DNNVV trên địa bàn TP Đà Nẵng v à những khó khăn, thách thức trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay

Tài liệu DNNVV trên địa bàn TP Đà Nẵng v à những khó khăn, thách thức trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay: A – Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chính Phủ và chính quyền thành phố là tạo ra nhiều việc làm cho người dân & huy động vốn từ trong dân để phát triển đất nước. Muốn phát triển kinh tế thì phải huy động được vốn, trong điều kiện phát triển của cả nước nói chung và của thành phố nói riêng, điều cần nhất đó là vốn trong nước và để có được nguồn vốn này thì phải huy động vốn từ trong dân. Việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ la... Ebook DNNVV trên địa bàn TP Đà Nẵng v à những khó khăn, thách thức trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu DNNVV trên địa bàn TP Đà Nẵng v à những khó khăn, thách thức trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
̀ bước đi thích hợp và thật sự quan trọng bởi vì nó góp phần tạo ra được nhiều việc làm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hôi của cả nước, cũng như của thành phố. Ngoài ra, việc phát triển DNNVV phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế thế giới cũng như sự vần động biến đổi của nền kinh tế Việt Nam, bước đi trên còn giúp tháo gỡ các vấn đề xã hội như thất nghiệp, khắc phục và giảm bớt các tệ nạn xã hôi, góp phần bảo đảm trật tự an ninh, đảm bào sự phát triển công bằng giữa các thành phần kinh tế, nâng cao mức sống và thu nhập cho người dân. Nói tóm lại, phát triển DNNVV là một bước đi không thể không tiến hành, tận dụng tối đa nguồn lực và phát triển nền kinh tế xã hội sẽ giúp cho nước ta vững bước trên con đường hội nhập và mở cửa với nền kinh tế thế giới. Đà nẵng một thành phố năng động, là trung tâm phát triển mạnh mẽ nhất của khu vực Miền trung & Tây nguyên và sự phát triển kinh tế của nó kéo theo sự phát triễn mạnh mẽ của các DNNVV. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp này đang lâm vào tình trạng khó khăn và có những thách thức đặt ra cho các doanh nghiệplà không nhỏ. Số DN được thành lập ít hơn quy mô số dân của thành phố, số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tăng thêm vốn, lao động là chưa nhiều. Tuy đã có nhiều DN hoạt động hiệu quả, có hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp, có nhiều ưu thế về tính năng động, thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường…nhưng sự phát triển của DNNVV thành phố tuy đã có nhiều thay đổi nhưng còn chậm và chưa ổn định. Điều đó xuất phát từ những hạn chế và khó khăn của bản thân các DNNVV ở Việt Nam nói chung và TP Đà Nẵng nói riêng, mặt khác chính quyền thành phố cũng chưa có đủ các chính sách phù hợp để hỗ trợ DNNVV và nhất là chưa thực hiện được tốt nhất các giải pháp và chính sách đã đề ra, chính quyền thành phố cũng chưa theo sát được các vấn đề liên quan đến DN. Để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các DNNVV, cũng như đẩy mạnh công tác hôc trợ các DN trên địa bàn thành phố nhằm huy động tối đa tiềm năng vốn, lao động, mặt bằng…trong dân, cần thiết phải làm rỏ thực trạng của DNNVV của thành phố và các chính sách hỗ trợ cho các DN này, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác hỗ trợ cho các DNNVV của chính quyền thành phố. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Phần nào khái quát hoá và hệ thống hoá về mặt lý luận cũng như các vấn đề có liên quan đến DNNVV và vai trò của DNNVV đối với sự phát triển KT - XH - Đánh giá ttổng quan thực trạng của các DNNVV trên địa bàn thành phố, cũng nhưng công tác hỗ trợ cho các DN này của chính quyền thành phố bao gồm cả nguyên nhân, những hạn chế và thành quả đạt được từ công tác phát triển và hỗ trợ các DNNVV này - Xem xét mối quan hệ, sự tương thích của công tác hỗ trợ với doanh nghiệp - Phân tích & đưa ra một số giải pháp phát triển DNNVV cũng như việc đẩy mạnh công tác hỗ trợ của chính quyền đối với các DN này trong giai đoạn 2008 – 2015 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Các DNNVV, những khó khăn và vướng mắc trong quá trình phát triển của các DN, cũng như cồng tác hỗ trợ của chính quyền thành phố đối với các DNNVV tính từ năm 1997 – 2007. Và đồng thời đưa ra một số giải pháp cho sự phát triển của DNNVV và công tác hỗ trợ của chính quyền thành phố cho các DN này Phạm vi nghiên cứu: Các DNNVV đang hoạt động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, các DN thuộc hội Doanh nghiệp trẻ thành phố Đà Nẵng. Các giải pháp và chương trình của chính quyền thành phố đã thực hiện từ năm 1997 – 2007 để hỗ trợ cho DNNVV trên địa bàn thành phố. 4. Phương pháp nghiên cứu Thu thập số liệu Phân tích thống kê và đánh giá Phương pháp so sánh Điều tra, xử lý bằng SPSS 5. Kết cấu chuyên đề thực tập Phần 1: Doanh nghiệp nhỏ và vừa với những khó khăn, thách thức trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay Phần 2: Thực trạng phát triển & công tác hỗ trợ DNNVV trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2007 Phần 3: Những giải pháp đẩy mạnh công tác hỗ trợ phát triển DNNVV trên địa bàn TP Đà Nẵng trong thời gian đến Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện chuyên đề, do khả năng còn hạn hẹp và kiến thức chưa được sâu rộng, thêm vào đó là không có đầy đủ số liệu để phân tích nên trong đề tài của em còn rất nhiều sai sót, em rất mong nhận được sự thông cảm của thầy cô. Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.S TRẦN THỊ TÚC đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên thực hiện TRẦN THANH HẢI B – Nội dung PHẦN I Doanh nghiệp nhỏ và vừa với những khó khăn, thách thức trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay I/ Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Việt Nam & thế giới 1. Khái niệm về doanh nghiệp & doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1. Khái niệm về doanh nghiệp (DN) Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ một nền sản xuất kinh doanh nào tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ để bán, cung ứng cho khách hàng và thu lợi nhuận, dù hoạt động đó chỉ là một cá nhân, một hộ gia đình, đều có thể coi là một doanh nghiệp. Cùng cách hiểu này, Viện Thống kê và viện nghiên cứu kinh tế Pháp định nghĩa DN là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính của nó là sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ để bán. Tuy vậy, trong các văn bản pháp quy của nước ta ranh giới thật rõ ràng “doanh nghiệp” hộ gia đình và doanh nghiệp khác vẫn còn nhiều vấn đề tranh cải. Luật DN được Quốc hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khoá X thông qua tại kỳ họp thứ 5, ngày 12/6/1999 và có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2000, Chương I, Điều 3 nêu rõ: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Tiếp theo đó, Luật cũng đã định nghĩa kinh doanh như sau: “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoạc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Như vậy chính trong văn bản Luật cũng đã để một khoảng trống, rằng có hoạt động kinh doanh nhưng chưa hẳn đã là doanh nghiệp. Bởi vì, muốn trở thành doanh nghiệp thì phải có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định tất yếu phải có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo quy định của Luật doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá thể nếu không có đăng ký kinh doanh, không được gọi là doanh nghiệp, cho dù hộ này vẫn thực hiện các hoạt động kinh doanh hợp pháp. 1.2. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Trong một nền kinh tế , có thể tuỳ theo các chỉ tiêu khác nhau mà người ta phân ra các loại doanh nghiệp khác nhau. Theo ngành kinh tế có thế chia ra DN công nghiệp, DN nông nghiệp, DN thương mại dịch vụ; Theo tính chất hoạt động thì có DN hoạt động công ích và DN SX-KD; Theo hình thức sở hữu thì có DNNN, DNDN và DN có vốn đầu tư nước ngoài; Theo quy mô, mà chủ yếu là quy mô về vốn và lao động thì có DN lớn, DNNVV là loại hình doanh nghiệp phổ biến ở hầu hết tất cả các nước. Có khá nhiều cách định nghĩa khác nhau về DNNVV. Các định nghĩa này có những điểm giống nhau và khác nhau, vì vậy khó mà tìm ra một định nghĩa thống nhất mặc dù ai cũng biết rằng kinh doanh nhỏ và vừa thì khối lượng công việc ít hơn, đơn giản hơn là ở các DN lớn. Hiện nay không có tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh giới quy mô DN ở các nước. Ở mỗi nước, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh phát triển kinh tế cụ thể mà có cách xác định quy mô DN trong từng giai đoạn nhất định. Bảng 1: Tiêu thức phân loại DNNVV của một số nước Lĩnh vực Công nghiệp Thương mại-Dịch vụ Các nước DN vừa DN nhỏ DN vừa DN nhỏ Mỹ Dưới 3,5 triệu USD Dưới 500 lao động Dưới 3,5 triệu USD Dưới 500 lao động Nhật Bản Dưới 100 triệu Yên Dưới 300 lao động Dưới 20 lao động 10 - 30 triệu Yên Dưới 100 lao động Dưới 5 lao động CHLB Đức 1 đến < 100 triệu DM 10 < 500 lao động Dưới 1 triệu DM Dưới 9 lao động 1-100 triệu DM 10 < 500 lao động Dưới 1 triệu DM Dưới 9 lao động Philippin 15 - 60 triệu Peso Không quy định 1đ < 15 triệu Peso Không quy định 1đ 15 - 60 triệu Peso Không quy định 1đ < 15 triệu Peso Không quy định 1đ Đài Loan 1,6 triệu USD 4 -10 lao động 1,6 triệu USD 4 - 10 lao động (Nguồn: Đỗ Đức Định-Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển DNNVV ở một số nước trên thế giới) aXác định tiêu chí DNNVV ở Việt Nam Cần thiết phải xác định DNNVV vì những lý do sau: P Phục vụ cho việc thống kê và phân tích P Để xây dựng và áp dụng chính sách P Thiết kế và áp dụng các dịch vụ hỗ trợ phát triển Từ nhiều năm trước, khi chính phủ chưa ban hành chính thức tiêu chí quy định DNNVV, một số cơ quan nhà nghiên cứu đã đưa ra các chỉ tiêu và tiêu chuẩn cụ thể khác nhau để phân loại DNNVV. Có thể kể ra cách cách phân loại tiêu biểu sau: - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) căn cứ vào 2 tiêu chí lao động và vốn của các ngành để phân biệt: + Trong ngành công nghiệp: DNNVV là tổ chức kinh tế có số vốn từ 5-10 tỷ đồng và có số lao động 200-500 người. Trong đó DN nhỏ có số vốn dưới 5 tỷ đồng với số lao động nhỏ hơn 200 người. + Trong ngành Thương mại-Dịch vụ: DNNVV là tổ chức có số vốn từ 5-10 tỷ đồng và có số vốn lao động từ 50-100 người. - Ngân hàng Công thương hoạt động cho vay tín dụng đối với các DN quy định rằng: DN vừa là DN có vốn từ 5-10 tỷ đồng và số lao động từ 500-1000 người, DN nhỏ là DN có số vốn dưới 5 tỷ đồng và lao động dưới 500 người. - Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, DN có vốn dưới 1 tỷ đồng và dưới 100 lao động được xếp là DN nhỏ, DN có vốn từ 1-10 tỷ đồng và có từ 100-500 lao động là DN vừa. Tóm lại, người ta thường dùng 2 tiêu chí vốn và lao động thường xuyên để xác định DNNVV vì tất cả các DN đều có thể xác định được 2 tiêu thức này. Riêng tiêu thức doanh thu ít được sử dụng vì đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì tiêu chí này có thể biến động do nhiều yếu tố và khó xác định. Để thống nhất tiêu chí xác định DNNVV, ngày 20/6/1998, Chính phủ đã ban hành công văn số 681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời xác định DNNVV. Theo quy định này, DNNVV là các DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Quy định tạm thời này chỉ tồn tại 3 năm và ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV, Theo quy định tại Nghị định này, “DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả 2 tiêu chí vốn và lao động hoặc 1 trong 2 tiêu chí trên”. Với tiêu thức phân loại mới này DNNVV ở nước ta chiếm tỷ trọng trên 90% trong tổng số DN hiện có, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Điều này phù hợp với tinh hình kinh tế của nước ta vốn là nền kinh tế sản xuất nhỏ và vừa là chủ yếu. 2. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam & thế giới Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới; đặc biệt là các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, Các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế, đóng vai trò hết sức quan trọng. Đối với Việt Nam và cũng như tất cả các nước khác trên thế giới DNNVV cũng đều đóng một vai trò quan trọng, vậy vai trò các DNNVV như thế nào, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về vấn đề này. 2.1. DNNVV góp phần quan trọng tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động Đây là một thế mạnh rõ rệt của các DNNVV, và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển loại hình doanh nghiệp này. Các DN này có số lượng lớn, phân bố rộng rãi từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, nên mặc dù số lao động làm việc trong một DNNVV không nhiều nhưng theo quy luật số đông, với số lượng rất lớn DNNVV trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn việc làm cho xã hội. Mặt khác, các DNNVV loại này mang tính tư hữu cao, dễ dàng đa dạng hoá sản phẩm, kể cả các mặt hàng mà các DN lớn không sản xuất ra. Sự lớn mạnh của các DNNVV đã làm tăng thu nhập của công nhân và giảm tỷ lệ thất nghiệp của mỗi địa phương nói riêng và toàn lãnh thổ nói chung. Ở các nước có nền kinh tế thị trường, các DNNVV thường tạo ra từ 70-90% việc làm cho xã hội. Khi nền kinh tế suy thoái, các DN lớn phải cắt giảm lao động để giảm chi phí đến mức có thể tồn tại được vì cầu của thị trường thấp hơn cung. Nhưng đối với các DNNVV do đặc tính linh hoạt, dễ thích ứng với thay đổi của thị trường nên vẫn duy trì hoạt động thậm chí vẫn phát triển. Do đó các DNNVV vẫn có nhu cầu về lao động. Chính vì vậy, Hội đồng DN thế giới đã cho rằng: DNNVV là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi nền kinh tế suy thoái. Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao và không ổn định, sức ép dân số, lao động lên đất đai, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân của dòng di dân từ nông thôn ra thành phố, gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Khu vực DNNVV thu hút khoảng 26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, mặt khác, các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động từ các DNNN dôi ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản DN hiện đang được triển khai. Do các DNNVV có thể phát triển ở khắp mọi nơi trong nước, nên khoảng cách giữa nhà sản xuất và thị trường được rút ngắn lại, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. Chênh lệch giàu nghèo không đáng kể, mỗi người dân có thể là một ông chủ, mỗi gia đình có thể là một doanh nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người Việt Nam còn khá thấp do kinh tế chậm phát triển. Phát triển DNNVV ở thành thị và nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá thu nhập của các tầng lớp nhân dân khắp các cùng trong nước. 2.2. Các DNNVV góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương Với ưu điểm tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào ngõ ngách và yêu cầu số vốn ban đầu không nhiều, mặt khác các DNNVV trong quá trình hoạt động, các DNNVV có thể huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, DNNVV được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản vay tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư. Nguồn vốn được trích từ trong dân là nguồn vốn rất quan trọng, ở Trung Quốc nguồn ngân sách quốc dân có tới 75% là vốn từ trong dân, mặt khác nguồn vốn trong dân được sử dụng tối đa tránh được việc gia tăng mức cung tiền trên thị trương, bình ổn thị trường tài chính. Những đồng tiền nhàn rỗi từ trong dân được sử dụng để tạo thêm giá trị gia tăng, đem lại một giá trị to lớn cho nền kinh tế. Với quy mô vừa và nhỏ, lại được thành lập phân tán ở hầu khắp mọi nơi nên DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về lao động, về nguyên vật liệu với trữ lượng hạn chế, không đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất lớn, nhưng sản có ở địa phương, sử dụng sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các DN lớn. Điều này cũng rất hợp lý đối với nước ta, vốn là một nước có nền kinh tế lạc hậu, trình độ phát triển chậm, cách kinh doanh nhỏ lẽ là thích hợp nhất đối với đại đa số bộ phận người dân. Mặt khác hơn 70% lao động tham gia trong lĩnh vực nông nghiệp, đạc điểm của ngành nông nghiệp là tính thời vụ cho nên có một bộ phận lao động thất nghiệp tạm thời và lao động nhàn rỗi tự nhiên, khi sử dụng mô thức kinh doanh này chắc chắn sẽ tận dụng tối đa các lao động nhàn rỗi, mặt khác góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn 2.3. Các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong tổng số các Cơ sở SX-KD và ngày càng gia tăng mạnh Phần lớn các nước trên thế giới, số lượng các DNNVV chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp. Tốc độ tăng số lượng các DNNVV nhanh hơn số lượng các DN lớn. Các DNNVV hoạt động phổ biến trong tất cả các ngành công nghiệp, dịch vụ, từ công nghiệp thủ công truyền thống đến các ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Do đặc tính của mình mà các DN này rất dẽ dàng thích nghi với điều kiện kinh doanh, vốn không lơn, mô thức kinh doanh và quản lý gọn nhẹ và đơn giản, đây là một thế mạnh mà chúng ta không thể nào phủ nhận được. Một quy luật tất yếu của nền kinh tế cũng như cho toàn XH đó là sự tồn tại song song và hổ trợ lẫn nhau của các bộ phận cấu thành nên xã hội. 2.4. Các DNNVV có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế Chúng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50%GDP ở mỗi nước. Riêng ở Việt Nam, mỗi năm các DNNVV đóng góp khoảng 25% GDP của cả nước. Các DN này có nhiều thuận lợi trong việc khai thác những tiềm năng phong phú trong nhân dân, từ trí tuệ, tay nghề tinh xảo, vốn liếng, ngành ngề truyền thống…Chỉ cần dùng một phép tính rất đơn giản ta có thể nhận thấy rằng sự đóng góp của các DNNVV đối với không chỉ nước ta mà cả với các nước khác là không hề nhỏ, tuy nó nhỏ nhưng số lượng rất đông đảo, lại rất đa dạng về lĩnh vực ngành nghề. 2.5. Các DNNVV là nhân tố quan trọng tạo sự năng động nề kinh tế trong cơ chế thị trường, đóng góp trong việc lưu thông và xuất khẩu hàng hoá Với quy mô nhỏ lại năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh cùng với hình thức tổ chức kinh doanh sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hóa mềm dẻo, hoà nhịp cùng với những đòi hỏi từ nền kinh tế thị trường nên các DNNVV có vai trò to lớn góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. DNNVV có nhiều cơ hội đễ thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ. Khi nền kinh tế phát triển, tạo nhiều cơ hội kinh doanh mới, sức mua tăng lên nhu cầu lớn hơn, các DNNVV rất nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu. Diều này rất khó thực hiện ở các DN lớn khi muốn đa dạng hoá mặt hàng sản xuất. Đối với các DN lớn, DNNVV cũng có thể làm đại lý, vệ tinh tiêu thụ hàng hoá hoặc cung cấp các vật tư đầu vào với giá rẻ hơn, do đó góp phần hạ giá thành, nâng cao hiệu sản xuất cho DN lớn. Đây là thế mạnh rất riêng của các DN này cho nên số lượng của các DNNVVngày càng đông về số lượng và đa dạng về chủng loại, những DN này góp phần đáp ứng cho bộ phận thị trường người tiêu dùng và là nguyên liệu đầu vào cho các DN lớn. 2.6. Các DNNVV có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế Sự phát triển của các DNNVV sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lam cho công nghiệp phát triển, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ, làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông thôn trong cơ cấu kinh tế quốc dân, đặc biệt là ở nông thôn. Với tính chất nhanh nhạy và dễ dàng bắt kịp với những thay đổi hay biến động của thị trường, các DNNVV luôn đóng vai trò đi dầu trong mọi biến động trên cả hai phương diện, thứ nhất các DNNVV sẽ là bước thử nghiệm sự thay đổi, thứ hai nó sẽ đóng vai trò là những bản thảo, tích lũy được các kinh nghiệm đương đầu với sự thay đổi cho các doanh nghiệp lớn. Sau khi có bước thay đỏi thành công nó sẽ là mô hình hoàn hảo nhất cho sự thay đổi của các DN lớn, từ đó làm bước đệm thay đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi để phù hợp với tình hình mới và quy luật kinh tế mới. 2.7. Các DNNVV góp phần dân chủ hoá nền kinh tế, duy trì sự tự do cạnh tranh và có khả năng ứng biến nhanh nhạy DNNVV chiếm một tỷ trọng lớn và đóng vài trò quan trọng trong việc tập trung lực lượng kinh tế, lực lượng lao động. Sự phát triển không ngừng của các DNNVV góp phần phân phối theo chiều hướng tương đối công bằng, mặt khác huy động nguồn sức lao động lớn trong xã hội vào hoạt động sản xuất theo quy trình phân công LĐXH. Tự do kinh doanh là con đường tốt nhất phát huy tiềm lực. Ở các DNNVV, tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do kinh doanh. So với các xí nghiệp lớn, các DNNVV có tính tự chủ cao, không ỷ lại sự giúp đỡ của nhà nước, sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro. Với những ưu thế nhỏ gọn, năng động, dễ quản lý; các DNNVV rất linh hoạt trong việc học hỏi và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác động lên. Do đó, các DNNVV sẽ có khả năng ứng biến nhanh nhạy, thay đổi hoàn cảnh, tự điều chỉnh tổ chức sản xuất. 2.8. Các DNNVV là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp Các DNNVV góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ doanh nhân, ươm mầm các tài năng kinh doanh. Kinh doanh qui mô nhỏ sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nhân làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh qui ô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh các doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên thành những nhà doanh nghiệp lớn. Đây cũng là một quy luật tất yếu đối với một nhà quản lý, điểm tích lũy sẽ hình thành khi họ tham gia vào thị trường lao động, không con đường nào khác những nahf quản lý DN lớn thành đạt đều xuất thân từ việc quản lý thành công một doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mọi bước chạy của những con người thành đạt đều xuất thân từ những bước chập chững ban đầu và môi trường kinh doanh của các DNNVV sẽ là nơi thử sức và trau dồi cho những nhà quản lý ngương doanh ngiệp lớn hơn trong tương lai. Tóm lại, DNNVV có nhiều ưu thế và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nó không có tính loại trừ một quốc gia nào trong đó cá cả Việt Nam. DNNVV ngày càng thể hiện được tầm quan trọng cũng như sự ảnh hưởng của mình đến mọi mặt, tầm ảnh hưởng của nó mang diện rộng trên toàn thế giới, tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay nó thay đổi như thế nào và xu hướng chủ đạo của nó trong trương lai sẽ ra sao, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu vấn đề này ở những phần sau. II/ Những khó khăn, thách thức của DNNVV trong xu thế hội nhập hiện nay Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay thì nền kinh tế không thể tránh khỏi việc bị tác động, mức tác động được biến đổi tùy theo cường độ và sự thay đổi từng lĩnh vực và từng khía cạnh của nên kinh tế - xã hôi. Các DNNVV cũng không nằm ngoài các quy luật đó. 1. Tác động của hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Việt Nam Mọi tác động đều mang tính hai mặt, khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa nền kinh tế nước ta đứng trước thế và lực mới. Những thời cơ và thách thức đem lại từ việc mở cửa sẽ góp phần thay đổi bộ mặt nền kinh tế nước nhà. 1.1. Những thời cơ khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Hội nhập kinh tế toàn cầu là một trong những hiện tượng nổi bật nhất của cuối thế kỷ 20 và những năm đầu của thiên niên kỷ mới này. Đặc điểm nổi bật của hội nhập kinh tế là sự gia tăng các luồng thương mại và đầu tư giữa các nước trên thế giới. Trong một thế giới đang toàn cầu hoá, sự mở cửa các nền kinh tế nội địa, sự tăng cường của các thể chế kinh tế quốc tế, và quyền lực của các công ty xuyên quốc gia đã đóng góp vào việc thúc đẩy cấu trúc thị trường được hội nhập trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, hội nhập kinh tế là một xu hướng không thể tránh khỏi đối với tất cả các quốc gia trên thế giới.     Việc hội nhập có hiệu quả vào hệ thống thương mại thế giới đòi hỏi mức độ tự do hoá cao của mỗi nền kinh tế. Hội nhập kinh tế toàn cầu có thể mang lại những lợi ích lớn cho các nước tham gia vào quá trình này. Mở cửa thương mại, tài chính và đầu tư quốc tế đã đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu phát triển. Hội nhập thương mại quốc tế cho phép các nước chuyên môn hoá sản xuất để đạt được tính kinh tế của quy mô sản xuất. Đối với các nước có lợi thế so sánh như nguồn lực tự nhiên dồi dào, lao động rẻ,… có thể thúc đẩy việc phân phối nguồn lực có hiệu quả hơn và đẩy mạnh khả năng xuất khẩu của họ để đạt được lợi ích kinh tế tối ưu. Mở cửa hội nhập sẽ giúp chúng ta tiếp cận được những cái mới trong lĩnh vực công nghệ, cả công nghệ quản lý và cả công nghệ trong sản xuất. Bước chuyển biến trong việc tiếp thu công nghệ sẽ góp phần làm thay đổi hiệu suất sản xuất, tăng năng suất lao động. Những bước tiến công nghệ sẽ giúp chúng ta tiến xa hơn trong sản xuất và kinh doanh. Hàm lượng công nghệ trong mỗi sản phẩm sẽ góp phần là tăng tính cạnh tranh cũng như chất lượng của từng sản phẩm. Nhưng bước tiến quan trọng nhất trong việc hội nhập mở cửa và tiếp thu công nghệ đó là công nghệ quản lý, chính sự quản lý chuyên nghiệp sẽ làm thay đổi cách thức làm việc và tác phong công nghiệp trong sản xuất, thay đổi được thói quen tập tục gắn liền với nông nghiệp của Việt Nam. Mở cửa thương mại quốc tế cũng chính là một bước mở cửa thị trường, thị trường rộng mở là điều mơ ước của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thương mại. Tận dụng được lợi thế trong mở cửa thị trường sẽ tận dụng được các thời cơ và cơ hội kinh doanh lớn. Khi mở cửa thị trường sẽ thúc đẩy được sự cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp phải tự thân vận động, cả nền kinh tế cũng vận động để thay đổi để phù hợp với nhu cầu của tình hình mới, cũng là phù hợp với quy luật tất yếu của sự vận động và biến đổi. Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa là thời cơ mà chúng ta nên chớp lấy để phát triển nền kinh tế, trong đó các DNNVV cũng tự tạo được những thuận lợi được đưa tới từ việc mở cửa và hội nhập này. Tuy nhiên, thời cơ lớn thì thách thức quả thực là không nhỏ, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu điều này ở phần tiếp theo. 1.2. Những thách thức khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Do mức độ phát triển thấp, nên những thách thức hội nhập mà Việt Nam phải đương đầu là rất lớn. Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của chính sách mở cửa kinh tế, với những điều kiện ít thuận lợi hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Ví dụ như khi gia nhập vào WTO, Việt Nam sẽ áp dụng hệ thống các nguyên tắc MFN và đối xử quốc gia đối với tất cả các thành viên của WTO và hàng hoá và dịch vụ của họ. Vì vậy, thách thức mà Việt Nam phải đối mặt hiện nay là làm thế nào để bảo đảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của quốc gia nói chung. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam được cho là có khả năng cạnh tranh thấp so với các nước khác trong khu vực. Bằng việc tự do hoá nhanh chóng thị trường của mình, kể cả các ngành công nghiệp còn non trẻ, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khắc nghiệt từ các đối thủ kinh doanh nước ngoài. Việc mở cửa thị trường cho hàng hoá, đầu tư và dịch vụ nước ngoài, và những cam kết của Việt Nam để tạo ra một môi trường thuận lợi cho kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho các doanh nhân nước ngoài có được sự tiếp cận rộng hơn đối với thị trường Việt Nam. Một số ngành có khả năng cạnh tranh thấp như dịch vụ, sẽ bị đặt vào những tình thế bất lợi, dẫn đến những tác động xấu đối với nền kinh tế nói chung. Ngoài ra, do còn nhiều yếu kém, các doanh nghiệp nội địa khó có thể đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế về đối xử ưu đãi mà Việt Nam sẽ nhận được thông qua việc hội nhập nền kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hóa. Hậu quả là Việt Nam có thể trở thành một nhà máy khổng lồ của các công ty nước ngoài.     Đối với ngành nông nghiệp, vòng đàm phán thương mại Doha đã đặt ra những yêu cầu khó khăn hơn đối với ngành nông nghiệp của các thành viên mới, như, xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu, thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế an toàn thực phẩm, xoá bỏ hàng rào bảo hộ và giảm thuế  nhập khẩu lương thực. Do vậy, ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với  những thách thức lớn khi đất nước gia nhập WTO.  Kết quả là sẽ có sự sụt giảm trong thu nhập bình quân đầu người của khu vực nông nghiệp, dẫn đến sự bất bình đẳng ngày càng tăng giữa khu vực nông thôn và thành thị khi chúng ta mở cửa thị trương quốc tế và gia nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế lớn này.     Về phía người lao động, việc mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa sẽ gây ra một số bất lợi cho họ. Những thách thức trong việc mở cửa thị trường và xoá bỏ trợ cấp nhà nước và sự bảo hộ trong một số ngành sẽ dẫn tới việc thu hẹp hoặc đóng cửa nhiều doanh nghiệp khiến cho tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Trong những trường hợp như vậy, hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam không có khả năng hỗ trợ những người cần sự giúp đỡ, do Việt Nam vẫn chưa có mạng lưới bảo hiểm thất nghiệp. Cho đến nay, mới chỉ có 12% lực lượng lao động được hệ thống bảo hiểm xã hội bảo vệ. Người lao động làm việc trong khu vực phi chính thức hoặc khu vực nông nghiệp vẫn không được bảo vệ. Những khó khăn này đặt người lao động Việt Nam vào những tình thế rất dễ bị tổn thương. Ngoài ra, hội nhập kinh tế thông qua WTO cũng sẽ làm cho khoảng cách về thu nhập giữa lao động có kỹ năng và không có kỹ năng, giữa nông thôn và thành thị ngày càng rộng. Đặc biệt, cơ hội cho người nghèo ở nông thôn tham gia vào các hoạt động được toàn cầu hoá là rất ít do phần lớn trong số họ là những người lao động không qua đào tạo.     Với Việt Nam và các nước đang phát triển nói chung, việc tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế không phải là một bảo đảm rằng nền kinh tế sẽ phát triển nhanh chóng, thuận lợi. Lý thuyết và thực tế cho thấy tư cách thành viên mới chỉ là chiếc vé để tham gia vào một trò chơi. Thành công đòi hỏi Việt Nam phải có những nỗ lực vượt bậc trong nhiều lĩnh vực để nắm bắt những cơ hội và giảm thiểu những tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập này. Tư cách thành viên mà Việt Nam sẽ đạt được là một cơ hội để Việt Nam phát triển nhanh nền kinh tế, đồng thời, nó cũng mang lại những thách thức lớn khi tham gia vào tổ chức WTO. Nhưng đó là thách thức trong cơ hội, và thách thức cũng mang lại những cơ hội. Bằng việc tái cấu trúc nền kinh tế và khung khổ thể chế, tăng khả năng cạnh tranh quốc gia,… Việt Nam có thể vượt qua được những khó khăn và gặt hái những lợi ích từ quá trình toàn cầu hoá kinh tế ngày càng tăng này.     Mở cửa nền kinh tế của mình, có nghĩa là nước đó sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ những đối thủ nước ngoài. Hậu quả là, các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các DNNVV thiếu khả năng cạnh tranh sẽ lâm vào tình trạng khó khăn hoặc đi đến phá sản. Nếu không có các chiến lược phát triển thích hợp của Chính phủ và b._.ản thân các doanh nghiệp, nền kinh tế sẽ phải chịu nhiều tổn thất từ hội nhập kinh tế. Các DNNVV đang như con thuyền bé lênh đênh giữa đại dương rộng lớn, thị trường thế giới sẽ trở thành một chiến trường khốc liệt hơn bao giờ hết, cuộc đấu sẽ luôn tiếp diễn đòi hỏi các DNNVV phải không ngừng hoàn thiện mình và phát triển. Mở cửa tức là chấp nhận bước vào cuộc chơi mà thôi, ai yếu thế và không sẵn sàng bước vào cuộc chơi sẽ bị loại bỏ. Mô hình liên doanh liên kết giữa các DNNVV sẽ trở thành một khối đoàn kết, giúp cho các DNNVV có thể vượt qua được những trở ngại trước mắt     Để thành công trong quá trình hội nhập kinh tế, các nước không nên chỉ dựa vào những lợi thế so sánh mà họ có. Thực tế đã cho thấy rằng những lợi thế to lớn mà nhiều quốc gia đang phát triển có được với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động rẻ và dồi dào… đã không phải là chiếc chìa khoá vàng dẫn các nước này đến sự thịnh vượng. Điều quan trọng là, các nước phải nắm bắt được lợi thế cạnh tranh thông qua tri thức, sự đổi mới và nguồn vốn con người để đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững. 2. Những khó khăn và thách thức đặt ra với DNNVV  Tuy có được những điều kiện rất thuận lợi song các doanh nghiêp nhỏ và vừa đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Đặc biệt là trong xu thế hội nhập đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc về tất cả mọi mặt, thách thức đặt ra cho các DNNVV và phải vượt qua được các thử thách là điều tất yếu trong quy luật phát triển của DNNVV 2.1. Những khó khăn đối với DNNVV 2.1.1. Bất cập về trình độ quản lý và công nghệ Đây quả thật là vấn đề không nhỏ mhi mà sự phát triển ngày càng gia tăng nhu cầu về cách thức quản lý khoa học và người quản lý có trình độ là thật sự cần thiết và quyết định đến sự tồn vong của doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV. Tuy nhiên theo số liệu thống kê thì hiện nay có tới 55.63% số chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số người là tiến sĩ chỉ chiếm 0,66%; thạc sĩ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp ngay những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp. Về trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Doanh nghiệp trong nước đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệp phía bắc là rất thấp. Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ - LAN, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ 2,16%. Ta có thể dễ dàng nhận ra một nghịch lý, trong khi trình độ về kỹ thuật công nghệ còn thấp nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp có tỷ lệ rất thấp; chỉ 5.65% doanh nghiệp được điều tra có nhu cầu về đào tạo công nghệ. Vậy chứng tỏ là các DNNVV thực sự chưa chú trọng đến việc phát triển và áp dụng KHCN để tăng hàm lược chất xám, nâng cao hiệu quả cũng như chất lược của sản phẩm. Trong khi việc phát triển KHCN và áp dụng công nghệ trong sản xuất đang là một vấn đề nóng hổi và rất đang quan tâm thì có phần lớn các chủ doanh nghiệp lại đi ngược lại yêu cầu này. Số liệu tổng hợp cũng cho thấy một sự khác biệt cơ bản giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp của các nước khác. Trong khi các doanh nghiệp trên thế giới quan tâm hàng đầu về các thông tin công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, thị trường cung cấp và tiêu thụ thì doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu quan tâm đến các thông tin về cơ chế, chính sách liên quan đến doanh nghiệp, rất ít doanh nghiệp quan tâm đến các thông tin về kỹ thuật và công nghệ. 2.1.2. Nhu cầu lớn về vốn, thị trường và đào tạo Từ số liệu của các cuộc điều tra thì các doanh nghiệp tiếp tục đề cập tới nhiều khó khăn đã được nhắc đến nhiều lần. Cụ thể 66.95% doanh nghiệp cho biết thường gặp khó khăn về tài chính; 50.62% doanh nghiệp thường gặp khó khăn về mở rộng thị trường; 41.74% doanh nghiệp gặp khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất; 25.22% doanh nghiệp gặp khó khăn về giảm chi phí sản xuất; 24.23% khó khăn về thiếu các ưu đãi về thuế; 19.47% khó khăn về thiếu thông tin; 17.56% doanh nghiệp khó khăn về đào tạo nguồn nhân lực... Về khả năng tiếp cận các nguồn vốn của Nhà nước: chỉ có 32,38% số doanh nghiệp cho biết đã tiếp cận được các nguồn vốn của Nhà nước, chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa; 35,24% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 32,38% số doanh nghiệp không tiếp cận được. Trong khi đó, việc tiếp cận nguồn vốn khác cũng gặp khó khăn chỉ có 48,65% số doanh nghiệp khả năng tiếp cận, 30,43% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 20,92% số doanh nghiệp không tiếp cận được. Bên cạnh đó, việc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của Nhà nước cũng rất khó khăn. Chỉ có 5,2% số doanh nghiệp đã được tham gia; 23,12% số doanh nghiệp khó được tham gia và 71,67% số doanh nghiệp không được tham gia. Qua cuộc điều tra, doanh nghiệp cũng bày tỏ nhu cầu về đào tạo trong rất nhiều lĩnh vực, trong đó có 33,64% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về tài chính, kế toán; 31,62% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về quản trị doanh nghiệp; 24,14% có nhu cầu đào tạo về phát triển thị trường; 20,17% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh; 12,89% có nhu cầu đào tạo về phát triển sản phẩm mới; 12,89% có nhu cầu đào tạo về kỹ năng đàm phán và ký kết hợp đồng kinh tế; 11,62% có nhu cầu đào tạo về quản lý nguồn nhân lực; 10,85% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về ứng dung công nghệ thông tin trong doanh nghiệp... Rõ ràng là các doanh nghiệp đã nhận thấy nhu cầu rất lớn về đào tạo nhưng chưa được đáp ứng. Đây là vấn đề mà các cơ quan chức năng cần tập trung hỗ trợ; đồng thời cũng là một thị trường đang cần rất nhiều dịch vụ đào đạo chất lượng cao, là cơ hội cho các đại học, các viện nghiên cứu... 2.1.3. Bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu, cơ sỡ vật chất kĩ thuật lạc hậu chậm đổi mới Có thể nói các DNNVV có cách thức tổ chức hoạt động kinh doanh kém, thêm vào đó là sự bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu để sản xuất, máy móc thiết bị. Do quy mô không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp nên chỉ giới hạn số lượng mua hàng, chỉ mua với số lượng nhỏ, các doanh nghiệp không được hưởng hưởng chiết khấu hay giảm giá, điều mà các doanh nghiệp lớn thường được hưởng do lợi thế trong việc mua sản phẩm với khối lượng lớn và đã là khách hàng làm ăn quen thuộc. Mặt khác khi mua máy móc trang thiết bị để phát triển sản xuất từ nước ngoài thì các DNNVV thường thiếu ngoại tệ nên không thể mua trực tiếp mà phải vay mượn hoặc là phải thông qua đại lý nên thường là giá lên rất cao so với mức giá thực tế. Một điều nữa cũng bắt nguồn từ nguyên nhân trên, đó là cơ sỡ vật chất kỉ thuật lạc hậu, trình độ thiết bị công nghệ yếu kém, nhà xưởng, nơi làm việc trực tiếp và trụ sở giao dịch, quản lý đa phần là rất chật hẹp và không đủ diện tích, chứ chưa nói đến việc có được các gian hàng trưng bày, các Showroom với quy mô lớn, dẫn đến bộ mặt của DN không đủ lực để đảm bảo sự tin cậy cho đối tác và không thể tự mình tôn lên khả năng, năng lực của doanh nghiệp trong việc thực hiện các công việc, xã giao với các đối tác làm ăn. Các DNNVV không đủ số lượng tiền đủ lớn để quay vòng và thay đổi các thiết bị cho nên các khấu hao cơ bản sẽ được tính dài ra, vòng đời công nghệ vì thế cũng được giãn ra dài hơn so với yêu cầu phải thay đổi công nghệ nên ngay từ việc mua may móc trang thiết bị ban đầu đã lạc hậu thì nay sự lạc hậu đó còn được kéo dài ra thêm nữa. 2.1.4. Hoạt động sản xuất thiếu vững chắc, yếu về sức cạnh tranh và việc tiếp cận thị trường Mặc dù các DNNVV có ưu thê là rất linh hoạt trước sự thay đổi bất thường của thị trường, nhưng do khả năng tài chính hạn hẹp nên khi biến động lớn xảy ra thì rất dễ dẫn đến tình trạng đó là các doanh nghiệp nhỏ và không đử sức để xoay chuyển tình thế sẽ phải chấp nhận phá sản. Trên thực tế hiện tượng nay rất nhiều và diễn ra liên tục, vòng đời của các DNNVV là rất ngắn. Tuy nhiên, trong khi có một số doanh nghiệp bị phá sản thì số đông các DN khác sẽ được thành lập và thường thì số dong nghiệp được thành lập luôn lớn hơn rất nhiều số lượng các doanh nghiệp bị phá sản cho nên một điều dễ dàng xảy ra đó là sự xáo trộng trong hoạy động kinh tế, sựa mất ổn dịnh và khó quản lý đối với các doanh nghiệp, và lĩnh vực kinh doanh. Một vấn đề nữa từ các DNNVV đó là việc thường xuyên thay đổi hoạt động sản xuất kinh doanh cũng làm cho nền kinh tế càng khó quản lý, thêm vào đó là các DN này phải thường xuyên thay đổi mặt bằng sản xuất kinh doanh, trụ sở giao dịch nên hoạt động sản xuất kinh doanh luôn để trong tình trạng bị động, thiếu vững chắc và thiếu sự ổn định cần thiết cho hoạt động kinh doanh thương nhật của doanh nghiệp. Cùng với những khó khăn trên thì còn một vấn đề lớn trong quá trình sản xuất kinh doanh của các DNNVV cũng nảy sinh một số tiêu cực ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế - xã hội như trốn, lậu thuế, mua bán hàng giả, hàng nhái, mau bán hóa đơn và gây ô nhiễm môi trường. Các DNNVV luôn bị yếu thế trong cạnh tranh trên thương trường khi đối đầu với các doanh nghiệp lớn hơn về quy mô cũng như tiềm lực, năng suất lao động của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rất thấp. Việc tiếp cân thông tin càng khó khăn hơn khi các doanh nghiệp với quy mô nhỏ không đủ liềm lực về công nghệ cũng như con người để nắm bắt thông tin một cách nhanh nhạy và chính xác. Trình độ quản lý của DN còn hạn chế, chưa cập nhật được các kiến thức về kinh tế và thị trường, về quản trị kinh doanh chỉ dự vào kinh nghiệm thiếu các thông tin thực tiễn. 2.2. Những thách thức đối với DNNVV 2.2.1. Năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và quản lý ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn yếu Trong tình hình như hiện nay, khi mà việc áp dụng KHCN trong hoạt động SXKD ngày càng được quan tâm và ưu tiên hang đầu bởi vì nó đem lại cho doanh nghiệp năng lực cao hơn trong cạnh tranh do có lợi thế về công nghệ, hiệu quả kinh doanh tốt hơn. Có thể nói trong thởi đại ngày nay thì công nghệ không chỉ đóng góp phần quan trọng trong doanh nghiệp mà phải nói rằng nó là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Nhưng các DNNVV ở nước ta thì sao? Tuy đã có được công nghệ từ nước ngà lại có lợi thế là một nước đi sau nhưng lại rất yếu về năng lực ứng dụng KHCN trong sản xuất, kinh doanh và cả trong quản lý. Điều này cũng dễ thấy khi mà công tác đào tạo của Việt Nam còn mang nặng tính sách vở và ít hiện thực, thứ hai nền kinh tế của nước ta còn rất yếu kém chưa đủ tiềm lực về vốn, con người để thay đổi theo các công nghệ tiên tiến hơn và ngày càng tiến triển một cách chóng mặt, thứ ba ta có thể nhận thấy một quy luật rất tự nhiên đó là ai sáng tạo ra cái gì thì người đó sẽ thành thục nhất trong việc áp dụng nó, nước ta hay tất cả các DN nước ta rất yếu về khâu nghiên cứu và đổi mới công nghệ, tìm ra cho mình một hướng đi riêng, tự sáng tạo cho mình mô thức làm việc hiện đại mà chỉ đơn giản là bắt chước, nhiều khi sự bắt chước chỉ là hình thức không nắm bắt được cái cốt lõi bên trong của công nghệ, sự sáng tạo của nhà nghiên cứu chỉ có hạn. Không chỉ yếu vê nghiên cứu và phát triển mà các DNNVV hiện nay cũng rất khó khăn trong việc thay đổi công nghệ để nó phù hợp hơn với điều kiện của DN mình. 2.2.2. Sự cạnh tranh trong môi trường ngành diễn ra ngày càng lớn về mức độ cũng như quy mô Trong quá trình phát triển của nền kinh tế có một quy luật mà tất các các doanh ngiệp cần phải nắm bắt đó là chu kỳ kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tuy khác nhau về mức độ nhưnh có điểm giống nhau đó là khi có một công việc kinh doanh và nhiều doanh nghiệp tham gia vào nó, hay đây có thể hiểu nôm na đó là thị trường ngành. Trong một môi trường ngành thì các doanh nghiệp sẽ ngày càng tập trung đông hơn, sau một quá trình chon lọc thì những doanh nghiệp sống sót trong thị trường ngành sẽ làm cho thị trường ngành ngày càng cạnh tranh gay gắt và khốc liệt hơn, các doanh nghiệp vì lợi nhuận và chạy theo lợi nhuận sẽ phải tìm cách để hơn được tất cả các DN còn lại trong thị trường của mình. Các DN gia nhập sau thường có được lợi thế hơn nhờ học hỏi được kinh nghiệm của các doanh nghiệp đã bị buộc phải rời khỏi ngành, thứ hai các DN mới gia nhập vào ngành sau quá trình thanh lộc thường là các doanh nghiệp rất lớn, có thợi thế hơn so với các DN còn lại trong ngành hoặc là có được bí quyết công nghệ hoặc là đã phát hiện ra lổ hỗng của thị trường. 2.2.3. Sự khó khăn về vốn và các hoạt dộng tín dụng Tròng các DN thì tài chính đóng vai trò tiên quết trong mọi hoạt động, nhưng các doanh nghiệp lại yếu nhất ở khâu này, khi mà thị trường ngày càng thay đổi mạnh maẽ chi phí đầu vào luôn tăng qua các kỳ kinh doanh thì việc đòi hỏi phải có được lượng vốn lớn để xoay vòng sản xuất là điều không thể tránh khỏi, nhưng các DNNVV mỗi năm chứ đừng nói là mỗi quý hay mỗi tháng đều có thu nhập thấp, lợi nhuận thu về không đủ trích ra để phát triển kinh doanh. Hoạt động ký gửi trong kinh doanh diễn ra ngày càng lớn, việc bị chiếm dụng vốn là điều rất đương nhiên và các DN trong đó có DNNVV phải chấp nhận việc này để đảm bảo cho công việc làm ăn trở nên dễ dàng thuận tiện hơn, “trường vốn” sẽ giúp cho DN có chổ đững vừng vàng hơn trên thị trường. Có một phương hướng giải quyết cho vấn đề vốn đó là hoạt động cho vay hay hoạt động tín dụng. Các doanh nghiệp yếu thế về vốn sẽ tìm được hướng giải quyết cho việc phát triển và kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc có được nguồn vốn này từ các tổ chức cho vay tín dụng là không phải dễ, bởi vì các thủ tục váy mượn rất rườm rà và phúc tạp mặc dù đã có sự đổi mới. Mặt khác nữa là các tổ chức hoạt động về cho vay tín dụng và tài chính không phải là tổ chức từ thiện, đây cũng là các cơ sở kinh doanh cho nên khi vay tiền các DNNVV phải chứng thực được khả năng về tài chính, cam kết trả vay đúng hạn cũng như phải thế chấp tài sản, nếu một doanh nghiệp đang kinh doanh không tốt do thiếu vốn và cần hỗ trợ về vốn thì việc vay được điều không tưởng, hơn nữa các DNNVV rất nhiều cho nên việc cạnh tranh để vay mượn được khoản tiền này càng trở nên khóa khăn hơn. Thị trường tài chính của nước ta đang chao đảo, các chính sách vĩ mô, các chính sách tiền tệ thay đổi liên tục cũng khiến cho hoạt động tín dụng gặp phải khó khăn. Sự bình ổn về thị trường tài chính sẽ giúp cho hoạt động tín dụng dễ dàng hơn, các DNNVV cũng dễ thở hơn. 2.2.4. Sự thay đổi của thị trường diễn ra với tốc độ chóng mặt Sau khi gia nhập vào kinh tế quốc tế và mở cửa thị trường thì sự thay đổi diễn ra càng mạnh mẽ hơn, tốc độ thay đổi cũng nhanh hơn rất nhiều. Khủng hoảng tài chính thế giới năm 97, nước láng diềng Thái Lan lâm vào khủng hoảng nhưng nước ta thì khôgn ảnh hưởng gì lớn, nhưng ai dám chắc rằng khi mở cửa rộng rãi hơn, tham gia vào kinh tế quốc tế thì một sự biến chuyển của thị trường sẽ gây tác động cho nước ta đến đâu thì đó là điều không ai dám chắc được. Các sự thay đổi thường thấy hiện nay ta có thể nhận thấy được đó là sự biến động mãnh liệt của giá như giá xăng, giá dầu, giá bất động sản…vv luôn thay đổi và có chiều hướng không rõ rệt, rất khó dự báo. Tiếp theo là thị trường vốn và tài chính mà một ví dụ minh họa điển hình và rõ ràng nhất đó là thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán Việt Nam tăng nhanh, mạnh nhưng chỉ như bong bóng xà phòng, không ổn định. Tiếp nữa, là thị trường xuất khẩu luôn nằm trong tư thế bất ổn, sự ràng buộc từ các yếu tố xuất khẩu, các thị trường lớn thay đổi khiến hoạt động XNK không yên ổn… và hàng loạt các yếu tố khác từ thị trường gây khó khăn không chỉ cho các DN lớn mà các DNNVV nước ta cúng không là trường hợp ngợi lệ. Sự thay đổi linh hoạt để đáp ứng cho nhu cầu mới là điều cần thiết nhưng các DNNVV vừa yếu về vốn, vừa yếu về công nghệ, năng lực có hạn thì việc sự thay đổi của thị trường diễn ra với tốc độ chóng mặt là một thách thức không nhỏ đối với các DNNVV. 3. Sự cần thiết phải hỗ trợ DNNVV trong quá trình phát triển Từ sau Đại Hội Đảng toàn quốc lần VI (năm 1986), cả nước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, dần dần xóa bỏ cơ chế kinh tế cũ. Chính sách mở cửa, thu hút đầu tư tạo môi trường thuận lợi cho các ngành sản xuất trong nước phát triển, phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, trong đó có thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là các DNNVV. Tuy nhiên trong sự phát triển mạnh mẽ của mình thì có một hiện tượng hay nói đúng hơn là một vấn đề xảy ra đó là phần lớn nhân lực của các DNNVV đều rơi vào tình trạng hụt hẫng, không đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, kỹ luật và tác phong lao động nhất là các doanh nghiệp có các sản phẩm xuất khẩu. Thời gian qua, các DNNVV đã có bước đầu huy động tiềm năng và nguồn lực để tập trung cho công tác đào tạo và bồi dương nguồn nhân lực, tuy nhiên tỷ lệ lao động chưa tưng xứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong quá trình phát triển, công tác đào tạo chưa được chú trọng đúng mức. Các DNNVV đa số sử dụng máy móc công nghệ đã lạc hậu, việc nghiên cứu KH&CN tuy đã cso nhưng chưa chuyển biến rõ rệt. Như các số liệu báo cáo cho thấy hiệu quả hoạt động SXKD chưa cao, dẫn đến năng lực cạnh tranh yếu kém là hậu quả tất yếu đối với nhiều DNNVV. Tất cả những điều trên vừa xuất thân từ chính bản thân của các doanh nghiệp, mà doanh nghiệp không thể tự khắc phục và một phần là do các yếu tố khách quan bên ngoài. Chính vì vậy vấn đề hỗ trợ là thật sự cần thiết đối với các DNNVV. Trong xu thế mới như hiện nay việc phát triển DNNVV là điều rất cần thiết cho đấtt nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa. Một khi phát triển mạnh mã và có chất lượng các DNNVV và công tác hỗ trợ DNNVV được đảm bảo thì điều đầu tiên ta có thể thấy đó là những khó khăn xuất phát từ bản thân doanh nghiệp sẽ không còn nữa, các DNNVV sẽ có cơ hội phát triển, đem lại cuộc sống ổn định cho mỗi cá nhân và tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân. Thứ hai, việc phát triển các DNNVV là đi đúng quy luật phát triển và sự cần thiết của nền kinh tế Việt Nam bây giờ, những yếu kém của nền kinh tế Việt Nam đó là: Nền kinh tế nhỏ lẻ và lạc hậu, phát triển chủ yếu dựa vào nông nghiệp; trình độ phát triển kém, lạc hậu về công nghệ quản lý và kỉ thật sản xuất, nền kinh tế có sức cạnh tranh yếu; tỷ lệ thất nghiệp còn cao; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm chạp, chưa tận dụng được hết lợi thế về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên…vv và vô vàn những vấn đề khác xuất thân từ nền kinh tế của Việt Nam, DNNVV sẽ góp phần làm thay đổi những vấn đề và vướng mác từ nền kinh tế của Việt Nam. Mặt khác, phát triển DNNVV sẽ khắc phục được các vấn đè xã hội, bởi vì nó góp phần làm giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, thay đổi cách đào tạo, lành mạnh hóa thể chế chính trị và làm giảm các vấn đề gây mất an ninh trật tự và các vấn đề xã hội liên quan đến người lao động. Chính những lý do trên và yêu cầu cho tình hình mới mà ta thấy được sự cần thiết phải hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hỗ trợ cho các DNNVV cũng chính là hỗ trợ cho chính nền kinh tế Việt Nam. PHẦN II Thực trạng phát triển & công tác hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 2002 – 2007 I/ Thực trạng phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Trong Phần II em sẽ trình bày các vấn đề qua việc trả lời các câu hỏi như: Tình hình phát triển của DNNVV ở TP Đà Nẵng hiện nay như thế nào? Các cách thức công tác hỗ trợ đã được TP áp dụng để hỗ trợ DNNVV trong thời gian qua ra sao? Những nguyên nhân nào đã gây nên sự hạn chế việc hình thành và phát triển DNNVV ở TP ? Từ đó sẽ có những cái nhìn cụ thể và chính xác để đưa ra những kiến nghị phù hợp sẽ được trình bày chi tiết trong Phần III nhằm giúp DNNVV càng ngày càng có cơ hội phát triển, tận dụng hết những lợi thế vốn có của DNNVV và ngày càng khẳng định vị thế cũng như vị trí của doanh nghiệp đối với nền kinh tế. Nhưng để tìm hiểu được những vấn đề trên thì ta cùng đi sâu vào tìm hiểu thực trạng và các báo cáo về doanh nghiệp dân doanh (DNDD) là thành phần chính trong cơ cấu về DNNVV thành phố. Phân tích DNDD cũng chính là phân tích tình hình các DNNVV đang hoạt động trên địa bàn thành phố. 1. Số lượng doanh nghiệp phát triển qua các năm 1.1. Giai đoạn 1997 – 1999 Quy mô và số lượng các DNDD, có số lượng ngày càng tăng, trong các DN này có quy mô ngày càng tăng và chất lượng cũng có nhiều sự biến đổi. Về số lượng, năm 1997 Thành phố có 670 DNDD đăng ký kinh doanh 9 trong đó có 391 DNTN, 266 công ty TNHH, 14 Công ty Cổ phần). Năm 1999, con số này là 855 doanh nghiệp (trong đó có 504 DNTN, 322 công ty TNHH, 29 công ty Cổ phần), tăng lên 185 DNDD, tính bình quân giai đoạn 1997-1999 mỗi năm tăng 62 DN; tốc độ tăng bình quân thời kỳ này là 12,9%. Vốn đăng ký, năm 1997 là 150,48 tỷ đồng, năm 1999 đạt 316,9 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 1997; tốc độ tăng bình quân thời kỳ này là 45,1%. Lao động, năm 1997 số lao động trong DNDD là 7756 người chiếm 2,59% tổng lao động toàn Thành phố thì dến năm 1999 con số này là 8707 người chiếm 2,73% tổng lao động toàn Thành phố; tốc độ tăng bình quân thời kỳ này là 6%. Năm 1999 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chiếm 12,8%, Thương mại-dịch vụ chiếm 75,8%, Vận tải-xây dựng chiếm 4,1%, ngành nghề khác chiếm 7,2%. 1.2. Giai đoạn 2000 – 2007 Với quan điểm của Đảng ta là “xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN”. DNDD Đà Nẵng đã có bước phát triển tương đối nhanh chóng đóng góp một phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu của Thành phố “phát triển nhanh và bền vững”, đẩy nhanh sự phát triển của Thành phố. Giai đoạn 2000-2007 (sau khi có Luật doanh nghiệp) tốc dộ tăng bình quân là 33,435%, gấp 9,83 lần so với thời kỳ chưa có Luật doanh nghiệp. Bảng 2: Số lượng DNDD dăng ký thành lập qua các năm. (ĐVT: Doanh Nghiệp) Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số Số DN được cấp giấy chứng nhận ĐKKD 397 611 620 789 1.136 1.429 1719 1940 8640 Gồm: -DNTN -Công ty TNHH -Công ty CP -C/nhánh, VPĐD 168 157 11 54 212 292 16 91 188 314 26 92 182 412 60 135 281 576 105 174 301 694 216 218 346 879 209 285 299 991 306 246 1977 4315 949 1295 Số DN có đến 13/12 1.256 1.687 2.240 2.756 3.764 4.981 6676 8154 8154 Tỷ lệ tăng trưỡng năm % 52,28 34,31 32,78 23,04 36,57 32,33 34,03 22,14 33,435 Số DN bị xoá tên 180 67 273 156 201 140 220 - Tổng vốn đăng ký (Triệu đồng) 230.246 578.580 471.419,2 2.539.386 5.121.214 7.039.652 5.481.348 7.100.937 - Vốn b/q 1 DN (Triệu đồng) 580 947 760 3.218 4.508 4.926 3.188 4.449 - (Nguồn : Sở Kế hoạch-Đầu tư TP Đà Nẵng) Tốc độ phát triển DN qua các năm đã tăng một cách đáng kể, nhất là từ khi có luật DN băt đầu có hiệu lực (1/1/2000). Năm 2001, có 611 DN ĐKKD tăng 1,54 lần so với năm 2000. Năm 2002 có 620 DN ĐKKD tăng 1,4% so với năm 2001. Năm 2002 có 789 DN ĐKKD tăng 27,26% so với năm 2002. Đặc biệt năm 2004 có đến 1136 DN ĐKKD tăng 44% so với năm 2003. Sỡ dĩ có sự tăng nhanh như vậy là do TP có quyết định lấy năm 2004 là “Năm doanh nghiệp”, trong thời gian này Chính quyền thành phố đã có những chính sách hỗ trợ tích cực cho DN. Năm 2005 có 1429 DN ĐKKD tăng 25% so với năm 2004. Năm 2005 là năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm là năm đánh dấu bước chuyển biến mới những chủ trương chính sách đã đi vào cuộc sống giúp DN an tâm hơn mạnh dạn đầu tư kinh doanh. Cho đến năm 2006 con số này đã là 6766 DN, và cho đến hết tháng 12/2007 thì cả thành phố đã có được số DNDD lên đến con số 8154 DN (tăng gấp 9 lần so với năm 1999), trong đó có 1977 DNTN, 4315 Công ty TNHH, 949 Công ty Cổ phần. Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2000-2007 là 33,435%, gấp 2,7 lần so với giai đoạn 1997-1999. (ĐVT: Doanh Nghiệp) Biểu đồ 1: Số lượng DNDD Tp Đà Nẵng qua 8 năm 2000-2007 Trong 8 năm qua, số DN đăng ký thành lập theo loại hình công ty TNHH chiếm nhiều nhất với 4315 DN chiếm 49,94% so với tổng số DN đăng ký thành lập, tiếp đến là DNTN với 1977 DN chiếm 22,88%. Công ty CP là loại hình ít được chọn lựa nhất với 949 DN, chỉ chiếm chưa đến 10,98%. Có thể thấy rằng, người kinh doanh ở Đà Nẵng chưa quen và tin tưởng vào cách làm ăn hùn hạp, huy động vốn từ nhiều người để đầu tư qua hình thức Cổ phần. Còn công ty TNHH thì đa số có dưới 5 thành viên, chủ yếu là người trong gia đình hoặc bạn bè tin cậy. Như vậy loại hình công ty TNHH là phổ biến nhất trong các loại hình kinh tế, nguyên nhân của hiện tượng này là do Công ty TNHH có tư cách pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn về khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp vào DN. Biểu đồ 2: Cơ cấu DN thuộc khối DNDD năm 2007 (%) 2. Quy mô của các DNNVV trên địa bàn thành phồ Đà Nẵng 2.1 giai đoạn 1997 – 1999 Sự đóng góp vủa DNDD đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố Vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, năm 1997 là 71,76 tỷ đồng, chiếm 3,83% tổng vốn đầu tư toàn Thành phố. Năm 1999 đạt 112,1 tỷ đồng, chiếm 5,17% tổng vốn đầu tư toàn Thành phố, tăng 52,6% so với năm 1997. Đóng góp vào ngân sách thông qua nộp thuế, năm 1997 là 13,85 tỷ đồng, chiếm 2,1% tổng thu ngân sách Thành phố. Năm 1999, đạt 24,19 tỷ đồng, chiếm 3,66% tổng thu ngân sách Thành phố, tăng 74,6% so với năm 1997. Góp phần tạo sản phẩm Thành phố, GDP năm 1997 đạt 135,1 tỷ đồng, chiếm 5,2% tổng GDP của Thành phố. Năm 1999 đạt 183,11 tỷ đồng, chiếm 5,9% tổng GDP của Thành phố, tăng 35,5% so với năm 1997. Xuất khẩu của DNDD năm 1997 là 10,247 triệu USD, chiếm 6,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Thành phố. Năm 1999 giảm còn 8,176 triệu USD, chiếm 4,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố. Như vậy, trong những năm 1997-1999, các chỉ tiêu của DNDD đều tăng, nhất là vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhìn chung DNDD đã thể hiện sự năng động nhạy bén với cơ chế thị trường. Bước đầu tạo ra được sự cạnh tranh giữa DNDD với các thành phần kinh tế khác. Các DNDD có quy mô ngày càng tăng, người dân mạnh dạn bỏ vốn ra làm ăn. Tuy vậy, DNDD thời kỳ này vẫn còn nhiều hạn chế: tốc độ phát triển chậm, quy mô nhỏ chủ yếu kinh doanh TM-DV, chưa mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, công nghệ lại lạc hậu… 2.2 Giai đoạn 2000 – 2007 Để góp phân phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước; đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế; đảm bảo quyền tự do, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh của tất cả các thành phần kinh tế, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ đầu tư. Năm 2000, Luật doanh nghiệp đã ra đời tạo nhiều điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế DNDD lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Để tìm hiểu được sâu sắc hơn mức độ đóng góp của các DNNVV ta cùng đi vào phân tích các khía cạnh sau: 2.2.1. Về quy mô vốn Vốn đăng ký kinh doanh của các DNDD tăng nhanh qua các năm và đặc biệt tăng cao từ năm 2000 đến nay. Từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực đã tạo ra hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi để cho các nhà kinh doanh yên tâm bỏ vốn đầu tư, ngoài ra trong thời gian này những vướng mắc trở ngại trong quá trình thực hiện Luật doanh nghiệp đã được kịp thời tháo gỡ tăng thêm lòng tin từ nhà đầu tư vào Chính quyền thành phố. Giai đoạn năm 2000-2005, tốc độ tăng bình quân là 60,9%, gấp 2 lần tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1997-1999. Bảng 3: Vốn đăng ký kinh doanh của DNDD (ĐVT: Tỷ đồng) Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 KTTN 778,9 1379,8 1899,1 4498,6 5771,9 8399,1 9876,6 10.784,7 DNDD 600,3 1105,3 1573,4 3998,8 5121,2 7851,0 8968,0 9978,0 % trong KVKTTN 70,1 80,1 82,85 88,89 88,73 93,50 90,08 92,52 (Nguồn: Báo cáo Sở kế hoạch-Đầu tư Tp Đà Nẵng) Quy mô vốn đăng lý kinh doanh của DNDD được huy động của khu vực này có sự gia tăng qua các năm. Năm 1997 vốn đăng lý kinh doanh là 150,48 tỷ đồng; Năm 1999 là 316,9 tỷ đồng; năm 2000 là 600,3 tỷ đồng, chiếm 70,1% trong khu vực KTTN, gấp 1,9 lần so với năm 1999; và đến năm 2007 con số này là 9.978 tỷ đồng, chiếm 92,52 % khu vực KTTN, tăng gấp 24,8 lần so với năm 1999; tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2000-2007 là 67,2%, gấp 1,2 lần so với giai đoạn năm 1997-1999. Năm 2007, các Ngân hàng đã có bước chuyển hướng đầu tư sang khu vực kinh tế dân doanh theo định hướng chung của ngành đồng thời khu vực kinh tế dân doanh củng đã tạo được uy tín riêng cho mình với Ngân hàng. Tuy nhiên, số vốn mà các DNDD vay được tư Ngân hàng vẫn còn hạn chế, đồng thời DN chưa mạnh dạn bỏ vốn ra đầu tư do công tác hỗ trợ doanh nghiệp và quản lý Nhà nước đối với DN tuy có bước chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập hạn chế, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất chưa đủ sức mở rộng phát triển sản xuất, hoặc liên kết với các công ty nước ngoài. Theo số liệu thống kê đến cuối năm 2007 thì trong tổng số 8154 DNDD thì có 89 DN có mức vốn trên 1 tỷ đồng, chiếm 1,09%; còn lại 8154 DN có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, chiếm 98,91%. Bảng 4: Quy mô vốn bình quân của 1 DNDD qua các năm (ĐVT: Triệu đồng) Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1. DNTN 309 389 288,3 741 474 417 570 452 2. Cty TNHH 740 1529 1.016,9 1.344 973 1.182 1.044 1.516 3. Cty CP 5.740 3.101 3.233,5 3.084 4.638 5.416 5.101 17.705 (Nguồn : Sở KH-ĐT TP Đà Nẵng) Với quy mô trên đã làm hạn chế hoạt động của DNNVV ở TP Đà Nẵng rất nhiều. Số liệu trên là vốn các DN đăng ký khi làm thủ tục ĐKKD, còn trên thực tế còn thấp hơn. Như vậy, phần lớn các doanh nghiệp đều có mức vốn thấp, quy mô nhỏ, do đó không đủ khả năng tham gia sản xuất kinh doanh ở những ngành nghề lĩnh vực đòi hỏi tập trung vốn lớn và công nghệ cao dẫn đến sản phẩm dich vụ của doanh nghiệp có sức cạnh tranh thấp. 2.2.2. Quy mô sử dụng lao động Lao động trên địa bàn thành phố đang ngày càng tă._. tác hỗ trợ về vốn Đây là khâu khó khăn nhất của DN nói chung và cũng là khâu khó nhất của các DN nói chung và là rất khó khăn DNNVV nói riêng. Thiếu vốn gây nên những ách tắc trong sản xuất, lưu thông hàng hóa. Khi phát sinh nhu cầu về vốn đòi hỏi các DN phải tự huy động và tìm kiếm tuy nhiên chính quyền thành phố cần có những hỗ trợ để DN có thể có được nguồn vốn dễ dàng hơn, nhằm thỏa mãn cho nhu cầu SX – KD. Công việc mà thành phố và các cơ quan chức năng các hiệp hội phải làm đó là: Tạo vốn qua việc mở rộng tín dụng ngân hàng: Ta có thể thấy rằng, Ngân hàng chính là một kênh tài chính rất quan trọng, vốn của ngân hàng chiếm một khoản lớn trong thành phần vốn SX – KD của doanh nghiệp, khoản vốn này có thể được sữ dụng cho việc mua sắm, đổi mới trang thiết bị, đáp ứng kịp thời nhu cầu SX – KD. Khó khăn trong vấn đề tín dụng liên quan đến ngân hàng đó là điều kiện, thủ tục tín dụng chưa đồng bộ, dịch vụ chưa tiện ích và phong phú, khả năng đáp ứng vốn trong dài hạn cho các DNNVV còn rất hạn chế. Khó khăn xuất phát từ phía DN đó là năng lực tài chính thấp, thiếu phương án KD có hiệu quả, khả năng điều hành quản trị DN thấp, lập báo cáo kế toán thường là đối phó. Do vậy mở rộng tín dụng ngân hàng là: - Chính quyền thành phố cần khuyến khích các ngân hàng thương mại chủ động tìm kiếm các dự án cho vay khả thi, nâng cao năng lực thẩm định, mở rộng cho vay có bảo đảm, vay tín chấp và các hình thức cho vay khác. Đồng thời tăng cường công tác cung cấp thông tin cho các DN, đưa ra nhiều dịch vụ phù hợp cho nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng, thường xuyên đào tạo cập nhật kiến thức cho các cán bộ làm công việc này. - Cố gắng xây dựng mối quan hệ hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa ngân hàng và DN. Chính quyền TP cần có các chính sách thành lập các tổ chức tư vấn và hỗ trợ một phần kinh phí cho các DN trong dịch vụ này. Thường xuyên theo giõi và đôn đốc cho trung tâm này hoạt động đúng chức năng và nhiệm vụ của mình. Đồng thời phối hợp với trung tâm hỗ trợ DNNVV của Bộ đóng trên địa bàn để có các hình thức hỗ trợ tốt hơn tránh được sự chồng chéo không cần thiết. Mở rộng hình thức cho thuê tài chính Do đặc điểm của các DNNVV là không đủ tiềm lực về vốn, không có tài sản để thế chấp cho nên cho thuê tài chính nhất là cho thuê mua máy móc trang thiết bị phát triển SX – KD sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho các DNNVV, một mặt nó giải quyết vốn trung và dài hạn để đầu tư, một mặt nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường cho DN. Tuy nhiên, CTTC có những nhược điểm sau: Lãi suất thường cao hơn lãi suất vay vốn cùng loại của các ngân hàng; đòi hỏi kiến thức, cũng như kinh nghiệm của các nhân viên là nghiệp vụ này (bảo hiểm, nhập khẩu, thuế); sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính tín dụng với nhau ngày càng trở nên gay gắt. Đối với hoạt động cho thuê tài chính của TP mà nói hiện nay cúng không nằm ngoài những quy luật đó, đó là dư nợ của các công ty cho thuê tài chính thành phố tăng trưởng nhanh nhưng vẫn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng của TP, sự nhận biết của khách hàng vào hoạt động cho thuê còn rất hạn chế và hiện chỉ có một DN hoạt động trong lĩnh vực CTTC. Để hoạt động CTTC thực sự phát triển và hỗ trợ đắc lực cho DNNVV tại thành phố thì chính quyền thành phố cần thiết phải tiến hành các giải pháp sau: - Chính quyền thành phố cần có biện pháp cả khuyến khích lẫn bắt buộc các công ty CTTC nỗ lực hết mình trong việc kiện toàn và cũng cố bộ máy tổ chức, đội ngũ nhân viên, nhà quản lý thực sự có chất lượng và am hiểu, thành tạo nghiệp vụ. Đồng thời giúp cho các công ty CTTC mở rộng thị trường và đối tượng khách hàng, nâng cao sự hiểu biết của khách hàng về lĩnh vực này, đưa ra mức lãi suất vay có thể linh động thay đổi để có thể phù hợp hơn đối với các đối tượng khách hàng là các DNNVV. - Thành phố cần phải hỗ trợ các DNNVV thông qua việc phát triển mạng lưới các công ty cho thuê tài chính. Tạo điều kiện cho các công ty CTTC dược thành lập, thúc đẩy nhanh quá trình thành lập các công ty CTTC nhằm tạo điều kiện cho các DNNVV có điều kiện tiếp cận vốn vay, tránh sự độc quyền và tăng tính cạnh tranh, tạo ra các điều kiện có lợi cho các DNNVV biết đến cũng như sữ dụng tốt các nguồn vốn này. - Phát huy vai trò và thế mạnh sẵn có của quỹ đầu tư phát triển trên địa bàn. Quỹ đầu tư và phát triên cho vay để thực hiện các dự án đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bão lãnh tín dụng đầu tư đối vơi các dự án nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động đủ số vốn để đầu tư dự án phát triển và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Điều mà thành phố cần làm đó là huy động mạnh nguồn vốn cho quỹ hoạt động, tiếp theo đoa là phải quản lý và theo dõi sát sao tình hình hoạt động của quỹ. - Thành phố cần làm tốt vai trò là cầu nối giữa DNNVV với các tổ chức tài chính trên, điều cần thiết đối với công tác hỗ trợ này đó chính là sự ân cần và nhiệt tình trong công tác hỗ trợ, chính quyền phải xem các DNNVV chính là những đứa con tinh thần và vật chất của mình để có được sự giúp đỡ chân thành nhất, luôn là cơ quan đi đầu trong việc giải quyết khó khăn của các DNNVV. Khuyến khích tư nhân đầu tư xây dựng cơ sỡ hạ tầng Theo quy hoạch phát triển dài hạn đến năm 2020 của TP Đà Nẵng sẽ là một trong những đô thị lớn của cả nước, chính vì vậy với nguồn vốn và ngân sách hạn chế chính quyền thành phố không thể đáp ứng hết lượng vốn và nhu cầu đầu tư lớn như thế cho nên tốt nhất chính quyền thành phố cần xây dựng cơ chế, chính sách tư nhân khuyến khích đầu tư vào xây dựng cơ sỡ hạ tầng. Theo đó, lĩnh vực nào, dịch vụ nào mà các DNDD có thể đầu tư và đầu tư có hiệu quả thì chính quyền thành phố nên khuyến khích làm. Nếu làm được như vậy sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho các DNNVV có việc làm, góp phần giảm nguồn chi của thành phố, xây dựng thành phố ngày càng hiện đại, đồng thời nguồn kinh phí này sẽ dùng ngược lại để hỗ trợ cho các DN này bằng các hình thức hỗ trợ trong quá trình các DN này thực hiện việc đầu tư của mình. Đây là mô hình không mới mẻ, nó tương tự như việc mà chính phủ đã phát động đó là “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, cách làm này đã được thực hiện ở TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng nên vận dụng mô hình này. Khuyến khích nguồn vốn trong dân góp phần giải quyết được sự khó khăn về vốn, vừa tạo được động lực, công ăn việc là cho các DNNVV, đó cũng chính là tạo công ăn việc làm cho nhân dân, giải quyết được vấn đề xã hội này. 2.2. Đối với công tác hỗ trợ về kỹ thuật và công nghệ Công nghệ không chỉ đóng vai trò quyết định trong nền kinh tế, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi cơ cấu SX, nâng cao khả năng cạnh tranh...mà nó còn đóng một vai trò không nhỏ đối với các DNNVV, các DN phải thường xuyên thay đổi và áp dụng công nghệ để đáp ứng cho nhu cầu thay đổi ngày càng cao, càng nhanh của thị trường. Tuy nhiên hiện nay công tác hỗ trợ này chưa được thành phố tiến hành một cách mạnh mẽ và chưa có chính sách riêng nào để dành cho các DNNVV. Chính quyền thành phố và các tổ chức làm công tác khoa học công nghệ, đào tạo trên địa bàn cưa tiếp cận và phối hợp với các DNNVV, dó đó các DNNVV thiếu đi sự tiếp xúc cần thiết đối với các loại vốn trong và ngoài nước, với các loại vốn dài hạn nhằm mua sắm trang thiết bị, ngoài ra mức thuế đánh vào thu nhập của các đội ngũ chuyên gia nước ngoài còn rất cao đây cũng là một trở ngại đối với công tác chuyển giao công nghệ. Hậu quả tất yếu đó là các doanh nghiệp yếu mọi mặt trong việc tiếp thu và ứng dụng KHCNHT tiên tiến. Công tác hỗ trọ hiện nay đã có nhưng chúng ta cần phải có giải pháp để đẩy mạnh công tác hỗ trợ DNNVV thành phố về KT-CN này. Chính quyền thành phố cần làm gì trong công tác hỗ trợ DNNVV về kỹ thuật và công nghệ ? Hỗ trợ về vốn cho các DNNVV thay đổi kỹ thuật và công nghệ: Hỗ trợ về vốn rõ ràng là điều nên làm, tuy nhiên điều quan trọng hơn đó là hỗ trợ theo phương thức nào và nguyên tắc phải tuân thủ trong công tác hỗ trợ phải làm như thế nào. Để công tác hỗ trợ này thật sự đem lại hiệu quả thì điều cân thiết đó là, tập trung vốn vào đúng đối tượng và đúng mục tiêu của vốn, không dàn trải lượng vốn đầu tư, những mặt cần phải hỗ trợ vốn như đổi mới công nghệ, mẩu mã, đào tạo và nghiên cứu công nghệ. Trong quá trình hỗ trợ này chính quyền và các cơ quan có chức năng phải thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện vốn vay, có quy định rõ ràng trong khâu sử dụng vốn cũng như guy trình giải ngân nguồn vốn và điều cuối cùng đó là chính quyền phải làm công tác bão lảnh cho các DNNVV trong việc vay vốn. Ngoài ra chính quyền còn cần phải kiểm tra thật gắt gao ở khâu lựa chọn dây cuyền thiết bị và công nghệ tránh cho DN mua phải những thiết bị công nghệ thấp và đả lỗi thời, hoặc những dây chuyền không đúng với mục đích sử dụng, đồng thời tổ chức nghiên cứu, thay đổi những công nghệ ứng dụng làm cho nó phù hợp hơn với quá trình sử dụng. Vận hành tốt trung tâm hỗ trợ kỹ thuật tư vấn: Chính quyền cần hỗ trợ và khuyến khích DNNVV áp dụng hệ thống uản lý ISO. Trung tâm có vai trò tư vấn về kỹ thuật công nghệ, cải tiến trang thiết bị. Chính vì vai trò rất to lớn của mình, trung tâm phải nỗ lực hết mình đi đầu trong công tác hỗ trợ về thông tin công nghệ, duy trì tốt hoạt động thưỡng xuyên của trung tâm, thưỡng xuyên cập nhật thông tin và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là Website của trung tâm, xây dựng được sự trao đổi thông tin hai chiều trực tuyến và hiệu quả song song với việc sử dụng tốt hiệu quả đường dây nóng. Vậy, vai trò của chính quyền thành phố trong công tác này là gì, đó là tạo ra cơ chế và chính sách hỗ trợ cũng như môi trường tốt nhất cho trung tâm có điều kiện để phát triển tốt nhất vai trò và tầm quan trọng của mình, một mặt cũng phải quan tâm thật sâu sắc công tác của trung tâm để nắm bắt được tình hình phát triển của trung tâm và các DNNVV thành phố, để có những đối ứng và giúp đỡ nhanh chóng, thật sự cần thiết cho các DN này. Hỗ trợ trong lĩnh vực này còn là việc tạo lập mối quan hệ thiết thực giữa cơ quan nghiên cứu với các trường ĐH, viện chuyên ngành, các chuyên gia của cả nước với các DN. Chính quyền nên đặt hàng các trung tâm này trong việc nghiên cứu, nhằm tạo lập cơ sỡ cho việc phát triển sau này. 2.3. Đối với các giải pháp về đất đai và mặt bằng Phần lớn các DNNVV đều thiếu mặt bằng và đất đai để tiến hành các hoạt động SXKD, làm trụ sở giao dịch, có những chủ doanh nghiệp phải sử dụng chính nhà của mình để làm trụ sở giao dịch cho công ty, do diện tích nhỏ bé cho nên nó thường gây ra những khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp, thành phố cần phải hỗ trợ, tạo điều kiện cho các DNNVV có mặt bằng phù hợp với yêu cầu sản xuất và kinh doanh. Thực hiện nghiêm chỉnh điều 3,4,5 & 6 trong quy định về một số chính sách khuyến khích đầu tư trong nước trên địa bàn thành phố, chỉ đạo các đơn vị khẩn trương xây dựng và gấp rút hoàn thành các cơ sỡ hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Thành phố nên giao và cho thuê đất đối với các DNNVV để các DN yên tâm đầu tư sản xuất, sắp xếp bố trí lại sản xuất, tạo sự ổn định lâu dài cho hoạt động sản xuất. Việc giao và nhận đất phải đảm bảo được sự công bằng và đáp ứng đủ nhu cầu về văn phòng, mặt bằng SXKD cho các DNNVV, tốt nhất là nên chọn những vị trí cho các DN ở gần các khu trung tâm, nơi có điều kiện đầy đủ về cơ sỡ vật chất hoặc gần nguồn nguyên liệu sản xuất của DN có như thế việc hôc trợ DN về mặt bằng SXKD mới thực sự có được hiệu quả. Có chính sách và cơ chế thông thoáng trong việc cho thuê đất, đặc biệt là nên miễn thuế sử dụng đất cho các DN khoảng 5 năm tính từ ngày các DN đó đi vào SXKD thực sự, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thuộc vào diện ưu tiên hoặc là DN sản xuất ra các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của thành phố. Khi tiến hành cho thuế và giao đất, chính quyền thành phố cần giám sát chặt chẽ việc cấp và giao đất này để đảm bảo được sự công bằng cho các doanh nghiệp. Một mặt khác chính quyền thành phố nên đưa ra quy hoạch cụ thể và chi tiết tổng thể phân bổ các trung tâm, các cơ sỡ vật chất sao cho đảm bảo được tốt nhất cho hoạt động SXKD của các DNNVV, đặc biệt chính quyền thành phố nên quy hoạch và khuyến khích việc xây dựng các cao ốc và văn phòng cho thuê ngay trong trung tâm thành phố để phần nào giải quyết được vấn đề thiếu mặt bằng giúp các DN có được một văn phòng đầy đủ diện tích và tiện nghi đảm bảođiều kiện thuận tiện nhất cho các DN đặt văn phòng giao dịch, tìm kiếm khách hàng, một mặt đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, phát triển cơ sỡ hạ tầng ra các vùng phụ cận để đảm bảo đủ mặt bằng phục vụ cho hoạt động sản xuất của DN, tuy nhiên trong việc này cần phải được tiến hanh rất bài bản và đảm bảo được mức độ xây dựng đúng tiến độ và kỹ thuật quy hoạch. Ngoài ra, chính quyền thành phố cần phải có được những biện pháp dài hơi hơn trong việc phát triển cơ sỡ hạ tầng như hệ thống giao thông, năng lượng và hệ thống thông tin liên lạc nhằm phục vụ tốt nhất cho nền kinh tế của thành phố các DN, trong đó có các DNNVV đang đóng trên địa bàn thành phố. 2.4. Các giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm Khuyến khích XK các mặt hàng chủ đạo của thành phố Đối với chính quyền thành phố mà nói thì vai trò của chính quyền trong việc khuyến khích xuất khẩu đó là đư ra các chính sách phù hợp để tạo điều kiện cúng như đẩy mạnh xuất khẩu cho các mặt hàng thế mạnh của thành phố. Chính quyền thành phố nên đưa ra các quy chế xét thưởng, nhưng để quy chế này thật sự có hiệu lực thì cần phổ biến nó thật là rộng rãi các tiêu chuẩn, thủ tục, điều kiện khen thưởng, một lưu ý khi đưa ra các điều kiện khen thưởng đó là phải đưa ra được các tiêu chuẩn không chỉ phù hợp với yêu cầu của thành phố mà còn phải phù hợp với tình hình và mức dộ phát triển của doanh nghiệp. Thành lập ban thi đua và khen thưởng thành phố đối với sự cống hiến và nỗ lực của các DNNVV thành phố, hàng năm phải tổ chức được những sự kiện lớn nhằm tuyên dương và phần nào quảng bá cho hình ảnh của DN. Nhân rộng những mô hình DN thực sự hoạt động có hiệu quả nhằm tăng tính thi đua và cạnh tranh cho các DN. Ngoài ra, chính quyền thành phố còn nên tìm kiếm thị trường, định hướng thị trường cho các DNNVV, năng động trong việc tìm kiếm thị trường mới, các thị trường mục tiêu và tiềm năng. Tuy nhiên, việc chọn lọc các thị trường là điều cần thiết cho công tác mở rộng thị trường XK của thành phố, mặt khác tăng cường đẩy mạnh hợp tac với các thị trường vốn là thị trường xuất khẩu chủ lực của thành phố. Để đẩy mạnh hơn nữa việc mở rộng thi trường chính quyền thành phố nên tổ chức các sự kiện quảng bá giời thiệu sản phẩm trong và ngoài nước, cử các DN có mặt hàng xuất khẩu đó tham gia các hội chợ triễn lãm có quy mô, tham gia ký kết và tư vấn cho các DNNVV khi ký kết các hợp đồng kinh tế quan trọng, các đối tác tiềm năng và lâu dài cần nhắm tới. Tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức đẩy mạnh xuất khẩu Hiện nay, vấn đề khó khăn lớn nhất của các DNNVV thành phố đó là thông tin thị trường nước ngoài, để khắc phục được khó khăn này thì chính quyền thành phố thường xuyên phải quan hệ và hợp tác với các tham tán thương mại, thương vụ Việt Nam ở nước ngoài để nhờ các cơ quan này cung cấp các thông tin cân thiết về mặt hàng, khách hàng và giá cả thị trương...đồng thời nhờ giới thiệu, bán sản phẩm tại nước ngoài. Thành lập sợi giây liên hệ giữa doanh nghiệp, chính quyền và các tổ chức này. Các tổ chức thương mại trong nước như Cục xúc tiến Thương mại (Bộ Thương mại), phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, các tổ chức xúc tiến thương mại địa phương,...chính quyền thành phố cần phối hợp vơi các tổ chức này để đưa ra các chương trình cụ thể, phù hợp, hỗ trợ đắc lực cho các DNNVV. Các tổ chức ở nước ngoài đóng tại Việt Nam như Jetro (Nhật Bản), Kotra (Hàn Quốc), Cetra (Đài Loan), Matrade (Malaysia)... chính quyền thành phố nên hợp tác chặt chẻ với các tổ chức này, đồng thời đưa ra những chính sách thông thoáng và cơ chế cho các tổ chức này có thể hoạt động dẽ dàng hơn. Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động thị trường Để đảm bảo được quyền lợi của người tiêu dùng cũng như quyền lợi của các DNNVV, chính quyền thành phố nên thường xuyên giám sát việc lưu hành các sản phẩm trên thị trương nhằm tránh hàng giả hàng nhái gây mất lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm, định giá các loại mặt hàng, kiểm soát hoạt động của các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại và các shop bán lẻ sản phẩm. Mặt khác, đưa ra các mô hình tập hợp, phân tích thông tin thị trường nhằm công bố rộng rãi cho các doanh nghiệp nắm rõ, để có được những sự ứng biến kịp thời với thị trường. Đưa ra các dự báo về sự thay đổi của thị trường trong tương lai gần, dùng các chính sách nhằm bình ổn giá cả trên địa bàn thành phố. Mở rộng hình thức thầu phụ công nghiệp Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường thì xuất hiện thêm một hệ thống mới, một hình thức kinh doanh mới đó là thầu phụ công nghiệp. Đây cũng là một vấn đề mà chính quyền thành phố cũng nên quan tâm và sử dụng tốt, cũng như khuyến khích hình thức này phát triển. Có thể phát triển theo mô hình này: Đó là các DNNVV đóng vai trò như là các vệ tinh, các DNNVV này sẽ nhận một phần yêu cầu sản xuất trong dây chuyền sản xuất đồng bộ của các DN lớn, cách thức này góp phần giải quyết được 2 vấn đề; thứ nhât, phân công lại công việc, chuyên môn hoá sản xuất cho các DN lớn, thứ hai, tạo điều kiện cho ngành công nghiệp phụ trợ phát triển và sự phát triển của các DNNVV trên cơ sỡ nền kinh tế thành phố, cả DN lớn và cả DNNVV đều có lợi. 2.5. Các giải pháp về đào tạo và tư vấn Đào tạo khởi nghiệp và tăng cường khả năng cạnh tranh: Các đối tượng nắm đến là các chủ DN tiềm năng (Chuẩn bị khởi sự), các chủ DN và các nhà quản lý muốn nâng cao kỹ năng, kiến thức về quản lý kinh doanh, quản lý chất lượng, quản lý và bảo vệ môi trường và thông tin kinh doanh, những người có mong muốn nâng cao thu nhập như nông dân, ngư dân, người buôn bán nhỏ. Mục đích chính của chương trình là nâng cao năng lực hành vi của doanh nghiệp do đó tập trung nhiều vào thay đổi thái độ hơn là truyền đạt kỹ năng và kiến thức quản lý doanh nghiệp. Chương trình khởi sự kinh doanh – SIYB (Start and Improve Your Bussiness), là chương trình do ILO phát triển tại Việt Nam, đây được xem là chương trình đạt thành quả tốt trong những chương trình trợ giúp đào tạo của thành phố. Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế như kinh phí còn hạn hẹp, thiếu sự ủng hộ và phối hợp của chính quyền địa phương...vv Trên đây chỉ là những hạn chế rất cơ bản, để góp phần vào việc thúc đẩy và hỗ trợ người dân thành phố khởi nghiệp, điều hành có hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp thành phố nên chủ động bố trí ngân sách cho hoạt động đào tạo khởi nghiệp và tăng cường khả năng quản trị doanh nghiệp, thành phố có thể giao kinh phí này cho cho cơ quan hỗ trợ DNNVV, đang hoạt động theo dõi, đánh giá kết quả hoạt động, quyết toán lại nguồn kinh phí. Thành phố nên tổ chức và kiểm soát chặt chẻ hoạt động của các trung tâm tư vấn cho các doanh nghiệp trong suốt quá trình từ khi DN thành lập cho đến khi DN phát triển trên thị trường. Mặt khác, chính quyền thành phố nên khuyến khích việc mở rộng mô hình các trung tâm đào tạo có chất lượng trên địa bàn thành phố, một mặt cho phép sự hoạt động của các trung tâm phát triển con người, thuêtj ngũ thường thấy đó là các công ty “săn đầu người”, chuyên cung cấp và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phối hợp với các trung tâm này để tổ chức đào tạo cho các doanh nghiệp khả năng và cách thức làm việc hiện đại và tiên tiến, đào tạo nhân viên có chất lượng cho các doanh nghiệp. Thành phố nên chỉ đạo và phối hợp với các trung tâm hỗ trợ DNNVV đưa ra các chương trình hành động sát với quá trình hoạt động và phù hợp với tình hình hoạt động SXKD thực tế của doanh nghiệp. Thành phố nên nghiên cứu và phối hợp với các trường đại học, cao đẳng, THCN để lông ghép các chương trình đào tạo thực tế dựa trên việc nghiên cứu tình hình của doanh nghiệp và quy luật, hoạt động của nền kinh tế thị trương. Mặt khác, nên tổ chức ra các cuộc thi, các sân chơi học thuật cho các đối tượng liên quan đến hoạt động của DNNVV, đặc biệt là nên tạo lập ra một diễn đàn cho các DN có thể giao lưu, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Cái quan trọng bây giờ không phải là khắc phục cho tình trạng thiếu kiến thức kinh doanh cho các doanh nghiệp mà điều quan trọng đó là song song với quá trình đó là việc thay đổi các thức đào tạo cho lớp trẻ, giúp các bạn trẻ bây giờ có thể hiểu, đủ kiến thức và đủ tự tin để nắm lấy cơ hội thị trường, tự gây dựng cho mình một doanh nghiệp nhỏ, từng bước phát triển thành DN vừa, DN lớn trong tương lai. Sự thay đổi mạnh mẽ trong cách thức đào tạo, thay đổi nhận thức của từng DN, từng con người liên quan đến mọi vấn đề thuộc hoạt động của doanh nghiệp sẽ tạo ra được bước chuyển lớn trong doanh nghiệp. Thành phố chỉ có thể tạo được hiệu quả trong những giải pháp hỗ trợ đào tạo và tư vấn khi làm được những điều trên. Phát triển thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh: Lâu nay đã có các tổ chức phi chính phủ thực hiện các dịch vụ phát triển kinh doanh, dưới nhiều hình thức và tên gọi khác nhau như công ty, trung tâm...được thành lập nhằm hỗ trợ các DNNVV trong nhiều lĩnh vực: Tư vấn thị trường, tư vấn đầu tư, thuê kiểm toán và kế toán, lập kế hoạch SXKD, cung cấp thông tin thị trường, giá cả, văn bản pháp luật, mở lớp đào tạo...Thực tế đã chỉ rỏ các dịch vụ này có vai trò và vị trí quan trọng do các thành phần kinh tế mà chủ yếu là các khu vực dân doanh, bằng việc khai thác chất xám của các chuyên gia trong các lĩnh vực để đưa ra các lời khuyên đối với các DNNVV trong các vụ việc cụ thể. Tuy nhiên các DN trong nước ít tham gia và còn rất dè dặt trong việc sử dụng các dịch vụ này, chính quyền thành phố nên đưa ra các chương trình khuyến khích các DN sử dụng các dịch vụ này, đưa ra các trung tâm có chứng nhận của chính quyền thành phố, một mặt tổ chức các buổi hội thảo sâu hơn về các dịch vụ PTKD cho các DNNVV, đưa ra các kết quả đánh giá chất lượng của các sản phẩm này. Thường xuyên kiểm tra chất lượng hoạt động của các trung tâm này, hỗ trợ các trung tâm này trong quá trình phát triển và nâng cao hoạt động hỗ trợ cho các DNNVV thành phố. Một vấn đề mà chính quyền thành phố còn cần phải quan tâm đó là giá cả của các dịch vụ này, hiện nay giá của các DV này còn khá cao, các doanh nghiệp rất ngần ngại trong việc sử dụng các dịch vụ hỗ trợ này. Đối với các DNNVV hiện nay mà nói thì các hoạt động Marketing, tuyên truyền quảng bá cho hình ảnh của doanh nghiệp còn rất yếu cả về nội dung và hình thức. Marketing góp phần mở rộng, khuếch trương cho doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp không chỉ xây dựng được thương hiệu mà còn mở rộng được thị trường...vv. Đưa ra cách nhìn mới về cách thức Marketing và PR hợp lý là điều mà chính quyền thành phố có thể thực hiện được thông qua việc mời các chuyên gia trong các buổi hội thảo nói chuyện, tổ chức các mô hình học tập cách thức Marketing hợp lý, các cách thức mới phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp, khuyến khích và đưa ra cơ chế chính sách cho việc phát triển của các công ty tổ chức sự kiện. Để phát triển được dịch vụ phát triển kinh doanh ở Đà Nẵng, chính quyền thành phố cần thực hiện một số bước sau: Nâng cao hiểu biết cơ bản và đánh giá của các DN về DVPTKD. Để thực hiện tốt công việc này, chính quyền thành phố cần sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là báo chí, đài phát thanh truyền hình địa phương thực hiện những chương trình dành cho DN, hiệp hội DN, CLB doanh nghiệp, các hội ngành nghề...đây vừa là kênh phân phối các thông tin về các khoá đào tạo và các chương trình liên quan đến DNNVV hiệu quả nhất, vừa là cách thức nnang cao hiểu biết cơ bản và đánh giá đúng chất lượng của các DN về các dịch vụ phát triển kinh doanh hiệu quả nhất. Đưa ra các biện pháp kích cầu về việc sữ dụng các dịch vụ này. Hoạt động mà chính quyền đưa ra cần phải giải quyết được 2 vấn đề sau: Một là, giúp DN hiểu đầy đủ về dịch vụ; hai là, giúp DN hiểu được tầm quan trọng của DVPTKD và lợi ích mà các dịch vụ đó có thể đem lại cho doanh nghiệp bằng các mo hình và ví dụ một số doanh nghiệp điển hình đã sử dụng rất thành công và hiệu quả các dịch vụ này. Chính quyền thành phố nên hướng và khuyến khích nguồn cung DVPTKD phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng thông qua những hoạt động nhắm vào các nhà cung cấp như đưa các hoạt động cugn cấp DVPTKD vào danh mục được hưởng ưu đãi của thành phố, tạo điều kiện cho các nhà cung cấp giảm giá cho dịch vụ, khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà cung cấp nâng cao năng lực, tăng cường đẩy mạnh hoạt động Marketing. Xây dựng tốt và sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí cung cấp cho các DNNVV với mục đích tư vấn và chi trả 50% khoản kinh phí dịch vụ, các khoản tiền ban đầu chưa đủ thì nên chỉ cung cấp cho một số DN thuộc diện cần ưu đãi, sau khi đã tạo được nguồn quỹ dồi dào thì mới hỗ trợ cho các DN khác. Tuy nhiên có một vấn đề cần lưu ý đó là những hoạt động hỗ trợ bằng tiền của chính quyền thành phố phải sử dụng thật khéo léo sao cho không giảm tính cạnh tranh của các DN và giảm nguồn cung theo định hướng thương mại của các dịch vụ thị trường. Và kênh để sử dụng tốt nhất khoản kinh phí đó chính là các tổ chức làm công tác hỗ trợ chứ không nên sử dụng các hình thức hỗ trợ trực tiếp. Chính quyền thành phố cần hạn chế can thiệp quá sâu vào thị trường DVPTKD qua cơ chế bao cấp, mà khuyến khích phát triển các tổ chức hỗ trợ DNNVV và thông qua tổ chức này tác dộng đến sự phát triển của DNNVV. 3. Một số kiến nghị đối với chính quyền thành phố Cần nâng cao nhận thức của cơ quan Nhà nước đối với vai trò của các DNNVV đối với sự phát triển KT-XH của thành phố. Mọi tư tưởng của Nhà nước sẽ thông qua và được thực hiện nếu các cơ quan này nhận thức được đầy đủ về các DNNVV, từ đó họ sẽ thấu hiểu hơn, cảm thông hơn với những khó khăn của các DNNVV, tìm cách giúp đỡ các DNNVV khắc phục những khó khăn đó trong quá trình SX-KD. Tăng cường kiểm tra các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các văn bản chính sách, quy định của thành phố về công tác hỗ trợ DNNVV. Văn bản rất cần thiết để làm công cụ cho việc điề hành bộ máy công quyền. Thực tế trong nhiều năm qua, thành phố thường xuyên ban hành nhiều văn bản nhằm khuyến khích, thúc đẩy sự phát triển của DNDD, song việc thực thi văn bản này đến đâu, các DNDD hưỡng lợi như thế nào từ việc hỗ trợ này thì lãnh đạo chỉ nắm được thông tin qua các báo cáo qua các cơ quan quản lý nhà nước mà thiếu kiểm tra từ các DN. Vì vậy, tác động của các văn bản này là rất kém và thiếu hiệu quả. Chính vì vậy việc kiểm tra và giám sát là điều thật sự cần thiết cho việc tiến hành hỗ trợ công tác hỗ trợ cho các DNNVV trên địa bàn thành phố. Tìm hiểu tranh thủ tối đa các chương trình hỗ trợ DNNVV từ phía chính phủ, các tổ chức nước ngào và các dự án tài trợ...vv. Vận dụng tôt nhất những văn bản pháp quy của Nhà nước sao cho có lợi nhất cho sự phát triển kinh tế thành phố. Cần xây dựng và hoạt động có hiệu các trung tâm thông tin cấp thành phố để thu thập và xử lý các số liệu liên quan đến các DNNVV trên địa bàn thành phố. Tăng cường và đẩy mạnh các biện pháp chống các hiện tượng gian lận thương mại, các hoạt động kinh doanh phi pháp như buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, lừa đảo...vv. Nhăm thiết lập trật tự, kỷ cương trong kinh doanh, tạo lập và duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các DN. Chính quyền thành phố cần đẩy mạnh hơn nữa công tác hỗ trợ cho các hiệp hội, thiết lập các kênh phổ biến thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp luật về kinh doanh, về chính sách nhà nước liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Đưa ra các chỉ tiêu về số lượng DN đăng ký thành lập hàng năm trở thành một trong những chỉ tiêu chủ yếu của thành phố và đề ra các biện pháp cần thực hiện để đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu này. C – Kết Luận Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của thành phố, đặc biệt là giải quyết công ăn, việc làm và thu hút vốn đầu tư từ trong dân. Kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu các DNNVV nhận được sự hỗ trợ và tạo được môi trường cho sự phát triển. DNNVV có được những ưu thế và hạn chế nhất định nên khó có thể phát triển nhanh và bền vững được nếu không có được sự hỗ trợ từ chính quyền thành phố và các tổ chức hỗ trợ khác. Vì thế, để phát huy vai trò tích cực của các DNNVV trong sự phát triển kinh tế - xã hội và nhất thiết phải có sự định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Mặt khác, đẩy mạnh công tác hỗ trợ cho các DNNVV của chính quyền thành phố, việc phát triển các DNNVV có thể đạt được khi mà các DNNVV nhận được sự hỗ trợ có hiệu quả từ chính quyền thành phố và các cơ quan chức ănng có liên quan, giúp cho các DN thành phố khắc phục những hạn chế vốn khó, nâng cao khả năng cạnh tranh và ngày càng phát triển. Những giải pháp trên đây bao gồm các giải pháp về tài chính, tín dụng, giải pháp về thị trường tiêu thụ, đào tạo & tư vấn, xúc tiến thương mại... Những giải pháp này được thực hiện nhằm đẩy mạnh công tác hỗ trợ cho các DNNVV của chính quyền thành phố. Giải pháp sẽ đạt được hiệu quả khi và chỉ khi có được sự quyết tâm cao của chính quyền thành phố, cũng như sụa quan tâm đúng lúc, đúng mức đối với các DNNVV trêm địa bàn thành phố. Phát triển DNNVV là sự nghiệp lâu dài, đòi hỏi sự nổ lực hết mình không chỉ của bản thân các DNNVV mà còn cần phải sự hỗ trợ hợp lý và kịp thời của các cơ quan nhà nước, cũng như các tổ chức hỗ trợ đang hoạt động trên địa bàn thành phố. Mong rằng trong thời gian đến với sự phát triển bền vững và định hướng đúng đắn của thành phố, dành nhiều quan tâm đến đối tượng doanh nghiệp để quyết tâm thực hiện các giải pháp để các DN ra đời ngày càng nhiều và phát triển không ngừng, đưa DN Đà Nẵng trở thành một thành phố giàu mạnh xứng đáng với tiềm năng và tầm vóc của thành phố trung tâm của khu vực Miền trung và Tây nguyên. Với những nội dụng trong đề tài này, hi vọng sẽ góp phần giải quyết được những vấn đề liên quan đến sự phát triển của các DNNVV và đẩy mạnh được công tác hỗ trợ DNNVV của chính quyền thành phố. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16052.doc
Tài liệu liên quan