Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu lao động của Công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD sau khủng hoảng 2008

LỜI CAM ĐOAN Tên tôi là : Lê Thị Hoàng Sinh viên lớp : Kinh tế kế hoạch 48B Khoa : Kế hoạch và phát triển Sau thời gian thực tập ở Trung tâm Nhật Bản thuộc Công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD, dưới sự hướng dẫn của PGS. Tiến sĩ Phan Thị Nhiệm, tôi đã lựa chọn đề tài “Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu lao động của công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD sau khủng hoảng 2008” để làm chuyên đề thực tập của mình. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập, kh

doc103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu lao động của Công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD sau khủng hoảng 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông hề có sự sao chép của bất cứ ai khác, mọi thông tin, tài liệu mang tính chất tham khảo đều được nghi rõ nguồn ngốc. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Nhà trường và Khoa! Hà Nội, ngày tháng năm 2010 Sinh viên Lê Thị Hoàng MỤC LỤC 2.3.1. Tình hình xuất khẩu lao động của công ty giai đoạn 2008 – 2009 54 2.3.2. Chiến lược thị trường áp dụng thời kỳ khủng hoảng 56 2.4. Đánh giá công tác phát triển thị trường của công ty giai đoạn từ 1992 đến khủng hoảng 57 2.4.1. Những thành tựu đạt được 57 2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân 60 2.5. Xem xét các tác động tới khả năng cạnh tranh của công ty 61 2.5.1. Năng lực tài chính 61 2.5.2. Nguồn nhân lực 61 2.5.3. Công nghệ 62 2.5.4. Thị trường 62 2.6. Xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới chiến lược phát triển thị trường của công ty khi thị trường lao động phục hồi 63 2.7. Đánh giá khả năng của công ty 65 CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG SAU KHỦNG HOẢNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC LOD 66 3.1. Phân tích tình hình trong nước, cơ hội và thách thức đối với công ty sau khủng hoảng 66 3.1.1. Tình hình trong nước 66 3.1.2. Cơ hội và thách thức đối với công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực Việt Nam 66 3.1.2.1. Cơ hội 66 3.1.2.2. Thách thức 67 3.2. Phân tích môi trường ngành tác động tới việc phát triển thị trường của công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD 68 3.2.1. Áp lực từ phía khách hàng 68 3.2.2. Áp lực từ phía đối thủ cạnh tranh hiện tại 68 3.2.3. Áp lực từ sản phẩm thay thế 69 3.2.4. Áp lực từ nhà cung cấp 69 3.2.5. Áp lực từ phía đối thủ tiềm ẩn 70 3.3. Xây dựng lợi thế cạnh tranh cho công ty cp phát triển nguồn nhân lực LOD 71 3.3.1. Xác định phương pháp cạnh tranh chủ yếu 71 3.3.2. Tạo lợi thế cạnh tranh cho công ty. 72 3.4. Chiến lược phát triển thị trường của công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD 73 3.4.1. Chiến lược chung của công ty 73 3.4.1.1. Mục tiêu của chiến lược 73 3.4.1.2. Phương hướng thực hiện chiến lược phát triển của công ty CP phát triển nguồn nhân lực LOD 74 3.4.2. Nội dung chiến lược phát triển thị trường sau khủng hoảng 77 3.4.2.1. Lựa chọn thị trường căn cứ vào sơ đồ SWOT 77 3.4.2.2. Mục tiêu của chiến lược phát triển thị trường 80 3.4.2.3. Nội dung chiến lược thị trường giai đoạn 2010 - 2020 83 a) Nghiên cứu và tiếp cận thị trường 83 b) Phân đoạn thị trường 83 c) Lựa chọn thị trường mục tiêu 83 d) Thâm nhập và mở rộng thị trường 86 3.5. Giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu lao động của công ty. 87 3.5.1 Giải pháp từ phía công ty LOD: 87 3.5.2 Giải pháp từ phía nhà nước 90 3.5.3 Giải pháp từ phía người lao động: 94 C. KẾT LUẬN 95 D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT TỪ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI 1 CP Cổ phần 2 XKLĐ Xuất khẩu lao động 3 NKLĐ Nhập khẩu lao động 4 KT - XH Kinh tế - xã hội 5 VNĐ Việt Nam đồng 6 XHCN Xã hội chủ nghĩa 7 NĐ - CP Nghị định chính phủ 8 HĐBT Hội đồng bộ trưởng 9 CNKT Công nhân kỹ thuật 10 CBCNV Cán bộ công nhân viên 11 QLLĐNN Quản lý lao động nước ngoài 12 SXKD Sản xuất kinh doanh 13 UBND Uỷ ban nhân dân DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Bảng 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD 40 Bảng 2: Bảng một số chỉ tiêu tài chính và kết quả kinh doanh của công ty 45 Bảng 3: Số lượng lao động xuất khẩu Công ty cung ứng năm 2008 54 Bảng 4: Số liệu lao động xuất khẩu qua các năm 58 Bảng 5 : Số liệu dự kiến XKLĐ năm 2010 74 Bảng 6: Bảng dự kiến một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh năm 2010 75 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Lí do chọn đề tài       Ngày nay, xuất khẩu lao động không còn là hiện tượng xa lạ mà đã trở nên khá phổ biến. Khác với sự dịch chuyển quốc tế các nguồn lực khác như tư bản hay công nghệ, lao động là một nguồn lực đặc biệt, việc dịch chuyển quốc tế sức lao động, hay là xuất khẩu lao động, có những nét đặc trưng riêng và có thể nói là tương đối phức tạp. Việt Nam là một nước xuất khẩu lao động sang nhiều nước trên thế giới. Câu hỏi đặt ra ở đây là chúng ta cần suy nghĩ như thế nào về vấn đề đó? Đứng từ góc độ nhà nước : Ở Việt Nam với số dân hơn 80 triệu người, trong đó lực lượng lao động chiếm 60%, tỷ lệ thất nghiệp vào khoảng 5,12%( năm 2009) lực lượng lao động thì sức ép của tình trạng thiếu việc làm vẫn rất lớn. Chương trình quốc gia giải quyết việc làm đã được chính phủ Việt Nam phê duyệt theo quyết định số 126/QĐ ngày 11/7/1998, đi liền với nó là việc bổ sung nguồn vốn cho quỹ quốc gia về việc làm . Điều này thể hiện cố gắng rất lớn của Việt Nam trong việc thực hiện tuyên bố và chương trình hành động của hội nghị thượng đỉnh thế giới về "Phát triển xã hội" họp tại Copenhagen-Đan Mạch (3-1995). Giải quyết việc làm được coi như là một mục tiêu trọng điểm của quốc gia. XKLĐ góp phần thực hiện mục tiêu đó, hơn nữa nó mang lại nhiều lợi ích không chỉ là khía cạnh kinh tế mà còn là chính trị, xã hội. Ý nghĩa thiết thực đó đòi hỏi cấp quản lý phải đưa ra một hướng đi mới cho XKLĐ ở Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ này – thời kỳ còn mang nặng dư âm của cuộc khủng hoảng 2008. Xuất phát từ chủ trương đó, Chính phủ đã có những đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác xuất khẩu lao động (XKLĐ) trong vấn đề giải quyết việc làm, từ đó đã có những định hướng đúng đắn:"Đẩy mạnh dịch vụ XKLĐ và các dịch vụ thu ngoại tệ khác với sự tham gia của các thành phần kinh tế". Thực tiễn một vài năm gần đây lĩnh vực XKLĐ đã góp phần đáng kể trong vấn đề giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động, tạo sự ổn định cho xã hội, mặt khác mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia, tăng thu nhập cho người lao động và gia đình họ, XKLĐ đã đứng vào hàng " Câu lạc bộ những mũi nhọn xuất khẩu đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỉ USD/năm trở lên". Giải quyết việc làm được coi như là một mục tiêu trọng điểm của quốc gia. XKLĐ góp phần thực hiện mục tiêu đó, hơn nữa nó mang lại nhiều lợi ích không chỉ là khía cạnh kinh tế mà còn là chính trị, xã hội. Ý nghĩa thiết thực đó đòi hỏi cấp quản lý phải đưa ra một hướng đi mới cho XKLĐ ở Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ này – thời kỳ còn mang nặng dư âm của cuộc khủng hoảng 2008. Đứng góc độ doanh nghiệp: Đã có thời kỳ hoàng kim của XKLĐ, người người đi xuất khẩu lao động. Khoản lợi nhuận lớn đã khích lệ nhiều doanh nghiệp gia nhập ngành. LOD đã khai thác mảng XKLĐ – coi nó là một lĩnh vực kinh doanh chính từ năm 1992 đến nay. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trường XKLĐ mang đầy những biến động ảnh hưởng nặng nề đến việc xuất khẩu lao động của cả nước nói chung, LOD nói riêng. Vậy nên lựa chọn chiến lược nào cho XKLĐ trong thời kỳ này? Là một hoạt động kinh doanh chính, bên cạnh những thành tựu đạt được LOD còn gặp phải không ít khó khăn nhất là trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu hiện nay. Dẫu là một tên tuổi lão làng nhưng LOD cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của dòng xoáy đó. Phải lựa chọn hướng đi nào thích hợp trong bối cảnh hiện nay để XKLĐ luôn là lợi thế của công ty. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó và nhận thấy rằng đây là vấn đề nổi cộm, phù hợp với chuyên ngành nên em đã mạnh dạn khai thác đề tài: “ Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu lao động của công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD sau khủng hoảng 2008”. Do giới hạn về thời gian cũng như khuôn khổ bài viết nên Em chỉ trình những vấn đề chính theo bố cục sau đây: Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu lao động và tính tất yếu của hoạt động xuất khẩu lao động Chương II: Thực trạng công tác mở rộng thị trường xuất khẩu lao động của Công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu lao động sau khủng hoảng của công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD       2. Mục đích nghiên cứu:       - Tìm hiểu rõ thực trạng công tác phát triển thị trường xuất khẩu lao động của LOD sang các nước trước và trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay. Phân tích những nhân tố bên ngoài, bên trong công ty để tìm ra điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của LOD từ đó lựa chọn chiến lược phát triển thị trường Đề ra được các biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong hiện tại và thúc đẩy việc thực hiện chiến lược xuất khẩu lao động sang các thị trường nhiều tiềm năng trong tương lai, một khi nền kinh tế đã hồi phục trở lại. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của khoá luận được tổng hợp từ nhiều phương pháp khác nhau như: Phương pháp tổng hợp và phân tích; Phương pháp thống kê và so sánh...kết hợp nghiên cứu lý luận với phân tích thực tiễn. Đây là một đề tài khó viết và tương đối mới mẻ. Trong quá trình tìm hiểu, xây dựng đề tài em đã gặp không ít khó khăn, nhưng với sự giúp đỡ nhiệt tình của giảng viên: PGS.TS.Phan Thị Nhiệm, cùng với các anh chị ở phòng tài chính tổng hợp – Trung tâm Nhật Bản thuộc công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD, cũng như qua quá trình tìm tòi các tài liệu phục vụ cho chuyên đề, em đã xây dựng nên một chuyên đề hoàn chỉnh. Tuy nhiên, với thời gian, trình độ còn hạn chế và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều, em mong có sự góp ý của các thầy cô giáo về những thiếu sót em mắc phải. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 21 tháng 4 năm 2010 Sinh viên thực hiện Lê Thị Hoàng NỘI DUNG CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Một số lý luận chung về xuất khẩu lao động. Khái niệm, đặc điểm của xuất khẩu lao động Khái niệm của xuất khẩu lao động Xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một phạm trù có nội dung kinh tế xã hội sâu sắc liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực, nó có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố kinh tế xã hội khác. Để quá trình nghiên cứu được hệ thống và thống nhất, trước hết phải định hình rõ một số khái niệm liên quan đến hoạt động XKLĐ, từ đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể, rõ ràng về vấn đề XKLĐ. Sức lao động: Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tien cần thiết trong quá trình lao động xã hội. Lao động Lao động là hoạt động có mục đích và có ý thức của con người, nó diễn ra giữa con người với tự nhiên nhằm cải tạo tự nhiên cho phù hợp với mục đích của con người. Lao động là sự vận dụng của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Thành quả do con người tạo ra trong quá trình lao động để nuôi sống bản thân và gia đình họ và đảm bảo sự tồn tại của xã hội. Lao động có năng suất, chấ lượng đem lại hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Vì vậy, lao động có một vị trí vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, một quốc gia nào. Mỗi con người đến tuổi lao động, có khả năng lao động đều mong muồn và có quyền được lao động để nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và làm giàu cho xã hội. Nguồn lao động Nguồn lao động là một bộ phận của dân cư bao gồm những người trong đọ tuổi lao động ( không kể số người mất khả năng lao động ) và những người ngoài độ tuổi lao động ( trên hoặc dưới tuổi lao động ) nhưng thực tế có tham gia lao động. Nước ta quy định độ tuổi lao động từ 15 – 55 đối với nữ và 15 – 60 đối với nam. Có một sơ thực tế là ở nông thôn Việt Nam và cá biệt ở thành thị, trẻ em 10 tuổi ( thậm chí dưới 10 tuổi ) đã tham gia lao động, đã đảm nhận một số những công việc có tính chất sản xuất ở mức độ thời gian lao động khác nhau nên những người dưới độ tuổi lao động thực tế có tham gia lao động hiệ nay khó xác định về phạm vi. Tuy nhiên để thống nhất với các số liệu thống kê được công bố thì ở nhóm này chỉ tính những người có độ tuổi 13 – 15. Thị trường lao động Thị trường lao động là một lĩnh vực riêng của nền kinh tế mà ở đó có diễn ra quá trình mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động. Ở nơi nào có nhu cầu sử dụng lao động và có nguồn cung cấp lao động thì ở đó sẽ hình thành thị trường lao động. Khi cung và cầu lao động xảy ra trong phạm vi biên giới một quốc gia thì gọi là thị trường lao động nội địa. Khi cung và cầu lao động nảy sinh ngoài biên giới một quốc gia thì có thị trường lao động quốc tế. Thị trường lao động là một thị trường đặc biệt nó có những đặc điểm sau: Hàng hóa trên thị trường lao động là sức lao động (loại hàng hóa đặc biệt) vô hình, khó cân đo đong đếm được và bị ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa, tâm lý, tình cảm của con người trong quá trình lao động. Giá cả của sức lao động và tiền lương (V), là một phần giá trị trong giá trị của hàng hóa ( C + V + M), là phần tiền mà người lao động nhận được nhằm tái tạo sức lao động của chính họ và chu cấp cho gia đình họ. Hàng hóa sức lao động cũng tuân theo quy luật cung cầu, cạnh tranh trên thị trường. Thị trường lao động quốc tế có các đặc điểm của thị trường lao động nói chung trên, tuy nhiên cũng có một số đặc điểm riêng biệt: Thị trường lao động quốc tế xuất hiện là do quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới và nảy sinh cung cầu lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia Thị trường lao động quốc tế rất phức tạp: nó có sự tác động của các yếu tố văn hóa, ngôn ngữ, tín ngưỡng, trình độ công nghệ, pháp luật của các quốc gia khác nhau. Điều này đòi hỏi người lao động phải có một trình độ nhất định để có thể thích nghi, tiếp thu được các đặc điểm văn hóa mới. Cung ứng lao động trên thị trường lao động quốc tế biến động mạnh mẽ do tình hình kinh tế, chính trị thế giới biến động thường xuyên. Xuất khẩu sức lao động Xuất khẩu lao động là một loại hình di chuyển quốc tế sức lao động. Di chuyển quốc tế sức lao động là hiện tượng người lao động di chuyển ra nước ngoài nhằm mục đích tìm việc làm để có thu nhập. Khi ra khỏi một nước, người đó được gọi là người xuất cư, còn sức lao động của người đó được gọi là sức lao động xuất khẩu. Xuất khẩu lao động trong thực tế thường được gọi là xuất khẩu lao động là một vấn đề có nội dung kinh tế xã hội sâu sắc, có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố kinh tế xã hội khác. ( Trong phạm vi của luận văn này cụm từ “xuất khẩu lao động” được hiểu tương đương với cụm từ “ xuất khẩu sức lao động “). Hay ta có thể hiểu XKLĐ là hoạt động trao đổi, mua bán hay thuê mướn hàng hóa sức lao động giữa chính phủ một quốc gia hay tổ chức, cá nhân cung ứng sức lao động của nước đó với Chính phủ, tổ chức, cá nhân sử dụng sức lao động nước ngoài trên cơ sở Hiệp định hay hợp đồng cung ứng lao động. Như vậy, khi hoạt động XKLĐ được thực hiện sẽ có sự di chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch từ nước này sang một nước khác. Trong hành vi trao đổi, nước đưa lao động đi được coi là nước XKLĐ, còn nước tiếp nhận lao động được coi là nước nhập khẩu lao động (NKLĐ). Trên thực tế cũng có trường hợp xuất hiện vai trò của nước thứ ba làm nhiệm vụ trung gian môi giới có tính chất kinh doanh. Vid dụ: Việt Nam xuất khẩu lao động sang Libya xây dựng công trình “ Sông nhân tạo vĩ đại” thong qua hợp đồng lao động với công ty Dong Ah – Hàn Quốc. Trình độ lao động xuất khẩu ở các nước khác nhau thì khác nhau. Đối với những nước phát triển, có xu hướng gửi lao động kỹ thuật cao sang các nước chậm phát triển và đang phát triển để lấy thêm ngoại tê, tìm kiếm lợi nhuận ở nước ngoài. Đối với những nước chậm phát triển và đang phát triển, XKLĐ có xu hướng gửi lao động phổ thông, lao động tay nghề bậc trung để thu tiền công, tăng thu nhập, tích lũy ngoại tệ và giảm bớt sức ép về nhu cầu việc làm trong nước. Đặc điểm của xuất khẩu lao động Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đối ngoại Đối với nhiều nước trên thế giới, hoạt động XKLĐ là một trong những giải pháp quan trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng hoặc dư thừa ra nước ngaoif làm việc và thu ngoại tệ bằng cách chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích khác. Những lợi ích này buộ các nước xuất khẩu phải chiếm lĩnh ở mức cao nhất thị trường ở nước ngoài, mà việc chiếm lĩnh thị trường này lại dựa trên cơ sở cung cầu sức lao động và nó cũng chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường. Mặt khác, XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại đặc thù, XKLĐ là một hoạt động tất yếu khách quan của quá trình chuyên môn hóa và hợp tác quốc tế giữa các nước trong sản xuất, phù hợp với quy luậ phân công lao động quốc tế, góp phần đưa Việt Nam hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Xuất khẩu lao động là sự kết hợp hài hòa giữa Nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động XKLĐ là sự kết hợp hài hòa giữa sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và sự chủ động và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động xuất khẩu lao động. Ngày nay trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế thì hầu hết toàn bộ các hoạt động XKLĐ từ khâu tổ chức đưa người đi đến khâu quản lý người lao động và thực chịu trách nhiệm về hiệu quả trong toàn bộ hoạt động của mình trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Do vây, các hiệp định, các thỏa thuận song phương giữa các quốc gia chỉ có tính chất nguyên tắc, thể hiện vai trò và trách nhiệm của Nhà nước ở tầm vĩ mô. Xuất khẩu lao động thể hiện rõ tính nhân văn Đây là một đặc điểm có ý nghĩa lớn nhất của hoạt động XKLĐ. Vì XKLĐ thực chất là xuất khẩu sức lao động trong khi đó sức lao động lại gắn có chặt chữ với người lao động, không tách rời người lao động. Do vậy, mọi hoạt động của các doanh nghiệp tham gia XKLĐ không phải chỉ là nhằm mục tiêu lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn phải xuất phát từ con người, quan tâm tới lợi ích của người đi XKLĐ Hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp diễn ra trong điều kiện, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Sự cạnh tranh ở đây không chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp tham gia hoạt động XKLĐ ở trong nước mà còn là cả sự cạnh tranh giữa các quốc gia cùng cung ứng lao động xuất khẩu trên một thị trường, các thị trường khác nhau và giữa các doanh nghiệp XKLĐ mạnh, có hệ thống ưu việt như Trung Quốc, Thái Lan, Philippin… Lợi ích kinh tế của Nhà nước từ hoạt động XKLĐ là khoản ngoại tệ mà người lao động gửi về và các khoản thế do các doanh nghiệp XKLĐ phải nộp. Lợi ích của các doanh nghiệp chủ yếu là các khoản phí thu được từ hoạt động XKLĐ. Lợi ích của người lao động là khoản thu nhập từ lương mà họ nhận được từ phía chủ sử dụng lao động ở nước ngoài, khoản thu nhập này thường cao hơn rất nhiều lần so với lao động của họ ở trong nước. Hoạt động xuất khẩu lao động phải đảm bảo lợi ích trong quan hệ ba bên Lợi ích kinh tế của Nhà nước từ hoạt động XKLĐ là khoản ngoại tệ mà người lao động gửi về và các khoản thuế do các doanh nghiệp XKLĐ phải nộp. Lợi ích của các doanh nghiệp chủ yếu là các khoản phí thu được từ hoạt động XKLĐ. Lợi ích của các doanh nghiệp chủ yếu là các khoản phí thu được từ hoạt động XKLĐ. Lợi ích của người lao động là khoản thu nhập từ lương mà họ nhận được từ phía chủ sử dụng lao động ở nước ngoài, khoản thu nhập này thường cao hơn rất nhiều lần so với lao động của họ ở trong nước. Hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động chịu sự tác động mạnh mẽ của các biến động của thị trường sử dụng lao động Hiện nay, hầu như các doanh nghiệp XKLĐ ở các nước XKLĐ ở các nước NKLĐ về mọi điều kiện. Trên thị trường lao động quốc tế, thường thì các nước XKLĐ phải chấp nhận các điều kiện do các nước NKLĐ đưa ra như số lượng lao động, mức tiền công, tiền lương, ngành nghề tuyển dụng, điều kiện làm việc…nước ta mới gia nhập thị trường lao động quốc tế, do vậy hoạt động XKLĐ của Việt Nam cũng phải hoạt động trong môi trường chịu sự tác động của cơ chế đó. Xuất khẩu lao động là một lĩnh vực xuất khẩu đặc biệt Trước hết ta thấy thị trường lao động là một thị trường đặc biệt, đặc trưng cơ bản của hoạt động xuất khẩu lao động khác so với xuất khẩu các loại hàng hóa khác xuất phát từ tính đặc thù của loại hàng hóa này. Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt vì con người là chủ thể lao động, có tư duy và khả năng làm chủ bản thân. Cho nên, trong Hiệp định hay hợp đồng ký kết, ngoài các điều khoản thông thường còn có các điều khoản đề cập đến đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần, sinh hoạt của người lao động. Những điều này bị chi phối bởi phong tục, tập quán, tôn giáo, văn hóa của các quốc gia vào lĩnh vực này. XKLĐ phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi nước, là hướng dẫn sử dụng lao động có hiệu quả, tận dụng được lợi thế so sánh của cả nước xuất khẩu và nhập khẩu lao động XKLĐ ở Việt Nam là một hoạt động được sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước, Nhà nước đã ban hành một hệ thống luật và các băn bản dưới luật để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh xung quanh vấn đề XKLĐ, cho phép các tổ chức thực hiện XKLĐ trên cơ sở tuân thủ hệ thống luật và các văn bản pháp quy đó. Chính vì thế, XKLĐ là một hoạt động xuất khẩu đặc biệt. Tính tất yếu của xuất khẩu lao động Trong tác phẩm “Phép biện chứng tự nhiên” F. Ăng ghen viết: “Con người sống lan rộng ra tất cả những nơi nào có thể được và người là một loại động vật duy nhất làm được điều đó một cách độc lập, tự chủ”. Ngay từ buổi bình minh của loài người đã xuất hiện sự di chuyển nguồn lao động đến những miền đất tốt đẹp hơn. Như vậy sự di cư lao động quốc tế thể hiện tính tất yếu và tác dụng tiến bộ của lịch sử. Cuối thế kỷ 19 do các mỏ khoáng sản ở Nam Phi thiếu nhiều lao động nên đã xuất hiện các luồng di dân chuyển tới đó. Ngày nay, cũng chính sự phân bố không đều về dân cư, về điều kiện tự nhiên (tài nguyên, khí hậu) với sự bùng nổ dân số trên thế giới đã hình thành luồng di cư lao động ở những nước kinh tế chậm phát triển di cư đến những nước có đời sống kinh tế khá hơn, lao động ở nước nghèo tài nguyên di chuyển đến những nước có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, dân cư ở nước có mật độ dân số cao di chuyển đến những nước có mật độ dân cư thấp. Các hướng di chuyển rõ nét nhất hiện nay là từ Đông sang Tây, từ Đông và Phi di chuyển sang vùng Trung cận đông. Như vậy việc di chuyển lao động trước hết là một hiện tường khách quan trong quá trình hoạt động kinh tế của bản thân người lao động. Xuất khẩu lao động – sự di chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch có nguyên nhân hình thành và phát triển không ngoài những yếu tố khách quan trên. Vì đây là hoạt động hợp pháp, có tổ chức nên nó còn vị chi phối bởi các yếu tố chủ quan như ý chí của các Nhà nước, của các tổ chức cung ứng và nhận lao động…Phân tích cụ thể có thể chia thành các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Do có sự mất cân đối về số lượng lao động, khi nguồn lao động nước đó không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước. Sự dư thừa lao động, vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước của một quốc gia có thể la do quốc gia đó có tỷ lệ phát triển dân sơ cao, nền sản xuất trong nước lạc hậu, kém phát triển nên nhu cầu sử dụng thấp hoặc do quốc gia đó có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế mà trong giai đoạn chuyển tiếp nền kinh tế chưa thể phù hợp ngày với cơ chế mới nên đã giảm sút nghiêm trọng, sản xuất bấp bênh, số lao động dôi thừa tăng nhanh. Trong khi đó nhiều nước có nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu sử dụng lao động lớn nhưng tốc độ tăng dân số lại quá thấp nên đã xảy ra hiện tượng thiếu lao động. Thứ hai: Do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề, thường xảy ra khi nhu cầu lao động tạm thời yêu cầu một số ngành nghề nhất định mà trong nước không có hoặc không đủ. Ví dụ: ở một số nước phát triển, rất thiếu lao động làm trong các ngành nặng nhọc, độc hại hay ở nhiều nước chậm phát triển rất thiếu các chuyên gia, các cán bộ kỹ thuật trình độ cao. Trình độ phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật – công nghệ của mỗi quốc gia không thể giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao đổi lao động với các quốc gia khác. Hành vi trao đổi này dẫn đến việc xuất khẩu lao động. Thứ ba: Do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức lao động nước ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến hành xuất khẩu lao động vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được những hợp đồng xuất khẩu lao động với giá cao và bù lại học nhập khẩu sức lao động từ những nước có giá cả thấp hơn. Điều này lý giải tại sao nhiều nước vừa nhập khẩu lại vừa xuất khẩu lao động như Cu Ba, Malaysia, Bungari…( Thực chất là các nước tận dụng lợi thế so sánh của mình). Thứ tư: do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa người lao động trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì lý do này mà nhiều người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn muốn đi xuất khẩu lao động để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống bản thân và gia đình. Thứ năm: Do trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ giữa các quốc gia trên thế giới không đồng đều, sự khác biệt về nguồn lực phát triển như vốn, công nghệ, sức lao động…Từ đó đưa tới nhu cầu tất yếu về sự trao đổi ( sự di chuyển) các nguồn lực này. Thứ sáu: Do sự chênh lệch về mức tăng dân số tự nhiên giữa các quốc gia và từ đó đưa tới sự chênh lệch về mức tăng nguồn lao động. Thứ bảy: Do xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới quốc gia mà mở rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc tế phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Hơn nữa việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc tế sẽ tất yếu kèm theo việc phát triển xuất khẩu lao động. Đồng thời việc ra đời các liên kết kinh tế quốc tế cao cấp như EU, như cộng đồng kinh tế ở các châu lục khiến hoạt động xuất nhập khẩu lao động trở nên dễ dàng hơn. Ví dụ lao động của Đức có thể sang nước Bỉ, Pháp làm việc và được hưởng mọi quyền lợi như lao động của nước sở tại. Ngoài ra, còn do có sự chênh lệch về mức tăng dân số tự nhiên giữa các quốc gia và từ đó đưa tới sự chênh lệch vể mức tăng nguồn lao động; do trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ giữa các quốc gia trên thế giới không đồng đều, sự khác biệt về nguồn lực phát triển như vốn, công nghệ, sức lao động...Từ đó đưa tới nhu cầu tất yếu về sự trao đổi, sự di chuyển các nguồn lực này. Các hình thức xuất khẩu lao động Phân loại theo cách thức tổ chức đưa người lao động ra nước ngoài Xuất khẩu lao động theo hiệp định giữa Chính phủ với Chính phủ Hình thức này phổ biến ở giai đoạn 1980 – 1990 ở Việt Nam. Căn cứ vào Hiệp định đã ký, Nhà nước phân các chỉ tiêu cho các Bộ, Ngành, địa phương tiến hành tuyển chọn và đưa người lao động đi. Lao động của nước ta làm việc ở các nước được quản lý thống nhất từ trên xuống dưới, sống và sinh hoạt theo đoàn đội, được làm việc xen ghép với lao động các nước. XKLĐ trực tiếp theo các yêu cầu của công ty nước ngoài thông qua hợp đồng lao động. Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay, hình thức này đòi hỏi đối tượng lao động đa dạng, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu khác nhau. Các chuyên gia, người lao động thường được các công ty cung ứng dịch vụ lao động gửi ra nước ngoài lao động có thời hạn theo hợp đồng cung ứng lao động. XKLĐ đi làm các công trình bao thầu ở nước ngoài, chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng. Các chuyên gia, lao động ra nước ngoài làm việc ở các dự án mà họ đã trúng thầu. Các công ty gửi lao động, chuyên gia ra nước ngoài làm việc ở công ty mẹ hoặc công ty con, hoặc các công ty khác trong cùng một tập đoàn đóng ở các nước khác nhau, hoặc đến làm việc tại các văn phòng đại diện, chi nhánh công ty đặt tại các nước khác. Lao động tự do: Tự tìm việc làm ở nước ngoài, sau một thời gian sẽ trở về đất nước Phân loại theo trình độ người lao động Xuất khẩu chuyên gia cao cấp: Những người này ra nước ngoài làm việc với vai trò tư vấn, giám sát, giảng dạy, hướng dẫn kỹ thuật hay đào tạo nghề. Xuất khẩu thợ lành nghề: Đây là loại lao động đã được đào tạo một nghề nào đó và khi ra nước ngoài làm việc họ có thể bắt tay ngay vào công việc mà không phải tiến hành đào tạo nữa. Xuất khẩu lao động giản đơn: Là loại lao động chưa được đào tạo một loại nghề nào cả nên không có nghề hoặc có nghề ở mức thấp. Phân loại theo địa điểm xuất khẩu lao động XKLĐ ra nước ngoài làm việc: có nghĩa là lao động được di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia và trực tiếp làm việc tại nước ngoài. XKLĐ tại chỗ: Là hình thức cung ứng sức lao động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài hoạt động ở Việt Nam (bao gồm: các xí nghiệp có vồn đầu tư nước ngoài; các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao; các tổ chức cơ quan ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam) (Trong phạm vi nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp này không đề cập đến hình thức xuất khẩu lao động tại chỗ) Vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế xã hội Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, kém phát triển. Hoạt động này đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia: bên xuất khẩu lao động, bên nhập khẩu lao động và bản thân người lao động. Xét trên góc độ vĩ mô: Với nước xuất khẩu lao động: Nước xuất khẩu lao động có lợi về nhiều mặt trong đó đặc biệt là các lĩnh vực: Kinh tế, xã hội, quan hệ đối ngoại. - Về kinh tế: Xuất khẩu lao động có vai trò đặc biệt trong hoạt động kinh tế. Trước hết, nó góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Có thể nói, xuất khẩu lao động giữ một vị trí rất quan trọng trong chương trình việc làm quốc gia, nếu không nói là chủ yếu trong chiến lược giải quyết việc làm, đây là một công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đặt ra năm 2010 sẽ xoá hết đói nghèo. Kinh nghiệm từ một số nước cho thấy, xuất khẩu lao động là một giải pháp khắc phục tình trạng thất nghiệp có hiệu quả cao. Theo ILO, số người thất nghiệp trên thế giới đã đạt kỷ lục 212 triệu người trong năm 2009. Vì vậy, giải quyết tình trạng thất nghiệp hiện nay cần phải là ưu tiên chính trị khẩn cấp và cần được thực hiện thông qua một đường lối chung thống nhất giữa chính sách công và đầu tư tư nhân. Để khắc phục tình trạng này, các nước đã thành công bằng sử dụng giải pháp xuất khẩu lao động. Bên cạnh những đóng góp trên, xuất khẩu lao động còn đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế do vậy rút ngắn khoảng cách giàu- nghèo giữa nước phát triển và nước đang phát triển. Xuất khẩu lao động cũng là một kênh đem lại một nguồn thu nhập quan trọng cho đất nước. Theo ước tính, số lao động xuất khẩu năm 2004 đã gửi về cho gia đình khoảng 1,5 tỷ USD, bình quân mỗi._. lao động khoảng 3.750 USD hay 302,5 USD một tháng, cao gấp nhiều lần phần dôi ra sau khi trừ đi chi tiêu cho ăn uống của lao động trong nước. Một tỷ rưỡi USD tuy chưa thấm tháp gì so với Philippines (số tiền gửi qua kênh chuyển tiền chính thức là trên 7 tỷ USD, còn theo ước tính của ADB tính thêm cả kênh chuyển tiền không chính thức thì tổng số lên đến 14 – 21 tỷ USD, chiếm 32%GDP của nước này), nhưng đã chiếm khoảng 3,3% GDP của cả nước và tương đương với nguồn vốn ODA giải ngân trong năm. - Về xã hội: Đối với một nước hơn 82 triệu dân, với trên một nửa là số người trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên đến 5,6% và số thời gian chưa được sử dụng ở nông thôn lên đến trên 20%, thì xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm cho người lao động rất có ý nghĩa. Trong mấy năm gần đây, số lao động đi xuất khẩu của nước ta mỗi năm đã lên đến trên dưới 70 nghìn người và đến nay đã có khoảng 400 nghìn người Việt Nam đang làm việc ở khoảng trên 40 nước và vùng lãnh thổ. Song nếu so với Philippines có cùng số dân và số người trong tuổi lao động như Việt Nam thì kết quả trên còn thấp hơn rất nhiều. Năm 2004, nước này đã có 1 triệu lao động đi làm việc ở nước ngoài, đưa Philippines vượt qua Mexico trở thành nước xuất khẩu lao động lớn nhất thế giới. Cho đến nay, nước này có khoảng 8 triệu lao động làm việc ở 56 nước, đông nhất là tại Mỹ, ả Rập Saudi, Malayxia, Canada, Nhật Bản… Thực hiện tốt công tác xuất khẩu lao động sẽ giảm được tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra, tạo một hướng lao động tích cực cho người lao động, học tập được phong cách lao động mới do tổ chức lao động ở nước ngoài trang bị... - Về quan hệ đối ngoại: Mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu lao động là vô cùng quan trọng, từ đó quan hệ giữa nước cung ứng lao động và nước tiếp nhận lao động trở nên gắn bó hơn, hiểu nhau hơn, tao ra mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Cung cấp cho nhau những thông tin quan trọng về những vấn đề hai nước cùng quan tâm và thống nhất quan điểm hai bên cùng có lợi. Sự đa dạng hoá các quan hệ hợp tác quốc tế được mở rộng thông qua hợp tác về lao động sẽ tạo điêù kiện mở rộng hơn nữa các quan hệ hợp tác khác. Với nước nhập khẩu lao động: Nước nhập khẩu lao động thu được những lợi ích đáng kể như: cung cấp đủ số lao động bù đắp vào các ngành thiếu hụt, khai thác có hiệu qủa tiềm năng của đất nước. Đồng thời, mở rộng quan hệ và uy tín với nước có lao động, khai thác kinh nghiệm, kiến thức, tác phong lao động và cung ccáh quản lý của nước khác, mở rộng nhu cầu thị trường trong nước... Ngoài ra xuất khẩu lao động cũng góp phần giả quyết nhu cầu lao động đặc biệt là trong các lĩnh vực mà lao động địa phương ít tham gia tại nước tiếp nhận lao động. Xét trên góc độ vi mô: Với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lao động: - Xuất khẩu lao động là một bộ phận của xuất khẩu do vậy các doanh nghiệp tham gia trong lĩnh vực này phải tìm hiểu kỹ về nền văn hoá, phong tục tập quán của nước nhập khẩu, đây là tiền đề tốt trong quá trình hội nhập quốc tế. - Doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động là đã tham gia hiệu quả vào chương trình quốc gia giải quyết việc làm đồng thời thực hiện một phần thoả thuận hợp tác giữa hai chính phủ. - Doanh nghiệp xuất khẩu lao động làm ăn có hiệu quả sẽ thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên một vấn đề bức xúc đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay đó là tình trạng ngày càng có nhiều lao động không thực hiện hợp đồng đã ký.Việc này có thể gây ảnh hưởng lớn đối với uy tín của doanh nghiệp cũng như sự ổn định trên thị trường hiện tại và tiềm năng. Với bản thân người lao động: - Người đi xuất khẩu lao động có điều kiện giúp gia đình thoát khỏi đói nghèo cải thiện mức sống của bản thân và gia đình. - Người lao động có thể tiếp thu kỹ năng làm việc, quản lý, tích luỹ trình độ tay nghề và kinh nghiệm thực tiễn để tự tạo việc làm sau khi về nước. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động: Hiệu quả là chỉ tiêu so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó ( Hiệu quả = kết quả - chi phí ). Có hai loại hiệu quả là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế là hiệu quả đạt được về mặt kinh tế, còn hiệu quả xã hội là hiệu quả đạt được về mặt xã hội. Đây là khái niệm chung để đánh giá hiệu quả, tuy nhiên khi đi vào từng lĩnh vực cụ thể thì việc đánh giá hiệu quả không đơn giản chút nào, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu lao động này. Bởi vì để có thể đánh giá chính xác, đầy đủ và đúng hiệu quả kinh tế xã hội ở từng thị trường cụ thể thì chúng ta cần phải đánh giá toàn bộ, toàn diện một cách tổng hợp những kết quả đạt được và chi phí bỏ ra trong quá trình hoạt động đó, đồng thời, phải xem xét hiệu quả của nó trên cơ sở lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân của nước ta. Qua đó một lần nữa thấy rõ hơn việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài trong mối liên hệ chung của nền kinh tế đất nước quan trọng như thế nào bởi lẽ kết quả cuối cùng của lĩnh vực này được chuyển từ chu trình này sang một chu trình khác, từ ngành này sang ngành khác, từ nước này sang nước khác...Với quan điểm như vậy, đánh giá hiệu quả của lĩnh vực này không thể giống như việc đánh giá hiệu quả của một quá trình kinh doanh cụ thể trong nước mà không có phần phức tạp hơn nhiều. Một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của xuất khẩu lao động Lợi ích kinh tế đạt được Số lượng lao động được giải quyết việc làm trong năm: Công thức tính: L = Lc + Lx - Ln Trong đó: L: Số lao dộng kết thúc hợp đồng trở về nước trong năm Ý nghĩa của chỉ tiêu: Chỉ tiêu này nêu ra được chi tiết kết quả đạt được trong một năm qua của công tác xuất khẩu llao động được giải quyết việc làm trong năm Lc: Số lao động từ năm trước vẫn còn đang tiếp tục Lx: Số lao động được đưa sang hoạt động trong năm Ln: Số lao lao động. Nó chỉ ra được những đóng góp của lĩnh vực này đối với việc tạo công ăn việc làm cho xã hội mà nhà nước ta đã không phải bỏ vốn đầu tư để tạo việc làm mới, giải quyết một phần tình trạng ứ đọng lao động của đất nước ( mặc dù trước khi đi xuất khẩu lao động những người lao động này không phải tất cả đều thuộc diện thất nghiệp). Thu nhập quốc dân về ngoại tệ thông qua hoạt động xuất khẩu lao động: Công thức tính: P = ∑ Yj ( j = 1 đến n ) Yj = Xij . Kj Trong đó: P : Mức thu của nhà nước Y: Mức thu của nhà nước ở mỗi thị trường n : Số thị trường đưa lao động sang j : Nước đưa lao động sang K : Tỷ số hối đoái quy đổi ra ngoại tệ quy ước X : Thuế thu nhập mỗi người phải đóng Ý nghĩa chỉ tiêu: Chỉ tiêu này cho biết số tiền nhà nước thu được thông qua xuất khẩu lao động. Vấn đề ngoại tệ (nhất là ngoại tệ mạnh) đối với Việt Nam có ý nghĩa to lớn. Tất cả các hoạt động có thể đem về ngoại tệ cho đất nước cần được khuyến khích. “ Cùng với việc xuất khẩu hàng hoá cần hết sức coi trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thu ngoại tệ như phát triển du lịch, cung ứng tàu biển, dịch vụ hàng không, tổ chức gia công hàng xuất khẩu và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là những hình thức thích hợp với hàng triệu người lao động dư thừa hiện nay. Khả năng hợp tác lao động với nước ngoài của nước ta là rất lớn, nếu chúng ta biết tổ chức và khai thác hết những tiềm năng đó trong quan hệ kinh tế đối ngoại thì sẽ thu đựơc nguồn ngoại tệ đáng kể thúc đẩy sản xuất phát triển.” Mức tiết kiệm đầu tư vào việc làm của chính phủ: Công thức tính: Mtk = mdt . L Trong đó: Mtk : Mức tiết kiệm vốn đầu tư tạo ra việc làm mdt : Mức đầu tư trung bình tạo ra một chỗ làm việc mới L : Số người có việc làm thường xuyên ở nước ngoài Ý nghĩa chỉ tiêu: Cho biết mức độ tiết kiệm không phải bỏ vốn đầu tư tạo ra chỗ làm việc mới ở trong nước và đồng nghĩa với việc tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho giải quyết việc làm. Giá trị hàng hoá do người lao động đưa về: Công thức tính: G = ∑ Hj ( j = 1 đến n ) Hj = ∑ hij . Nj Trong đó: G : Giá trị hàng hoá do người lao động đem về H : Giá trị hàng hoá do người lao động ở mỗi thị trường đem về h : Giá trị hàng hoá trung bình của một người lao động đem về N : Số người gửi hàng hoá về trong năm i : Biến số người j : Biến số thị trường Ý nghĩa chỉ tiêu: Cho biết lượng hàng hoá do người lao động đem về góp phần vào việc cân đối quỹ hàng hoá trong nước và cải thiện đời sống gia đình, tăng thêm máy móc thiết bị làm tư liệu sản xuất. Thu nhập do lao động đi làm việc ở nước ngoài bổ sung vào thu nhập quốc dân: Công thức tính: Q = ∑ (Pj + Vij) . kj ( j = 1 đến n) Trong đó: Q : Thu nhập của người lao động làm việc ở nước ngoài tính vào thu nhập quốc dân P : Các khoản phải nộp của mỗi người lao động V : Thu nhập của người lao động sau khi đã khấu trừ phần phải nộp k : Tỷ giá hối đoái quy đổi ngoại tệ i : Biến số người j : Biến số nước sử dụng lao động Ý nghĩa chỉ tiêu: Chỉ tiêu cho biết phần thu nhập của người lao động ở nước ngoài được tính vào thu nhập quốc dân. Ngoài các chỉ tiêu có thể lượng hoá được để so sánh nói trên còn có một số chỉ tiêu khác cũng có thể lượng hoá được như số lao động có nghề được đào tạo nâng cao trình độ, mức tiết kiệm chi phí đào tạo trên một người lao động... song nói chung còn ở mức thấp. Một số khía cạnh khác như việc du nhập kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm sản xuất mới, việc du nhập nếp sống tiến bộ, tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa hai nước, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế ...phản ánh hiệu quả về mặt xã hội. Chi phí bỏ ra: Bao gồm có các chi phí cho người lao động trong lĩnh vực tham gia, chi phí cho bộ máy quản lý, tổ chức tuyển mộ, đưa đi và quản lý ở nước ngoài, xử lý các công việc sau khi đưa người lao động hết hạn trở về nước, tiền nộp phạt cho nước bạn do người lao động tự ý bỏ hợp đồng... Chi phí về mặt xã hội có ý kiến cho rằng còn có những tiêu cực do lao động gây ra ở nước ngoài. Song những cái đó là yếu tố chủ quan có thể khắc phục được nếu có biện pháp và chính sách thích hợp. Các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu lao động Các yếu tố thuộc về nước nhập khẩu lao động Phong tục tập quán của nước nhập khẩu lao động (NKLĐ): Mỗi một quốc gia, lánh thổ, khu vực hay thậm chí các vùng trong một quốc gia đều có những phong tục tập quán khác nhau. Yếu tố này của nước NKLĐ có ảnh hưởng mạnh tới cuộc sống hàng ngày của người lao động trong quá trình sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Vì vậy khi đến làm việc tại nước ngoài người lao động phải thích nghi và làm quen với những phong tục, tập quán ở đó. Nếu có sự khác biệt quá lớn về phong tục, tập quán sẽ khó khăn cho người lao động và đôi khi có thể gây ra mâu thuẫn giữa người lao động và chủ sử dụng lao động. Luật pháp của nước NKLĐ: Mỗi quốc gia có một hệ thống luật pháp khác nhau. Các doanh nghiệp trước khi đàm phán ký kết hợp đồng cần tìm hiểu kỹ luật pháp của nước NKLĐ, cũng như cung cấp cho người lao động những thông tin về các vấn đề liên quan đến họ trong thời gian làm việc ở nước ngoài và giáo dục học ý thức tuân thủ luật pháp để tránh những vi phạm đáng tiếc có thể xẩy ra. Chủ sử dụng lao động: Cốt lõi thành công khi ký hợp đồng cung ứng lao động với bên nước ngoài là phải tìm hiều, xem xét thật kỹ phía chủ sử dụng lao động. Nếu không tìm hiểu kỹ, có những đối tác khó khăn về vốn, không đảm bảo việc làm cho người lao động, chậm trả lương cho người lao động…, các doanh nghiệp sẽ phải điện, fax hoặc bay sang tận nơi để giải quyết. Các yếu tố thuộc về nước xuất khẩu lao động Chủ trương chinh sách của Đảng và Nhà nước ta về xuất khẩu lao động: Hiện nay ở nước ta xuất khẩu lao động được coi là một trong 4 ngành kinh tế mũi nhọn (dầu khí, dệt may, thủy sản, xuất khẩu lao động). Đã có rất nhiều văn bản pháp luật được ban hành quy định chi tiết về hoạt động xuất khẩu lao động như Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị định của Chính phủ, các thông tư hướng dẫn của các Bộ, Ngành liên quan. Các văn bản pháp luật được ban hành là nhằm tạo ra cơ chế, chính sách thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động… Người lao động: Xét về mặt pháp lý thì khi người lao động ký kết hợp đồng với doanh nghiệp để đi làm việc ở nước ngoài thì bản thân học là một chủ thể tham gia tự nguyện, họ có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trước pháp luật nên phải có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận đã ký và cam kết với doanh nghiệp. Chất lượng của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động: hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực tổ chức và thực hiện của doanh nghiệp mà nhân tố chính là đội ngũ cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ xuất khẩu lao động của mình. Các nhân tố khác Thị trường lao động quốc tế: Quan hệ chính trị, kinh tế giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu: Quan hệ kinh tế cũng như các quan hệ khác giữa các quốc gia không thể tách rời thể chế chính trị và quan hệ chính trị giữa các quốc gia đó. Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, lĩnh vực liên quan đến con người, có nhiều yếu tố nhạy cảm thì quan hệ chính trị giữa các quốc gia đó. Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, lĩnh vực liên quan đến con người, co nhiều yếu tố nhạy cảm thì quan hệ chính trị ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Nếu không có sự tôn trọng lẫn nhau giữa nước xuất khẩu và nước NKLĐ về mặt chính trị, tôn giáo thì không thể có sự di chuyển sức lao động giữa các quốc gia này vì sức lao động gắn liền với con người cụ thể, có ý chí, suy nghĩ và hoạt động vì lợi ích của quốc gia mình một cách chủ động hoặc bị động. Các yếu tố không thường xuyên và bất khả kháng khác: Chiến tranh xung đột giữa các nước, khu vực hoặc lãnh thổ trên thế giới; cuộc khủng hoảng tài chính châu Á; dịch bệnh viêm đường hô hấp (SARS) trong khu vực và thế giới…Các yếu tố trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp nước ta cũng như các nước. Nội dung của xuất khẩu lao động Tìm kiếm, khai thác thị trường Đối với thị trường cung ứng lao động trong nước Do tỷ lệ dân số trong đọ tuổi lao động của nước ta là rất lớn, nhu cầu tìm kiếm việc làm rất cao nhưng không phải đỗi tượng nào muốn đi xuất khẩu lao động là có thể đi dễ dàng được. Một người muốn đi xuất khẩu lao động được thì trước tiên phải đủ điểu kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi, có sức khỏe tốt và phải có món tiền khá lớn từ 500 – 4000 USD tùy theo từng thị trường lao động nước ngoài. Với mức chi phí ban đầu lớn như vậy thị người lao động muốn đi xuất khẩu lao động cần phải có vốn, tài sản khá lớn. Trên thực tế phần đông các đối tượng đi xuất khẩu lao động đều thuôc diện ở thành thị hay người có kinh tế khá giả ở nông thôn, tuy nhiên có một số người nghèo đã vay mượn tiền để đi nhưng con số này không lớn bởi việc vay mượn không dễ dạng. Chính phủ đã có các quy định, hướng dẫn bằng các văn bản về vấn đề này. Đối với thị trường nước ngoài tiếp nhận lao động Thiết lập quan hệ Nhà nước với các nước có nhu cầu sử dụng lao động: Nhà nước đóng vai trò quyết định cho sự ổn định và phát triển Xuất khẩu lao động. Ngoài chức năng xác định chủ trương, định hướng chiến lược…để hỗ trợ cho xuất khẩu lao động phát triển, Chính phủ còn có vai trò hết sức to lớn trong phát triển thị trường lao động ngoài nước. Thiết lập quan hệ Nhà nước, hình thành hệ thống tùy viên lao động để tham mưu, tư vấn cho nhà nước các Hiệp định khung hoặc các thỏa thuận nguyên tắc để mở đường cho các doanh nghiệp ký kết và thực hiện các hợp đồng cụ thể. Đối với các nước xuất khẩu lao động truyền thống, vai trò của tùy viên lao động rất lớn, có tính quyết định cho việc thâm nhập, cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Các doanh nghiệp cố gắng duy trì các thị trường lao động truyền thống của mình và cố gắng chủ động tìm kiếm, mở rộng phát triển sang các thị trường lao động mới. Khi khai thác thị trường lao động nước ngoài cần chú ý đến các khu vực các nghề mà người lao động làm việc. Cần nắm vững các khu vực nghề, công việc mà Chính phủ nươc ta đã có quy định không đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài như: vũ nữ, ca sỹ, phục vụ gia đình, những công việc tiếp xúc chất nổ, độc hại… Trong thời gian qua thị trường xuất khẩu lao động Đông Âu của nước ta mất dần nhưng ta lại tiếp nhận, khai thác được các thị trường châu Á, tiêu biểu là thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Đông. Ngoài ra ta cũng cần tiếp cận thị trường lao động châu Phi và bắt đầu đặt chân lên thị trường lao động châu Mỹ. Các thị trường lao động này biến động không ngừng đòi hỏi chính phủ ta, các Bộ, Ngành cũng như các doanh nghiệp cần có các biện pháp hợp lý để duy trì phát huy thị trường hiện có và khai thác thêm các thị trường với nhiều tiềm năng hứa hẹn. Sau khi đã khai thác được thị trường, có được đối tác tiếp nhận lao động thì ta tổ chức đàm phán ký kết và thực hiện các hợp đồng cung ứng lao động. Đàm phán và thực hiện các hợp đồng cung ứng lao động Trước đây, ta chủ yếu đưa lao động đi làm ciệc có thời hạn ở nước ngoài theo Hiệp định Chính phủ thì trong giai đoạn hiện nay ta chủ yếu Xuất khẩu lao động thông qua các hợp đồng cung ứng lao động. Khi đàm phán và thực hiện các hợp đồng cung ứng lao động cho nước ngoài cần chú ý những vấn đề sau: Thứ nhất: Tìm hiểu sơ bộ về đối tác, thị trường tiếp nhận Tìm hiểu luật pháp nước tiếp nhận lao động cho phép NKLĐ Việt Nam hay không? Có hạn chế gì không? Luật lao động nước đó có quy định như thế nào đối với người lao động như giờ làm việc, nghỉ ngơi, lương tối thiểu, tiền công làm thêm giờ, bảo hiểm y tế… Tìm hiểu tư cách pháp nhân, năng lực tài chính của đối tác. Nếu XKLĐ cho dự án, công trình thì tìm hiểu dự án, công trình có khả thi hay không? Khả năng thực hiện đến đâu? Mức sống dân cư, giá sinh hoạt như giá thực phẩm, ăn ở đi lại, giá thuê lao động nước ngoài tại thời điểm đó. Thứ hai: Các vấn đề cụ thể trong hợp đồng: Mức yêu cầu về chất lượng lao động ta có khả năng đáp ứng được không? Tiền lương đưa ra là lương ròng hay gồm tiến ăn, ở, tiền thưởng, tiền làm thêm giờ? Chi phí vé máy bay đi, về, thuế của nước sở tại; Bảo hiểm xã hội ai chịu? ( thường thì người sử dụng lao động chịu và không tính vào lương). Thời gian bố trí, sắp xếp điều kiện ăn, ở, sinh hoạt của người lao động. Vấn đề thanh toán tiền lương, chuyển tiền về nước. Tổ chức Xuất khẩu lao động sau khi đàm phán, ký kết được hợp đồng cung ứng lao động đối với đối tác nước ngoài tiến hành làm thủ tục đề nghị Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cấp giấy phép thực hiện hợp đồng. Để hoàn thành tốt trách nhiệm quy định trong hợp đồng, đảm bảo lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, đồng thời giữ và tăng cường uy tín của lao động Việt Nam nhằm duy trì và phát triển thị trường thì trong quá trình thực hiện hợp đồng các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần phải chú ý và coi trọng công tác tuyển chọn, đào tạo, giáo dục người lao động trước khi đi, công tác quản lý lao động ở nước ngoài. Công tác tuyển chọn, đào tạo, giáo dục, huấn luyện người lao động trước khi đi thi Công tác tuyển chọn Tiêu chuẩn tuyển chọn lao động thường phải bảo đảm như sau: Người lao động phải có sức khỏe tốt, không bị bệnh tật, trong độ tuổi quy định. Người lao động phải có tay nghề giỏi Người lao động phải có tư cách đạo đức tốt, am hiểu pháp luật, quá khứ chưa vi phạm kỷ luật lần nào. Người lao động phải tự nguyện ký hợp đồng và tự nguyện đi làm việc ở nước ngoài theo như hợp đồng đã ký kết. Ngoài ra người lao động còn phải phù hợp với các yêu cầu khác (nếu có) của bên sử dụng lao động. Quy trình tuyển chọn Trước khi tuyển chọn, doanh nghiệp thông báo công khai tại trụ sở và tại địa bàn tuyển chọn những yêu cầu về giới tính, tuổi đời; công việc; nơi làm việc và thời hạn của hợp đồng; điều kiện làm việc và sinh hoạt, tiền lương (tiền công); các khoản và mức đóng góp, quyền và nghĩa vụ của người lao động…doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải trực tiếp tuyển chọn lao động; chậm nhất sau 05 ngày kể từ ngày dự tuyển, doanh nghiệp phải thông báo công khai kết quả tuyển chọn cho người lao động. Sau sáu tháng kể từ ngày trúng tuyển, nếu doanh nghiệp chưa đưa người lao động đi được thì phải thông báo lý do cho người lao động biết. Công tác đào tạo, giáo dục và huấn luyện người lao động trước khi đi Chương trình và thời gian đào tạo tối thiều cho người lao động từ 2- 3 tháng. Người lao động được tập trung về trường hoặc trung tâm đào tạo: Đào tạo nâng cao tay nghề Đào tạo ngoại ngữ Giáo dục định hướng Các doanh nghiệp còn tổ chức soạn thảo tài liệu, in ấn cẩm nang cho người lao động đi làm việc từng nước. Về mặt quy trình tiếp cận đào tạo xuất khẩu lao động, cũng giống như những loại hình đào tạo khác, phải tuân thủ theo quy trình tiếp cận sau: Xác định nhu cầu đào tạo; phân tích nhu cầu đào tạo; Phân tích nhu cầu công việc, mô tả công việc, xác định các kiến thức, kỹ năng, thái độ để phục vụ công việc; Phân tích nhu cầu cá nhân, đặc điểm đối tượng tuyển sinh, kỹ năng nghề nghiệp đã có, khả năng trí tuệ, thể lực, tâm lý, tình cảm và hoàn cảnh gia đình, các mối quan hệ… Phân tích đặc điểm văn hóa, xã hội của nước tiếp nhận lao động. Sử dụng phương pháp tiếp cận và kỹ thuật đánh giá nhu cầu đào tạo. Xây dựng kế hoạch, chiến lược đào tạo phát triển nguồn nhân lực; Xác định mục tiêu và thiết kế nội dung chương trình và phương pháp đào tạo; Tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo. Các thủ tục hồ sơ chuẩn bị cho xuất cảnh Người lao động sau khi đã được chấp thuận, tuyển chọn phù hợp với các yêu cầu về công việc cũng như các yêu cầu khác của phía chủ sử dụng lao động, có kết quả khám sức khỏe đảm bảo đủ tiêu chuẩn đi lao động ở nước ngoài sẽ được thỏa thuận với doanh nghiệp để ký hợp đồng (theo mẫu số 09 ban hành kèm theo thông tư số 28/1999/TT – BLĐTBXH ngày 15/11/1999 của BLĐTB & XH). Song song với việc ký hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hay tổ chức xuất khẩu lao động, người lao động còn phải ký với chủ sử dụng lao động nước ngoài và các bản cam kết với phía đối tác, đồng thời người lao động được doanh nghiệp phát một bộ hồ sơ nội để điền vào các mục liên quan và về địa phương xin xác nhận. Sau khi đã hoàn thành bộ hồ sơ này, người lao động phải nộp cho doanh nghiệp (kèm theo hộ chiếu và lý lịch tư pháp) để doanh nghiệp làm thủ tục xuất cảnh. Về chế độ tài chính đối với các công ty xuất khẩu lao động Thu từ người lao động các khoản phí dịch vụ cần thiết như: bảo hiểm, phí đào tạo, ăn ở… Hoàn trả lại tiền đặt cọc cho người lao động trong vòng một tháng kể từ ngày người lao động hoàn thành hợp đồng về nước hoặc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn mà không gây thiệt hại về kinh tế cho tổ chức xuất khẩu lao động. Nộp phí bảo hiểm xã hội, thuế thu nhập cao hơn theo quy định của Chính phủ sau khi trích thu từ tiền lương hàng tháng của người lao động. Tổ chức xuất khẩu lao động không được thu thêm của người lao động bất kỳ một khoản nào ngoài một số phí đào tạo, huấn luyện trước khi đi, chi phí khám sức khỏe, làm hồ sơ, chi phí kiểm tra tay nghề, ngoại ngữ nhưng không quá 1 triệu đồng. Các khoản chi phí trực tiếp liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động của doanh nghiệp như: Phí quản lý: Theo quy định tại khoản 12 điều 13 Nghị định 152, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải nộp phí quản lý cho Cục quản lý lao động với nước ngoài – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, mức quản lý 1% số phí dịch vụ doanh nghiệp thu của người lao động. Doanh nghiệp tạm nộp phí quản lý đăng ký hợp đồng theo số lượng lao động đăng ký, mức lương và thời hạn hợp đồng. Phí này được quyết toán hàng năm theo thực tế. Kể từ sau ngày 11/08/2003, doanh nghiệp nộp 1% số phí dịch vụ xuất khẩu lao động này vay vào Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động. Phí hoa hồng môi giới: Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam phải chi phí môi giới, tư vấn, dịch vụ việc làm cho phía nước ngoài để khai thác hợp đồng, quản lý người lao động. Công tác quản lý lao động ở nước ngoài. Tổ chức xuất khẩu lao động chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp người lao động ở nước ngoài, cử người làm đại diện ở nước tiếp nhận lao động để quản lý lực lượng lao động của mình, theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng đã ký, xử lý tranh chấp lao động và những vấn đề phát sinh liên quan đến người lao động. Đại diện của tổ chức xuất khẩu lao động ở nước ngoài chịu sự chỉ đạo về mặt quản lý Nhà nước của cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước sở tại và Bộ Lao động – Thương binh và xã hội. Những vấn đề phát sinh của người lao động ở nước ngoài vượt quá phạm vi thẩm quyền thì doanh nghiệp báo cáo ngay cơ quan chủ quản bằng văn bản để xin ý kiến chỉ đạo, với cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước tiếp nhận lao động, Cục quản lý lao động với nước ngoài. Những quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động. XKLĐ được Đảng và Nhà nước coi là một hoạt động KT- XH góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta và các nước. Đây là một giải pháp giải quyết vấn đề việc làm có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài. Tiếp tục công cuộc đổi mới theo tinh thần nghị quyết của Đảng, chủ trương phát triển và mở rộng hợp tác lao động với các quốc gia có nhu cầu sử dụng lao động, nước ta đã và đang đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, hội nhập với thị trường lao động thế giới. Tại hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện công tác XKLĐ của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, đồng chí Bộ trưởng đã phát biểu: "khi thực hiện đường lối mở cửa, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, lao động Việt Nam có nhiều ưu thế nhất là trình độ văn hoá, tay nghề khéo léo và giá cả lao động tương đối rẻ so với các nước trong khu vực. Với ưu thế này, khả năng đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đặc biệt là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương như Hàn Quốc, Bắc Phi, Trung Đông sẽ ngày càng tăng…Chương trình XKLĐ phải gắn chặt với việc làm trong nước bằng cách dành ít nhất 50% XKLĐ ngoại tệ thu được để bổ sung vào quỹ Quốc gia giải quyết việc làm trong nước và giải quyết việc làm cho lao động khi trở về nước". Mở rộng địa bàn xuất khẩu lao động sang các nước có nhu cầu sử dụng lao động Việt Nam không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế xã hội, phong tục tập quán và tôn giáo với mọi loại lao động từ lao động giản đơn tới lao động kỹ thuật, chuyên gia lành nghề trong các lĩnh vực mà ta có khả năng đáp ứng. Đẩy mạnh XKLĐ theo hình thức "xen ghép" tức là hình thức đưa lao động ta sang làm việc chung với lao động các nước trong cùng dây chuyền sản xuất hoặc cùng công việc mà do chủ sử dụng lao động nước ngoài điều hành và trả lương. Hình thức này hiện nay khá phổ biến, chiếm khoảng 70-80% tổng số nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài. Tăng cường quan hệ và ký kết hợp đồng cung ứng lao động đồng bộ với các chủ hãng thầu quốc tế. Từng bước tiếp cận, học tập kinh nghiệm các nước phát triển, các nước có kinh nghiệm và truyền thống trên lĩnh vực này, để ký và tổ chức đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức nhận thầu công trình. Hơn hai mươi năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, nhiều văn bản, chính sách, nghị định... đã được ban hành, tiêu biểu là: Bộ luật lao động nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ngày 23 tháng 6 năm 1994 quy định một số điều luật về việc XKLĐ. Đây là văn bản pháp lý cao nhất về vấn đề tao việc làm cho người Việt Nam ở nước ngoài. Nghị định số 07/CP ngày 20 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều khoản của Bộ luật lao động về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài (Đây là nghị định thay thế nghị định 370/HĐBT) Nghị định số 152/1999/NĐ - CP ngày 20 tháng 9 năm 1999 của chính phủ qui định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm có thời hạn ở nước ngoài. Đây là văn bản pháp lý hiện hành, thay thế Nghị định số 07/CP. Nghị định quy định rõ: "Chính phủ khuyến khích các cơ quan, các tổ chức và người Việt Nam ở trong và ngoài nước thông qua các hoạt động của mình tham gia tìm kiếm và khai thác việc làm ở nước ngoài phù hợp với pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sử dụng lao động Việt Nam". Kinh nghiệm quốc tế về xuất khẩu lao động và bài học đối với Việt Nam Kinh nghiệm của một số nước về xuất khẩu lao động Philippin Philippin là một trong những nước XKLĐ lớn nhất thế giới, với hơn 10% trong tổng số 76,5 triệu người dân nước này đang làm việc tại nhiều quốc gia trên thế giới, thu nhập gửi về nước mỗi năm từ 8 – 10 tỷ USD, chiếm 10% GDP của Philippin. XKLĐ trở thành chiến lược phát triển quốc gia và là động lực lớn thúc đẩy nền kinh tế và là một trong bốn ngành có thu nhập ngoại tệ lớn nhất ở Philippin. Từ năm 1973, Philippin đã ban hành Bộ luật lao động đặt cơ sở cho việc làm ngoài nước với quan điểm là phải xúc tiến mạnh mẽ việc xuất khẩu lao động dư thừa cho tới khi nền kinh tế của đất nước phát triển đủ khả năng thu hút hết số người đến tuổi lao động. Chính phủ Philippin thực hiện chức năng tuyển mộ, bố trí và quản lý các khu vực tư nhân tham gia XKLĐ bằng một cơ quan Chính phủ duy nhất là cục quản lý việc làm nước ngoài (POEP), cơ quan này thuộc Bộ lao động và việc làm. Cục này hoạt động rất hiệu quản trong việc mở rộng, phát triển thị trường XKLĐ, trực tiếp tham gia tuyển chọn lao động: cấp giấy phép và giám sát các công ty đã được cấp giấy phép; hỗ trợ cho công nhân trước khi đi tại nơi làm việc và sau khi về nước. Cục POEA đã cấp giấy phép cho hơn 950 đại lý cung ứng lao động cho nước ngoài. Cục này cũng trực tiếp cấp giấy phép cho hơn 950 đại lý cung ứng lao động cho nước ngoài. Cục này cũng trực tiếp cấp giấy phép chứng nhận đi lao động ở nước ngoài cho từng lao động trên cơ sở xem hồ sơ của họ ( Nếu không có giấy chứng nhận này, người lao động không thể làm thủ tục ở sân bay). Chính phủ Philippin cho phép lập các quỹ lao động có chất lượng, được phép quảng cáo và tổ chức đăng ký nguồn nhưng không thu lệ phí của người lao động. Tất cả việc thuê mướn công nhân Philippin phải thông qua Cục quản lý việc làm ngoài nước hoặc qua công ty tuyển mộ đã được cấp giấy phép. Đối với công ty, đơn vị kinh tế muốn được cấp giấy phép phải có đơn xin giấy phép, giấy đăng ký kinh doanh, có khả năng tìa chính, có tài sản thế chấp là 12.500 USD, nộp một khoản tiền cược 5000 USD, nộp một khoản tiền bảo ._. phát huy và khai thác tốt tiềm năng ưu thế về cơ sở vật chất và mọi nguồn lực hiện có. - Phát triển mở rộng vào các thị trường mới: Cộng hòa Czech, UEA, Ả rập Xê- út 3.4.2.3. Nội dung chiến lược thị trường giai đoạn 2010 - 2020 Các mục tiêu trên được cụ thể hóa trong các nội dung của chiến lược thị trường như sau: Nghiên cứu và tiếp cận thị trường Chức năng nghiên cứu và phân tích thị trường, tiếp cận thị trường được giao cho bộ phận thị trường của công ty. Đây là bộ phận chịu trách nhiệm nghiên cứu thị trường, lập các chiến lược cũng cố thị trường truyền thống, khai phá thị trường mới. Phương tức thực hiện: thu thập thông tin trực tiếp tại các phòng ban, chi nhánh của công ty. Thu thập thông tin gián tiếp thông qua các kết quả thống kê của ngành và các cơ quan chức năng. Ngân sách thực hiện: nguồn vốn cho nghiên cứu và tiếp cận thị trường được trích từ quỹ phát triển kinh doanh (10%), và thưởng cho cán bộ công nhân viên làm tốt nhiệm vụ là 10% (trích từ quỹ khen thưởng). Phân đoạn thị trường Có 3 đoạn thị trường mà công ty có thể xâm nhập vào thời gian tới: - Thị trường lao động ở châu Á: Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan, Ma Cao…Lao động sang đây đi làm các ngành nghề như là thuyền viên, giúp việc, công nhân trồng nấm, công nhân nhà máy dệt, nhà máy sợi…Cũng có lao động dưới dạng chuyên gia sang các thị trường chất lượng cao - Thị trường châu Âu: Nga, Czech, slovakia - Thị trường Trung Đông: UEA, Ả rập xê út, Lybia Lựa chọn thị trường mục tiêu Trong giai đoạn 2010 - 2020 tiếp tục thực hiện các giải pháp để ổn định, mở rộng các thị trường trọng điểm, bao gồm các thị trường Malaysia Chuẩn bị đủ nguồn lao động đáp ứng nhu cầu thị trường. Tiếp tục triển khai mô hình liên kết giữa doanh nghiệp với địa phương để tuyển chọn lao động. Chú trọng công tác đào tạo ngoại ngữ và giáo dục định hướng theo đúng yêu cầu đặt ra trong thoả thuận đã được ký kết với Malaysia.Tiếp tục triển khai chặt chẽ việc đưa lao động sang Malaysia. Năm 2010 thị trường Malaysia vẫn được đánh giá là có nhiều triển vọng. Căn cứ nhu cầu thị trường, xem xét để mở rộng số lượng lao động xuất khẩu sang Malaysia trên cơ sở học hỏi chính sách kinh nghiệm từ các doanh nghiệp khác, chấp hành nghiêm các quy định của Nhà nước. Theo dõi tình hình thị trường và tình hình lao động để hướng dẫn các doanh nghiệp chỉ hợp tác với các đối tác có khả năng đảm bảo quyền lợi cho người lao động, và đưa lao động sang các ngành có điều kiện đảm bảo kể cả một số nghề trong ngành nông nghiệp và dịch vụ. Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động, bảo đảm phát hiện và giải quyết kịp thời các vụ việc phát sinh với người lao động. Tăng cường cán bộ cho Ban quản lý lao động và chuyên gia tại Malaysia, giải quyết thủ tục pháp lý để doanh nghiệp cử cán bộ sang quản lý lao động. Đài Loan: Thị trường Đài Loan vẫn còn khả năng nhận nhiều lao động Việt Nam. Các giải pháp cần thực hiện gồm: - Thúc đẩy gia hạn Thoả thuận hợp tác lao động với Đài Loan; - Tiếp tục thực hiện các giải pháp mạnh để giảm thiểu tỷ lệ lao động bỏ hợp đồng, bao gồm cả việc xử lý người lao động bỏ hợp đồng và các doanh nghiệp có tỷ lệ lao động bỏ hợp đồng cao; phối hợp với các cơ quan có liên quan của Đài Loan để đưa nhanh số lao động bỏ trốn hiện còn ở Đài Loan về nước; - Hợp tác với các công ty nội và các công ty môi giới lao động Đài Loan hạn chế đến mức thấp nhất phí môi giới; - Tăng tỷ lệ cung ứng lao động trực tiếp cho các chủ sử dụng lao động và tỷ lệ lao động làm việc trong các công xưởng, nhà máy. Hàn Quốc: Hàn Quốc đã thông qua Luật cấp phép cho lao động nước ngoài và bắt đầu thực hiện nhận lao động từ tháng 8 năm 2004 song song với hệ thống nhận tu nghiệp sinh hiện nay. Để tăng cường thị phần lao động tại Hàn Quốc, phải đưa được lao động đi theo cả hai hệ thống này. Các biện pháp cần thực hiện bao gồm: Thúc đẩy đàm phán để tiến tới kí kết với Hàn Quốc thỏa thuận nhận lao động Việt Nam theo hệ thống cấp phép lao động. Hỗ trợ các giải pháp mạnh của Hàn Quốc, đưa tu nghiệp sinh bất hợp pháp về nước, để tu nghiệp sinh mới sang và tạo cơ sở để Hàn Quốc nhận lao động Việt Nam theo chính sách mới Vận động để phía Bạn tiếp nhận thêm tu nghiệp sinh ngành xây dựng, đóng tàu và nông nghiệp. Nhật Bản: Để mở rộng thị phần, cần có biện pháp giảm tỷ lệ tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng, cụ thể là: Tiếp tục rà soát và kiểm tra, chỉ cho phép các doanh nghiệp có uy tín đưa tu nghiệp sinh sang Nhật Bản; trước mắt chú trọng về chất lượng hơn mở rộng về số lượng. Tập trung xử lý các trường hợp tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng theo quy định tại Nghị định 81/2003/NĐ-CP và Quyết định số 68/2001/QĐ-TTg ngày 2 tháng 5 năm 2001 về biện pháp xử lý đối với tu nghiệp sinh tự ý bỏ hợp đồng, thông tin rộng rãi để giáo dục các tu nghiệp sinh khác; Tập trung tuyển chọn tu nghiệp sinh đi Nhật Bản trong các nhà máy, doanh nghiệp, học sinh đã tốt nghiệp các trường dạy nghề và bộ đội xuất ngũ, hạn chế tuyển lao động tự doanh nghiệp; Tiếp tục tác động với phía Bạn để có biện pháp phối hợp với ta trong việc giải quyết vấn đề lao động bỏ trốn. Lào: Lào là một thị trường nhận nhiều lao động Việt Nam với ngành nghề đa dạng, bao gồm cả chuyên gia và lao động. Các giải pháp để tiếp tục hợp tác lao động có hiệu quả với Lào bao gồm: Tiếp tục đàm phán để ký kết Hiệp định mới về hợp tác chuyên gia với Lào; Đẩy mạnh đưa lao động xây dựng sang thực hiện các công trình nhận thầu, các công trình do nhiệm vụ và các nước khác đầu tư tại Lào Tăng cường hợp tác lao động qua địa phương và doanh nghiệp với Lào Thị trường Trung Đông, Lybia, châu Phi.Trung Đông nhận rất nhiều lao động nước ngoài. Libya là thị trường truyền thống của lao động Việt Nam, một số nước khác ở vùng Vịnh cũng đã bắt đầu nhận lao động ta, đặc biệt là công cuộc tái thiết Iraq tới đây sẽ có nhu cầu lao động lớn. Châu Phi có nhu cầu về chuyên gia nông nghiệp, y tế và giáo dục. Để mở rộng thị trường này cần: Tiếp tục ổn định và mở rộng cung ứng lao động cho các Công ty nước ngoài nhận thầu công trình tại Lybia; Tìm hiểu thông tin để tiếp xúc và xây dựng quan hệ hợp tác với các tập đoàn kinh tế quốc tế trúng thầu dự án tại Iraq để cung ứng lao động tái thiết Iraq; Tiếp tục quan hệ với tổ chức Nông Lương quốc tế (FAO) và mở rộng quan hệ với các nước phát triển tìm nguồn tài trợ cho việc hợp tác đưa chuyên gia nông nghiệp sang các nước Châu Phi; Tăng cường tìm hiểu thông tin, tiếp xúc với các đối tác để đưa liên doanh sang tái thiết Iraq. Thị trường lao động trên biển: Nhu cầu thuỷ thủ vận tải và nhu cầu thuyền viên đánh cá vẫn rất cao, vượt khả năng cung ứng của ta. Giải pháp chủ yếu đẩy mạnh đưa lao động trên biển là tăng cường công tác tạo nguồn đáp ứng nhu cầu của thị trường: Đầu tư cơ sở vật chất đào tạo sĩ quan, thuyền viên về chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ để cung ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của chủ tàu nước ngoài, nhất là nhu cầu về sĩ quan đi biển. Thực hiện có hiệu quả các dự án hợp tác đào tạo thuyền viên với nước ngoài. Các doanh nghiệp có chính sách hợp lý để khuyến khích và thu hút các sĩ quan và thuyền viên hàng hải gắn bó lâu dài với sự nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia khẩu lao động trên biển; Tạo nguồn thuyền viên tàu cá từ ngư dân ven biển, chỉ tuyển dụng những lao động có nguyện vọng gắn bó thực sự với nghề biển: nâng cao chất lượng đào tạo – giáo dục định hướng. Thâm nhập và mở rộng thị trường - Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, từng bước tiếp cận thị trường khác trong khu vực cũng như tại các nước thuộc thị trường châu Phi, Trung Đông, Liên Bang Nga, Đông Âu, EU và Bắc Mỹ, nâng cao thị phần của công ty theo hướng thực hiện chiếm lĩnh thị trường truyền thống, thâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường miền Trung Đông, một số thị trường ở châu Âu. Tiếp tục hướng vào các đoạn thị trường mà giai đoạn khủng hoảng chưa thâm nhập được. - Tìm hiểu thông tin, tiếp xúc và xây dựng mối quan hệ với các tập đoàn kinh tế quốc tế và bước đầu đã khẳng định được thương hiêu và uy tín với các đối tác. Đặt mục tiêu phát triển trọng tâm, nhấn mạnh vào những đoạn thị trường là thế mạnh của công ty. Nên có hướng đào tạo những ngành nghề theo đơn đặt hàng của đối tác đáp ứng yêu cầu thị trường cụ thể. 3.5. Giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu lao động của công ty. 3.5.1 Giải pháp từ phía công ty LOD: Từ thực trạng công tác phát triển thị trường XKLĐ đối với các công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD như đã nói ở trên thì chúng ta cũng thấy được những thành công và những mặt còn tồn tại của công ty. Để thực hiện chiến lược đã lựa chọn, công ty có thể lựa chọn các giải pháp sau: Công tác tìm kiếm và mở rộng thị trường của các doanh nghiệp: Nghiên cứu thị trường lao động là một công việc rất quan trọng trong việc mở rộng hay thu hẹp thị trường xuất khẩu lao động. Nó là việc nghiên cứu nhu cầu nhu cầu của các nước tiếp nhận lao động về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề và các yêu cầu khác về lao động, để từ đó cho chúng ta biết được nhu cầu của thị trường lao động, có chính sách xây dựng và điều chỉnh chiến lược cả về ngắn hạn lẫn dài hạn để phát triển thị trường xuất khẩu lao động.Việc nghiên cứu,tiếp cận và mở rộng thị trường phải được các doanh nghiệp quan tâm đầy đủ và nhà nước cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ về mọi mặt cho các doanh nghiệp. Cần xâm nhập vào thị trường có trình độ cao,thu nhập cao để từ đó có hướng tiếp cận đưa lao động của công ty sang. Muốn làm được điều này thì cần phải đầu tư hơn nữa về thời gian và tiền bạc cho các cán bộ sang tận nước ngoài để đàm phán kí kết hợp đồng với họ. Cần có sự đầu tư thích đáng về thời gian và tiền vốn nhằm thu nhập thông tin về số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động mà các nước xuất khẩu lao động cần, tình hình tài chính của các doanh nghiệp cần tuyển; phong tục tập quán,pháp luật, tiền công và các khoản chi tại các doanh nghiệp, các yếu tố dễ phát sinh rủi ro...Hiệu quả kinh tế và khả năng rủi ro của thị trường mới khai thác. Ngoài ra, cần đẩy mạnh phát triển các trung tâm nghiên cứu thị trường lao động quốc tế kịp thời cung cấp các thông tin nhanh, chính xác cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Dự báo nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài trên thế giới đặc biệt là những nước mà công ty có tiềm năng để từ đó các doanh nghiệp có các biện pháp chuẩn bị cho nguồn lao động đưa đi xuất khẩu của doanh nghiệp mình. Cùng với việc khai thác thị trường mới,vấn đề quan trọng trong công tác thị trường cho xuất khẩu lao động là giữ vững các thị trường truyền thống của công ty đã có như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,Malaysia... Công tác tuyển chọn, đào tạo giáo dục định hướng Công ty cần trực tiếp phối hợp với ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức đăng ký, lựa chọn những lao động có năng lực, sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt, hướng dẫn hoàn thành các thủ tục hồ sơ cần thiết, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong khâu tuyển chọn và quản lý lao động ở nước ngoài, đồng thời có biện pháp ngăn chặn xử lý kịp thời đối với những lao động bỏ trốn. Các trung tâm dịch vụ việc làm và các cơ sở đào tạo nghề căn cứ vào nhu cầu tuyển lao động của các công ty xuất khẩu lao động do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội giới thiệu, phối hợp với UBND các xã, phường, thị trấn được chọn làm điểm, tổ chức tuyển chọn đào tạo nghề và giáo dục định hướng đào tạo đủ số lượng, chất lượng, Không ngừng đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo-giáo dục định hướng cho lao động và chuyên gia, chuẩn bị nguồn lao động phục vụ cho xuất khẩu. Tăng cường phối hợp giữa các trường dạy nghề trên địa bàn tỉnh với các doanh nghiệp để tăng số lao động có tay nghề. Không ngừng năng cao chất lượng đào tạo nghề trong hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề. Trong thời gian học nghề cần ghép học ngoại ngữ, chú trọng giáo dục tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, rèn luyện ý thức bảo hộ, an toàn lao động... nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của các chủ sử dụng lao động nước ngoài. Cụ thể: Về tuyển chọn: Các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu lao động phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và tại nơi tuyển dụng về số lượng, tiêu chuẩn,mức đóng góp, các quyền lợi cũng như trách nhiệm của người lao động khi đi làm việc ở nước ngoài.Thực hiện được những điều này sẽ góp phần giảm tiêu cực trong xuất khẩu lao động. Chất lượng là nhân tố quyết định số lượng cung ứng của lao động và duy trì, mở rộng thị trường lao động quốc tế. Do vậy cần xây dựng một hệ thống tuyển chọn lao động dựa trên: - Học vấn: Chuẩn mực này nhằm xác định khả năng tiếp thu của người lao động. - Sức khỏe : là các tiêu chuẩn cụ thể như chiều cao, cân nặng, tình hình bệnh tật, thể trạng và các yêu cầu riêng theo nghề. - Nghề nghiệp : bao gồm trình độ tay nghề và thâm niên công tác - Phẩm chất đạo đức : nhằm xác định rõ nhân thân của người lao động -Về đào tạo bồi dưỡng : trên cơ sở nghiên cứu về cầu lao động ở từng loại thị trường để đưa ra chiến lược đào tạo, bồi dưỡng lao động xuất khẩu cả về ngắn hạn lẫn dài hạn. Đào tạo nghề ngắn hạn ( đối với lao động giản đơn), dài hạn ( đối với lao động kỹ thuật). Tiến hành đào tạo toàn diện cho người lao động cả về chuyên môn, ngoại ngữ, giáo dục pháp luật, tác phong công nghiệp, phong túc tập quán của các nước tiếp nhận. Ngoài ra, hệ thống các trường được giao nhiệm vụ đào tạo lao động xuất khẩu cần có phương án đầu tư toàn diện để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với các nước trong khu vực và trên thế giới, cùng với các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước, cần đầu tư nguồn lực dưới dạng mục tiêu. Đối với nguồn nhân lực có sẵn được tuyển dụng từ các nhà máy, xí nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội...tham gia xuất khẩu lao động, cần đào tạo giáo dục định hướng với các nội dung cơ bản là bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng ngoại ngữ, giáo dục định hướng và rèn luyện theo hình thức tập trung, tập sự. Mặt khác, như đã nêu trên lao động của LOD được xuất sang nước ngoài chủ yếu là phụ nữ nên nhằm nâng cao hiệu quả trong việc xuất khẩu lao động nữ thì cần phải mở rộng ngành nghề đưa lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài có sự lựa chọn công việc phù hợp với lao động nữ. Đào tạo chuẩn bị chu đáo cho chị em trước khi đi về trình độ ngoại ngữ, tay nghề, kiến thức pháp lý, ý thức chấp hành kỷ luật lao động. Nếu giúp việc gia đình phải học thêm về tâm lý, nữ công gia chánh, kỹ năng cơ bản sử dụng các thiết bị trong nhà. Nếu đi làm khán hộ công phải có kiến thức sơ đằng về ngành y, kỹ năng chăm sóc người già, trẻ em và người bệnh, có kỹ năng sử dụng các vật dụng, trang bị đa dạng phục vụ sinh hoạt của người bệnh. Tổ chức các hiệp hội chăm sóc ,giúp đỡ gia đinh, con cái để chị em yên tâm lao động sản xuất tạ nước bạn. Hoạt động tài chính trong xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp Tài chính là thứ dầu bôi trơn cho mọi hoạt động doanh nghiệp. Không được dịch vụ hóa hoạt động xuất khẩu lao động để kinh doanh, không thu tiền hoặc thu tiền với mức thâp nhất đảm bảo bù đắp chi phí. Các khoản thu phải rõ ràng và công khai cho người lao động được biết, việc quản lý tiền đặt cọc của người lao động phải được chú trọng. Quản lý lao động và giải quyết các tranh chấp phát sinh ngoài nước Khi số lao động ở nước ngoài tăng lên, thì việc tăng cường quản lý đối với số lao động này là rất quan trọng.Việc quản lý này nhằm khắc phục những rủi ro có thể xảy ra ở các nước nhận lao động; kịp thời giải quyết các tranh chấp giữa người lao động và chủ doanh nghiệp nhằm khắc phục các mối quan hệ không tốt và đặc biệt hạn chế hiện tượng người xuất khẩu lao động bỏ doanh nghiệp theo hợp đồng ra làm việc ở nơi khác vì mục đích cá nhân. Các doanh nghiệp và cơ quan chức năng cần nghiên cứu lựa chọn hình thức quản lý( trong đó có công tác thanh tra kiểm tra)cho từng trường hợp cụ thề. Tăng cường bộ máy quản lý người lao động làm việc ở nước ngoài: phải cử cán bộ quản lý có năng lực và trình độ của doanh nghiệp tại các địa bàn có nhiều lao động để xử lý và giải quyết kịp thời các vụ việc phát sinh; ở những địa bàn không có cán bộ quản lý thì phải tổ chức được các tổ, nhóm người lao động tự quản, thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, quyền lợi đối với người lao động theo quy định của nhà nước. Nâng cao năng lực của doanh nghiệp Bản thân các công ty phải không ngừng đổi mới và phát triển, xem xét lại năng lực hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia của mình. Phải chủ động bổ sung cán bộ có trình độ chuyên môn, pháp luật, ngoại ngữ và phẩm chất đạo đức tốt; bồi dưỡng, đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm xuất khẩu lao động và chuyên gia của doanh nghiệp. 3.5.2 Giải pháp từ phía nhà nước Các văn bản, chính sách liên quan: Không ngừng làm tốt cơ chế quản lý và thực hiện tốt hơn nữa các chính sách liên quan đến công tác xuất khẩu lao động đó là các chính sách về cải tiến thủ tục xuất nhập cảnh – làm hộ chiếu, chính sách cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài vay vốn, chính sách về bảo hộ lãnh sự và tư pháp, chính sách về bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong thời gian làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài, chính sách chuyển về nước thu nhập bằng ngoại tệ, thiết bị, nguyên liệu. Cáp cấp ủy Đảng chính quyền và các ngành chức năng trong tỉnh cần tuyên truyền sâu rộng chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và nhân dân về vị trí vai trò của XKLĐ, coi đây là một nhiệm vụ quan trong trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh hàng năm. Thông qua tuyên truyền giúp người lao động có ý thức chuẩn bị các điều kiện để chủ động tham gia vào thị trường xuất khẩu lao động. Mặt khác, cũng cần quan tâm đến việc bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện các chính sách liên quan đến việc sau khi lao động trở về như: Tiếp nhân lao động trở lại làm việc để sử dụng tay nghề của lao động (đặc biệt đối với đối tượng là người lao động đã được tuyển chọn từ các nhà máy, xí nghiệp đang đi làm việc ở nước ngoài sau khi hoàn thành hợp đồng lao động nên được tiếp nhận trở lại làm việc để họ được phát huy khả năng tiếp thu và học hỏi về công nghệ và kinh nghiệm, tác phong công nghiệp tiên tiến trong thời gian làm việc ở nước ngoài nên tạo điều kiện cho họ tiếp tục đi nếu họ đã hoàn thành hợp đồng lao động và không vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, cũng cần tạo điều kiện cho người lao động mở các doanh nghiệp nhỏ để sản xuất kinh doanh tạo việc làm sau khi về nước. Cần phải xây dựng chế độ hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu lao động ( đặc biệt quan tâm đến các đối tượng thuộc hộ chính sách, hộ nghèo, thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự và lao động thuộc hộ Nhà nước thu hồi đất có nhu cầu xuất khẩu lao động); cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi về các thủ tục xuất nhập cảnh, khám sức khỏe, tham gia học nghề, tham gia giáo dục định hướng và vay vốn cho lao động tham gia xuất khẩu lao động theo đúng quy định của pháp luật. Chỉ đạo công tác giáo dục định hướng Về công tác đào tạo – giáo dục định hướng thì đây là một trong những khâu quan trọng quyết định chất lượng đầu vào của nguồn lao động xuất khẩu, cần ban hành các chính sách và quy chế phù hợp liên quan đến hoạt động này: Ví dụ như quy định về đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động; quy định về cấp và quản lý chứng chỉ đào tạo- giáo dục định hướng; hướng dẫn mức thu học phí, lệ phí đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động làm cơ sở pháp lý triển khai xây dựng mô hình tổ chức và thực hiện quản lý đào tạo nguồn cho xuất khẩu lao động. Về việc này, tại cục quản lý lao động nước ngoài đã trực tiếp biên soạn và phát hành giáo trình, tài liệu về đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động về nghề, ngoại ngữ, pháp luật, hợp đồng lao động...do đó cần phải nghiên cứu và sớm đưa tài liệu này về tỉnh và có chủ trương kết hợp với các cơ sở dạy nghề định hướng các doanh nghiệp và các trường, hợp tác đào tạo thí điểm để tăng nguồn lao động xuất khẩu có chất lượng từ các cơ sở đào tạo nghề trong các tỉnh. Phải đảm bảo sự lãnh đạo của cấp Ủy, chính quyền và sự tham gia của các đoàn thể trong quá trình tuyển chọn, đào tạo giáo dục định hướng cho lao động xuất khẩu. Kiện toàn bộ máy, tăng cường các điều kiện, nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác XKLĐ, các Trung tâm Dịch vụ việc làm, các cơ sở đào tạo nghề, đào tạo giáo dục định hướng để đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn xuất khẩu lao động cho người lao động. Trong việc thanh tra, kiểm tra Tăng cường công tác chỉ đạo, quản lý, kiểm tra, thanh tra, phát hiện việc xử lý vi phậm trong việc đưa người lao động đi xuất khẩu theo quy định của pháp luật. Cần phải có các chế tài xử lý thật nghiêm khắc để chấn chỉnh được tình trạng gian lận trong công tác xuất khẩu lao động của tỉnh. Công tác thông tin tuyên truyền Các cấp chính quyền cần tăng cường hợp tác chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng để có thể thông tin đầy đủ và kịp thời tới người lao động về các chủ trương chính sách, thông tin về nhu cầu, điều kiện thị trường và tiêu chuẩn lao động để người lao động chủ động đầu tư học tập nâng cao trình độ nghề nghiệp và ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu thị trường lao động quốc tế. Không ngừng đầu tư, nâng cấp các phương tiện thông tin tuyên truyền để đáp ứng nhu cầu truyền tải thông tin của nhà nước. Cụ thể thì các cấp ngành phải chú trọng hơn nữa trong công tác của mình như sau: Sở Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với các ngành liên quan nghiên cứu mở rộng thị trường XKLĐ; xây dựng chế độ hỗ trợ khuyến khích XKLĐ. Thông báo công khai về thị trường lao động, số lượng tiêu chuẩn tuyển chọn, các điều kiện về làm việc và sinh hoạt, quyền lợi trách nhiệm của người lao động và các khoản đóng góp, quản lý, chỉ đạo các Trung tâm Dịch vụ việc làm, cơ sở đào tạo nghề tổ chức thực hiện giáo dục định hướng theo đúng nội dung, chương trình, thời gian và chất lượng theo quy định, đáp ứng nguồn nhân lực đủ tiêu chuẩn XKLĐ; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra XKLĐ theo quy định; tổng hợp báo cáo UBND tỉnh theo định kỳ 6 tháng, một năm. Công an tỉnh có trách nhiệm thông báo công khai quy trình, thủ tục hồ sơ, lệ phí, thời gian hoàn thành việc cấp hộ chiếu đối với người XKLĐ. Kịp thời phá hiện ngăn chặn và xử lý các trường hợp lừa đảo, gây thiệt hại cho người lao động. Bộ y tế có trách nhiệm chỉ đạo Bệnh viện do ngành quản lý quy định tổ chức tốt việc khám sức khỏe cho những trường hợp XKLĐ. Bộ, sở văn hóa – thông tin, Đài phát thanh – truyển hình, báo...tập trung tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước về XKLĐ; các chế độ hỗ trợ, khuyến khích XKLĐ, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, nâng cao trình độ hiểu biết về nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động ở nước ngoài để việc tuyển chọn, đào tạo thuận lợi và đúng chế độ chính sách. Bộ tài chính, kế hoạch đầu tư, ngân hàng nhà nwóc; các ngành liên quan phối hợp đề xuất các giải pháp về vốn, chính sách cho vay vốn, huy động các nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để cho vay đối với người XKLĐ (đặc biệt là các đối tượng thuộc diện chính sách). Đề nghị ủy ban mặt trận tổ quốc liên tỉnh, Liên đoàn lao động, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội theo chức năng, nhiệm vụ của mình có kế hoạch tuyên truyền phổ biến chủ trương; chính sách của Đảng và Nhà nước về XKLĐ, phối hợp với các cấp và các ngành chức năng đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới. Sự chỉ đạo của Nhà nước đối với các doanh nghiệp: Nâng cao điều kiện cấp phép đối với các doanh nghiệp XKLĐ và chuyên gia; tăng vốn điều lệ; quy định số lượng tối thiểu cán bộ chuyên trách có đủ trình độ; có khả năng ký kết và thực hiện hợp đồng XKLĐ và chuyên gia; tổ chức đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi. Từ thực tế hoạt động XKLĐ và chuyên gia, cần thiết phải thành lập Quỹ hỗ trợ XKLĐ và chuyên gia nhằm hỗ trợ phát triển thị trường lao động ngoài nước và xử lý các rủi ro ở nước ngoài vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Nguồn hình thành Quỹ trên cơ sở đóng góp của doanh nghiệp, Nhà nước và các nguồn khác. Sửa đổi bổ sung cơ chế, chính sách tài chính nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự chủ hơn về phí môi giới, hoa hồng. Quy định mức tiền lương và thu nhập tối thiểu của người lao động đối với từng thị trường, khu vực, mức phí dịch vụ. Có chính sách tái đầu tư thuế cho doanh nghiệp khai thác thị trường và đầu tư đào tạo nguồn lao động xuất khẩu. Xây dựng một số doanh nghiệp mạnh về XKLĐ. Trong đó các doanh nghiệp chủ động đầu tư cơ sở đào tạo – giáo dục định hướng, bố trí cán bộ đủ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ. Các Bộ, Ngành, địa phương chủ quản hỗ trợ doanh nghiệp trực thuộc. Nhà nước cung cấp thông tin, ưu tiên hỗ trợ trong việc thâm nhập thị trường mới. Chấn chỉnh, sắp xếp lại đội ngũ doanh nghiệp XKLĐ; Đầu tư cơ sở giáo đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động tại những doanh nghiệp, bố trí cán bộ có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ, có phẩm chất tốt. Giải thể hoặc sáp nhập các tổ chức chồng chéo, các văn phòng đại diện hoạt động sai chức năng, nhiệm vụ hoặc kém hiệu quả của những doanh nghiệp có nhiều đầu mối. Xử lý những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, có vi phạm quy định hoạt động XKLĐ và chuyên gia. Các cấp ủy Đảng và các ngành chức năng cần phả nghiên cứu xem xét về thị trường lao động chuyên gia có thu nhập cao, để lao động có thể xâm nhập vào các thị trường đó được. 3.5.3 Giải pháp từ phía người lao động: XKLĐ trong quan niệm truyền thống của người lao động là để thoát nghèo. Vì vậy để tạo thuận lợi cho chính mình, củng như góp phần củng cố uy tín lao động Việt Nam trên trường quốc tế, bản thân người lao động phải: Xuất phát từ những hạn chế và nguyên nhân của người lao động như đã trình bày nói trên thì bản thân người lao động cũng cần phải có ý thức tự trang bị các kiến thức về nghề nghiệp, ngoại ngữ, phong tục tập quán và luật pháp nước đến làm việc. Người lao động cần phải nhận thức được rõ tư tưởng làm thuê, hòa đồng cùng với các đồng nghiệp, tôn trọng vị trí của người sử dụng lao động, hết lòng phục vụ họ. Mặt khác, phải chủ động tìm hiểu các chính sách, quy định của Nhà nước về XKLĐ, chủ động xử lý và tự bảo vệ trước các vấn đề phát sinh, chịu trách nhiệm về hành vi của mình trong quan hệ lao động ở ngoài nước. Đồng thời, người lao động phải có trách nhiệm tuân thủ các quy định của Nhà nước trong XKLĐ, không phá bỏ hợp đồng ảnh hưởng đến uy tín của người lao động Việt Nam, nêu cao ý thức trách nhiệm của mình đối với cộng đồng. Nếu vi phạm phải bồi thường các thiệt hại cho doanh nghiệp và bị xử lý nghiêm trước pháp luật. Ngoài ra, cần phải phát huy hơn nữa đức tính cần cù, chịu khó và ham học hỏi mà đó là bản chất người Việt Nam. Làm được điều này thì đã góp phần quảng bá được hình ảnh về lao động Việt Nam trên trường quốc tế. Để đối tác tin tưởng vào lao động Việt Nam. KẾT LUẬN Trên cơ sở phân tích các vấn đề chung như thực trạng, triển vọng, và khả năng phát triển thị trường xuất khẩu lao động của Công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD, đề tài đã đặt ra những luận cứ để nhìn nhận một cách khoa học và nghiêm túc những cơ hội, tiềm năng cũng như những thách thức cần tháo gỡ trong con đường phát triển tiến tới hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong khuôn khổ đề tài, dựa trên các nguồn thông tin, số liệu khác nhau, đề tài nghiên cứu " Chiến lược phát triển thị trường XKLĐ công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD" đã tiến hành phân tích, luận giải các vấn đề mà đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra các kết luận, nhận định cần thiết góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động của công ty trong thời gian tới. Việt Nam tuy có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào, song để khai thác có hiệu quả đòi hỏi phải có sự chọn lọc, đào tạo một cách kỹ lưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các nước tiếp nhận lao động. Đề tài đã tổng hợp một cách có hệ thống và cập nhật thông tin, phân tích thị trường, số lượng lao động xuất khẩu để từ đó nêu lên các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu lao động. Vấn đề chuyên đề đặt ra là khá mới mẻ, do đó nó đã đưa ra những nhận định nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động diễn ra mạnh mẽ hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Hy vọng trong một tương lai không xa, Công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD với đội ngũ cán bộ tài năng sẽ tiếp tục mở rộng quy mô và hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu lao động của mình. Em xin chân thành cảm ơn! D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Sách 1.1. Quản trị Marketing – Philip Kotler. NXB thống kê 1.2 Quản trị chiến lược trong nền kinh tế toàn cầu -TS. Phạm Thị Thu Hương. NXB.CTQG.2001. 1.2. Chiến lược kinh doanh – GS. PTS Vũ Thị Ngọc Phùng, GS. TS Phan Thị Nhiệm, NXB thống kê Hà Nội năm 1999. 1.3. Chiến lược kinh doanh, phương án, phương án sản xuất - PTS.Trần Hoàng Lâm, NXB Thống kê 1994. 1.4. Để trở thành CEO-JEFFREY J.FOX, NXB Thống kê 2004 1.5. Giáo trình: Quản trị chiến lược - PGS.TS. Lê Văn Tâm, NXB Thống kê 2000 1.6. Giáo trình: Quản trị doanh nghiệp - PGS .TS. Lê Văn Tâm, TS. Ngô Thị Kim Thanh, NXB Lao động - xã hội 2004. 1.7. Giáo trình: Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp - PGS.TS. Phạm Hữu Huy, NXB Giáo dục 1998. 1.8. Giáo trình: Kế hoạch kinh doanh – Thạc sỹ. Bùi Đức Tuân, NXB lao động – xã hội II. Tạp chí và báo cáo 2.1. Tạp chí: "Kinh tế và dự báo" số 14/2009 2.2. Tạp chí " Kinh tế và dự báo " số 24/2008 2.3. Báo cáo lịch sử hình thành và phát triển của Công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD 2.5. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh giai đoạn 2007 - 2009 của Công ty cổ phần phát triển nguồn nhân lực LOD 2.6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X - Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà xuất bản chính trị quốc gia. 2.7. Đề án đẩy mạnh XKLĐ và chuyên gia giai đoạn 1998 - 2010, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, ngày 24/8/1998. 2.8. Nghị định số 370/ HĐBT ngày 9/11/1991 của Hội Đồng Bộ trưởng. 2.9. Nghị định số 07/CP ngày 20/1/1995 của Chính phủ. 2.10. Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 2.11. Luận văn tốt nghiệp 2006 - SV Nguyễn thị Hằng – Kinh tế lao động 44 Trường ĐHKTQD. III. Website 3.1 . 3.2. 3.3. 3.4. Và một vài trang thông tin tổng hợp khác ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26028.doc
Tài liệu liên quan