GiảI pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh - VPBank

Chương I những vấn đề cơ bản về tín dụng tiêu Dùng của ngân hàng thương mại 1.1.Nội dung và vai trò của cho vay tiêu dùng Nội dung Sự hình thành và phát triển cho vay tiêu dùng Nhu cầu của con người rất đa dạng, nhưng nhu cầu có khả năng thanh toán thì có hạn, người tiêu dùng luôn có mong muốn sử dụng hàng hoá trước khi có khả năng thanh toán. Lúc còn trẻ, con người có rất nhiều nhu cầu tiêu dùng như đi du học, cưới vợ mua nhà, mua các phương tiện sinh hoạt và đi du lịch…nhưng lại không c

doc55 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu GiảI pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh - VPBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó đủ khả năng thanh toán. Đến khi có tuổi, tích luỹ đủ tiền để mua sắm nhưng lúc đó nhu cầu tiêu dùng lại không còn nhiều nữa. Vậy tại sao ta không dùng số tiền chắc chắn tích luỹ được trong tương lai để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng hiện tại. Giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán là vấn đề quan tâm. Có nhiều cách để giải quyết mâu thuẫn trên như mua chịu, đi vay từ bạn bè đồng nghiệp, gia đình, nhận viện trợ, đi vay từ ngân hàng… Nhưng đi vay là cách thức phổ biến nhất. Cách này vừa thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng mà nhà sản xuất cũng bán được hàng và thu hồi được vốn ngay. Ngân hàng hoặc là cho vay đối với người mua hoăch hỗ trợ cho người bán. Một yếu tố khách quan nữa thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng là do có sự cải cách lớn trong lĩnh vực ngân hàng, do sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường nóng bỏng, do tính chất hoạt động ngân hàng là chi phí cố định giảm khi có nhiều sản phẩm dịch vụ nên các ngân hàng không chỉ cho vay thương mại thì ngày nay họ mở rộng thêm hoạt động cho vay tiêu dùng, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng vào những năm 1980. Tóm lại, cho vay tiêu dùng là một hoạt động tất yếu hình thành do yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường nhằm giải phóng các vấn đề người tiêu dùng có nhu cầu tiêu dùng vượt quá khả năng thực tế hiện tại, người bán hàng hoá thu tiền ngay và người có tiền mong muốn tìm kiếm thu nhập từ hoạt động này. Từ đó nhiệm vụ cho vay tiêu dùng ra đời và chính thức được công nhận như một nhiệm vụ ngân hàng. Đến năm 1987, sau khoảng 7 năm ban hành luật này, cac ngân hàng Mỹ đã cung cấp khoảng 80% khối lượng tín dụng tiêu dùng, trong đó 45% cho vay trả góp. Ngày nay cho vay tiêu dùng đã phát triển mạnh theo xu thế chung của nền kinh tế thế giới. Khái niệm và đặc điểm CVTD. Khái niệm: Cho vay tiêu dùng là khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trảI nhu cầu về nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ… Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng. *Đặc điểm Nhu cầu tiêu dùng rất phong phú vì khách hàng vay vốn rất đa dạng và mục đích sử dụng vốn linh hoạt. Đối tượng khách hàng của tín dụng tiêu dùng là các cá nhân và hộ gia đình mà trong đó có tính chất, quy mô, đặc điẻm là khác nhau. Khách hàng là cá nhân có thu nhập trung bình và thấp, vì thế nhu cầu vay mượn của họ cũng khác nhau. Ngay cả trình độ, địa vị xã hội cũng ảnh hưởng tới thói quen tiêu dùng của mỗi người. Mức thu nhập và trình độ học vấn là hai biến số có quan hệ mật thiết với nhu cầu cho vay của khách hàng. Tín dụng tiêu dùng thường có rủi ro cao hơn các loại cho vay trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đồng thời quy mô của từng hợp đồng vay nhỏ, số lượng các khoản vay lớn dẫn đên chi phí tổ chức cho vay cao. Vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất của các loại cho vay trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Tuy nhiên nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng như ít co giãn với lãi suất, vì người đi vay thường quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ phải trả. Nhưng tư cách khách hàng là yếu tố khó xác định song lại rất quan trọng quyết định sự hoàn trả khoản vay. Rủi ro là do chất lượng thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao và khó quản lý, nhu cầu vay của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, vì vậy khi nền kinh tế có chiều hướng biến động xấu thì ngân hàng dễ rơi vào rủi ro. Mặt khác, nguồn trả nợ chủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn phụ thuộc vào quá trình làm việc kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của người này. Thời hạn tín dụng tiêu dùng khá đa dạng, cả ngắn, trung và dài hạn. Thời hạn vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng trong hợp đồng tín dụng, nó phụ thuộc quy mô của khoản vay, nguồn tài trợ của khách hàng và khả năng của ngân hàng. 1.1.1.3. Các loại hình CVTD. a. Căn cứ vào mục đích vay Cho vay tiêu dùng cư trú: Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình. Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch… b. Căn cứ vào phương thức hoàn trả Cho vay tiêu dùng trả góp: đây là phương thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ (gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo từng kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường áp dụng cho các khoản vay lớn hoặc thu nhập từng kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay Với loại cho vay này, thông thường có 3 phương pháp trả góp phổ biến: b1. Phương pháp gộp Theo phương pháp này thì vốn gốc và lãi suất được tính gộp và chia đều cho các kỳ hạn trả nợ theo công thức sau: Với: I = C x i x N Trong đó: T – Số tiền phải trả nợ cho ngân hàng mỗi kỳ C – Vốn gốc I – Số lãi vay mà khách hàng phải trả cho ngân hàng N – Số kỳ hạn i – Lãi suất cho vay mỗi kỳ hạn b2. Phương pháp lãi đơn Theo phương pháp này, vốn gốc được thanh toán đều nhau giữa các kỳ hạn, còn tiền lãi được tính trến số dư nợ còn lại, theo công thức sau: Với: Trong đó: T(k) – Số tiền thanh toán ở kỳ k Tv – Vốn gốc thanh toán mỗi kỳ hạn C – Vốn gốc n – Số kỳ hạn thanh toán trả vay TL(k) – Lãi khách hàng phải trả trong kỳ hạn k i – Lãi suất cho vay mỗi kỳ hạn b3. Phương pháp hiện giá Theo phương pháp này, số tiền thanh toán mỗi kỳ hạn (bao gồm cả gốc và lãi) bằng nhau: Phương pháp hoàn trả niên kim. Công thức tính số tiền phải trả theo từng kỳ: Trong đó: a – Số tiền gốc và lãi trả theo từng kỳ nhất định V – Số vốn gốc ban đầu i – lãi suất cho vay n – Số kỳ hạn trả nợ Tín dụng tiêu dùng phi trả góp: Là một phương thức cho vay tiêu dùng mà trong đó khách hàng chỉ thanh toán cho ngân hàng một lần khi đến hạn. Theo phương thức này việc thanh toán tiền gốc và lãi được thực hiện bằng các phương pháp sau đây: Tiền gốc â và lãi (Cn) được thanh toán một lần vào cuối hạn cho vay Với: Tiền gốc â được thanh toán vào cuối hạn còn tiền lãi mỗi kỳ (Ck) được thanh toán đều đặn theo từng kỳ hạn Với: Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành các loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương pháp này, trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn theo một hạn mức tín dụng. c. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá- dịch vụ cho người tiêu dùng. Sơ đồ cho vay tiêu dùng gián tiếp: – Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua- bán nợ – Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký hợp đồng mua bán chịu hàng hoá – Công ty bán lẻ giao hàng hoá cho người tiêu dùng – Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho khách hàng – Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ – Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người này. Cho vay tiêu dùng trực tiếp được thực hiện qua sơ đồ sau: – Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay – Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ – Ngân hàng thanh toán số tiền mua hàng hoá còn thiều cho công ty bán lẻ – Công ty bán lẻ giao hàng hoá cho người tiêu dùng – Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng ******Các phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp: Phương thức 1:tín dụng trả theo định kỳ. Theo phương thức này, nếu được cấp tiền vay thì toàn bộ số tiền vay được ghi nợ vào tài khoản cho vay và ghi có vào tài khoản tiền gửi cá nhân hoặc được giao cho khách hàng một cách trực tiếp. Thông thường có sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng về đối tượng cấp tín dụng tức là tồn tại điều khoản “mục đích sử dụng” trong hợp đồng tín dụng dùng trong phương thức này. Kỳ hạn hoàn trả có thể khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu của người vay. Trong những chu kỳ đã thoả thuận, thường là một lần trên tháng, người vay tiến hành trả để giảm bớt số tiền nợ. Tiền lãi, khi đó được tính hàng tháng trên số dư còn lại của khoản tiền vay. Cũng có sự linh hoạt trong phương thức hoàn trả tiền vay như việc hoàn trả được tiến hành một lần vào thời điểm giao hạn khoản vay bao gồm cả gốc và lãi. Đối với phương thức này, điều quan trọng là phải xem xét thu nhập ròng của khách hàng, có nghĩa là tiền lương cộng thêm các khoản thu nhập từ các khoản khác và trừ đi mọi chi phí cần thiết. Từ đó có thể đánh giá được năng lực hoàn trả của người vay cũng như quy mô của khoản vay. phương thức 2: thấu chi. Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở HĐTD hay còn gọi là HMTD, được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng được phép dư nợ trong một giới hạn nhất định. Cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản vãng lai của mình vượt quá số dư có tới một hạn mức thoả thuận. Ngiệp vụ này mang lại nhiều thuận lợi cho khách hàng sử dụng nó. Nó đòi hỏi khách hàng phải chi trả lãi phần tiền của khoản ứng trước đã sử dụng theo mức lãi suất đã thoả thuận, không quy định các đối tượng tín dụng là mặt hàng cụ thể nào. việc hoàn trả định kỳ không được thiết lập, khách hàng có thể hoàn trả một số tiền nào đó vào bất kỳ lúc nào, đơn giản là bằng cách gửi tiền vào tài khoản. Ngày tái xét được ấn định, thường là trong vòng một năm nên có thể duy trì hay giảm bớt lượng tiền hoặc yêu cầu phải hoàn trả vào bất kỳ lúc nào. Đối với NHTM, các khoản thấu chi cần được kiểm tra định kỳ nhằm xem xét hoạt động có hiệu quả không, khoản khấu trừ có thực sự dùng vào mục đích thoả thuận hay không, số dư có thay đổi không. phương thức 3: thẻ tín dụng Đây là nghiệp vụ tín dụng trong đó ngân hàng phát hành thẻ tín dụng cho những người có tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng. Phương thức thẻ tín dụng bao gồm một sự giàn xếp ba bên-người giữ thẻ, ngân hàng và nhà buôn. Thẻ tín dụng được phát cho người tiêu dùng là bằng chứng để cho các nhà buôn thấy rằng ngân hàng đã bảo lãnh một mức tín dụng đối với người giữ thẻ. Mỗi thẻ có một mức tín dụng nhất định, nếu chậm chi trả thì thẻ có thể bị thu hồi. Việc sử dụng thẻ tín dụng mang lại nhiều điều kiện thuận lợi so với tiền mặt, séc và các hình thức chi trả khác.Sử dụng thẻ làm giảm tối thiểu nhu cầu giữ tiền mặt, cho phép người sử dụng hoãn việc chi trả cho các hàng hoá và dịch vụ trong thời gian ngắn. Ngoài ra, thẻ tín dụng còn được dùng để tạm ứng tiền mặt, nó tạo ra nguồn tín dụng đựợc sử dụng ngay tại điểm bán hàng không cần thủ tục. Tuy nhiên, việc quản lý và giám sát thẻ tín dụng là vô cùng quan trọng vì có một số lượng lớn thẻ đã bị đánh cắp hoặc bị sử dụng một cách gian lận. Thẻ tín dụng đựơc hoạch định chủ yếu cho tín dụng tuần hoàn trong phạm vi ở mức bán lẻ. Thẻ tín dụng không phù hợp để sử dụng cho các hoá đơn có mệnh giá lớn như tàu thuyền, xe hơi và các thiết bị gia dụng đắt tiền, những thứ tạo thành một phần lớn cho vay tiêu dùng chưa thanh toán. Giới hạn tín dụng đối với hầu hết các thẻ thường thấp hơn chi phí của những khoản như thế. 1.1.1.4. Quan niệm về mở rộng TDTD và các chỉ tiêu đánh giá. Quan niệm mở rộng TDTD: Trước thực trạng cạnh tranh khốc liệt của kinh tế thị trường, các NHTM cũng như bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào đều phải tập trung nghị lực để hoàn thiện và đa dạng hoá các sản phẩm của mình nhằm thu hút khách hàng. Sản phẩm CVTD được đưa ra không chỉ đem lại lợi ích cho các NHTM, cho khách hàng mà còn có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Vì vậy, các NHTM cần quan tâm chú trọng mở rộng cung cấp sản phẩm dịch vụ này. Khi đặt ra mục tiêu là mở rộng có nghĩa là tạo ra sự gia tăng về mặt quy mô, khối lượng, số lượng là nói đến sự tăng trưởng theo chiều rộng. Như vậy, mở rộng CVTD tức là việc ngân hàng tăng quy mô, tỷ trọng CVTD trong cơ cấu cho vay nhằm đáp ứng tốt nhất các nhu cầu chính đáng của người tiêu dùng. Nói chung, mở rộng CVTD được thể hiện ở 3 khía cạnh: Về phía người tiêu dùng:CVTD phải thoả mãn được ngày càng nhiều các yêu cầu hợp lý của khách hàng về khối lượng vốn vay, đa dạng hoá các hình thức và loại hình CVTD cũng như các dịch vụ khác có liên quan. Về phía ngân hàng: CVTD luôn được coi trọng, quan tâm mở rộng và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động cho vay của các NHTM. Về phía nền kinh tế - xã hội: các khoản CVTD cung cấp phải được dùng để tài trợ cho các nhu cầu về hàng hoá dịch vụ trong nước, từ đó phát huy tác dụng kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. *Các chỉ tiêu đánh giá mở rộng CVTD. Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số CVTD. Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng cho vay trong kỳ. đây là con số mang tính thời kỳ phản ánh tổng số tiền ngân hàng thực hiện cho vay đối với khách hàng. Do đó nó phản ánh một cách khái quát nhất về hoạt động tín dụng của ngân hàng trong năm tài chính. Bởi vậy, nếu trong năm doanh số cho vay của ngân hàng lớn, đạt tỷ lệ cao và tăng so với năm trước thì điều đó nói lên hoạt động cho vay của ngân hàng đang được mở rộng. +Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số CVTD tuyệt đối: chỉ tiêu này được tính bằng hiệu số giữa tổng doanh số cho vay năm t với doanh số CVTD năm (t-1), công thức tính: giá trị tăng trưởng doanh số tuyệt đối ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết doanh số CVTD năm t tăng so với năm (t-1) về số tuyệt đối là bao nhiêu. +Chỉ tiêu phản ánh tăng truởng doanh số CVTD tưong đối: chỉ tiêu này được tính bằng tỷ lệ phần trăm của thương số giữa giá trị tăng trưởng doanh số CVTD tuyệt đối năm t với tổng doanh số CVTD năm (t-1). Công thức tính: ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng doanh số CVTD năm t so với năm (t-1). Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ CVTD. Dư nợ CVTD là con số thời điểmphản ánh số tiền mà khách hàng đang nợ ngân hàng tại một thời điểm. Căn cứ vào mức dư nợ và tỷ lệ dư nợ có thể cho ta biết việc ngân hàng có thực hiện việc mở rộng tín dụng hay không bởi khi ngân hàng thực hiện chính sách mở rọng tín dụng thì dư nợ tín dụng thường đạt mức cao. Tuy nhiên để có thể đánh giá chính xác hoạt động mở rộng tín dung tiêu dùng của ngân hàng thì ta phải phân tích kết hợp giữa chỉ tiêu dư nợ tín dụng với chỉ tiêu doanh số cho vay của ngân hàng. +Chỉ tiêu tuyệt đối: Bằng hiệu số giữa tổng dư nợ CVTD năm t với tổng dư nợ CVTD năm (t-1). Công thức: ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết dư nợ CVTD năm t tăng so với năm (t-1) về số tuyệt đối là bao nhiêu. Chỉ tiêu tương đối: chỉ tiêu này được tính bằng tỷ lệ % giữa tổng dư nợ CVTD năm t so với năm (t-1). Công thức: ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng dư nợ CVTD năm t so với năm (t-1). Chỉ tiêu nợ quá hạn: Mở rộng TD luôn phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng. Bên cạnh việc đánh giá các chỉ tiêu phản ánh hoạt động mở rộng tín dụng, các ngân hàng thương mại phải phân tích chỉ tiêu NQH cả về số tuyệt đối và số tương đối một cách đầy đủ bởi dây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả trong hoạt động cho vay. NQH phản ánh số tiền mà ngân hàng chưa thu được khi các khoản vay đã đến thời hạn trả nợ. Do vậy, nhìn vào NQH người ta có thể đánh giá được chất lượng tín dụng trong năm của ngân hàng. Nếu NQH trong CVTD vào cuối năm tài chính nhỏ, tỷ lệ thấp điều đó chứng tỏ hoạt động quản lý thu hồi nợ của ngân hàng trong năm đạt hiệu quả cao, cá khoản CVTD được thu hồi đầy đủ và các cá nhân hộ gia đình đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong quan hệ vay trả đúng hạn. Chỉ tiêu NQH tuyệt đối: ý nghĩa: Chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ NQH: Chỉ tiêu này được tính bằng % của thương số giữa NQH CVTD với tổng dư nợ từ hoạt động cho vay. Công thức: ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng của các khoản CVTD so với chất lượng cho vay chung của ngân hàng. Vai trò của tín dụng tiêu dùng Đối với người tiêu dùng Tín dụng tiêu dùng là phương thức hữu hiệu để giải quyết những nhu cầu cấp bách về vốn cho các cá nhân và hộ gia đình. Thông thường thu nhập của các cá nhân và hộ gia đình có tính chất ổn định, thường xuyên. Nhưng trong cuộc sống thì có thể phát sinh những việc ngoài dự kiến kèm theo đó là một nhu cầu về nguồn tài chính để sử dụng. Chủ thể cung cấp nguồn tài chính này chính là ngân hàng. Tín dụng tiêu dùng là phương thức góp phần cải thiện mức sống của người tiêu dùng khi họ chưa có đủ khả năng thanh toán ở hiện tại. Có một thực tế hiển nhiên là của cải của con người được tích lũy theo thời gian, do vậy người ta chỉ có thể mua sắm các vật dụng, phương tiện sinh hoạt có giá trị cao khi đã lớn tuổi. Khi đó lợi ích cảm nhận được từ sự hưởng thụ có xu hướng giảm. Do vậy cần thiết phải biết cách phối hợp khéo léo giữa việc thoả mãn những nhu cầu với yếu tố thời gian.Tín dụng tiêu dùng ra đời không chỉ đáp ứng nhu cầu đó mà con mang lại cho người tiêu dùng rất nhiều lợi ích khác. Đối với ngân hàng thương mại Tín dụng tiêu dùng giúp ngân hàng thương mại mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động vốn như các khoản tiền gửi, tiết kiệm, thanh toán từ dân cư cho ngân hàng. Vì đối tượng khách hàng trong tín dụng tiêu dùng rất rộng là các cá nhân và các hộ gia đình trong xã hội nên khi tín dụng tiêu dùng được mở rộng thì ngân hàng càng có nhiêu cơ hội tiếp xúc quan hệ với nhiều đối tượng khách hàng hơn. Từ đó nhân viên ngân hàng có thể marketing giới thiệu các sản phẩm ngân hàng cho khách hàng, như mở rộng tài khoản, gửi tiết kiệm và khách hàng có thể lấy sổ tiết kiệm để làm đảm bảo cho khoản vay của mình. Như vậy ngân hàng có thể lấy số tiền gửi của họ để cho chính họ vay, sự chênh lệch lãi suất này tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Ngoài ra khi khách hàng tin tưởng vào ngân hàng thì họ rất trung thành và họ sẽ sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng như thanh toán, chuyển tiền, nhờ thu, mua bán ngoại tệ… từ đó khách hàng thu được phí – một khoản lợi nhuận không nhỏ của ngân hàng. Tín dụng tiêu dùng tạo điều kiện cho ngân hàng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, từ đó tăng lợi nhuận và phân tán rủi ro cho ngân hàng. Một nguyên tắc cho hoạt động của ngân hàng đó là không nên “bỏ trứng vào cùng một giỏ”. Tức là nếu ngân hàng không đa dạng hoá, ngân hàng chỉ cung cấp một hoặc một số ít sản phẩm dịch vụ hoặc chỉ cung cấp cho một hoặc một số ít khách hàng thì khi sản phẩm dịch vụ đó không hiệu quả hay khách hàng đó có khó khăn thì ngân hàng sẽ gặp rủi ro và khi đó ngân hàng rất khó chống đỡ. Mà đặc điểm hoạt động ngân hàng là có tính dây chuyền và tính hệ thống cao nên nếu một ngân hàng bị sụp đổ sẽ dẫn tới cả hệ thống bị ảnh hưởng rất nguy hiểm. Đối với nền kinh tế Tín dụng tiêu dùng có vai trò quan trọng trong việc kích cầu, từ đó tạo yếu tố kích thích sản xuất phát triển góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giữa sản xuất và tiêu dùng có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Quá trình tuần hoàn từ sản xuất tới tiêu dùng là hạt nhân thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, sự tiến bộ của xã hội. Các doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá tư liệu sản xuất và hàng hoá tiêu dùng phải đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Hàng hoá đó có khả năng tiêu thụ, từ đó vốn của doanh nghiệp sẽ được thu hồi và quay vòng nhanh, đem lại nhiều lợi nhuận, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường, tái sản xuất mở rộng làm tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp trong cac chu kỳ sản xuất tiếp theo. Nhiều doanh nghiệp làm được như vậy sẽ kéo theo làm tăng sức sản xuất của cả nền kinh tế. Đồng thời cho vay tiêu dùng tạo ra sự cạnh tranh cao hơn giữa các nhà sản xuất, các nhà kinh doanh cả về số lượng, mẫu mã, chủng loại, giá cả của sản phẩm. Từ đó lại kích thích nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm mới của khách hàng. Tuy nhiên, nhu cầu khác với cầu, nhu cầu là mong muốn có được sản phẩm, còn cầu về một sản phẩm dịch vụ là nhu cầu có khả năng thanh toán hàng hoá dịch vụ đó. Và trong thực tế thì nhu cầu của con người là vô hạn nhưng khả năng chi trả là có hạn. Có thể trong thời điểm hiện tại thì họ chưa có khả năng thanh toán nhưng đến một thời điểm trong tương lai họ sẽ có đủ khả năng chi trả. Chính tín dụng tiêu dùng sẽ giúp họ tiêu dùng ở hiện tại và thanh toán trong tương lai, góp phần tăng sức mua của nền kinh tế – mà điều này như đã phân tích ở trên sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tín dụng tiêu dùng có hiệu quả sẽ góp phần đảm bảo cho sự an ninh xã hội. Đây là hệ quả gián tiếp của vai trò kích cầu tức là kích thích sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động, họ sẽ có khả năng nâng cao thu nhập của mình, nhu cầu của cá nhân và hộ gia đình sẽ ngày một thoả mãn tốt hơn. Một cách gián tiếp là qua tăng trưởng kinh tế, nguồn thu của ngân sách Nhà nước được tăng cường, nhân lực sản xuất quốc gia ngày một cao, chính phủ sẽ chủ động và thực hiện tốt hơn giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi cho người lao động. Chính điều đó sẽ góp phần làm giảm tệ nạn xã hội – luôn là vấn đề lớn cho những nước có nền kinh tế chưa phát triển. Tín dụng tiêu dùng có vai trò đóng góp vào việc kích cầu tiêu dùng một cách trực tiếp, kích cầu đầu tư một cách gián tiếp từ đó góp phần làm tăng sức sản xuất của nền kinh tế, làm xã hội ngày một giàu mạnh. Những nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng tiêu dùng Một sự vật hiện tượng đều phải đặt trong mối quan hệ hữu cơ qua lại với các sự vật hiện tượng khác trong quá trình nó được nghiên cứu, phân tích để tìm ra bản chất. Về đặc điểm, vai trò, lợi ích của tín dụng tiêu dùng thì đã phân tích ở trên, vấn đề là để mở rộng tiêu dùng thì ta phải giải quyết những vấn đề gì ? Có lẽ một trong các công việc phải làm là xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động này là những gì ? Mức độ tác động đến đâu ? Phạm vi thế nào ? ... để tìm ra các yếu tố thuận lợi cũng như các hạn chế để ta khắc phục. Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tiêu dùng ra thành 2 nhóm, đó là các nhân tố vĩ mô và vi mô. Những yếu tố vi mô Môi trường kinh tế xã hội Môi trường kinh tế mà đặc trưng là trình độ phát triển kinh tế, thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người … Bất kỳ sự biến động nào của nền kinh tế đều ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng. Hơn nữa, hoạt động của các ngân hàng thương mại có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy sự ổn định hay bất ổn, sự tăng trưởng nhanh hay chậm của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hợt động của các ngân hàng, đặc biệt là tín dụng tiêu dùng. Một môi trường kinh tế lành mạnh, các chủ thể kinh tế hoạt động có hiệu quả và có sự tham gia của các chủ thể kinh tế khác góp phần thúc đẩy quy mô tín dụng được nâng cao. Môi trường xã hội: Các nhân tố xã hội như niềm tin tưởng lẫn nhau tình hình trật tự an ninh, an toàn xã hội … ảnh hưởng trực tiếp tới các tác nhân chính tham gia vào quan hệ TDNH, đó là NH & KH. Thật vậy, nếu một nơi nào đó anh ninh trật tự không đảm bảo, an toàn xã hội kém sẽ gây ra tâm lý không yên tâm cho các nhà đầu tư và người tiêu dùng do đó ảnh hưởng tới việc mở rộng tiêu dùng của ngân hàng. Ngược lại, nơi nào có trật tự an ninh xã hội tốt sẽ khuyến khích chủ đầu tư mới hoạt động của mình, các cá nhân và hộ gia đình tăng nhu cầu sử dụng sản phẩm dịch vụ, do đó nhu cầu tiêu dùng tăng lên và TDNH có cơ hội phát triển. Môi trường văn hoá Môi trường văn hoá quyết định hành vi của người tiêu dùng. Quyết định đi vay tiêu dùng của dân cư phụ thuộc vào yếu tố như : thói quen tâm lý, trình độ dân trí, phong tục tập quán, bản sắc dân tộc… Như ở Việt Nam, người dân có thói quen tiết kiệm dành dụm để mua sắm trong tương lai khi có thể sau đó mới nghĩ đến việc hưởng thụ. Bởi họ không có tư tưởng vay để sống sung túc trong hoàn cảnh nợ nần. Môi trường quản lý Môi trường quản lý là nhân tố có tác động sâu rộng đến cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Môi trường quản lý tác động đến tính trật tự tính ổn định và tạo điều kiện để hoạt động cho vay tiêu dùng được diễn ra thông suốt góp phần vào sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trong hoạt động tín dụng, hạn chế những rắc rối có thể nảy sinh, tổn hại đến lợi ích của các bên tham gia quan hệ tiêu dùng và thậm chí còn tổn hại đến lợi ích quốc gia. ở nhiều nước phát triển đã có luật cho vay tiêu dùng và tại các nước đó hoạt động cho vay tiêu dùng rất phát triển. Các chính sách của nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu Nhà nước phát triển đầu tư hay đưa ra các chính sách, biện pháp thông thoáng để khuyến khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài… một mặt nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, mặt khác làm giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, tăng mức sống. Đây rõ ràng là một tiền đề thuận lợi để phát triển cho vay tiêu dùng. Ngoài ra các chính sách như : Chính sách ưu đãi với hộ nghèo vay vốn, cho vay tín chấp với nông dân, chính sách kinh tế phát triển vùng sâu vùng xa sẽ rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, tạo điều kiện nâng cao mặt bằng dân trí trước mắt và lâu dài đều ảnh hưởng đến mức cầu cho vay tiêu dùng. Những nhân tố vĩ mô Các nhân tố khách quan Đặc điểm khách hàng vay vốn: được đánh giá dựa trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Đây là yếu tố tiên quyết tác động đến hành vi trả nợ. Vì rằng, ngay cả khi một người vay có nguồn thu nhập khả thi để trả nợ, thậm chí đưa ra những tài sản đảm bảo tốt nhưng đạo đức lại không tốt thì cũng không hứa hẹn một thái độ thiện chí khi thực hiện nhiệm vụ trả nợ. Cần lưu ý ở đây là đạo đức của khách hàng trong lĩnh vực ngân hàng, tức là ngoài đức tính tốt của khách hàng thì ngân hàng còn quan tâm tới sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng, ý muốn kiên quyết của khách hàng trong việc thực hiện tất cả các giao ước trong hoạt động tiêu dùng. Khả năng tài chính là một nhân tố có ảnh hưởng rất quan trọng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Phần lớn các món cho cho vay tiêu dùng được xác định nguồn hoàn trả là thu nhập thường xuyên của khách hàng trong tương lai. Khách hàng có thu nhập càng cao, việc thanh toán nợ ngân hàng càng ít ảnh hưởng đến các chi tiêu khác, đặc biệt các chi tiêu thông thường hay thiết yếu của gia đình người vay và ít ảnh hưởng tới tình hình tài chính của gia đình thì khoản tiêu dùng càng trở lên an toàn hơn. Tuy vậy, thực tế để xác định nguồn thu nhập thường xuyên này ở Việt Nam là rất khó khăn vì không có hành lang pháp lý cho việc quản lý thu nhập cá nhân. Việc nắm bắt tình hình tài chính của khách hàng là khó khăn vì đa số họ không giao dịch thanh toán qua ngân hàng, gd TM còn chiếm tỷ trọng lớn. Việc thực hiện đảm bảo thu vay của khách hàng là thiết lập cơ sở pháp lý để có thêm nguồn thu nợ thứ hai, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng khi cấp ra một khoản tiêu dùng. Đảm bảo trong những điều kiện xét duyệt cho vay nhưng không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất để ra quyết định cho vay. Nhân tố chủ quan Vốn tự có của ngân hàng: Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, doanh nghiệp muốn kinh doanh tốt thì vốn tự có đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn vốn tự có của ngân hàng tuy chiếm một tỷ trọng nhỏ (5á10%) trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại đóng một vai trò quan trọng vì nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác và là khởi đầu tạo uy tín cho ngân hàng. Theo luật các TCTD thì ngân hàng không được phép cho một tổ chức vay quá 15% vốn tự có của mình nên khi ngân hàng có vốn tự có càng lớn thì khả năng mở rộng tiêu dùng rất cao. Chính sách tiêu dùng: Bao gồm các nhân tố như hạn mức cho vay đối với một khách hàng, kỳ hạn của khoản tiêu dùng, lãi suất cho vay và mức lệ phí, các loại cho vay được thực hiện, sự đảm bảo và khả năng thanh toán nợ của khách hàng, hướng giải quyết phần tiêu dùng vượt giới hạn, các khoản vay có vấn đề. Tất cả những yếu tố đó tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới việc mở rộng tiêu dùng của ngân hàng. Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt diễn ra giữa các ngân hàng trong việc thu hút các khách hàng thì chính sách tiêu dùng đúng đắn, linh hoạt là hết sức quan trọng. Kỹ thuật và thủ tục thẩm định hiệu quả và không rườm rà, phức tạp là một trong những phương thức quan trọng lôi kéo khách hàng. Sự tôn trọng và kết hợp nhịp nhàng trong các bước sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng đưa ra các đánh giá đúng đắn về khách hàng, từ đó có quyết định cho vay đúng đắn, đồng thời phát hiện kịp thời các khuyết điểm để ngăn ngừa, hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Nhưng không nhất thiết cứng nhắc theo từng công đoạn đó mà phải linh hoạt trong từng trường hợp để không gây khó khăn cho khách hàng và cảm tinh của họ khi quan hệ với ngân hàng. Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị : Phải khẳng định rằng, việc mở rộng tiêu dùng có thành công hay không phải kể đến chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất kỹ thuật. Chất lượng nhân sự chính là trình độ nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp, marketing, trình độ ngoại ngữ, vi tính, sự nhiệt tình trong công việc, đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ tín dụng. Dưới con mắt của khách hàng thì cán bộ tín dụng ngân hàng chính là hình ảnh của ngân hàng. Nếu như khách hàng giao tiếp với cán bộ ngân hàng mà họ cảm thấy yên tâm về trình độ nghiệp vụ của cán bộ, an toàn trong quan hệ với ngân hàngvà hài lòng với phong cách giao tiếp của cán bộ ngân hàng thì họ sẽ tìm đến ngân hàng và chắc chắn sẽ trung thành với ngân hàng. Còn đối với cơ sở vật chất phục vụ hoạt động tiêu dùng cũng có ảnh hưởng sâu sắc tới việc thu hút khách hàng cũng như với mục tiêu mở rộng tiêu dùng. Việc trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến, phù hợp với phạm vi quy mô hoạt động, phục vụ kịp thời các yêu cầu của khách hàng với chi phí mà hai bên có thể chấp nhận được sẽ giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh và ngày càng thu hút được nhiều khách hàng. Tình hình huy động vốn: Ngân hàng là một ngành kinh doanh tiền tệ hoạt động chủ yếu là “đi vay để cho vay”. Bởi v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34051.doc
Tài liệu liên quan