Giải pháp nâng cao hiệu quả tài chính ngắn hạn tại Công ty Giống vật tư Nông lâm nghiệp Tuyên Quang

Mục lục lời mở đầu Nâng cao hiệu quả quản lý tài chính nói chung và tài chính ngắn hạn nói riêng là mục tiêu phấn đấu lâu dài của mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả quản lý tài chính nói chung và hiệu quả quản lý tài chính ngắn hạn nói riêng gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiêp. Để đưa ra những giải pháp hữu hiệu, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý tài chính ngắn hạn, bản thân doanh nghiệp phải biết kết hợp giữa lý luận và điều kiện thực tế của công ty mình cũng như điều

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả tài chính ngắn hạn tại Công ty Giống vật tư Nông lâm nghiệp Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiện kinh tế xã hội và các quy định của nhà nước. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước như Công ty Giống vật tư Nông lâm nghiệp Tuyên Quang, vấn đề quản lý tài chính ngắn hạn được đặc biệt quan tâm. Trong tình hình mới, cùng với việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế là quá trình cắt giảm nguồn vốn ngân sách cấp, mở rộng quyền tự chủ và chuyển giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng, đã tạo một tình hình mới đầy phức tạp và biến động. Một số doanh nghiệp đã có phương thức ,biện pháp huy động và sử dụng vốn kinh doanh một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, đã có không ít những doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, các doanh nghiệp này chẳng những không huy động và phát triển tăng thêm vốn mà còn trong tình trạng mất dần vốn. Do công tác quản lý và sử dụng vốn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả, vi phạm các quy định trong thanh toán. Trong bối cảnh chung đó Công ty Giống vật tư Nông lâm nghiệp Tuyên Quang đã có nhiều cố gắng trong việc tìm những giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý tài chính, đặc biệt là tài chính ngắn hạn và đã đạt được những kết quả nhất định. Là một doanh nghiệp Nhà nước duy nhất đảm nhiệm vai trò cung ứng giống vật tư phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp của tỉnh nên nguồn tài chính ngắn hạn của Công ty đòi hỏi khá lớn điều này bắt buộc Công ty phải có phương hướng, kế hoach quản lý nguồn tài chính ngắn hạn sao cho co hiệu quả nhất trong mọi hoạt động sản xuất của Công ty. Chính từ nhận thức trên của bản thân em và từ thực tiễn hoạt động của Công ty Giống vật tư Nông lâm nghiệp Tuyên Quang em đã chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả tài chính ngắn hạn tại Công ty Giống vật tư Nông lâm nghiệp Tuyên Quang”. Với hy vọng sử dụng những kiến thức đã học kết hợp với tình hình thực tế tại công ty để đóng góp một số ý kiến, giải pháp cho hoạt động thanh toán và quản lý tài sản lưu động của Công ty trong thời gian tới. Kết cấu luận văn của em gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về quản lý tài chính ngắn hạn Chương II: Thực trạng tình hình quản lý tài chính ngắn hạn tại Công ty Giống vật tư NLN Tuyên Quang Chương III: Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình quản lý và nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính tại công ty Giống vật tư NLN Tuyên Quang Để có thể hoàn thành Báo cáo chuyên đề thực tập tốt nghiệp này em rất cám ơn Thầy giáo Th.S Đặng Anh Tuấn đã tận tình chỉ bảo cho em, đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các cô các chú, các anh chị tại phòng Kinh tế kế hoạch -Tài chính và toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Công ty đã giúp đỡ em rất nhiều để hoàn thành báo cáo này. Chương 1 Những vấn đề cơ bản về quản lý tài chính ngắn hạn I. Các vấn đề cơ bản về quản lý tài sản lưu động 1.Khái niệm tài sản lưu động Như ta đã biết, tư liệu lao động và đối tượng lao động là hai mặt của phạm trù tư liệu sản xuất. Nếu như phần lớn tư liệu lao động là tài sản cố định thì tài sản lưu động chính là đối tượng lao động và phần còn lại của tư liệu lao động. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động thường chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và trong chu kỳ ấy chúng chuyển hoá toàn bộ giá trị của mình vào sản phẩm. Do đó đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động khác. Phần lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể của sản phẩm như bông thành sợi, cát thành thuỷ tinh… một số khác bị mất đi như các loại nhiên liệu. Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần có các đối tượng lao động, lượng tiền ứng ra để thoả mãn nhu cầu về đối tượng lao động gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp chính vì thế ta có thể nói vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn (thời hạn sử dụng dưới một năm) và luân chuyển thường xuyên trong quá trình sản xuất. Như ta đã nói ở trên đối tượng lao động có những đặc điểm khác hẳn với tư liệu lao động nên kéo theo đó mà tài sản lưu động mang những đặc tính hoàn toàn khác với tài sản cố định là hầu như chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và luân chuyển duy nhất một lần. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp thì tài sản lưu động chủ yếu được thể hiện ở các khoản mục như tiền mặt,các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của chúng. Quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Quản lý tài sản lưu động có ảnh hưởng trực tiếp tới hai mục tiêu vô cùng quan trọng của doanh nghiệp là lợi nhuận và khả năng thanh toán cần thấy rằng sự bất lực của một số công ty trong việc hoạch đinh và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản doanh nghiệp. Song do các đặc tính của tài sản lưu động củng như do sự đa dạng của nó mà việc quản lý tài sản lưu động trở nên rất phức tạp đòi hỏi rất nhiều cố gắng của doanh nghiệp. 2. vai trò của tài sản lưu động đối với doanh nghiệp. Như ta đã biết trong bất cứ doanh nghiệp nào tài sản lưu động cũng là một phần không thể thiếu trong cơ cấu tài sản của mình. Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tài sản cố định như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng.... doanh nghiệp còn phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hoá nguyên nhiên vật liệu... phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy, tài sản lưu động là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói cách khác tài sản lưu động là điều kiện tiên quyết cho quá trình sản xuất kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào. Ngoài ra, tài sản lưu động còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục. Do đặc điểm của đối tượng lao động là giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào sản phẩm nên trong chu kỳ sản xuất sau lại phải thường xuyên mua sắm dự trữ vật tư hàng hoá để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất. Lượng tài sản lưu động có hợp lý đồng bộ thì mới không làm gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy tài sản lưu động còn là điều kiện vật chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của vật tư cũng tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ sản xuất tiêu thụ của doanh nghiệp. Nhu cầu lượng vật tư dự trữ ở các khâu nhiều hay ít phản ánh nhu cầu vốn lưu động nhiều hay ít. Tài sản lưu động luân chuyển nhanh hay chậm phản ánh số vật tư tiết kiệm hay lãng phí, thời gian nằm ở các khâu có hợp lý hay không hợp lý và mức độ luân chuyển vốn lưu động đã đạt yêu cầu hay chưa. Bởi vậy thông qua sự vận động của tài sản lưu động có thể đánh giá được tình hình dự trữ tiêu thụ sản phẩm, tình hình sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp, trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tựa chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp thì cần phải có thêm một lượng vật tư hàng hoá nguyên nhiên vật liệu... để dự trữ và đưa vào sản xuất. Vốn lưu động bằng tiền còn giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ngoài ra tài sản lưu động còn đóng một vai trò là giúp doanh nghiệp một cách đắc lực trong việc thanh toán và duy trì khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn giúp cho doanh nghiệp tránh khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán và chặn đứng nguy cơ phá sản doanh nghiệp. Vì vậy có thể nói tài sản lưu động góp phần vô cùng quan trọng giúp doanh nghiệp hoạt động bình thường và đứng vững. Ta có thể khẳng định rằng tài sản lưu động động là không thể thay thế được trong bất cứ loại hình doanh nghiệp nào thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào. Do đó quản lý tài sản lưu động là việc không thể thiếu trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động cũng như góp phần đẩy mạnh sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3. Cơ cấu của tài sản lưu động Tài sản lưu động của doanh nghiệp được chia thành các loại sau: 3.1.Tiền Tiền của doanh nghiệp là tài sản tồn tại trực tiếp dưới dạng giá trị bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, và các khoản tiền đang chuyển. Việc duy trì một lượng tiền mặt hợp lý có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bởi vì: Tiền đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày, thường là thanh toán cho khách hàng và thu tiền từ khách hàng. Bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp. Đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp xuất hiện những biến động không lường trước được của luồng tiền vào và ra Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng Việc doanh nghiệp lưu giữ nhiều tiền có lợi thế sau: Chủ động trong kinh doanh do có thể chủ động trong thanh toán chi trả Khi mua hàng công ty có thể được hưởng chiết khấu do thanh toán ngay Duy trì tốt các chỉ số thanh toán giúp doanh nghiệp tạo uy tín tốt với khách hàng và ngân hàng nên dễ dàng mua được hàng hoá với các điều kiện thuận lợi và được hưởng những ưu đãi trong việc đi vay Dự trữ được lượng vật tư, hàng hoá lớn nếu giá cả hợp lý Song việc giữ nhiều tiền cũng có những bất lợi đó là: Tiền dễ bị mất giá Khả năng sinh lời là không đáng kể Do đó việc giữ đủ tiền cho sản xuất kinh doanh là rất quan trọng nó sẽ giúp doanh nghiệp phát huy các lợi thế trên và tối thiểu hoá các bất lợi. 3.2.Đầu tư ngắn hạn Đây là các chứng khoán có giá trị hoặc góp vốn liên doanh bằng tiền, hiện vật có thể thu hồi kịp thời trong một chu kỳ kinh doanh hoặc trong thời gian không quá một năm (như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng…) và các loại đầu tư khác không quá một năm. Trong đầu tư ngắn hạn, việc đầu tư vào các chứng khoán có tính lỏng cao là hết sức quan trọng. Các chứng khoán này giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền mặt. Vì nếu số dư tiền mặt lớn, doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán đó nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng thành tiền một cách dễ dàng ít tốn kém. Trong quản lý tài chính, các chứng khoán có tính lỏng cao được sử dụng để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn. 3.3.Phải thu Các khoản phải thu bao gồm: Phải thu từ khách hàng: là khoản tiền mà doanh nghiệp cho người mua nợ dưới dạng hàng hoá, dịch vụ. Nhờ có khoản phải thu khách hàng mà doanh nghiệp có điều kiện tăng cao được số lượng hàng hoá tiêu thụ, từ đó nâng cao doanh thu có điều kiện mở rộng thị trường, tăng cường được quan hệ với người mua. Phải thu nội bộ (giữa các đơn vị chính và đơn vị phụ thuộc) Thế chấp (tài sản mang đi khi cầm cố khi đi vay vốn), ký cược (tiền đặt cược khi đi thuê tài sản), ký quỹ (tiền hoặc tài sản gửi để làm tin). 3.4.Hàng hoá tồn kho (dự trữ) Khoản mục này bao gồm vật tư, hàng hoá, thành phẩm, giá trị sản phẩm dở dang. Việc dự trữ mặc dù có chi phí nhưng nó cũng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, chẳng hạn như doanh nghiệp dự trữ một lượng lớn thành phẩm thì sẽ không bị mất cơ hội khi thị trường trở nên khan hiếm loại hàng hoá này. Nếu doanh nghiệp dự trữ một lượng nhỏ thành phẩm thì chẳng những bị lơ cơ hội khi hàng hoá khan hiếm và giá cả lên cao mà còn khó có khả năng thực hiện được hợp đồng giao hàng một cách chính xác. Tương tự như vậy, ta có thể thấy rằng nếu doanh nghiệp dự trữ nguyên vật liệu quá ít thì có thể dẫn tới tình trạng ngừng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu. 3.5.Tài sản lưu động khác Tạm ứng (cho công nhân viên chức) và chi phí trả trước (chi phí đã phát sinh nhưng có tác dụng tới kết quả nhiều kỳ hoạch toán, được tính vào chi phí của nhiều kỳ. Ngoài ra, tài sản lưu động còn bao gồm các khoản chi phí sự nghiệp dở dang hoặc đã kết thúc nhưng đang chờ quyết toán. Chi phí sự nghiệp là những khoản chi phí của doanh nghiệp cho những công việc, những hoạt động được trang trải bằng nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp, cấp trên cấp phát. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp thì tài sản lưu động chủ yếu được thể hiện ở các bộ phận là tiền mặt, các chứng khoán có tính lỏng cao, phải thu và hàng tồn kho. Quản lý các tài sản lưu động có ảnh hưởng hết sức quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. 4. các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp. ý nghĩa của việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp không nằm ngoài hai mục đích là nhằm xác định sự thay đổi của tài sản lưu động chịu ảnh hưởng của những nhân tố nào và quan trọng hơn là dự đoán sự biến động của các nhân tố này có ảnh hưởng như thế nào tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động. Trên thực tế có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động có thể khái quát một số nhân tố cơ bản sau đây: 4.1.Nhóm nhân tố khách quan Đây là nhóm nhân tố nằm ngoài khả năng kiểm soát của doanh nghiệp và vì không thể tác động vào những nhân tố này được nên doanh nghiệp cần phải tận dụng triệt để những thuận lợi và từ điều chỉnh để thích ứng với những khó khăn do các nhân tố này mang lại. Thuộc nhóm nhân tố này gồm: + Nhu cầu tiêu dùng. ở đây ta đề cập đến nhu cầu tiêu dùng của thị trường đối với sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Yếu tố này luôn ảnh hưởng quyết định đến quy mô và cơ cấu hàng hoá của một doanh nghiệp sản xuất ra. Để đáp ứng được sự thay đổi của nhu cầu thị trường, doanh nghiệp phải tăng hay giảm lượng vật tư nguyên vật liệu cũng như hay thậm chí phải thay đổi cơ cấu hàng hoá, chuyển đổi quy trình sản xuất, tổ chức lại mạng lưới phân phối, cung cấp thêm các dịch vụ kèm theo, thay thế sản phẩm cũ bằng sản phẩm mới... từ đó dẫn tới những thay đổi lớn lao trong cơ cấu và quy mô tài sản lưu động đòi hỏi công tác quản lý tài sản lưu động cũng phải có những thay đổi tương ứng, kịp thời và phù hợp. + Thị trường các nhân tố đầu vào Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất đều phải có các yếu tố đầu vào và nếu như tài sản cố định là một nhân tố đầu vào được doanh nghiệp mua hay thuê ngay từ khi mới thành lập và sử dụng trong thời gian dài thì các nhân tố đầu vào thuộc nhóm tài sản lưu động đòi hỏi doanh nghiệp phải mua sắm thường xuyên liên tục. Do đó, sự biến động trên thị trường nhân tố đầu vào thuộc nhóm tài sản lưu động như: thị trường nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ.. có ảnh hưởng rất lớn tới việc quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp, bất kỳ một sự thay đổi nào dù lớn hay nhỏ về phía nhà cung cấp cũng như giá cả, chất lượng của thị trường này cũng đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải có những biện pháp ứng phó kịp thời nhằm quản lý tài sản lưu động có hiệu quả hơn phù hợp với tình hình mới. + Cơ sở hạ tầng xã hội Việc bố trí cơ sở sản xuất kinh doanh tại những đầu mối giao thông quan trọng thuận tiện sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích trong việc vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu thụ sản phẩm... từ đó việc quản lý tài sản lưu động cũng có nhiều thuận lợi hơn. + Môi trường Kinh tế -Chính trị- Xã hội Những chính sách của Nhà nước về quản lý tài chính doanh nghiệp, thuế... có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế. Tương tự như vậy môi trường Chính trị - Xã hội cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và công tác quản lý tài sản lưu động nói riêng. 4.2.Nhân tố chủ quan Đây là những nhân tố thuộc doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát, điều chỉnh được. Cụ thể gồm: + Đặc điểm ngành sản xuất kinh doanh Đặc điểm của ngành sản xuất kinh doanh có liên quan đến chu kỳ kinh doanh, mỗi ngành khác nhau thì sản phẩm, hàng hoá sản xuất ra cũng có những đặc tính khác nhau, do đó chu kỳ kinh doanh của sản phẩm, hàng hoá đó cũng khác nhau. Điều này ảnh hưởng tới toàn bộ quyết định có liên quan đến việc sử dụng tài sản lưu động như: dự trữ nguyên vật liệu nào, trong bao lâu, duy trì lượng tiền mặt là bao nhiêu vận dụng chính sách tín dụng thương mại như thế nào...? Nếu chu kỳ kinh doanh càng dài thì thời gian thu hồi vốn càng lâu, vòng quay của vốn lưu động chậm và kết quả là hiệu quả quản lý tài sản lưu động sẽ thấp và ngược lại. + Trình độ của cán bộ công nhân viên chức. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động của tất cả các doanh nghiệp. Rõ ràng là trình độ cán bộ công nhân viên càng cao thì sẽ càng có những quyết định đúng đắn trong việc quản lý tài sản lưu động, giúp doanh nghiệp tiết kiệm được vốn và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. + Cơ sở vật chất của doanh nghiệp. Ta không thể phủ nhận là cơ sở vật chất là một yếu tố không kém phần quan trọng trong việc thay đổi hình thái vật chất của tài sản lưu động, chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào sản phẩm, hàng hoá. ở đây ta đề cập đến dây chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị... nếu những yếu tố này hiện đại tiên tiến sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển hoá giá trị của tài sản lưu động vào sản phẩm điều này đồng nghĩa với việc rút ngắn thời gian dự trữ nguyên vật liệu, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động và ngược lại. Ngoài các nhân tố kể trên còn có rất nhiều các nhân tố khác cũng có ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp như: cạnh tranh, quan hệ với khách hàng, chính sách tài chính doanh nghiệp, chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp... 5. Các nội dung quản lý tài sản lưu động 5.1.Quản lý tiền Tiền được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả nợ… Bản thân tiền là loại tài sản ít sinh lời, do vậy trong hoạt động quản lý tiền, việc tối thiểu hoá lượng tiền là mục tiêu quan trọng nhất. Trong việc quản lý tiền, các doanh nghiệp thường sử dụng chứng khoán có tính lỏng cao để duy trì tiền ở mức mong muốn. Do đó việc quản lý tiền liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao. Các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một bước đệm cho tiền mặt do khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền của chúng. Dựa vào mối tương quan và mô hình quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng có hiệu quả nhất - EOQ (Economic Odering Quantity) ta có một cách nhìn tổng quát trong quản lý tiền mặt như sau: Giả sử rằng doanh nghiệp có một lượng tiền và phải dùng nó để trả cho các hoá đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền này hết, doanh nghiệp phải bán các chứng khoán có khả nằng thanh khoản cao để lại có lượng tiền như ban đầu. Chi phí lưu giữ tiền ở đây chính là chi phí cơ hội trong trường hợp quản lý dự trữ và chính là lãi suất doanh nghiệp bị mất đi do giữ tiền. Chi phí đặt hàng là chi phí cho việc bán chứng khoán. Gọi: i là lãi suất doanh nghiệp mất đi do việc giữ tiền. M là lượng tiền dự trữ của doanh nghiệp. Chi phí cơ hội sẽ là: Chi phí cơ hội M = i của việc giữ tiền 2 Và nếu gọi: Mn là tổng mức tiền giải ngân mỗi năm Cb là chi phí cho một lần bán chứng khoán thanh khoản Như vậy, tổng chi phí cho việc bán chứng khoán thanh khoản sẽ là: Tổng chi phí cho việc bán Mn = Cb chứng khoán thanh khoản M Vậy tổng chi phí dự trữ tiền sẽ là: M Mn TC = i + Cb 2 M Lấy vi phân theo M ta có TC nhỏ nhất khi M bằng: Trong đó M* là lượng tiền dự trữ tối ưu. Ta thấy rằng, lãi suất càng cao thì doanh nghiệp càng giữ ít tiền, đồng thời chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao thì doanh nghiệp càng giữ nhiều tiền. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, lượng tiền vào và ra thường không đều đặn nên mức dự trữ tiền dự kiến dao động trong một khoảng.Tức là lượng tiền dự trữ sẽ biến thiên từ cận thấp đến cận cao nhất. Nếu lượng tiền dưới giới hạn dưới thì doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có lượng tiền ở mức dự kiến, ngược lại tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt quá mức giới hạn cần mua chứng khoán để đưa lượng tiền về mức dự kiến. Khoảng dao động tiền dự kiến phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau: - Mức giao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ. Sự giao động này được thể hiện ở phương sai của thu chi ngân quỹ. Phương sai của thu chi ngân quỹ là tổng các bình phương (độ chênh lệch) của thu chi ngân quỹ thực tế và thu chi bình quân. Phương sai càng lớn thì thu chi ngân quỹ thực tế càng có xu hướng khác biệt nhiều so với thu chi bình quân. Khi đó doanh nghiệp cũng sẽ quy định khoảng dao động tiền cao. - Chi phí cố định của việc mua bán chứng khoán. Khi chi phí này lớn người mua muốn giữ tiền nhiều hơn và khi đó khoảng dao động tiền sẽ lớn. - Lãi suất càng cao, doanh nghiệp sẽ càng giữ lại ít tiền và do vậy khoảng dao động tiền sẽ giảm xuống. Khoảng dao động tiền được xác định bằng các công thức sau: Trong đó: d: khoảng cách của giới hạn trên và giới hạn dưới của lượng tiền dự trữ Cb:chi phí của mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán Vb:phương sai của thu chi ngân quỹ i: lãi suất Mức tiền theo thiết kế được xác định như sau: Mức tiền Mức tiền mặt Khoảng dao động TM = + theo thiết kế giới hạn dưới 3 5.2.Quản lý các khoản phải thu Trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là tất yếu. Do vậy doanh nghiệp nào cũng xây dựng một chính sách tín dụng thương mại phù hợp bởi nó có thể giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường, mở rộng hoạt động nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho hoạt động của doanh nghiệp qua các yếu tố sau đây: - Tác động của doanh thu: nhờ bán chịu mà doanh nghiệp có thể làm tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ, đồng thời có thể bán với giá cao hơn làm tăng doanh thu bán hàng. - Tác động của chi phí: tín dụng thương mại làm giảm chi phí tồn kho của hàng hoá. Tuy nhiên tín dụng thương mại làm tăng chi phí có liên quan đến khoản phải thu như chi phí đòi nợ, đồng thời làm tăng chi phí trả cho nguồn tài trợ ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ. - Xác suất không trả tiền của người mua: khi đó thu nhập của doanh nghiệp bị giảm sút. Với các tác động nêu trên, doanh nghiệp phải tiến hành phân tích tín dụng thương mại, trước hết là phân tích khả năng tín dụng của khách hàng. Công việc này bắt đầu bằng việc doanh nghiệp xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lý đạt tới sự cân bằng giữa thu nhập và rủi ro. Sau đó, doanh nghiệp tiến hành xác minh phẩm chất tín dụng của khách hàng tiềm năng, dựa trên thông tin tín dụng bao gồm Báo cáo tài chính (Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Bảng kế hoạch ngân quỹ…), báo cáo tín dụng về tình hình thanh toán của khách hàng đối với các doanh nghiệp khác, các ngân hàng, lịch sử thanh toán của khách hàng đối với các doanh nghiệp khác… Nếu khả năng tín dụng của khách hàng phù hợp với những tiêu chuẩn tối thiểu mà doanh nghiệp đưa ra thì tín dụng thương mại có thể được cấp. Sau khi phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, doanh nghiệp sẽ tiến hành đánh giá tín dụng. Việc phân tích này dựa vào việc phân tích NPV của luồng tiền. Giả sử một khách hàng muốn mua một sản phẩm theo phương thức bán chịu với giá một đơn vị sản phẩm là P’. Nếu doanh nghiệp từ chối việc bán chịu thì khách hàng sẽ không mua. Nếu doanh nghiệp đồng ý bán chịu trong một thời hạn nào đó thì khách hàng có thể sẽ không trả tiền. Xác suất không trả tiền là p. Doanh lợi đòi hỏi về các khoản phải thu đối với thời hạn bán chịu là R, chi phí các khoản phải thu là V. Nếu doanh nghiệp không bán chịu cho khách hàng thì tiền thu tăng thêm vào ngân quỹ là 0. Nếu doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng thì doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí biến đổi là V và để thu được (1-p) P‘ vào ngân quỹ khi hết hạn cấp tín dụng. Giá trị hiện tại ròng của việc cấp tín dụng thương mại là: (1-p) P‘ NPV = V + 1+R Nếu NPV > 0 thì doanh nghiệp nên cấp tín dụng cho khách hàng. Sau khi đã quyết định cấp tín dụng thương mại cho khách hàng, doanh nghiệp theo dõi các khoản phải thu để có thể thay đổi chính sách tín dụng thương mại kịp thời. Thông thường, doanh nghiệp dựa vào các chỉ tiêu, phương pháp và mô hình sau: - Kỳ thu tiền bình quân đươc xác định bằng thương số của các khoản phải thu chia cho doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. - Khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận không tăng thì có ngiã là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng trong khâu thanh toán. Khi đó nhà quản lý phải có biện pháp can thiệp kịp thời. - Sắp xếp “tuổi” của các khoản phải thu.Theo phương pháp này, nhà quản lý sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian. - Xác định số dư tài khoản phải thu. - Theo phương pháp này, các khoản phải thu sẽ hoàn toàn không chịu ảnh hưởng bởi yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán, giúp doanh nghiệp theo dõi được nợ tồn đọng của khách hàng đối với doanh nghiệp. 5.3. Quản lý dự trữ Vốn lưu động là giá trị của tài sản lưu động. Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ là những bước đệm cần thiết. Hàng hoá tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành được bìng thường. Do vậy, nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá nhỏ sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng loạt các hậu quả tiếp theo. Doanh nghiệp khi tiến hành dự trữ hàng hoá thì bản thân doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra những chi phí nhất định nhưng tựu trung lại có hai loại: Chi phí cơ hội: Là chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hoá gồm có chi phí hoạt động và chi phí tài chính. Nếu gọi lượng hàng hoá cung ứng mỗi lần là Q thì dự trữ trung bình là Q/2. C1 là chi phí lưu kho thì tổng chi phí lưu kho sẽ là C1Q/2. Chi phí đặt hàng: Chi phí này bao gồm chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển hàng hoá. Chi phí đặt hàng thường không ổn định phụ thuộc vào số lượng hàng hoá được mua. Nếu gọi D là toàn bộ lượng hàng hoá cần sử dụng trong một đơn vị thời gian (năm, quý, tháng) thì số lượng cần cung ứng hàng hoá sẽ là D/Q. Gọi C2 là chi phí mỗi lần đặt hàng thì tổng chi phí đặt hàng sẽ là C2D/Q. Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hoá ta sẽ có: Q D TC = C1 + C2 2 Q Lấy vi phân TC theo Q ta có TC nhỏ nhất khi: Với Q* là mức dự trữ tối ưu. Qua đây ta thấy, doanh nghiệp cần xác định cho mình mức dự trữ tối ưu mà ở đó chi phí đặt hàng cân bằng với chi phí cơ hội. Ngoài ra, trong quản lý dự trữ, doanh nghiệp cần xác định điểm đặt hàng lại sao cho hợp lý. Bởi vì nếu đặt hàng quá sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu tồn kho, còn nếu đặt hàng muộn sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Thời điểm đặt hàng lại mới là thời điểm mà nguyên liệu tồn kho bằng số nguyên liệu sử dụng mỗi ngày nhân với độ dài của thời gian giao hàng. Mặt khác, do nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số định mà chúng biến động không ngừng nên để đảm bảo cho sự ổn định của sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải duy trì một lượng dự trữ an toàn, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp. Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hoá dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng. 5.4.Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động: Nhóm chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển của vốn lưu động Hệ số luân chuyển vốn lưu động: (vòng quay vốn lưu động) cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ kinh doanh hay số lần vốn lưu động được chuyển thành doanh số. Hệ số luân chuyển càng lớn càng tốt. Hệ số luân Doanh thu thuần chuyển vốn = lưu động Vốn lưu động bình quân Thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động thể hiện số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì hệ số luân chuyển vốn lưu động càng cao. Thời gian một 360 vòng luân chuyển = vốn lưu động Hệ số luân chuyển vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần mấy đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Hệ số đảm Vốn lưu động bình quân nhiệm vốn = lưu động Doanh thu thuần Chỉ tiêu về khả năng sinh lợi của vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng vốn lưu động tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khả năng sinh lợi vốn lưu động càng cao thì hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng lớn. Khả năng Lợi nhuận Sinh lợi vốn = * 100% lưu động Tài sản lưu động Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý của từng tài sản lưu động: + Vòng quay hàng tồn kho Vòng quay Doanh thu thuần = hàng tồn kho Giá trị hàng tồn kho Vòng quay hàng tồn kho là số lần dự trữ được chuyển thành doanh thu thuần trong một thời hạn nhất định (thường là một năm). Nếu mức quay vòng vốn càng cao thì công ty lưu giữ càng ít số hàng tồn kho để tạo ra một lượng doanh số nhất định. Số hàng tồn kho càng ít thì số vốn ứ đọng càng ít và như vậy, nhìn chung, mức quay vòng tồn kho càng cao càng tốt. + Vòng quay các khoản phải thu Vòng quay Khoản phải thu các khoản = phải thu Mức bán hàng trong năm/360 Vòng quay các khoản phải thu cho biết mức hợp lý của khoản phải thu và hiệu quả thu hồi nợ. Nếu khoản phải thuđược thu hồi nhanh chóng thì số vòng luân chuyển các khoản phải thu sẽ cao và công ty ít bị chiếm dụng vốn, tuy nhiên nếu quá cao sẽ ảnh hưởng đến khối lượng hàng hoá tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ. Chu kỳ vận động của tiền mặt: Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của quá trình quản lý vốn lưu động. Chu kỳ vận động của tiền mặt là thời gian từ khi thanh toán khoản mục nguyên liệu đến khi thu được tiền từ những khoản phải thu do việc bán sản phẩm cuối cùng. Có thể hình dung trình tự vận động như sau: Công ty mua nguyên vật liệu để sản xuất, phần lớn những khoản mua này chưa phải trả ngay, tạo nên những khoản phải trả. Do vậy việc mua trong trường hợp này không ảnh hưởng ngay đến luồng tiền. Lao động được sử dụng để chuyển nguyên vật liệu thành sản p._.hẩm cuối cùng và thông thường tiền lương không được trả ngay vào lúc công việc được thực hiện, từ đó hình thành các khoản lương phải trả (phải trả khác) Hàng hoá thành phẩm được bán, nhưng là bán chịu, do đó tạo nên khoản phải thu và từ đó việc bán hàng không tạo nên luồng tiền vào ngay lập tức. Tại một thời điểm nào đó trong quá trình vận động nói trên doanh nghiệp phải thanh toán những khoản phải trả và nếu những khoản thanh toán này được thực hiện trứơc khi thu được những khoản phải thu thì sẽ tạo ra những luồng tiền ra ròng. Luồng tiền ra này phải được tài trợ bằng một biện pháp nào đó. Chu kỳ vận động của tiền mặt khi doanh nghiệp thu được những khoản phải thu. Khi đó công ty sẽ trả hết nợ được sử dụng để tài trợ cho việc sản xuất và chu kỳ được lặp lại. Từ sự xem xét trình tự vận động của vốn lưu động ta có thể rút ra những công thức cơ bản sau: Chu kỳ vận Thời gian vận Thời gian thu Thời gian chậm động của =động của + hồi khoản - trả của khoản tiền mặt nguyên vật liệu phải thu phải trả Trong đó: Thời gian vận Hàng tồn kho động của = nguyên vật liệu Mức bán mỗi ngày Thời gian vận động của nguyên vật liệu là độ dài thời gian trung bình để chuyển nguyên vật liệu thành sản phẩm cuối cùng và thơì gian để bán những sản phẩm đó. Hàng tồn kho bao gồm nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho. Thời gian thu Khoản phải thu hồi những khoản = phải thu Mức bán hàng trong năm/360 Thời gian thu hồi những khoản phải thu là độ dài thời gian trung bình để chuyển những khoản phải thu của công ty thành tiền mặt. Thời gian chậm Khoản phải trả trả những = khoản phải trả Giá vốn hàng bán trong năm /360 Thời gian chậm trả những khoản phải trả là độ dài thời gian trung bình từ khi mua nguyên vật liệu và lao động đến khi thanh toán những khoản đó. Mục tiêu của công ty là rút ngắn chu kỳ vận động của tiền mặt càng nhiều càng tốt mà không có hại cho sản xuất. Khi đó lợi nhuận sẽ tăng lên và chu kỳ càng dài thì nhu cầu tài trợ từ bên ngoài càng lớn và mỗi nguồn tài trợ đều mang một chi phí nên lợi nhuận sẽ giảm. Từ các công thức trên ta thấy chu kỳ vận động của tiền mặt có thể được giảm bằng các biện pháp giảm các chu kỳ vận động của các thành phần của nó như sau: - Giảm bớt thời gian vận động nguyên vật liệu thông qua sản xuất và bán hàng nhanh hơn. - Giảm thời gian thu hồi những khoản phải thu bằng việc tăng tốc độ thu. - Kéo dài thời gian chậm trả những khoản phải trả bằng việc trì hoãn thanh toán. Những hoạt động trên được tiến hành trong một chừng mực mà chúng không làm tăng chi phí hoặc làm giảm bán hàng. Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của một doanh nghiệp như đã trình bày ở phần 1 liên quan tới cả hai bên bảng cân đối tài chính của doanh nghiệp đó, cụ thể là tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn. Mối quan hệ này được biểu hiện qua các chỉ tiêu sau: 3.1.Vốn lưu động thường xuyên Vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Vốn lưu động thường xuyên là chỉ tiêu dùng để đánh gía điều kiện cân bằng tài chính của doanh nghiệp. Vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là khả năng thanh toán của doanh nghiệp khả quan, tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn. Ngược lại, vốn lưu động thường xuyên < 0 nghĩa là tài sản lưu động không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng. Doanh nghiệp phải dùng một phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Trong trường hợp như vậy giải pháp của doanh nghiệp là giảm các khoản nợ ngắn hạn hay tăng đầu tư vào tài sản lưu động hoặc cả hai (trong mối quan hệ tương đối của các tài sản và nguồn vốn trong doanh nghiệp thì điều này cũng có nghĩa là tăng cường huy động vốn dài hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn). 3.2. Tỷ lệ thanh toán hiện hành Tỷ lệ thanh Tài sản lưu động = toán hiện hành Nợ ngắn hạn Tỷ lệ thanh toán hiện hành là thước đo khả năng chi trả của một doanh nghiệp từ số tài sản sẵn có của mình. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng thanh toán cáng tốt và thường phải >1. Theo nguyên tắc chung là 2: 1, tuy nhiên con số này thay đổi theo ngành nghề kinh doanh và theo từng công ty. Tỷ lệ này càng nhỏ bao nhiêu thì doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán bấy nhiêu; khi tỷ lệ này gần bằng không thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản. 3.3.Tỷ lệ thanh toán nhanh Tỷ lệ thanh Tiền và các chứng khoán thanh khoản cao + Phải thu = toán nhanh Nợ ngắn hạn Tỷ lệ thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ. Do vậy, chỉ có tiền, các chứng khoán thanh khoản (CKTK) cao và các khoản phải thu được tính đến với giả định rằng số hàng tồn kho không phải lúc nào cũng chuyển thành tiền được, do hư hỏng, lạc hậu hoặc do bản chất của mặt hàng đó. Thông thường tỷ lệ này nếu > 1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp là lành mạnh. Ngược lại, nếu tỷ lệ này < 1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Doanh nghiệp sẽ bán gấp sản phẩm, hàng hoá để thanh toán các khoản nợ đến hạn. 3.4. Tỷ lệ thanh toán tức thời Tỷ lệ thanh toán tức thời thông thường nếu > 0,5 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp là khá tốt và ngược lại nếu < 0,5 thì doanh nghiệp khó khăn trong khâu thanh toán. Chương 2: Thực trạng tình hình quản lý tài chính ngắn hạn tại công ty giống vật tư nông lâm nghiệp tuyên quang I. quá trình hình thành và phát triển của công ty 1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty Giống vật tư Nông lâm nghiệp Tuyên Quang là một doanh nghiệp nhà nước, được thành lập theo quyết định số 448 ngày 29/6/1995 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh. Công ty được thành lập trên cơ sở sát nhập 2 doanh nghiệp: - Công ty giống vật tư cây trồng. - Công ty giống thức ăn gia súc. Trụ sở của Công ty: Tổ 7 phường Tân Quang - thị xã Tuyên Quang là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản tại Ngân hàng, có con dấu riêng. Công ty hoạt động theo kế hoạch và định hướng của nhà nước, đồng thời thực hiện chế độ tự chủ trong kinh doanh, lấy thu nhập bù đắp chi phí và có lợi nhuận. Vốn và tài sản của doanh nghiệp được hình thành chủ yếu từ các nguồn: Ngân sách nhà nước, nguồn vốn viện trợ và nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung. Giám đốc doanh nghiệp do nhà nước bổ nhiệm, phải chịu trách nhiệm trước nhà nước và doanh nghiệp bảo vệ và phát triển vốn - tài sản được giao theo quyết định hiện hành của nhà nước. Nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là: - Tổ chức mạng lưới cung ứng vật tư nông nghiệp bao gồm: Giống cây, con, phân bón, thuốc trừ sâu, nông cụ, thức ăn gia súc, vật tư chăn nuôi thú y… từ tỉnh đến các huyện, các xã và dịch vụ tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp cho nông dân. - Sản xuất giữ và nhân các giống đầu dòng, nguyên chủng, cấp I của cây trồng vật nuôi và thực hiện chủ chương của tỉnh về sản xuất, cung ứng giống cây, con. - Tiếp thu tiến bộ kỹ thuật, tổ chức mạng lưới liên kết và hướng dẫn kỹ thuật để nhân nhanh các giống cây con tại chỗ phục vụ sản xuất đại trà. - Sản xuất chế biến các loại thức ăn gia súc, một số loại phân bón theo yêu cầu sản xuất nông lâm nghiệp của địa phương. - Tiếp thu và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để phục vụ cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ của công ty. - Bảo toàn và phát triển vốn được giao, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho công nhân viên, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật. Trong những ngày đâu thành lập hoạt động Công ty chủ yếu chỉ cung ứng giống cây trồng và phân bón cây trồng.Sau đó đên ngày 15/03/1996 UBND tỉnh ra quyết định số 190- QĐ/UB về việc chuyển chức năng cung ứng thuốc bảo vệ thực vật từ chi cục thú y sang Công ty Giống vật tư Nông lâm nghiệp Tuyên Quang. Cho đến thời điểm ngày 01/01/2005 tổng sô vốn kinh doanh của công ty là 96.350.936.070 đồng, doanh thu hàng năm trên dưới 50 tỷ đồng. Từ khi được thành lập đến nay Công ty không ngừng lớn mạnh và đã tự khẳng định chỗ đứng của mình, không ngừng khắc phục khó khăn gian khổ thiếu thốn về nhiều mặt để hoàn thành chỉ tiêu nhà nước giao, mọi hoạt động kinh doanh của Công ty có hiệu quả, bộ máy tổ chức ngày càng được hoàn thiện, đội ngũ cán bộ chuyên môn có nghiệp vụ ngày càng cao, cán bộ công nhân viên đều có việc làm, có thu nhập ổn định. 2. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh 2.1. Đặc điểm tổ chức sản xuất Là doanh nghiệp nhà nước duy nhất đảm nhận dịch vụ cung ứng giống vật tư phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp cuả tỉnh, nên địa bàn hoạt động của công ty nằm phân tán ở các huyện. Để thực hiện nhiệm vụ sản xuất công ty tổ chức hai trại sản xuất và 5 trạm giống vật tư được phân tán ở các huyện để cung ứng giống vật tư phục vụ tận nơi cho nhân dân sử dụng sản xuất. Nhiệm vụ chính của các trại và các trạm như sau: + Trại sản xuất giống cây trồng Đồng Thắm: Chọn lọc, sản xuất giữ và nhân các giống lúa, giống ngô đầu dòng, nguyên chủng và các giống cây trồng khác như: lạc, đậu tương … liên kết với các cơ sở để sản xuất các giống nguyên chủng, cấp I theo kế hoạch của Công ty, thực hiện chặt chẽ quy trình kỹ thuật sản xuất đảm bảo giống sản xuất ra đạt tiêu chuẩn chất lượng quy định. + Trại gia súc Nông Tiến: Chọn lọc, nhân giống và cung cấp các giống vật nuôi, tổ chức mạng lưới, hướng dẫn kỹ thuật để nhân các giống vật nuôi phù hợp với các vùng dân cư, tận dụng năng lực, chuồng trại, cơ sở vật chất hiện có để phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. + Các trạm giống vật tư huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hoá, Hàm Yên, Na Hang có nhiệm vụ cung ứng giống và các loại vật tư như: phân bón, thuốc trừ sâu, dụng cụ sản xuất để bà con nhân dân phục vụ sản xuất. 2.2. Tổ chức bộ máy quản lý của doanh nghiệp Tổ chức bộ máy quản lý của công ty theo chế độ một thủ trưởng, không thành lập hội đồng quản trị mà thành lập hội đồng xí nghiệp do tập thể công nhân viên chức trong doanh nghiệp bầu ra. Sơ đồ tổ chức Công ty Giống vật tư NLN Tuyên Quang: - Đứng đầu bộ máy quản lý là Giám đốc Công ty, là người giữ vai trò chủ đạo chung, chịu trách nhiệm trước Nhà nước và tập thể lao động và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, đồng thời là người đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.Trong sản xuất kinh doanh chỉ có Giám đốc mới đủ tư cách ký kết hợp đồng kinh tế và chịu trách nhiệm về hợp đồng kinh tế đã ký kết. - Giám đốc được quyền lựa chọn, đề nghị cấp trên bổ nhiệm Phó Giám đốc, Kế toán trưởng có thể quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh Trưởng phòng, Phó phòng ban trạm, trại và kế toán các trạm, trại thuộc Công ty. - Phó Giám đốc là người giúp việc Giám đốc và thay mặt giám đốc giải quyết các công việc khi được ủy quyền. - Hội đồng xí nghiệp là cơ quan thường trực đại diện cho quyền làm chủ tập thể của công nhân viên chức, được tham gia với giám đốc trong việc lựa chọn, đào tạo, bố trí, sử dụng, khen thưởng và kỷ luật cán bộ quản lý trong doanh nghiệp. - Hội đồng xí nghiệp có quyền kiến nghị với Giám đốc doanh nghiệp các biện pháp cần thiết để thực hiện nghị quyết đại hội công nhân viên chức, các giải pháp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và vốn để phân phối thu nhập của tập thể lao động, nhưng không can thiệp vào công việc điều hành cụ thẻe của Giám đốc doanh nghiệp. - Các trạm huyện thị và cửa hàng gồm có: + Trạm Sơn Dương + Trạm Yên Sơn + Trạm Hàm Yên + Trạm Chiêm Hoá + Trạm Na Hang + Cửa hàng thị xã. Các trạm và cửa hàng có chức năng phục vụ các loại giống, vật tư phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. - Các phòng ban chức năng bao gồm: - Phòng Tổ chức Hành chính: Chịu sự quản lý và chỉ đạo trực tiếp từ Giám đốc. Phòng vừa có chức năng tham mưu, vừa trực tiếp giúp giám đốc chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao. Ngoài ra còn phụ trách công tác hành chính trong doanh nghiệp, quản lý hồ sơ cán bộ công nhân viên chức, tham gia xây dựng kế hoạch chi trả tiền lương trong doanh nghiệp. - Phòng Kế toán thống kê: Đặt dưới sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của Giám đốc, có nhiệm vụ tổng hợp kế hoạch sản xuất kinh doanh hạch toán kế toán, tính toán kết quả hoạt động kinh doanh, xây dựng kế hoạch tài chính của Công ty. - Phòng kho vận: Có nhiệm vụ tiếp nhận hàng hoá, quản lý kho hàng, phương tiện vận tải để chủ động vận chuyển, đảm bảo an toàn, kịp thời cho vật tư, hàng hoá đến nơi tiêu thụ theo phương thức giao khoán trên cơ sở các định mức kinh tế, kỹ thuật. Đồng thời tổ chức khai thác hàng hoá, vận chuyển 2 chiều để sử dụng hết công suất, phương tiện và tăng thu nhập cho công ty. - Phòng Kinh doanh: Có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty hàng tháng, quý, năm. Đồng thời có nhiệm vụ tham mưu giúp giám đốc quản lý, chỉ đạo kỹ thuật sản xuất theo các chuyên ngành chăn nuôi, trồng trọt, nắm bắt tiến bộ kỹ thuật đã đạt được để lập kế hoạch nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về cây giống để phục vụ cho sản xuất kinh doanh của công ty. 2.3. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của doanh nghiệp a. Đặc điểm bộ máy kế toán. Bộ máy kế toán của công ty giống vật tư NLN Tuyên Quang được tổ chức theo hình thức nửa tập trung, nửa phân tán. Hình thức này tạo điều kiện để kiểm tra, chỉ đạo nghiệp vụ và đảm bảo sự lãnh đạo của kế toán trưởng cũng như sự chỉ đạo của lãnh đạo công ty. Theo hình thức này thì toàn bộ công tác kế toán tập trung tại công ty, các đơn vị, các trại, cửa hàng hạch toán báo sổ trên cơ sở chỉ tiêu, định mức khoán. Phòng Kế toán của Công ty tiến hành nhận chứng từ của các đơn vị phụ thuộc gửi về để ghi sổ kế toán và lập báo cáo kế toán toàn Công ty. - Một kế toán trưởng kiêm trưởng phòng trực tiếp theo dõi giá thành sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ, chi phí lưu thông và các chi phí khác có trách nhiệm tổ chức công tác kế toán thống kê phù hợp với bộ máy tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, tổ chức ghi chép, tính toán, phản ánh chính xác, trung thực, kịp thời, đầy đủ toàn bộ tài sản và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra còn có nhiệm vụ tập hợp các khoản chi phí giá thành sản phẩm, phương thức tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá hoàn thành đối chiếu với kế hoạch tổng dự toán các phương thức tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá để xác định kết quả sản xuất kinh doanh. - Một kế toán tổng hợp: Có nhiệm vụ theo dõi tiền lương và BHXH, tổng hợp tài liệu của các bộ phận kế toán, lập báo cáo định kỳ. - Một kế toán công nợ: Có trách nhiệm với các khoản phải thu và phải trả khách hàng. - Một kế toán vốn bằng tiền: Lập các phiếu thu, chi, theo dõi các khoản tạm ứng và hoàn tạm ứng. Kiểm tra tích hợp pháp của chứng từ chi tiêu trước khi làm thủ tục thanh toán, lưu trữ. - Một kế toán kho hàng: Có nhiệm vụ theo dõi việc nhập, xuất của vật tư, hàng hoá hàng ngày, tính toán số tồn kho và lập các báo cáo về vật tư, hàng hoá. - Một kế toán TSCĐ: Ghi chép, phản ánh chính xác, kịp thời về số lượng, hiện trạng của TSCĐ, giám sát chặt chẽ việc mua sắm, đầu tư, sử dụng, bảo quản TSCĐ, tính toán và phân bổ khấu hao một cách chính xác. - Một thủ quỹ: Có nhiệm vụ thu, chi, bảo quản tiền mặt của Công ty. - Năm kế toán phụ trách ở các trạm giống vật tư huyện, có nhiệm vụ theo dõi toàn bộ vật tư, hàng hoá ở cơ sở và báo lên phòng kế toán trung tâm. b. Hình thức kế toán áp dụng tại doanh nghiệp. Để phục vụ cho yêu cầu quản trị của đơn vị hiện nay công ty đang áp dụng hình thức kế toán chứng từ ghi sổ. - Phương pháp kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. - Tính giá hàng xuất kho theo phương pháp nhập trước xuất trước. - Kỳ hạch toán là hàng tháng. - Niên độ kế toán là một năm dương lịch (từ 01/01-31/12 hàng năm). - Nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. * Hệ thống các tài khoản của Công ty: Hiện nay Công ty đang áp dụng chế độ kế toán theo hệ thống tài khoản kế toán ban hành theo quyết định số 1141/TC-QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. * Hệ thống sổ kế toán: - Sổ kế toán tổng hợp bao gồm sổ đăng ký chứng từ ghi sổ và sổ cái tài khoản. - Sổ kế toán chi tiết: Kế toán chi tiết TSCĐ, vật liệu, thành phẩm, các bảng phân bổ tiền lương và BHXH… Nhiệm vụ của phòng Kế toán trung tâm là theo dõi kiểm tra tất cả mọi hoạt động kinh tế phát sinh về vấn đề tài chính trong toàn Công ty, thực hiện nghiêm túc theo các phần hành đã được phân công, điều tra chỉnh lý các hoá đơn thu thập được làm căn cứ để hạch toán giúp kế toán ở các huyện thị lập báo cáo theo hình thức báo sổ gửi về công ty vào cuối tháng. Nhiệm vụ của kế toán ở các trạm giống vật tư là thu thập, chỉnh lý mọi hoạt động tại đơn vị cơ sở, giúp trưởng trại quản lý toàn bộ tài sản, hàng hoá của công ty ở các tuyến huyện thị, cuối tháng gửi báo cáo tổng hợp theo hình thức báo sổ gửi về công ty. Báo cáo chỉ gửi chậm nhất vào ngày 07 tháng sau. Nếu kế toán ở các huyện thị gửi báo cáo chậm quá thời hạn sẽ bị lập biên bản và nếu tái phạm 3 lần thì tự xin nghỉ việc. Nhiệm vụ của kế toán tiêu thụ tại Công ty. - Tổ chức theo dõi, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời và giám sát chặt chẽ về tình hình hiện có và sự biến động (nhập, xuất) của từng loại thành phẩm, hàng hoá trên cả hai mặt hiện vật và giá trị. - Theo dõi, phản ánh kịp thời và giám sát chặt chẽ quá trình tiêu thụ, ghi chép kịp thời các khoản chi phí bán hàng, chi phí từ hoạt động tài chính, các khoản doanh thu bán hàng… - Tham gia kiểm kê hay kiểm tra định kỳ hoặc bất thường tình hình thu chi ở các trạm, trại trực thuộc. - Hướng dẫn kiểm tra các bộ phận, các đơn vị trực thuộc trong công ty, thực hiện đầy đủ chế độ ghi chép, theo dõi tình hình tiêu thụ thành phẩm, hàng hoá. Mở sổ, thẻ kế toán cần thiết và hạch toán tiêu thụ thành phẩm, hàng hoá theo đúng chế độ nhà nước quy định. 3. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật ảnh hưởng tới việc huy động vốn lưu động và tình hình sử dụng vốn lưu động tại công ty Công ty Giống vật tư NLN Tuyên Quang được thành lập ngày 29/06/1995 nhưng đếnm đầu năm 1996 công ty mới ổn định về mặt tổ chức, quản lý, tổ chức mạng lưới bán hàng, con người và phương hướng cụ thể cho hoạt động sản xuất kinh doanh để từng bước phát triển đi lên. Công ty đã xây dựng phương hướng kinh doanh cụ thể là : - Kinh doanh giống cây trồng, giống vật nuôi và vật tư phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp. - Kết hợp kinh doanh dịch vụ cho thuê cửa hàng và kho. Do đặc thù hoạt động sản xuất của công ty là cung cấp giống vật tư phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp nên việc kinh doanh của công ty không được ổn định, chịu ảnh hưởng nhiều vào tính mùa vụ trong sản xuất và những biến động trên thị trường, những nhân tố này đã ảnh hưởng lớn đến doanh số kinh doanh của công ty. Tình hình kinh tế xã hội những năm vùa qua không thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là với công ty. Thương mại, tốc độ phát triển xã hội có biểu hiện chậm lại, sức mua trong dân giảm. Đặc biệt do ảnh hưởng của nạn dịch cúm gia cầm đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Hoạt động kinh doanh của Công ty giống vật tư nông lâm nghiệp chủ yếu là kinh doanh về con giống và vật tư phục vụ sản xuất trong lĩnh vực nông lâm nghiệp cho nên dưới tác động của dịch cúm gia cầm làm cho doanh số của công ty giảm. Bên cạnh đó phần vốn huy động của công ty cũng còn hạn chế, do vậy công ty chưa có được tỷ lệ thị phần cung cấp giống vật tư nông lâm nghiệp trên thị trường phía Bắc. Do vậy có phần hiệu quả kinh doanh chưa cao chỉ mang tính chất giải quyết công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Vì đặc thù hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty là cung cấp giống cây trồng, giống vật nuôi và vật tư cho sản xuất nông lâm nghiệp nên lượng vốn lưu động đòi hỏi rất lớn và lượng hàng hoá dự trữ trong kho cũng nhiều. Điều này đòi hỏi Công ty phải có một kế hoạch, phương án dự trữ hàng hoá hợp lý theo mùa vụ, tránh tồn đọng dẫn tới hao hụt, hư hỏng… 4. Một số kết quả đạt được trong sản xuất kinh doanh của Công ty Công ty Giống vật tư Nông lâm nghiệp Tuyên Quang là doanh nghiệp duy nhất cung ứng giống cây trồng, vật nuôi, thức ăn gia súc, các loại phân bón, thuốc trừ sâu… để phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp trong toàn tỉnh. Từ khi được thành lập đến nay Công ty đã không ngừng lớn mạnh và khẳng định chổ đứng của mình, không ngừng khắc phục khó khăn, gian khổ, thiếu thốn về nhiều mặt để hoàn thành chỉ tiêu được Nhà nước giao. Mọi hoạt động kinh doanh của công ty đều hiệu quả cao. Do đó hoạt động kinh doanh đạt được kết quả ngày càng tăng. Điều đó thể hiện qua một số kết quả dưới đây: Kết quả kinh doanh của công ty đạt được trong 3 năm ĐVT: Triệu đồng Năm 2003 2004 2005 So sánh 04 - 03 So sánh 05 - 04 (±) (%) (±) (%) Doanh thu 41.781,7 49.583,6 52.074,8 7.801,9 118,41 2.491,2 105,02 Lợi nhuận 4.009,9 3.813,4 5.736,6 - 196,5 95,09 1.923,2 150,43 Nộp ngân sách 820,7 768,2 965,4 - 52,5 93,63 197,2 125,67 TN bình quân 0,440 0,627 0,634 0,187 142,5 0,007 101,10 (Nguồn: Kế toán - Tài chính Công ty giống vật tư NLN Tuyên Quang) +Qua bảng trên ta thấy doanh thu của công ty tăng mạnh, lợi nhuận tăng nhanh và thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên tăng ổn định. + Dựa vào số liệu trên ta thấy doanh thu năm 2004 so với năm 2003 tăng 7.801,9(tr.đồng), tức tăng 18,41%. Doanh thu năm 2005 so với năm 2004 tăng 2.491,2(tr.đồng), tức tăng 5,02%. + Lợi nhuận năm 2004 so với năm 2003 giảm 196,5(tr.đồng), tức giảm 4,1%, nhưng sang năm 2005 thì lợi nhuận của công ty lại tăng đáng kể, tăng 1.923,2(tr.đồng), tức tăng 50,43% so với năm 2004. + Thu nhập của cán bộ công nhân viên trong công ty ngày càng tăng cụ thể năm 2004 tăng so với năm 2003 tăng 187.000đ/tháng/người, tức tăng 42,5%. Năm 2005 so với năm 2004 tăng 7000đ/tháng/người, tức tăng 1,1%. + Các khoản phải nộp ngân sách nhà nước khá nhiều, năm 2003 là 820,7(tr.đồng), năm 2004 giảm đi còn 768,2(tr.đồng), nhưng đến năm 2005 lại tăng lên là 965,4 (tr.đồng), tức là tăng 25,67% so với năm 2004. Điều này chứng tỏ tuy công ty có sự giảm sút lợi nhuận trong năm 2004 nhưng với sụ cố gắng của tập thể ban lãnh đạo công ty và sự đồng tâm của cán bộ công nhân viên trong công ty nên sang năm 2005 đã tăng đáng kể khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước. Để đạt được kết quả như trên Công ty đã vượt qua mọi khó khăn vươn lên về mọi mặt và luôn tìm ra những giải pháp mới để Cồng ty tồn tại và phát triển, lấy thu nhập bù đắp chi phí và đảm bảo có lãi, đem lại thu nhập ngày càng tăng cho cán bộ công nhân viên, tăng tích luỹ, bổ sung nguồn vốn, thực hiện đầy đũ nghĩa vụ với nhà nước. Cụ thể là : - Công ty được lãnh đạo đúng đắn của Ban giám đốc công ty và các phòng chức nămg về thụ tục vay vốn kinh doanh, hỗ trự hàng hoá và chỉ đạo kịp thời trong suốt cả năm 2005. - Công ty đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của con người, cơ sở vật chất, tài sản, địa bàn kinh doanh. Trong quá trình hoạt động kinh doanh vừa đảm bảo nguyên tắc chặt chẽ vừa dần mở rộng kinh doanh trên cơ sở nắm vững thị trường và mặt hàng kinh doanh sẵn có. Xác định rõ sức mạnh tổng hợp song phải lấy con người làm chính doanh nghiệp của nhà nước. - Ban giám đốc cùng cán bộ công nhân viên đã đề ra phương hướng kinh doanh đúng đắn, kinh doanh giống vật tư phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp kết hợp với kinh doanh dịch vụ. Trong kinh doanh kết hợp việc cung cấp các loại giống vật tư nông lâm nghiệp với việc mở rộng kinh doanh dich vụ làm cho vòng quay của vốn nhanh hơn, nâng cao hiệu quả của đồng vốn cũng như tài sản được giao. - Trong kinh doanh chu yếu lấy bán buốn là chính, kết hợp hàng đi thẳng không qua kho, đồng thời có sự dự trữ hợp lý trong mùa vụ như các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc chữa bệnh gia súc gia cầm. II. Thực trạng về tình hình quản lý tài chính ngắn hạn của công ty giống vật tư nln tuyên quang Để đánh giá thực trạng quản lý TS lưu động trước hết ta cần tìm hiểu rõ về các số liệu phản ánh quy mô và cơ cấu TS lưu động, nó sẽ giúp ta dễ dàng xem xét và đánh giá các chỉ tiêu về hiệu quả quản lý TS lưu động. Bảng 7 dưới đây chính là nhằm mục đích ấy. Bảng 7: Cơ cấu tài sản lưu động Đơn vị: triệu đồng Tên chỉ tiêu 2003 2004 2005 Trị giá % Trị giá % Trị giá % Tài sản lưu động 44419 100 52668 100 67170 100 Tiền mặt 4568 10,28 5727 10,8 6568 9.7 Hàng tồn kho 31659 71,2 37190 70,6 43349 64,5 Đầu tư ngắn hạn 0 0 0 0 0 0 Phải thu 5482 12,4 6286 11,9 13096 19,4 Tài sản lưuđộng khác 2764 6,2 3493 6,6 4133 6,1 Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính 1.Quản lý dự trữ Công ty Giống vật tư NLN Tuyên Quang là một doanh nghiệp kinh doanh về giống vật tư phục vụ sản xuất nông lam nghiệpduy trì hệ hệ thống kho bãi, vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình, công ty thực hiện phương thức giao hàng trực và gián tiếpDo đó, hàng tồn kho của công ty co’ tỷ rọng khá lớn. Đối với hàng tồn kho, các chi phí về kho bãi hoàn toàn do người đặt hàng chịu, không tính trong giá hàng vốn hàng bán. Chi phí dự trữ do đó là không đáng kể. Hơn nữa, các phòng nghiệp vụ hoạt động riêng rẽ, mỗi phòng đều có khách hàng riêng, tự quản lý riêng về hoạt động của mình do đó việc quản lý dự trữ nhìn chung không được chú trọng. Việc duy trì mức tồn kho nói chung mang tính ngẫu nhiên vì vậy qua bảng dưới đây ta thấy lượng hàng tồn kho của công ty là không ổn định khi cao nhất vào năm 2003 đạt tới 71,2% nhưng khi thấp nhất - năm 2005 đạt64,5% so với tổng tài sản lưu động, tức là vãn còn rất cao. Để nắm rõ được mức dự trữ mà công ty duy trì có ảnh hưởng gì tới hoạt động của công ty, đặc biệt là khả năng thanh toán, chúng ta cần xem xét chỉ tiêu trong bảng dưới đây: Bảng 8: Vòng quay hàng tồn kho Đơn vị: triệu đồng Tên chỉ tiêu 2003 2004 2005 So sánh 2004/2003 2005/2004 + % + % Doanh thu thuần (1) 47781 49583 52074 1802 1038 2491 105 Hàng tồn kho (2) 31659 37190 43349 5531 117,4 5531 116 Vòng quay hàng tồn kho (vòng) = (1)/(2) 1,5092 1,3332 1,2012 -0,1760 -88,3 -0,176 -90 Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính Qua bảng trên ta thấy vòng quay hàng tồn kho của công ty không ổn định trong ba năm chúng ta đã thấy sự giảm sút đáng ngạc nhiên của chỉ tiêu này từ 1,509 vòng vào năm 2003 đã giảm sút nhanh chóng xuống 1,3332 vòng vào năm 2004 - giảm 88%, đến năm 2005chỉ tiêu này lại giảm sút tệ hại hơn lúc này hàng tồn kho chỉ chu chuyển 1,20 vòng một năm -giảm 90%. Năm 2003 có thể coi là chuẩn mực trong việc tiêu thụ hàng tồn kho đây là con số rất tốt hiếm có doanh nghiệp naò đạt được song rất tiếc là Công ty lại không duy trì được điều này tệ hơn nữa chỉ tiêu này không những giảm mà còn trở nên quá xấu không thể chấp nhận được nghuyên nhân chính là do trị giá hàng tồn kho ngày càng tăng nhanh - năm 2004 tăng 117% so với năm 2003 còn năm 2005 lại tăng 116% trong khi đó doanh thu tăng không đáng kể. năm 2000 doanh thu thuần tăng3,8% đến năm 2005 chỉ số này có tăng lên 5% song không đáng kể và không thể ngăn được hiện tượng vòng quay hàng tồn kho ngày càng nhỏ. Không nghi ngờ gì nữa, tình hình này chứng tỏ công ty không mấy nỗ lực trong việc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, quan trọng hơn nữa là Công ty chỉ chủ yếu tiêu thụ theo phương thức uỷ thác, mọi hàng hóa mua về đều dựa theo hợp đồng nên vòng quay hàng tồn kho như vậy là không thể chấp nhận được ngoài ra vì là doanh nghiệp thương mại nên Công ty nhủ yếu kinh doanh bằng vốn đi vay theo hình thức vay theo hợp đồng nên việc chậm tiêu thụ hàng hoá cũng có nghĩa là khoản lãi phải trả ngân hàng tăng theo đẩy chi phí lên và làm giảm lợi nhuận của công ty. Điều này đòi hỏi công ty phải ra sức mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá nhằm đẩy doanh thu thuần lên và giảm lượng hàng tồn kho xuống để có vòng quay hàng tồn kho cao hơn. 2.Quản lý các khoản phải thu Các khoản phải thu của khách hàng chính là khoản tín dụng thương mại mà công ty cấp cho khách hàng trong một thời gian nhất định vì là một khoản tín dụng nên nó có rủi ro không thu hồi được và đồng thời cũng mang lại cho doanh nghiệp một khoản lãi đáng kể và những lợi ích khác như tăng mức tiêu thụ hàng hoá, tăng uy tín với khách hàng. Chính vì vậy mà ta phải quản lý và theo dõi kỹ tài sản lưu động này. Công ty giống vật tư NLN Tuyên Quang là một công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh giống vật tư phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp của toàn tỉnh được hơn 10 năm, do vậy khách hàng của công ty chủ yếu là các khách hàng truyền thống. có mối quan hệ làm ăn lâu dài. Để có thể cấp tín dụng thương mại cho các khách hàng này, công ty thực hiện phân tích các Báo cáo tài chính và lịch sử thanh toán của khách hàng, các phân tích nhìn chung là đơn giản và việc cấp tín dụng thương mại chủ yếu dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau. Tất cả các khoản phải thu đều được theo dõi trên sổ sách kế toán theo trình tự thời gian cuối năm công ty tiến hành lập bảng Phải thu - Phải trả và đối chiếu công nợ. Nhìn chung hoạt động quản lý của công ty còn đơn giản và chưa được chú trọng đúng mức. Như ta đã thấy trên Bảng 7 các khoản phải thu năm 2003 chiếm 12,4chủ yếu là các khoản phải thu nội bộ và phải thu khách hàng, song đến năm 2004 tỷ trọng này giảm xuống còn 11,9%. Điều này có nghĩa là công ty đã tiến hành những biện pháp thu hồi nợ nội bộ một cách khá triệt để nhưng lại không chú trọng thu hồi các khoản phải thu của khách hàng thậm chí còn gia tăng cấp tín dụng cho khách hàng điều này sẽ đẩy công ty đến một tình huống đầy mạo hiểm vì đây là khoản phải thu có rủi ro cao nhất của doanh nghiệp. Sang năm 2005 tình trạng này vẫn tiếp diễn , tỷ trọng của các khoản phải thu trong tổng tài sản lưu động xuống là 19,4%. Ta có thể kết luận rằng trong các năm qua tỷ lệ phải thu của doanh nghiệp là khá cao đặc biệt là phải thu khách hàng điều này làm vốn bị ứ đọng trong khâu lưu thông và kéo dài quá trình tiêu thụ sản phẩm, công ty bị khách hàng chiếm dụng vốn. Với tỷ lệ vốn bị chiếm dụng cao như hiện nay thì công ty cần phải đẩy nhanh tiến trình thu hồi nợ đồng thời tìm hiểu khách hàng kỹ hơn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32706.doc
Tài liệu liên quan