử dụng, phục vụ trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh ở các địa phương trong cả nước. Đây là việc làm rất cấp bách góp phần sớm chấm dứt tình trạng kém hiểu biết về thông tin sở hữu công nghiệp hiện nay. Trước hết cần chú ý tập trung nhiều hơn vào những đối tượng hiện còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận hệ thống thông tin sở hữu công nghiệp sau đây: 1- Tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp, doanh nhân trong việc khai thác thông tin sở hữu công nghiệp sẽ làm cho các doanh nghiệp hiểu rõ rằng trong thời đại ngày nay hoạt động sản xuất, kinh doanh của mọi doanh nghiệp đang được thực hiện trong môi trường có các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ. giúp cho các doanh nghiệp tránh được các hậu quả pháp lý do vô tình sử dụng nhãn hiệu của người khác đã được bảo hộ trong hoạt động của mình và giúp cho các doanh nghiệp nắm được các thông tin tối thiểu về sở hữu công nghiệp như: - Các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu nói riêng; - Các thông tin về quyền sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ hoặc đơn đăng ký sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực kinh doanh với doanh nghiệp đó (thông tin về Văn bằng bảo hộ đã cấp và đơn đăng ký, Văn bằng bảo hộ do Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam hoặc các cơ quan sở hữu công nghiệp quốc tế cấp, công bố...); - Nguồn thông tin sở hữu công nghiệp của các quốc gia và tổ chức quốc tế phục vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của mình. Tổ chức các dịch vụ cung cấp thông tin sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu theo yêu cầu của các doanh nghiệp. 2. Tập trung hỗ trợ Tòa án nhân dân trong việc xây dựng và khai thác thông tin sở hữu công nghiệp phục vụ cho hoạt động xét xử các vụ án về sở hữu công nghiệp trong đó có nhãn hiệu. Tòa án nhân dân tối cao cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Khoa học và Công nghệ mà đơn vị đầu mối là Cục sở hữu trí tuệ nghiên cứu, xây dựng đề án thiết lập mạng thông tin sở hữu công nghiệp trong hệ thống Tòa án nhân dân nhằm các mục tiêu cụ thể sau đây: a) Bảo đảm cho Tòa án nhân dân có đầy đủ các thông tin pháp lý về sở hữu công nghiệp phục vụ cho hoạt động thực thi bảo hộ như các thông tin về quyền sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ, Văn bằng bảo hộ đã được Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam hoặc các cơ quan sở hữu công nghiệp nước ngoài cấp, công bố làm cơ sở cho Tòa án nhân dân xét xử các hành vi xâm phạm nhãn hiệu đã được bảo hộ, xác định hành vi xâm phạm, các dấu hiệu vi phạm (trùng, tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ)... b) Cung cấp cho Tòa án nhân dân các công cụ tra cứu cần thiết và tập huấn cho cán bộ Tòa án về kỹ năng tra cứu thông tin. c) Trước mắt cần đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho việc thiết lập mạng thông tin ở các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, nơi xét xử nhiều vụ án mà không dàn trải ra tất cả Tòa án nhân dân cấp tỉnh vì hiện nay có nhiều Tòa án chưa xét xử một vụ án nào về sở hữu công nghiệp. d. Xây dựng và công bố tập án lệ về sở hữu công nghiệp làm cơ sở cho Tòa án nhân dân tham khảo khi giải quyết các vụ án. 3.3.5. Mở rộng, tăng cường và nâng cao chất lượng của các hoạt động hỗ trợ, bổ trợ về sở hữu công nghiệp Theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Văn hóa - Thông tin tại Hội nghị toàn quốc về thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, thì: "Hoạt động này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và đang là một trong những khâu sẽ phải chịu nhiều thách thức nhất khi chúng ta hội nhập kinh tế thế giới" [6, tr. 17]. Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước phải mở rộng, tăng cường và nâng cao chất lượng của các hoạt động hỗ trợ, bổ trợ về sở hữu công nghiệp trong phạm vi toàn quốc nhằm đạt mục tiêu tổng quát là làm cho hoạt động này trở thành nhân tố tích cực thúc đẩy hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và giúp cho việc thực thi ở nước ta phát triển đúng hướng, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế. Để đạt được mục tiêu đó các cơ quan quản lý nhà nước cần phải triển khai các công việc cụ thể sau đây: 1. Tập trung phát triển, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp nói chung theo đúng quan điểm chỉ đạo và định hướng đã được xác định trong Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg ngày 24-12-2004 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 "nhằm phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [13, tr. 5]. Các cơ quan quản lý nhà nước phải chủ động xây dựng chương trình và các giải pháp cụ thể để thực hiện mục đích này. Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của các tổ chức cung cấp dịch vụ sở hữu công nghiệp hiện có và khả năng cạnh tranh của các tổ chức này. Đẩy mạnh hơn nữa việc xã hội hóa các hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp theo cơ chế thị trường, đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, tổ chức trong nước và hội nhập quốc tế. Nghiên cứu, xem xét việc mở cửa hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp nói chung cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài theo cam kết quốc tế của Nhà nước ta về mở cửa thị trường dịch vụ nói chung. 2. Phát triển đội ngũ những người tham gia hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp. Năm 2006 phải đạt mục tiêu phát triển đội ngũ những người này lên tới 1.000 người. Để đạt được mục tiêu này cần phải thực hiện những biện pháp cơ bản sau đây: - Khẩn trương tổ chức các hình thức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về sở hữu công nghiệp cho các luật sư và những người khác để có đủ điều kiện trở thành đại diện sở hữu công nghiệp. - Tạo các điều kiện thuận lợi cho các Văn phòng luật sư và các doanh nghiệp có đủ khả năng tiến hành hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp. Mở rộng mạng lưới tổ chức dịch vụ sở hữu công nghiệp trong toàn quốc mà không chỉ giới hạn ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Các tổ chức này cần được phát triển và mở rộng đến tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là các khu vực kinh tế trọng điểm của nước ta. - Khuyến khích các tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp đầu tư cho việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các nhân viên của mình. - Tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp về sở hữu công nghiệp như Hội sở hữu công nghiệp Việt Nam, tạo các điều kiện thuận lợi để các tổ chức này tham gia tích cực hơn nữa vào hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu nói riêng. Đặc biệt là việc khuyến khích các tổ chức này tham gia tích cực vào việc xây dựng pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật, tư vấn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. - Khuyến khích các chủ sở hữu nhãn hiệu thiết lập các tổ chức có tính chất liên minh các chủ thể để tự bảo vệ quyền của mình nhằm khắc phục tâm lý ỷ lại, thụ động, trông chờ vào Nhà nước. Các tổ chức đó là các Câu lạc bộ chống hàng giả, Hiệp hội chống hàng giả và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Hiệp hội chống hàng giả và bảo vệ thương hiệu Việt Nam... Các tổ chức này sẽ có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp. 3.3.6. Tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế về bảo hộ sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu nói riêng Theo đánh giá của Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam thì: Kết quả rõ nét nhất của các hoạt động hợp tác quốc tế trong 20 năm qua là chúng ta đã nhận được sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các nước và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ sở hữu công nghiệp cũng như trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và cung cấp thông tin tư liệu sở hữu công nghiệp. Hàng năm cán bộ được đào tạo và nâng cao trình độ ở các nước và các tổ chức quốc tế đang là lực lượng nòng cốt trong việc triển khai hoạt động sở hữu công nghiệp ở nước ta. Nhiều kinh nghiệm của các nước và khu vực về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã được tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo tại Việt Nam [19, tr. 37]. Hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu nói riêng cần được đẩy mạnh theo những định hướng chủ yếu sau đây: 1. Tăng cường hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế nhằm nâng cao năng lực hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung ở nước ta. 2. Tranh thủ sự trợ giúp quốc tế trong việc hoàn thiện hệ thống thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam nhằm có được một hệ thống thực thi có đủ năng lực, hoạt động có hiệu quả đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế. Đặc biệt là việc nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài về mô hình hệ thống thực thi trên các phương diện như: Tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành, các điều kiện vật chất... bảo đảm cho hệ thống đó hoạt động có hiệu quả. Cục sở hữu trí tuệ cần phối hợp chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện đề án nghiên cứu mô hình Tòa chuyên trách về sở hữu công nghiệp trong hệ thống Tòa án nhân dân. Đề án này cần được ưu tiên đưa vào chương trình hợp tác quốc tế ngay trong năm 2005. 3. Chú trọng đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các nước láng giềng với nước ta như: Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, các nước ASEAN khác như: Singapo, Indonesia... trong hoạt động phòng, chống nạn sản xuất và buôn bán hàng giả, xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đã được bảo hộ ở Việt Nam nhưng xảy ra ở các nước đó và ngược lại. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Hoạt động bảo hộ và thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở nước ta ngày càng được chú trọng và có sự phát triển về chất. Số lượng đơn đăng ký nộp cho Cục sở hữu công nghiệp (nay là Cục sở hữu trí tuệ) ngày một tăng. Điều đó thể hiện nhu cầu và ý thức ngày càng cao của các doanh nghiệp về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt. Nhà nước thiết lập cơ chế bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa với các biện pháp hành chính, hình sự, dân sự và hệ thống các cơ quan thực thi bảo hộ từ Trung ương đến địa phương là các bảo đảm thiết yếu cho việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa có chất lượng và ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên, tình trạng xâm phạm quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa, tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa xảy ra khá phổ biến nhưng chưa được giải quyết có hiệu quả đã ảnh hưởng rất lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, cần phải đánh giá thực trạng này một cách nghiêm túc, xác định đúng nguyên nhân của thực trạng đó. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân mà đề ra các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở nước ta trong tình hình mới. KẾT LUẬN 1. Trong các mối quan hệ quốc tế song phương và đa phương và trong những năm gần đây vấn đề sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng trở thành một trong các mối quan tâm hàng đầu và trong không ít trường hợp đã trở thành các thách thức đối với nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong hầu hết các hiệp định song phương về kinh tế và thương mại mà Việt Nam mới ký kết gần đây vấn đề sở hữu công nghiệp đều được đề cập với mức độ khác nhau và là một trong những nội dung chính của các hiệp định đó. Quá trình đàm phán gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, đòi hỏi Nhà nước ta phải hoàn thiện hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa. 2. Nhãn hiệu hàng hóa hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa được định nghĩa trong văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các điều kiện bảo hộ. Khái niệm này không phải là bất biến trong điều kiện hội nhập và quốc tế hóa hoạt động bảo hộ sở hữu công nghiệp. Cần phải nghiên cứu những thay đổi để phát triển một khái niệm mới cho phù hợp. Việc phân biệt rõ khái niệm nhãn hiệu hàng hóa với các khái niệm thương hiệu, tên thương mại, nhãn hàng hóa... có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở để quy định cơ chế bảo hộ tương ứng với từng đối tượng. 3. Trên cơ sở hệ thống pháp luật quốc tế; Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Thỏa ước Mađrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa và một số điều ước quốc tế khác cũng như trên cơ sở pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của nước ngoài, luận án chỉ ra những điểm tương thích và khác biệt giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa và nêu rõ sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 4. Hoạt động bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở nước ta đã có nhiều chuyển biến, tiến bộ rõ rệt trong thời gian qua, tuy nhiên cơ chế điều chỉnh đã bộc lộ nhiều bất cập cần phải được khắc phục trên các lĩnh vực cụ thể sau đây: - Các văn bản quy phạm pháp luật bảo hộ sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng tản mạn, thiếu thống nhất. - Các quy định bảo hộ còn chưa đầy đủ, chưa có hiệu lực cao, thiếu cụ thể. - Cơ chế bảo đảm thực thi còn chưa chặt chẽ, chế tài thiếu rõ ràng, minh bạch. Tồn tại xu hướng "hành chính hóa", "hình sự hóa" trong việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa mà ít sử dụng biện pháp dân sự. - Nhận thức của xã hội về tầm quan trọng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa còn hạn chế; ý thức chấp hành pháp luật còn yếu. - Tình trạng xâm phạm, tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa xảy ra phổ biến, mức độ ngày càng nghiêm trọng gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa, gây trở ngại cho các hoạt động đầu tư, thương mại, trật tự an toàn xã hội... 5. Bảo hộ sở hữu công nghiệp trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế thu hút sự quan tâm, nỗ lực của tất cả các nước. Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về sở hữu công nghiệp cần thường xuyên tổ chức các cuộc trao đổi, hội thảo quốc tế về sở hữu công nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan thực thi và các cán bộ, chuyên gia của Việt Nam trao đổi thông tin, kinh nghiệm, tiếp thu có chọn lọc, vận dụng sáng tạo vào điều kiện nước ta. Đặc biệt là nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài về mô hình Tòa án chuyên trách về sở hữu công nghiệp 6. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là đòi hỏi tất yếu, khách quan đối với nước ta. Để thực hiện được mục tiêu đó cần tập trung thực hiện đồng bộ những giải pháp như: Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa, mà trọng tâm là sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật dân sự và xây dựng Luật sở hữu trí tuệ, hướng dẫn thi hành và áp dụng thống nhất pháp luật; hoàn thiện cơ chế bảo đảm, bộ máy thực thi và các biện pháp thực thi; tăng cường hợp tác quốc tế về bảo hộ sở hữu công nghiệp và tăng cường tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về sở hữu công nghiệp cho cộng đồng để mọi người hiểu, có ý thức tự giác chấp hành pháp luật, phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc phát hiện và xử lý các hành vi xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa có xu hướng gia tăng hiện nay. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Nguyễn Luật (1999), "Tòa án sáng chế ở Cộng hòa Liên bang Đức", Dân chủ và pháp luật, (7), tr. 25-26. Nguyễn Văn Luật (1999), "Kinh nghiệm giải quyết các vi phạm và tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp ở Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Liên bang Đức", Trong kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Nâng cao vai trò và năng lực của Tòa án trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, đã nghiệm thu năm 1999, đạt xuất sắc, tr. 231-241. Nguyễn Văn Luật (2002), "Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong quá trình Việt Nam hội nhập quốc tế", Thông tin khoa học xét xử, (6), tr. 3-8. Nguyễn Văn Luật (2002), "Tòa án bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Thái Lan, Trung Quốc, Pháp và Đức", Thông tin khoa học xét xử, (6), tr. 39-49. Nguyễn Văn Luật (2003), "Tòa án Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp theo thủ tục tố tụng hình sự và dân sự", Hội thảo khoa học: Thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới, do Tổng cục Hải quan và Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức ngày 15-12, tr. 118-124. Nguyễn Văn Luật (2004), "Căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Kinh nghiệm các nước và liên hệ với thực tiễn Việt Nam", Nghề luật, (2), tr. 76-83. Nguyễn Văn Luật (2004), "Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam", Hội thảo: Sở hữu trí tuệ với doanh nghiệp - cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, do Liên hiệp các hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Hội Sở hữu công nghiệp Việt nam tổ chức, ngày 20 và 21-12, tr. 186-193. Nguyễn Văn Luật (2001), "Le jugement du contentieux de la propriété industrielle dans le cadre des procédures civiles pénales au Vietnam", Académie - Recueil de cas pratiques, tr. 177-182. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Thu An (2003), "Có sự tương tự giữa hai nhãn hiệu RIGENT và REGENT", Bản tin sở hữu công nghiệp, (26), tr. 4. Thu Ba (2002), "Từ chuyện Vinataba đòi được thương hiệu: Vẫn chuyện "ta phải đi đòi lại cái của mình"", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14-10, tr. 11. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), "Đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới", Thông báo nội bộ, (7), tr. 6. Barbara Kolsua (8/2003), "Bảo vệ chống nạn làm giả", Hội thảo Về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại Hoa Kỳ và Việt Nam, Hà Nội. Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường (1997), Báo cáo số 1882/SHCN ngày 11-8 về công tác chuẩn bị nội dung sở hữu trí tuệ trong phương án đàm phán để ký kết Hiệp định kinh tế - thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hà Nội. Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa Thông tin (2004), "Báo cáo tình hình thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam", Hội nghị toàn quốc về thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, ngày 8-9, Hà Nội. Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Bộ luật tố tụng dân dự năm 2004 (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bruce A.Lehman (1999), "Hỗ trợ tự do kinh tế và chính trị", Hội thảo về sở hữu trí tuệ tại Hà Nội. Chính phủ (1999), Nghị định số 12/1999/NĐ-CP ngày 6-3 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Hà Nội. Chính phủ (2003), Quyết định số 253/2003/QĐ-TTg ngày 25-11 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án xây dựng và phát triển "Thương hiệu Quốc gia đến năm 2010", Hà Nội. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg ngày 24-12 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2005 - 2010, Hà Nội. Cơ quan sáng chế Nhật Bản - Trung tâm Sở hữu công nghiệp châu Á-Thái Bình Dương - Viện Sáng kiến và Sáng chế Nhật Bản (2002), Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa - cẩm nang dành cho doanh nhân. Cục Bản quyền tác giả và Cục sở hữu công nghiệp (2002), Các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập, Hà Nội. Cục Bản quyền tác giả và Cục sở hữu công nghiệp (2002), "Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (1883)", Dự án: Các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập, Hà Nội. Cục Sáng chế, Ủy ban khoa học nhà nước (1991), Hoạt động sở hữu công nghiệp, Hà Nội. Cục sở hữu công nghiệp (1999), Hoạt động sở hữu công nghiệp, Hà Nội. Cục sở hữu công nghiệp (2002), Cục sở hữu công nghiệp 20 năm xây dựng và phát triển 1982 - 2002, Hà Nội. Cao Văn Dũng (2002), "Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa ra nước ngoài - việc cần làm ngay", Tin tức hoạt động sở hữu công nghiệp, (12), tr. 9. Trần Minh Dũng (12/2004), "Thanh tra khoa học và công nghệ với công tác thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính", Hội thảo sở hữu trí tuệ với doanh nghiệp - cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, Hà Nội. Công Duy (2002), "Vụ vi phạm sở hữu công nghiệp của hãng Louis Vuitton, Xử phạt hành chính 12 triệu đồng", Báo An ninh Thủ đô, ngày 16-4, tr. 1. Công Duy (2003), "Khám phá vụ sản xuất, buôn bán thuốc tân dược giả lớn tại Hà Nội", Báo An ninh Thủ đô, ngày 19-3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Anh Đạt (2002), "Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa Việt Nam ở nước ngoài - những bài học còn nóng hổi", Báo Tiền phong, ngày 18-01, tr. 11. Lâm Điền (2003), "Đặt tên thương mại mới cho cá Basa", Báo Lao động, ngày 4-1, tr. 1. Lê Công Định (2002), "Đòi lại thương hiệu đã bị mất: Khả năng cao nhưng tốn kém", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01-8. Q. Hà (2002), "Tiêu hủy hàng giả nhãn hiệu Louis Vuitton", Báo Lao động, ngày 16-5. PGS.TS Lê Hồng Hạnh (2003), "Thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa", Luật học, (3), tr. 22. Mai Hạnh (2004), "Công ty cổ phần nước giải khát Sài Gòn - TRIBECÔ, không dám bán hàng vì sợ hàng giả", Báo Gia đình và Xã hội, ngày 18-5. PGS.TS Phạm Xuân Hằng, TS. Trần Văn Hải (2004), "Đào tạo nhân lực sở hữu trí tuệ, Một trong những yêu cầu cấp bách của quá trình hội nhập quốc tế", Hội thảo: Sở hữu trí tuệ với doanh nghiệp - cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, Hà Nội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2002), Hà Nội. Hiệp định Việt Nam - Thụy Sĩ về bảo hộ sở hữu trí tuệ (1999), Hà Nội. Hội đồng Bộ trưởng (1982), Nghị định số 197/HĐBT ngày 14-12 ban hành Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa, Hà Nội. Hội đồng Nhà nước (1989), Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Hà Nội. Trần Việt Hùng (2003), "Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong kỷ nguyên hội nhập kinh tế quốc tế", Tin tức - hoạt động sở hữu công nghiệp, (22), tr. 3. L.N.L (2000), "Sản xuất nước hoa giả", Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 4-11, tr. 2. Luật doanh nghiệp năm 1999 (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật thương mại (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Khương Lực (2003), "Thách thức về sở hữu công nghiệp khi hội nhập kinh tế quốc tế", Báo Tin tức cuối tuần, ngày 20 - 27/3, tr. 2. Mark Davision (1996), "Sở hữu trí tuệ quốc tế (bao gồm Hiệp định TRIPS-WTO)", Hội thảo về sở hữu trí tuệ tại Hà Nội. Hoài Nam (2003), "Phát triển thương hiệu", Bản tin hoạt động sở hữu công nghiệp Việt Nam, (19), tr. 1. TS. Đoàn Năng (2000), "Thực trạng và phương hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo hộ sở hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay", Nhà nước và Pháp luật, (2), tr. 29. "Nghị định số 175-TTg ngày 3-4-1958 của Thủ tướng Chính phủ quy định thể lệ dùng nhãn hiệu thương phẩm" (1958), Công báo, (13) tr. 185. "Nghị định số 139-BTN/PC ngày 26-4-1958 của Bộ Thương nghiệp quy định thể lệ đăng ký nhãn hiệu thương phẩm" (1958), Công báo, (19), tr. 203. "Nghị định số 135-TN ngày 6-3-1959 của Bộ Thương nghiệp sửa đổi Nghị định số 139- BTN/PC ngày 26-4-1958" (1959), Công báo, (11), tr. 175. "Nghị định số 63/CP ngày 24-10-1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp", Trong sách: Các quy định pháp luật về sở hữu công nghiệp (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Minh Ngọc (2001), "Thương hiệu Việt Nam bị mất ở nước ngoài", Báo Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 26-4. Prof. Dr. Michael P.Ryan 10/2002), "Những điều các nhà quản lý cần biết về luật sở hữu trí tuệ, chính sách và chiến lược kinh doanh", Hội thảo: Pháp luật, chính sách và quản lý sở hữu trí tuệ, Hà Nội. Xuân Quang (2000), "Tràn ngập hàng giả", Báo Lao động, ngày 2-11, tr. 3. "Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg ngày 30-8-1999 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu", Trong sách: Các quy định pháp luật về sở hữu công nghiệp (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Sổ tay Luật thương mại chủ yếu của Hoa Kỳ (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ngọc Thạch (2002), "Việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa nông sản: Doanh nghiệp nào chậm trễ sẽ phải trả giá đắt", Báo Nông nghiệp Việt Nam, ngày 22-8, tr. 8. Công Thắng (2005), "Nhập khẩu hàng giả, hình phạt như đùa", Báo Lao động, ngày 17-01, tr. 3. TS. Đinh Văn Thanh, Luật gia Đinh Thị Hằng (2004), Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội TS. Lê Xuân Thảo (1997), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nguyễn Đức Thịnh (7/2004), "Vai trò và hoạt động của quản lý thị trường trong công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam", Hội thảo về thực thi quyền sở hữu trí tuệ, Hà Nội. "Thông báo về khóa họp lần thứ nhất Ủy ban hỗn hợp về phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ" (2002), Báo Hà Nội mới, ngày 11-5, tr. 4. "Thông tư số 136-TN ngày 7-3-1959 của Bộ Thương nghiệp hướng dẫn thi hành Nghị định Thủ tướng Phủ số 175-TTg ngày 3-4-1958" (1959), Công báo, (11), tr. 180. "Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLTQGI-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27-4-2000 của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học - công nghệ và môi trường hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-10-1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả", Trong sách: Các quy định pháp luật về sở hữu công nghiệp (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tổ phóng viên QP-AN (2002), "Sản xuất quạt điện giả gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp và người tiêu dùng", Báo Quân đội nhân dân, ngày 22-8, tr. 4. Quốc Toản (2000), "Petro Việt Nam bị đánh cắp thương hiệu", Báo An ninh Thủ đô, ngày 23-7. Hà Trung (2004), "Tiêu hủy số thuốc lá lậu trị giá trên 7 tỷ đồng", Báo An ninh Thủ đô, ngày 14-12, tr. 3. Ủy ban đại diện thương mại Hoa Kỳ (2004), "Báo cáo đặc biệt số 301" Bản tin sở hữu trí tuệ, (33), tr. 12. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. Văn phòng Luật sư Phạm và liên danh (5/2003), "Vai trò của Luật sư trong chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp", Hội thảo: Nhãn hiệu hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, Hà Nội. TIẾNG ANH EC (1993), Council Regulation No 40/94 of 20 Deeember 1993 on the Community trade mark. WIPO (1995), General Information, Geneva. WIPO (2004), "Définitions and General aspects of interllectual Property Rights (IPRS)", Wipo National Roving Workshopon IPRS, Hanoi, July 4 and 5, Page 5. TIẾNG PHÁP Andrea Semprini (1995), Que sais Je; La Marque, Presses Universitaires De France. Albert Chavanne, Jean Jacques Burst (1993), Droit de la Propriété Industrille, 4e édition, DALLOZ. Commission consultative des politiques de L'OMPI (2000), Déclaration Mondiale sur la Propriété interllectuelle, OMPI. Code de la propriété interllectuelle (1999), Les E'dition des Journaur officiels. Francis Le Febvre (1994), Marques, Dossiers Pratiques, Edition Francis Lefebvre. Francis Le Febvre (1994), Marques, creation, Valorisation, Protection, Édition Francis lefebvre. Michel Vivant (1997), Les Créations immatérielles et le droit, Édition Marketing S.A. TIẾNG ĐỨC Dr. Gordian N. Hasselblatt (2001), Gewerblicher Rechtsschutz, L.L.M.Verlay C.H.Beck Mỹnchen. Madrider Abkommen ỹber die internationale Registrierung von Marken (1987), Staatsverlag der DDR. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2554.doc
Tài liệu liên quan