Giải pháp phát triển tín dụng dành cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội

Mục lục Lời mở đầu Chương 1: các vấn đề lý thuyết về tín dụng ngân hàng dành cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1. Tín dụng Ngân hàng 1.1.1. Khái niệm 1.1.2. Đặc điểm 1.1.3. ưu điểm và hạn chế của tín dụng ngân hàng 1.2. Vị trí và vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 1.2.1. Khái niệm 1.2.2. Đặc điểm 1.2.3. Vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường 1.2.4. Điều kiện để phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường 1.3

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển tín dụng dành cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.3.1. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế 1.3.2. Các hình thức tín dụng Ngân hàng cấp cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.3.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 1.4. Các nhân tố tác động đến tín dụng Ngân hàng dành cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.4.1. Các nhân tố chủ quan 1.4.2. Các nhân tố khách quan Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội 2.1. Lịch sử hình thành và quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Quân đội 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Quân đội 2.2. Hoạt động của Ngân hàng Quân đội trong những năm qua 2.2.1. Hoạt động huy động vốn 2.2.2. Hoạt động sử dụng vốn 2.2.3. Các hoạt động khác 2.3. Thực trạng hoạt động tín dụng cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Quân đội 2.3.1. Điều kiện vay vốn và quy trình cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Quân đội 2.3.2. Thực trạng hoạt động tín dụng cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.4. Đánh giá kết quả hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội 2.4.1. Những thành tựu đã đạt được 2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân Chương 3: Giải pháp phát triển tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội 3.1. Chủ trương phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ của thành phố Hà Nội 3.2. Định hướng phát triển tín dụng đối với Doanh nghiêpj vừa và nhỏ của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội 3.3. Một số giải pháp phát triển tín dụng cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội 3.3.1. Tổ chức tốt công tác huy động vốn 3.3.2. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng 3.3.3. Hoàn thiện qui trình nghiệp vụ cho vay 3.3.4. Các chính sách về lãi suất vay 3.3.5. Đa dạng hoá phương thức cho vay 3.3.6. Thực hiện tốt cơ chế bảo đảm tín dụng và trích lập dự phòng rủi ro 3.3.7. Đẩy mạnh hoạt động Markettinh 3.3.8. Nâng cao hoạt động kiểm tra, kiểm soát trước và sau khi cho vay 3.3.9. Củng cố nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng 3.4. Một số kiến nghị 3.4.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 3.4.2. Kiến nghị với Ngân hàng Quân đội 3.4.3. Kiến nghị với chính quyền Thành phố Kết luận: Tài liệu tham khảo: Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của chuyên đề: Trong nền kinh tế hiện nay, các DNVVN là một tế bào không thể thiếu bởi nó ngày càng tạo ra nhiều của cải đóng góp cho xã hội. Kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới cho thấy việc phát triển DNVVN sẽ tạo điều kiện khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, nguồn công nghệ... Tạo ra nhiều của cải vật chất, phân phối lưu thông giúp nền kinh tế ổn định, đứng vững khi mà chu kì khủng khoảng và suy thoái trên thế giới đang ngày càng có xu hướng ngắn lại. Những nước có nền kinh tế phát triển mạnh thì tỉ lệ DNVVN chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp. Cụ thể như ở Mỹ, DNVVN chiếm 90% tổng số hãng kinh doanh có thuê công nhân, thu hút 52% lao động, chiếm 31% kim nghạch xuất khẩu hàng hoá (năm 2005). Còn ở Nhật theo số liệu năm 1998 DNVVN chiếm 99.7% tổng số doanh nghiệp cả nước, sử dụng 70% lao động, tạo ra 40% doanh thu và 60% giá trị gia tăng toàn khu vực nông nghiệp... Như vậy loại hình DNVVN đã rất phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới, ở Việt Nam trước đây loại hình doanh nghiệp này chưa thực sự được đầu tư quan tâm. Nhưng trước nhu cầu phát triển của đất nước cũng như quá trình hội nhập với trong khu vực và trên thế giới thì vai trò của DNVVN đã phát huy tác dụng. Nhận thức được tầm quan trọng đó Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tạo điều kiện cho DNVVN phát triển. Hiện nay nước ta có khoảng 96% DNVVN trong tổng số các doanh nghiệp và hàng năm các doanh nghiệp này đóng góp khoảng 25% GDP cho ngân sách Nhà Nước, thu hút một lực lượng lao động đáng kể, tạo công ăn việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác những tiềm năng trong dân chúng. Với đường lối đổi mới kinh tế và định hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhất là DNVVN. Do xuất phát điểm của nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu thị trường vốn kém phát triển nên gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các nguồn vốn mở rộng phát triển sản xuất. Bên cạnh đó nhiều DNVVN chưa đủ uy tín để vay vốn, lại chưa có chính sách hỗ trợ hợp lý cho các doanh nghiệp này. Vì thế Nhà Nước cũng như bản thân các doanh nghiệp phải tìm ra những giải pháp thích hợp để đẩy lùi khó khăn. Một trong những yếu tố đầu tiên để cho DNVVN phát triển là nhu cầu vốn, ngoài nguồn vốn tự có nhỏ bé doanh nghiệp cần được hỗ trợ từ các nguồn bên ngoài nhất là nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng. Nhưng có một thực tế là có những doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng song lại sử dụng không có hiệu quả, vì thế mà việc tìm ra giải pháp tín dụng đối với DNVVN đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay, sau một thời gian tìm hiểu về Ngân hàng TMCP Quân đội em đã chọn chuyên đề: ‘‘Giải pháp phát triển tín dụng dành cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội ” 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là đánh giá một cách tổng quát thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN tại Hà Nội và hoạt động đầu tư tín dụng của NHTMCP Quân đội cho loại hình doanh nghiệp này. Đồng thời chuyên đề cũng đưa ra một số giải pháp tín dụng nhằm góp phần phát triển DNVVN trên địa bàn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động tín dụng cho các DNVVN của NHTMCPQĐ, phạm vi nghiên cứu và số liệu thu thập từ NHTMCP Quân đội trong thời gian năm 2005, 2006, 2007. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và giải thích thực tiễn như: phương pháp so sánh, thống kê các số liệu lịch sử, phương pháp phân tích hoạt động kinh tế. 5. Kết cấu chuyên đề Tên chuyên đề: “Giải pháp phát triển tín dụng dành cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Quân đội” - Phần mở đầu - Phần nội dung. Trong phần nội dung gồm có 3 chương: Chương 1: Các vấn đề lý thuyết về tín dụng Ngân hàng dành cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Quân đội. Chương 3: Giải pháp phát triển tín dụng cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Quân đội . Phần kết luận Chương 1: Các vấn đề lý thuyết về tín dụng ngân hàng dành cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1. Tín dụng ngân hàng: 1.1.1. Khái niệm: Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng được coi là hình thức tín dụng phát triển, giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tín dụng. Đối với ngân hàng thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chính yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. ở đây, ngân hàng thực hiện chức năng môi giới tài chính: nhận tiền ký gửi của cá nhân, các tổ chức kinh tế này đem cho cá nhân, các tổ chức kinh tế vay. Như vậy, các quan hệ kinh tế phát sinh trong loại hình tín dụng này gắn liền với quá trình tạo lập quỹ tiền tệ từ các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi và sử dụng quỹ để đáp ứng cho nhu cầu nguồn tài chính tạm thời thiếu trong xã hội. Và trong các quan hệ tín dụng ngân hàng phát sinh có một chủ thể đặc biệt khác với các hình thức tín dụng khác, đó là các ngân hàng. Vậy có thể hiểu: Tín dụng ngân hàng là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát sinh giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc của tín dụng. 1.1.2. Đặc điểm: Tín dụng ngân hàng huy động vốn và cho vay đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ. Trên thực tế, nếu căn cứ vào đối tượng tín dụng, người ta có thể chia tín dụng thành tín dụng hiện vật, tín dụng tiền và tín dụng hỗn hợp. Tín dụng hiện vật là loại hình tín dụng mà cho vay hay trả nợ vay đều dụng hiện vật, còn tín dụng hỗn hợp là có thể dùng cả hiện vật và tiền để cho vay và trả nợ vay. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, các ngân hàng, bằng cơ chế thích hợp, huy động các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo ra quỹ tiền tệ của mình. Đồng thời, với quỹ tiền tệ này, ngân hàng sẽ đáp ứng cho nhu cầu về nguồn tài chính trong nền kinh tế. Như vậy, tiền ở đây là công cụ thực hiện tín dụng, đó là loại tiền tín dụng hay còn gọi là công cụ lưu thông tín dụng ngân hàng. Trong tín dụng ngân hàng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay vốn. Chủ thể làm nên tính khác biệt giữa tín dụng ngân hàng và các hình thức tín dụng khác đó chính là các ngân hàng với tư cách là trung gian tài chính. Các ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay. Khi đi vay, tuy có tư cách là người mắc nợ, các ngân hàng lại là người chủ động ra điều kiện vay. Khi người cho vay chấp nhận các điều kiện do ngân hàng đưa ra thì chủ động cho vay và nhận về những giấy tờ chứng nhận nợ. Khi cho vay, với tư cách là người cho vay, ngân hàng sẽ chủ động đưa ra điều kiện cho vay, người đi vay nếu chấp nhận những điều kiện thì phải kí kết hợp đồng vay mượn và ngân hàng đôn đốc việc thực hiện hợp đồng vay mượn. 1.1.3. Ưu điểm và hàn chế của tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng có các ưu điểm trên các mặt sau: - Về khối lượng tín dụng: tín dụng ngân hàng có khả năng cung ứng những khoản vốn lớn đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay của khách hàng. Do đối tượng của tín dụng ngân hàng là tiền tệ, và các hình thức huy động phong phú nên có thể huy động tiền tệ tạm thời nhàn rỗi từ mọi chủ thể trong nền kinh tế, kể cả nguồn vốn giữa các ngân hàng với nhau. Điều đó đã tạo cho ngân hàng có khả năng tài chính lớn để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng. -Về thời hạn tín dụng: thông thường người có vốn (người tích lũy) muốn cho vay ngắn hạn hơn là cho vay dài hạn bởi vì với thời hạn ngắn thì đồng vốn ít rủi ro hơn và ít tổn thất hơn về khả năng thanh khoản, nhưng người đi vay lại luôn có nhu cầu vay dài hạn. Còn ngân hàng lại có thể “đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn”. Chính nhờ khả năng chuyển hóa thời hạn này mà ngân hàng có thể tạo điều kiện cho nhu cầu của người tích lũy và người đầu tư được đáp ứng phù hợp. - Về phạm vi tín dụng: tín dụng ngân hàng có phạm vi huy động vốn cũng như cho vay rất lớn, liên quan đến rất nhiều các chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, nó thích hợp với nhiều đối tượng xin vay cũng như cho vay. Hạn chế cơ bản của tín dụng ngân hàng là có độ rủi ro cao. Hạn chế này gắn liền với chính những ưu điểm của tín dụng ngân hàng, do việc ngân hàng có thể cho vay số tiền lớn hơn nhiều so với số vốn tự có hoặc có sự chuyển hóa thời hạn và phạm vi ứng dụng rất rộng. Những rủi ro về khả năng thu hồi vốn vay hoặc đầu tư vào dự án có lợi nhuận thấp… có nguyên nhân cơ bản là sự lựa chọn đối nghịch, hay rủi ro đạo đức. 1.2. Vị trí và vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 1.2.1. Khái niệm Doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh nghiệp là một tổ chức hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế, nhưng để đưa ra một khái niệm cụ thể về doanh nghiệp thì lại có nhiều quan điểm khác nhau. Theo DLarue-Acitlat: “doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất và là một đơn vị phân phối… doanh nghiệp là một hệ thống mở, có mục tiêu và quản lý theo hướng tạo ra lợi nhuận hùng mạnh, vĩnh cửu...” (Kinh tế nông nghiệp- NXB Khoa học kỹ thuật 1994). Còn theo Luật Doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam: ‘‘Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng kí kinh doanh theo qui đinh của pháp luật nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh” Như vậy doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức hoạt động kinh tế có tư cách pháp nhân, được thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định với mục đích thu được lợi nhuận hoặc công ích. Trong nền kinh tế thi trường có rất nhiều doanh nghiệp ta có thể phân theo một số các tiêu thức: - Theo qui mô sản xuất hoạt động: Doanh nghiệp qui mô lớn, Doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ . - Theo cấp quản lý: Doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp địa phương, Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp. - Theo ngành kinh tế kỹ thuật: Doanh nghiệp ngành công nghiệp, Doanh nghiệp ngành thương mại và dịch vụ, Doanh nghiệp ngành nông- lâm nghiệp, Doanh nghiệp ngành tài chính, Doanh nghiệp ngành phi tài chính. DNVVN là một trong số các doanh nghiệp được phân loại theo tiêu thức trên, nó đang tồn tại và phát triển rộng trong nền kinh tế thị trường. DNVVN cũng mang những đặc điểm chung giống như các loại hình doanh nghiệp khác nhưng lại có những đặc điểm riêng mà chỉ có ở những doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ. Vậy doanh nghiệp thế nào là được coi là DNVVN, tùy vào điều kiện của từng nước khác nhau thì đưa ra các khái niệm khác nhau. Nhưng để căn cứ chính xác thường phải dựa vào vốn tự có, số người lao động làm việc trong doanh nghiệp, giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp.Ví dụ như theo quan điểm của Mỹ mức lợi nhuận hàng năm dưới 150.000 USD được coi là DNVVN, theo quan điểm của Thái Lan doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến 200 lao động, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có dưới 50 lao động. Còn ở Việt Nam theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 23/11/2001 thì DNVVN được hiểu: “DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng, hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo nghị định này thì DNVVN sẽ bao gồm các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp, các hợp tác xã hoạt động theo luật Hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể. 1.2.2 Đặc điểm của DNVVN DNVVN cũng là một tổ chức kinh tế, ngoài những đặc trưng vốn có của một doanh nghiệp thì nó cũng mang những đặc trưng riêng xuất phát từ chính khái niệm của nó. Một là : Vốn tự có thấp không quá 10 tỷ đồng, chu kỳ kinh doanh ngắn nên các doanh nghiệp này có thời gian hoàn vốn ngắn hơn nhiều so với các tổ chức kinh tế có qui mô lớn. Hai là: Những DNVVN sản xuất thường không có tính ổn định trên thị trường, nên cơ cấu mặt hàng sản phẩm dịch vụ thường xuyên thay đổi và không lớn về số lượng. Ba là: Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, các mối quan hệ nội bộ dễ điều chỉnh, vì thế có tính linh hoạt cao, dễ thích ứng với biến động của nền kinh tế. Công tác điều hành mang tính trực tiếp và quan hệ giữa người quản lý và người lao động thường rất chặt chẽ. Bốn là: Ngành nghề hoạt động của DNVVN rất đa dạng và phong phú nhờ vậy mà việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp Ngân hàng phân tán rủi ro hoặc gây rủi ro nhưng biến động không nhiều đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Năm là: Tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn doanh nghiệp lớn nên hiệu suất làm việc cao hơn. Sáu là: Khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này còn thấp do hạn chế vốn, trình độ công nghệ, phương thức quản lý, khả năng tiếp cận thị trường kém. Đây chính là yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho Ngân hàng khi cho các DNVVN vay vốn. 1.2.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi các doanh nghiệp phải linh hoạt, nhạy bén thích ứng nhanh với sự biến động trên thị trường và thường các DNVVN rất dễ đáp ứng được các yêu cầu đó . Vì thế loại hình doanh nghiệp này ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhất là ở nước ta khi nhu cầu của người tiêu dùng tăng, lực lượng lao động dồi dào, môi trường kinh doanh lại đang được Đảng và Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi : - DNVVN góp phần thu hút tối đa mọi nguồn lực trong dân, giải quyết nạn thất nghiệp tạo ra sự phát triển cân đối trong nền kinh tế. Với qui mô tổ chức gọn nhẹ đa dạng nhiều ngành nghề đã thu hút được nhiều lao động, giải quyết được tình trạng thất nghiệp và tận dụng tốt sự bỏ ngỏ một số ngành kinh tế mà các doanh nghiệp lớn chưa kinh doanh hoặc không đủ sức đảm trách vì đó không phải là ngành có tầm quan trọng sống còn đối với nền kinh tế .Theo thống kê DNVVN thu hút khoảng 64,8% lực lượng lao động mỗi năm. Như vậy các DNVVN đã điều tiết phân giải lực lượng lao động trên các khu vực còn nhiều “khoảng trống”, góp phần giãn cách điều hoà nhu cầu lao động tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế. Trình độ của lực lượng lao động ở nước ta còn thấp, tiềm năng phát triển của nền kinh tế lại lớn .Vì vậy chỉ có các DNVVN mới có thể thực hiện tốt điều đó. - DNVVN tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động và cải thiện đời sống dân cư: Do có lợi thế là chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được doanh nghiệp chính điều đó thể hiện tính năng động tính linh hoạt cao, có khả năng thích ứng với nhu cầu thay đổi thường xuyên của người tiêu dùng nên DNVVN trong những năm qua phát triển khá nhanh. Đây là lực lượng đóng góp to lớn vào sự phát triển tăng trưởng của nền kinh tế tạo ra 25% GDP của cả nước mỗi năm . Đời sống của người lao động được cải thiện, kỹ thuật sản xuất của DNVVN chủ yếu là trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, chế biến nông lâm sản... nên có khả năng thu hút nhiều lao động tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội và tăng thu nhập đảm bảo đời sống cho người lao động. Trong khi các doanh nghiệp lớn kỹ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các doanh nghiệp tự động hoá làm cho số người thất nghiệp ngày càng tăng phát sinh nhiều tiêu cực xã hội. Như vậy DNVVN cũng là một nguồn thu thêm cho ngân sách Nhà nước bởi số lượng doanh nghiệp ngày càng đông , giá trị kinh tế tạo ra ngày càng nhiều, giải quyết tốt công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay của nước ta do hạn chế về vốn kỹ thuật vì vậy Nhà nước cần phải có các chính sách thích hợp tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển góp phần quan trọng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - DNVVN đáp ứng tích cực nhu cầu hàng hoá tiêu dùng của xã hội ngày càng phong phú và đa dạng, và tham gia vào quá trình lưu thông . DNVVN đáp ứng ngày càng tích cực nhu cầu hàng hoá tiêu dùng cho xã hội. Có những mặt hàng mà người tiêu dùng có nhu cầu ít, cá biệt song chất lượng, chủng loại, mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi, trong trường hợp này doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng được nhưng DNVVN do có qui mô sản xuất nhỏ nên có khả năng điều chỉnh sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Vì vậy hàng năm giá trị sản xuất của DNVVN luôn chiếm tỉ trọng khoảng hơn 50% tổng giá trị sản xuất của tổng các doanh nghiệp cả nước. Trong quá trình tái sản xuất hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng phải trải qua khâu trung gian, đó là khâu lưu thông do các cửa hàng bán buôn, bán lẻ đảm nhận. Với lợi thế sẵn có DNVVN đã thực hiện vai trò này rất tốt vì hệ thống cửa hàng kinh doanh thương mại dịch vụ vừa và nhỏ đặt ở khắp các đường phố, các khu công nghiệp, các tụ điểm dân cư có thể đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng. Có thể nói rằng DNVVN ngày càng tham gia tích cực vào các mối quan hệ kinh tế của xã hội, chiếm tỉ trọng về số lượng, giá trị sản xuất tạo ra ngày càng nhiều. Từ đó cho thấy sự quan tâm tạo điều kiện từ phía Nhà Nước, Ngân hàng về vốn, hệ thống luật, môi trường kinh doanh là rất cần thiết cho các DNVVN. - DNVVN có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương và khai thác thế mạnh tiềm năng của từng vùng: Xuất phát từ lợi thế qui mô vừa và nhỏ dễ thuận lợi cho việc thành lập ở mọi nơi nên tuỳ vào từng đặc điểm của từng loại lãnh thổ, thì có các DNVVN kinh doanh sản xuất các mặt hàng khác nhau để phục vụ người tiêu dùng và kiếm lợi nhuận cho mình từ các tiềm năng thế mạnh của vùng . Việt Nam có điều kiện tự nhiên rất đa dạng nên các DNVVN ở từng địa phương sản xuất và kinh doanh những mặt hàng cũng khác nhau. Chính nhờ đặc điểm này mà DNVVN đã tham gia tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là khu vục nông nghiệp, tạo ra sự phát triển cân đối trên toàn quốc theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. - DNVVN tạo ra môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế, thúc đẩy thị trường vốn, thị trường tín dụng phát triển. DNVVN hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực, đã tạo ra sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Phát triển DNVVN tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá dịch vụ với chất lượng cao là cơ hội thuận tiện cho người tiêu dùng lựa chọn so sánh. Như vậy chính điều này đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất là luôn phải nâng cao chất lượng sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của khách hàng làm cho nền kinh tế thị trường trở nên sôi động Sự xuất hiện của các DNVVN tạo ra một nhóm khách hàng thường xuyên cho các Ngân hàng, để sản xuất kinh doanh các DNVVN cần phải có vốn trong khi đó vốn tự có của họ nhỏ bé không đủ đáp ứng vì vậy các DN này cần phải đi vay mượn trên thị trường thương mại. Nhưng không phải lúc nào các DN bạn hàng cũng thừa vốn để cho mượn nên các DNVVN sẽ đi vay Ngân hàng. Hiện nay các DNVVN không chỉ vay vốn qua Ngân hàng mà còn thanh toán qua Ngân hàng, điều đó có nghĩa Ngân hàng vừa là người cho vay vừa là trung gian thanh toán phục vụ cho các nhà kinh doanh. Với tốc độ phát triển nhanh chóng cả về qui mô, về chất lượng các DNVVN đã tạo ra một nhu cầu lớn với Ngân hàng đó là nhu cầu về vốn, nhu cầu về thanh toán dịch vụ qua Ngân hàng. Có thể nói loại hình doanh nghiệp này là thị trường đầy triển vọng của Ngân hàng . DNVVN ngày càng đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Dù không phải là chủ đạo nhưng tiện ích của DNVVN thì lại rất lớn, không chỉ làm tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân, giải quyết việc làm cho người lao động mà còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Hiện nay, các DNVVN ở Việt Nam chưa thực sự phát triển theo đúng tiềm năng vốn có. Bởi nền kinh tế nước ta còn đang ở trong giai đoạn thấp, nhất là giai đoạn chuyển đổi kinh tế hàng hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Các DNVVN còn bộc lộ nhiều yếu kém trong quá trình hoạt động, do đó rất cần được quan tâm hỗ trợ từ các phía. 1.2.4. Điều kiện để phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường Phát triển có nghĩa là sự vật thay đổi theo chiều hướng tốt lên. Doanh nghiệp phát triển có nghĩa là doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, sản xuất ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt hơn phục vụ có ích cho xã hội. Từ đó tăng thu nhập cho người lao động, tăng tích luỹ để mở rộng sản xuất, muốn cho nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển thì quốc gia đó phải quan tâm tới mọi loại hình doanh nghiệp. Đặc biệt là loại hình DNVVN vì số lượng của nó ngày càng chiếm đại đa số trong nền kinh tế, để các DNVVN phát triển cần phải tạo các điều kiện nhất định như: - Điều kiện về vốn tài chính: Vốn là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh. Điều kiện về vốn là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển các doanh nghiệp nói chung và nhất là DNVVN. Hiện nay các DNVVN rất hạn hẹp về vốn, nguyên nhân là do qui mô hoạt động của doanh nghiệp nhỏ không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và khả năng tiếp cận nguồn vốn của Ngân hàng lại hạn chế vì không đủ tài sản thế chấp, mức lãi suất cho vay quá cao so với mức lợi nhuận thu được, thời gian cho vay ngắn... Đây là khó khăn rất lớn với cả doanh nghiệp và Ngân hàng, nếu vấn đề này được giải quyết thì đây chính là tiền đề để doanh nghiệp phát triển. - Điều kiện thị trường: Thị trường là nơi doanh nghiệp tồn tại và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng qua thị trường doanh nghiệp biết sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Thị trường được hiểu bao gồm cả thị trường yếu tố đầu vào và thị trường đầu ra của sản phẩm. Với đặc điểm và ưu thế của mình, các DNVVN nên tập trung vào những thị trường nhỏ đầu tư vào những sản phẩm hàng hoá có giá bán thấp phù hợp với yêu cầu của từng địa phương. Tuy nhiên để có thể cạnh tranh và phát triển không ngừng, các DNVVN cũng cần phải quan tâm đến thị trường các địa phương khác và vươn ra thị trường quốc tế, hướng vào những sản phẩm có chất lượng và có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự khai thác một cách tối đa thị trường trong tầm tay để từ đó phát triển ra thị trường rộng hơn, chính điều này cũng ảnh hưởng không ít tới sự phát triển của doanh nghiệp. - Điều kiện về cơ sở vật chất: Trước sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ trên thế giới, buộc các doanh nghiệp nhất là các DNVVN phải cải tiến thiết bị công nghệ cho phù hợp để nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Điều kiện thiết bị sẽ quyết định tới năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả của công tác quản lý. Các yếu tố về cơ sở hạ tầng là những điều kiện quan trọng giúp các doanh nghiệp có thêm thuận lợi trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy để có thể giúp các DNVVN thì rất cần phải quan tâm đến vấn đề này. - Điều kiện về khả năng lãnh đạo kinh doanh của chủ doanh nghiệp: Lãnh đạo doanh nghiệp là người điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, một trong những cản trở lớn đối với sự phát triển của các DNVVN là trình độ cuả người lãnh đạo bị hạn chế. Lãnh đạo doanh nghiệp phải biết thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích và đánh giá các loại thông tin kinh tế - kỹ thuật, từ đó đề ra chiến lược đúng đắn cho doanh nghiệp. Để thực hiện được các yêu cầu đó đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có trình độ kiến thức cao, năng lực quản lý giỏi. - Điều kiện về tri thức tay nghề của người lao động: DNVVN sử dụng rất nhiều nhân công, song hầu hết đều có trình độ tay nghề thấp. Nếu như trình độ của người quản lý tốt luôn tạo những cơ hội cho người lao động phát triển, khi người lao động có tri thức có tay nghề cao sẽ làm ra nhiều sản phẩm đẹp với chất lượng và năng suất cao. Điều kiện này rất cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp. - Điều kiện về hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà Nước: Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà Nước tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có cả sự tồn tại và phát triển của DNVVN. Hệ thống này sẽ tạo điều kiện hoặc gây khó khăn cản trở cho các doanh nghiệp, nếu pháp luật hoàn thiện tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thì ở quốc gia đó các DNVVN sẽ phát triển rất mạnh và đóng góp vào sự phát triển chung của Nhà Nước. - Điều kiện về hệ thống các biện pháp hỗ trợ phát triển: Hệ thống các biện pháp hỗ trợ của Nhà Nước cũng như của các tổ chức kinh tế là những điều kiện quan trọng để hỗ trợ các DNVVN phát triển. Các DNVVN có bất lợi là thường hoạt động đơn độc, không có sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau. Vì thế cần có các tổ chức giúp đỡ để bảo vệ quyền lợi cũng như đại diện cho các doanh nghiệp đưa ra yêu cầu cho các cấp có thẩm quyền, nhằm tạo cho hoạt động của doanh nghiệp được phát triển một cách thuận lợi nhất. Tóm lại: Sự phát triển của các DNVVN chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố. Nếu như tất cả các điều kiện trên được thuận lợi có thể giúp DNVVN phát huy tối đa vai trò tích cực của mình đối với nền kinh tế. Ngoài ra, bản thân mỗi doanh nghiệp và các cấp có thẩm quyền cần phải quan tâm nhiều hơn và toàn diện hơn tới tất cả các yếu tố. 1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.3.1. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế Hệ thống Ngân hàng là trung gian tài chính, luân chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn, là trung tâm thần kinh của nền kinh tế tập trung thu phát hoạt động kinh doanh nói chung của nền kinh tế. Theo pháp lệnh số 38 về NHTM, và theo luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng thì “NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng, với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán” .Vậy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là xoay quanh đồng tiền. Ngoài vốn tự có không đủ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, Ngân hàng phải đi huy động để cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM . Ta có thể hiểu tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân hàng với một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình trong xã hội. Trong đó Ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Tín dụng Ngân hàng ra đời với nhiệm vụ huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo thành một quỹ cho vay khổng lồ, đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các thành phần kinh tế. 1.3.2. Các hình thức tín dụng Ngân hàng cấp cho DNVVN Ngân hàng luôn được coi là người bạn đồng hành thân thiết với các nhà doanh nghiệp vì tín dụng ngân hàng luôn có khả năng đáp ứng các nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Đối với DNVVN Ngân hàng thường có các hình thức cấp tín dụng chủ yếu sau: - Tín dụng chiết khấu : Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng thương phiếu chưa đáo hạn cho Ngân hàng để đổi lấy một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có). Khi khách hàng có nhu cầu chiết khấu những giấy tờ còn thời hạn thanh toán, thì làm giấy đề nghị chiết khấu và làm các thủ tục giống như vay vốn. Ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá, kiểm tra hạn mức chiết khấu của mình còn thì sẽ cho khách hàng vay khi họ thoả mãn các điều kiện. Ngân hàng chỉ nhận chiết khấu những giấy tờ có giá còn thời hạn không quá 90 ngày, khi cần thiết Ngân hàng có thể đem chiết khấu lại tại Ngân hàng Trung ương. - Cho vay trả góp : Đó là những khoản vay tài trợ cho nhu cầu mua máy móc thiết bị và các nhu cầu khác của doanh nghiệp. Tiền vay được thanh toán dần cho khách hàng theo định kì. Các điều khoản về mức vay, lãi suất vay, kì hạn trả, mức trả từng lần cho cả gốc và lãi được Ngân hàng và khách hàng thoả thuận trong hạn mức tín dụng. Cho vay trả góp cũng bao gồm._. cả việc Ngân hàng mua những khoản nợ phát sinh do những công ty mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ trả góp cho các tổ chức và cá nhân. Hình thức cho vay này đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp lại vừa hỗ trợ cho tiêu dùng hàng hoá. - Cho vay ứng trước : Kỹ thuật cho vay ứng trước là phương thức tài trợ trực tiếp cho người đi vay để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận một mức cho vay trong thời hạn nhất định. Bên đi vay chịu trách nhiệm vô điều kiện việc hoàn trả nợ vay khi đến hạn. Cho vay ứng trước gồm hai phương thức là hạn mức tín dụng và thấu chi trên tài khoản vãng lai. Vay theo hạn mức tín dụng là loại cho vay đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt của doanh nghiệp, và giới hạn tối đa số tiền Ngân hàng có thể cấp cho một khách hàng trong một thời gian nhất định. Trường hợp này áp dụng với những doanh nghiệp kinh doanh ổn định, có nhu cầu vay nợ thường xuyên và có tín nhiệm với Ngân hàng . Cho vay thấu chi là Ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền vượt quá số tiền trên tài khoản vãng lai trong phạm vi thời hạn, hạn mức nhất định. Hình thức này giúp doanh nghiệp tránh phải làm lại thủ tục vay nhiều lần trong một thời kì. - Bảo lãnh: Theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc NHNN ban hành: “Bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của Ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền nhận bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh). Khi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết”. Mục đích của cho vay bảo lãnh là bù vào những thiếu hụt vốn trong thời gian đang thiếu vốn tạm thời. Đảm bảo cho các dự án có đủ vốn thực hiện đúng kế hoạch, tránh tốn kém về chi phí và thời gian. Đây là một hình thức cấp tín dụng có độ rủi ro cao, vì vậy cần phải có sự tín nhiệm giữa Ngân hàng và khách hàng. - Tín dụng thuê mua tài chính: Tín dụng thuê mua tài chính là một hình thức tài trợ vốn trong đó theo yêu cầu của bên đi thuê, bên cho thuê sẽ tiến hành mua tài sản và chuyển giao cho bên đi thuê sử dụng. Theo phương thức này, người đi vay không phải bỏ vốn mua mà chỉ phải trả tiền thuê tài sản cho công ty tài chính. Khi hết hạn thuê hợp đồng, người vay được quyền mua lại tài sản. Hình thức này có lợi cho những doanh nghiệp hạn hẹp về ngân quỹ, giúp doanh nghiệp có tài sản mới sử dụng khi không đủ tiền mua hoặc thay thế những tài sản cũ kỹ, lạc hậu... thích hợp với các DNVVN. Như vậy có thể nói rằng các hình thức tín dụng của NHTM ngày càng đa dạng, phong phú để thoả mãn tối đa nhu cầu vay vốn của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường tiền tệ nên các Ngân hàng luôn phải quan tâm và hoàn thiện các sản phẩm tín dụng của mình. 1.2.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển các DNVVN trong nền kinh tế Trong nền kinh tế thị trường NHTM là trung gian tài chính điều hoà vốn của nền kinh tế. DNVVN cũng là những khách hàng vay vốn thường xuyên của Ngân hàng, nhờ có nguồn vốn vay này mà doanh nghiệp tiếp tục hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Vai trò ấy được thể hiện như sau: - Tín dụng Ngân hàng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của DNVVN được liên tục Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế, các doanh nghiệp luôn phải cải tiến máy móc để đưa ra những sản phẩm tốt hơn. Nhưng trên thực tế rất ít doanh nghiệp có đủ 100% vốn đảm bảo cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Việc phát triển và mở rộng sản xuất chủ yếu dựa vào các nguồn vốn tài trợ mà phần lớn là của hệ thống Ngân hàng. Vốn tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị và trang trải những chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình tái sản xuất và phát triển. Chính nhờ nguồn vốn này góp phần giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện một cách liên tục. - Tín dụng Ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh cho DNVVN Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh và không ngừng phát triển. Vì có những hạn chế về qui mô, trình độ tay nghề cũng như trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ nên các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để khắc phục khó khăn và nâng cao sức cạnh tranh. Để có đủ lượng vốn đáp ứng cho nhu cầu trên các doanh nghiệp phải tìm đến các NHTM, vì các Ngân hàng có khả năng thoả mãn được các nhu cầu này bằng các nguồn vốn huy động được trong dân với các mức lãi suất phù hợp, giúp cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh chiếm lĩnh thị trường trong cạnh tranh với mức chi phí hợp lý. - Tín dụng Ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các DNVVN Xét trên phương diện lý thuyết, một doanh nghiệp có vốn tự có tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nhiều, vốn đi vay ít là một doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy quá nhiều vốn chủ sở hữu sẽ gây lãng phí và không mang lại hiệu quả cao như một cơ cấu vốn với số lượng vốn nợ vay hợp lý. Điều này không những làm giảm bớt rủi ro mất vốn của doanh nghiệp mà còn đem lại cho doanh nghiệp lợi nhuận lớn nhất từ những đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra kinh doanh. Một cơ cấu vốn tối ưu sẽ giúp tận dụng triệt để mọi nguồn lực từ đó có thể khai thác tối đa mọi tiềm năng của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. - Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNVVN Doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng ngoài phần gốc phải trả như đã thoả thuận còn phải trả thêm phần lãi, vì vậy các doanh nghiệp phải có đầy đủ hồ sơ theo qui định như về khả năng tài chính, các phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Các Ngân hàng thường quan tâm doanh nghiệp kinh doanh như thế nào, sản xuất như thế nào, đầu vào và thị trường đầu ra có khả thi để chấp nhận cho doanh nghiệp vay vốn. Ngoài việc quan tâm thu hồi đẩy đủ vốn Ngân hàng còn quan tâm đến việc doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, tăng vòng quay vốn nhanh, đảm bảo có lãi sau khi đã trả nợ Ngân hàng... Điều đó có nghĩa Ngân hàng phải thực hiện kiểm soát trước trong và sau khi cho vay để đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích. Như vậy tín dụng Ngân hàng đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNVVN. Tóm lại những phân tích trên cho thấy tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và với DNVVN nói riêng. Ngân hàng giúp các DNVVN phát triển, ngược lại sự phát triển của DNVVN cũng giúp Ngân hàng hoàn thiện hơn các hoạt động kinh doanh của mình. Nói tóm lại: Qua những phần lý luận trình bày ở chương 1 đã đưa ra cho chúng ta một cách nhìn khái quát nhất về DNVVN. Vai trò của tín DNVVN trong nền kinh tế thị trường và các điều kiện để phát triển DNVVN. Đóng góp vào phát triển DNVVN là vai trò của tín dụng Ngân hàng đối vơí phát triển DNVVN. 1.4. Các nhân tố tác động đến tín dụng ngân hàng dành cho DN vừa và nhỏ 1.4.1. Các nhân tố chủ quan * Về phía ngân hàng: Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố giới hạn mức cho vay đối với một khách hàng, kỳ hạn của khoản tín dụng, lãi suất cho vay và mức lệ phí, các loại cho vay được thực hiện, sự bảo đảm và khả năng thanh toán nợ của khách hàng, hướng giải quyết phần tín dụng vượt quá giới hạn, các khoản nợ vay có vấn đề…Chính sách tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới kết quả hoạt động cho vay, nó là người dẫn đường “cho cán bộ tín dụng thực hiện việc cho vay đúng với yêu cầu của ngân hàng, toàn bộ hoạt động cho vay diễn ra như thế nào phần lớn tuân theo hướng dẫn của chính sách tín dụng đề ra”. Một chính sách tín dụng được gọi là thành công nghĩa là nó mang lại hiệu quả cho món vay đó. Chính sách tín dụng cần được xây dựng hợp lý, đúng đắn nhưng rất cần tính linh hoạt. Vì nếu chính sách được thực hiện quá cứng nhắc thì ngân hàng rất khó có thể thực hiện được món vay, giảm tính cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng. Với mức lãi suất đa dạng cho từng loại hình vốn vay và kỳ hạn phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ làm tăng tính hiệu quả của món vay. Quy trình cho vay của ngân hàng Quy trình cho vay là quy định các bước cần thiết phải thựchiện trong quá trình cho vay, thu nợ, bảo đảm an toàn vốn tín dụng, được bắt đàu khi phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi đủ nợ vay và cả vốn lẫn lãi. Quá trình cho vay thường gồm năm bước: phân tích các yếu tố tín dụng, ký hợp đồng tín dụng chính là khâu quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng của món vay đó. Công việc này cần tính chặt chẽ, chính xác, có thực tế nhưng cũng rất cần linh hoạt, sự nhạy cảm nghề nghiệp để tránh phần nào những quyết định sai lầm. Việc thẩm định mà quá nguyên tắc, cứng rắn, kém linh hoạt có thể dẫn đến ngân hàng bỏ lỡ nhiều cơ hội. Ngân hàng luôn phải cân nhắc giữa tính toán an toàn với tính sinh lời trong mọi công việc, tuy nhiên khi đã chọn ra được mục đích cụ thể thì cần có hướng đi đồng bộ trên mọi khâu của quy trình. Tín dụng ngân hàng dành cho DVVVN còn phụ thuộc vào công tác kiểm tra, kiểm soát trước trong và sau khi cho vay. Quá trình này giúp ngân hàng có thể nắm bắt được đối tượng mà mình cho vay, khách hàng sử dụng vốn có đúng mục đích không và hiệu quả sử dụng của món vay đó. Thông qua kiểm tra, kiểm soát ngân hàng có thể dự đoán mọi tình hình xung quanh khoản vay của mình như về thu nhập khi đến hạn hay ngân hàng phát hiện được những dấu hiệu sai trái, bất cứ hợp pháp để từ đó có biện pháp ngăn ngừa và biện pháp xử lý. Bước cuối cùng là thu nợ gốc và lãi của ngân hàng cho từng đối tượng cho vay rất quan trọng vì đối với các DNVVN chu kỳ sản xuất kinh doanh thường hay biến động, có thể một lý do nào đó mà khách hàng chưa muốn trả nợ hoặc chưa có nguồn để trả nợ. Vì thế nếu ngân hàng không thu nợ kịp thời hay các định kỳ hạn nợ không hợp lý có thể dẫn tới nợ quá hạn gia tăng, mất khả năng thu nợ của ngân hàng, ảnh hưởng xấu đến hoạt động tín dụng. - Tình hình huy động vốn của ngân hàng Đặc trưng nhất của ngành ngân hàng là “đi vay để cho vay”, bởi vậy nếu không đi vay được tức là ngân hàng không có vốn để đem cho vay. Nguồn vốn huy động được càng lớn và đa dạng thì càng tạo điều kiện cho hoạt động cho vay phát triển. Tương tự như vậy chi phí trong hoạt động huy động vốn cũng ảnh hưởng lớn tới lãi suất cho vay, vì lãi suất cho vay phải đủ để trang trải chi phí đầu vào. Chất lượng hoạt động cho vay cũng phụ thuộc vào chất lượng huy động vốn, chúng phải song song với nhau. Nếu ngân hàng huy động được nhiều vốn mà không cho vay hết được số đó sẽ dẫn đến tình trạng “đọng vốn”, chi phí trả lãi vốn gia tăng mà thu nhập không tăng hoặc thấp hơn chi phí vốn, ngân hàng sẽ không có lãi. - Chất lượng nhân sự Chất lượng nhân sự thể hiện ở trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, kiến thức tổng hợp như kiến thức marketing, tin học, ngoại ngữ…trách nhiệm với công việc và cả vấn đề đạo đức của cán bộ tín dụng. Dưới con mắt khách hàng, các cán bộ tín dụng là hình ảnh của Ngân hàng. Vì vậy, phong cánh giao tiếp của cán bộ tín dụng tạo niềm tin và sự hài lòng của khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng đến với Ngân hàng. Nhưng trình độ nghiệp vụ là yếu tố quan trọng nhất vì nó đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong mọi tình huống khi cho vay. Thêm vào đó, những hiểu biết mạng tính tổng hợp sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng thực hiện công việc tốt hơn, đặc biệt là trong khâu thẩm định. Hoạt động cho vay là lĩnh vực gặp nhiều rủi ro nhất của ngân hàng, một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng là do sự thiếu trách nhiệm và đạo đức của cán bộ tín dụng đã lợi dụng sở hở trong quản lý để thực hiện động cơ riêng. Yếu tố con người luôn là rất quan trong để thực hiện thành công mọi công việc. - Thông tin tín dụng Để hoạt động tín dụng thực sự có hiệu quả cần nắm bắt được các thông tin tín dụng chính xác, kịp thời. Các thông tin tín dụng bao gồm nhưng thông tin tài chính, uy tín, trình độ quản lý, năng lực pháp lý, thông tin về kinh tế xã hội… Sự chính xác, kịp thời và đầy đủ của các thông tin sẽ giúp ngân hàng đưa ra quyết định đúng đắn với khách hàng, lựa chọn món vay có lợi cho ngân hàng. Hiện nay, ở nước ta việc tìm kiếm thông tin có chất lượng như trên là rất khó khăn. Có nhiều khoản cho vay gặp rủi ro vì thiếu thông tin chính xác như một khách hàng dùng một tài sản thế chấp đi vay nhiều ngân hàng, giấy tờ giả, hợp đồng giả hoặc thổi phồng tính khả thi của phương án kinh doanh…Điều này không những gây tổn thất về mặt tài chính cho ngân hàng mà còn gây mất lòng tin của ngân hàng đối với những khách hàng khác, đặc biệt tình hình này hay xuất hiện ở những khu vực các DNVVN. Ngân hàng nắm bắt những thông tin tín dụng không kịp thời sẽ không đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng và như vậy hạn chế chất lượng cho vay của ngân hàng. - Cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng Cơ sở vật chất và trang thiết bị của ngân hàng cũng là yếu tố gây ảnh hưởng tới chất lượng cho vay nói riêng và các hoạt động khác của ngân hàng nói chung. Với trang thiết bị hiện đại có thể giúp ngân hàng thực hiện nghiệp vụ của mình một cách nhanh chóng, chính xác như việc ứng dụng tin học vào việc quản lý khách hàng. Ngoài ra, hình thức của trang thiết bị của ngân hàng có thể đánh vào thị giác của khách hàng, tạo tâm lý tin tưởng hoặc không tin tưởng của khách hàng. Đây cũng là yếu tố thu hút khách hàng đến với ngân hàng. - Công tác tổ chức của ngân hàng Đây là yếu tố không trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng cho vay nhưng nếu công tác tổ chức hoạt động của ngân hàng không khoa học, có sự chồng chéo thì việc thực hiện cac hoạt động cho vay của phòng tín dụng sẽ bị ảnh hưởng không tốt. * Về phía khách hàng: Chất lượng cho vay không chỉ phụ thuộc vào việc ngân hàng đã thực hiện nó như thế nào mà còn phụ thuộc nhiều yếu tố về phía người sử dụng vốn vay. - Phương án sản xuất kinh doanh của dự án vay vốn Chất lượng của việc sử dụng vốn cũng là một chỉ tiêu trong chất lượng cho vay. Một dự án mà phương án kinh doanh không khả thi, khả năng tạo lợi nhuận thấp thì không thể nói việc sử dụng vốn vay đó có chất lượng. Phương án kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận cao để doanh nghiệp vừa đủ tiền trang trảI cho chi phí vay vốn ngân hàng, vừa có một lượng vốn lớn để tái đầu tư. - Uy tín của doanh nghiệp Uy tín của doanh nghiệp vay vốn được biểu hiện bằng sự sắn lòng trả nợ, có mong muốn thực hiện tất cả các cam kết trong hợp đồng tín dụng. - Tình hình tài chính của doanh nghiệp Doanh nghiệp có kinh doanh hiệu quả hay không và có thể trả nợ được cho ngân hàng hay không cũng tuỳ thuộc vào tình hình tài chính hiện có của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng: “túng bấn” thì chắc chắn ít có ý định trả nợ ngân hàng hoặc cũng trì hoãn việc trả nợ. - Nhà quản lý doanh nghiệp Trình độ quản lý doanh nghiệp tốt sẽ cho kết quả kinh doanh tốt nếu không gặp trở ngại khác. Như vậy, trình độ nhà quản lý ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sử dụng vốn vay. Hiện nay ở khu vực DNVVN nước ta, trình độ quản lý của các doanh nghiệp còn rất kém, công tác quản lý còn nhiều sơ hở nên làm ăn không hiệu quả, thất thoát vốn, kết quả kinh doanh thấp, mất khả năng thanh toán, phá sản gia tăng. Đôi khi những tổn thất của ngân hàng là do đạo đức của người kinh doanh. Người vay lợi dụng việc vay vốn ngân hàng để làm ăn phi pháp, biển thủ vốn vay, không muốn trả nợ ngân hàng, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu nợ. - Các nhân tố khác như năng lực vay nợ, quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp - Tài sản đảm bảo nợ vay 1.4.2. Các nhân tố khách quan Cho vay có chất lượng tốt hay không còn phụ thuộc vào những nhân tố bên ngoài như môi trường kinh tế, môi trường tự nhiên, môi trường pháp lý, chủ trương chính sách của nhà nước… - Chủ trương chính sách của nhà nước Từ khi nhà nước có chính sách cho phép phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, ngân hàng có thêm một lượng khách hàng lớn để mở rộng cho vay. Nhưng trên thực tế, chưa có nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi đối với khu vực DNVVN. Đặc biệt trong mấy năm trở lại đây, các điều kiện cho vay ngày càng thắt chặt nên khu vực các DNVVN không đủ điều kiện vay vốn. Như vậy, những chính sách của nhà nước có thể là động lực nhưng cũng có thể là cản trở để DNVVN có điều kiện vay vốn. - Môi trường tự nhiên Môi trường tự nhiên là yếu tố gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là NHNo hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp… Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên xảy ra lũ lụt gây thiệt hại về người và tài sản do đó, việc đầu tư vào lĩnh vực này có thể gặp rủi ro làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý là cơ sở để cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách hợp pháp có hiệu quả. Hệ thống pháp luật chi phối các hoạt động kinh tế, đưa các doanh nghiệp vào hoạt động theo khung pháp lý đã quy định. Vì vậy phải có sự đồng bộ, thống nhất và hợp lý giữa các bộ luật và các văn bản pháp quy nhằm tạo ra sự chặt chẽ và hiệu lực của pháp luật. Hiên nay môi trường pháp lý cho ngành ngân hàng còn nhiều vấn đề đang được tranh cãi nhất là về việc cấp chứng nhận sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất và sử lý tài sản thế chấp tại ngân hàng. Chính những bất cập này là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khó khăn khi sử lý tài sản thế chấp và giải toả các khoản nợ khó đòi của ngân hàng, tạo kẽ hở để khách hàng vay vốn ngân hàng chây ỳ không chịu trả nợ ngân hàng khi kinh doanh gặp rủi ro. - Môi trường kinh tế Mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trong môi trường kinh tế luôn chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước hoặc chịu sự chi phối của quy luật cung- cầu, quy luật giá trị,…trên thị trường. Do vậy, việc tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh cho hoạt động của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như sự ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát là những yếu tố tích cực góp phần cho việc phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng TMCP Quân đội 2.1. Lịch sử hình thành va quá trinh hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Quân đội 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Quân đội Trước những khó khăn về vốn của các doanh nghiệp Quân đội tham gia làm kinh tế và nhiệm vụ quốc phòng. NHTMCPQĐ được thành lập vào ngày 04/11/1994 theo giấy phép số 0054/NH – GP do Ngân hàng nhà nước cấp ngày 14/09/1994 và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060297, do sở Kế hoạch - Đầu tư Hà Nội cấp ngày 30/09/1994 (sửa đổi ngày 27/12/2002) dưới hình thức là NHTM cổ phần, chuyên kinh doanh về tiền tệ tín dụng và dịch vụ Ngân hàng với mục đích phục vụ các doanh nghiệp Quân đội sản xuất quốc phòng và làm kinh tế. NHQĐ có trụ sở chính tại số 3- Liễu Giai- Ba Đình – Hà Nội theo công văn số 61/NHNN-CNH về việc mở Sở Giao Dịch tại trụ sở chính của Ngân hàng Quân Đội ngày 21/01/2005, với số vốn điều lệ khi thành lập là 20 tỷ đồng. NHQĐ là một pháp nhân hạch toán kinh tế độc lập, có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh, có tài khoản tại Ngân hàng nhà nước. Bắt đầu từ những con số khá khiêm tốn: vốn điều lệ chỉ là 20 tỷ, có một trụ sở duy nhất tại Hà Nội, với 25 cán bộ công nhân viên nhưng Ngân hàng đã có những bước phát triển vượt bậc. Vốn điều lệ của Ngân hàng liên tục gia tăng, tính đến ngày 27/12/2007 vốn điều lệ của Ngân hàng đã đạt 2000 tỷ đồng, gấp 100 lần so với khi mới thành lập. Mạng lưới chi nhánh của Ngân hàng đã được mở rộng, từ chỗ chỉ có một trụ sở duy nhất đến 23/4/2008 Ngân hàng Quân đội khai trương chi nhánh đầu tiên tại Biên Hoà nâng tổng số điểm giao dịch là 70 điểm giao dịch trên cả nước, tập trung tại các trung tâm kinh tế lớn của nước ta như: Hà Nội, Hải Phòng, TPHCM, Đà Nẵng… Số lượng cán bộ công nhân viên cũng tăng lên theo sự tăng trưởng về quy mô. Từ chỗ chỉ có 25 người, đến nay con số này lên đến trên 1.412 người. NHQĐ từ một Ngân hàng nhỏ đã vươn lên trở thành một Ngân hàng có vị thế nhất định trong hệ thống NHTM Việt Nam, NHQĐ đã được Ngân hàng nhà nước xếp loại A, là một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần tốt nhất Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. NHQĐ đã cung cấp một danh mục các loại hàng hoá và dịch vụ đa dạng, đáp ứng được yêu cầu của đông đảo đối tượng trong nền kinh tế. Đặc biệt trong quá trình hoạt động, Ngân hàng đã thiết lập được một hệ thống Ngân hàng đại lý ở nhiều nước trên thế giới, đáp ứng thuận tiện cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Tuy nhiên, quá trình ra đời và phát triển của NHQĐ cũng chưa phải là dài, do vậy kinh nghiệm trong lĩnh vực Ngân hàng là chưa nhiều, thêm vào đó là quy mô của Ngân hàng còn nhỏ, lại hoạt động trong một môi trường mà sự cạnh tranh đang diễn ra quyết liệt nên NHQĐ cũng còn có những hạn chế nhất định trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Trong thời gian tới, Ngân hàng cần phải cố gắng rất nhiều nhằm khắc phục những hạn chế của mình. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của NHQĐ Mô hình tổ chức của NHTMCPQĐ Giai đoạn hiện nay (2007) 2.2 Hoạt động của NHQĐ trong những năm qua Nhìn chung nền kinh tế thế giới những năm vừa qua đang trong tình trạng suy giảm. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam lại luôn đạt mức tăng trưởng khá, tốc độ tăng GDP trong những năm gần đây luôn đạt từ 7% - 8.5%/ năm. Trên thực tế tốc độ tăng trưởng vẫn chưa đạt tới chỉ tiêu mong muốn, nhưng đây cũng là dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước ta. Bên cạnh đó, cũng phải kể đến một số điểm còn tồn tại như: chỉ số lạm phát cao, tỷ lệ thất nghiệp tăng , thiên tai lũ lụt liên tiếp xảy ra... Những hiên tượng kinh tế trên đã có ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường tài chính tiền tệ, gây nhiều khó khăn và thách thức trong việc hoạch định chính sách kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của ngành Ngân hàng nói riêng. Thêm vào đó, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, lãi suất liên tục tăng, những yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng cấp bách đã làm cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung, hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng đang phải đối mặt với nhiều điều bất lợi. Hoạt động trong môi trường có nhiều bất lợi, nhưng trong thời gian qua NHQĐ vẫn luôn giữ được tốc độ phát triển ổn định, hoạt động kinh doanh an toàn, các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra hàng năm đều hoàn thành, uy tín của Ngân hàng Quân đội không ngừng được nâng cao. Có thể nhận thấy điều này qua các chỉ tiêu sau : 2.2.1. Hoạt động huy động vốn - Tăng vốn điều lệ: Từ số vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng khi thành lập Ngân hàng đã liên tục tăng vốn điều lệ ở các năm tiếp theo. Tính đến 31/12/2005 vốn điều lệ của Ngân hàng đạt 450 tỷ đồng tăng, 22,5 lần trong 11 năm, năm 2006 là 1.045 tỷ đồng tăng 132,22% so với năm 2005, năm 2007 là 2000 tỷ đồng gấp 100 lần so với năm 1994 . Sang năm 2005 hoạt động kinh doanh của NHTMCP Quân đội vẫn được duy trì ở mức an toàn và hiệu quả với tốc độ phát triển ổn định. Tính đến cuối tháng 12 năm 2005, NHTMCPQĐ đã tăng thêm 100 tỷ đồng vốn điều lệ từ 350 tỷ đồng lên 450 tỷ đồng. Trong năm 2006, bên cạnh việc tích luỹ từ lợi nhuận để lại, Ngân hàng đã phát hành thêm cổ phiếu mới để nâng vốn điều lệ lên 1.045 tỷ, đạt 100%kế hoạch đặt ra. Tính đến 27/12/2007 vốn chủ sở hữu của Ngân hàng đạt 2000 tỷ; tăng 91,39% so với đầu năm và bằng 100% kế hoạch năm. Nguồn vốn tự bổ sung bao gồm các quỹ và dự phòng đạt 110,34 tỷ, tăng 44% so với đầu năm. Với ba đợt tăng vốn điều lệ Ngân hàng đã có 2000 tỷ đồng vốn điều lệ đến 27/12/2007. Đạt kế hoạch đề ra, tăng 28,5% so với đầu năm. Bảng 1: Các chỉ tiêu tài chính: (Đơn vị :Triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007  Lợi nhuận trước thuế 148.700  252.889  518.173   Vốn điều lệ  450.000  1.045.000  2.000.000  Vốn huy động  7.046.680  11.511.420  21.341.394  Tổng dư nợ  4.470.200  6.166.620  10.926.794 (Nguồn: báo cáo KQHĐKD năm 2005, 2006, 2007 – NHTMCPQĐ) - Về huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư: Bảng 2: Kết quả huy động vốn: ( đơn vị: triệu đồng ) Chỉ tiêu  2005 2006  2007  2006 so với 2005  2007 so với 2006   Số tiền ± % Số tiền ± % Vốn huy động theo TPKT: +, các TCKT +, Dân cư 3.185.250 3.861.430 5.174.920 6.336.500 9.265.470 12.075.924 1.989.670 2.475.070 62,47% 64,1% 4.090.550 5.739.424 79,05% 90,58% Vốn huy động theo kỳ hạn +, Ngắn hạn +, Trung và dài hạn 5.228.637 1.818.043 8.840.771 2.670.649 18.161.526 3.179.868 3.612.134 852.606 69,08 46,9 9.320.755 509.219  105,43% 19,07 % Vốn huy động theo đồng tiền: +, Nội tệ +, Ngoại tệ 4.693.988 2.352.692 8.752.629 2.758.791 16.750.044 4.591.350 4.058.641 406.099 86,46 17,26 7.997.415 1.832.559  91,37% 66,43 % ( Nguồn: Báo cáo KQHĐKD năm 2005, 2006, 2007 – NHTMCPQĐ ) Vốn huy động của Ngân hàng TMCP Quân đội qua các năm đều tăng, tính đến 31/12/2005 tổng số vốn huy động đạt 7.046,68 tỷ đồng tăng 42,8% so với năm trước và vượt kế hoạch 17,4%. Các dịch vụ của Ngân hàng kết hợp với các chính sách phù hợp đã giúp Ngân hàng TMCP Quân đội huy động được một khối lượng vốn tương đối lớn mặc dù lãi suất huy động của ngân hàng không cao so với mặt bằng chung của toàn hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Sang năm 2006, hoạt động huy động vốn của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn, một mặt do sự tác động của việc lãi suất ngoại tệ giảm mạnh, mặt khác cũng là năm mà thị trường ngân hàng việt nam gặp phải sự khan hiếm về VND do có sự đầu tư nhiều vào các lĩnh vực khác như: Bất động sản, Chứng khoán...vv nhưng mức huy động vốn của Ngân hàng vẫn tăng 64% so với năm trước, đạt 11.511,42 tỷ đồng, bằng 125% kế hoạch năm. Bước sang năm 2007, kinh tế Việt Nam vẫn giữ mức tăng trưởng khá với tốc độ tăng GDP là 8.5%. Tuy nhiên, năm 2007 cũng là năm có nhiều khó khăn đối với hệ thống NHTM ở Việt Nam nói chung và với Ngân hàng TMCP Quân đội nói riêng. Nhu cầu về tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng cộng với việc hàng ngàn doanh nghiệp mới được thành lập đã tạo nên sức ép lớn đối với nhu cầu về vốn. Các NHTM đã phải tăng lãi suất huy động để có được nguồn vốn cung ứng cho thị trường. Các NHTM cũng không ngừng đưa ra các sản phẩm tiện ích cho khách hàng như thẻ ATM, chuyển tiền nhanh … Thêm vào đó , các định chế ngân hàng mà đặc biệt là các công ty bảo hiểm, tiết kiệm bưu điện cũng đã đưa ra nhiều hình thức huy động vốn dài hạn. Tính đến 31/12/2007, lãi suất huy động bình quân đã tăng 1,3%/ năm so với cùng kỳ đầu năm. Tuy vậy, nguồn vốn huy động năm 2007 bằng các loại tiền đều tăng so với năm 2006. Tính đến thời điểm cuối năm, tổng vốn huy động của ngân hàng đạt 21.341,39 tỷ đồng tăng 85,4% so với cuối năm 2006 và đạt 105,7% so với kế hoạch. Trong đó, nguồn vốn huy động bằng nội tệ tăng 91,37% và huy động vốn bằng ngoại tệ tăng 66,43% với năm 2006. Lượng vốn huy động từ dân cư đã tăng rất khá với mức 90,58% so với đầu năm, thể hiện đúng chủ trương của Ngân hàng, đồng thời cũng cho thấy uy tín của NHQĐ đối với người gửi tiền ngày càng được củng cố. Trong năm, Ngân hàng đã triển khai được các sản phẩm tiết kiệm mới như: Tiết kiệm tích luỹ, Tiết kiệm trả lãi trước, góp phần đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ của mình. Và lượng vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, bao gồm cả nguồn vốn không kỳ hạn đều tăng trong năm. Năm 2007, nền kinh tế thế giới có mức tăng trưởng cao, đạt mức 4,5%, tuy vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn do tình hình chính trị an ninh ở nhiều khu vực và quốc gia không ổn định, giá năng lượng biến động mạnh, giá dầu lửa dao động ở mức cao đặt ra nhiều thách thức đối với sự ổn định kinh tế thế giới và của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong năm 2007, việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của các nước có nền kinh tế phát triển đã gây những biến động mạnh đối với thị trường tài chính thế giới. Đồng thời USD rớt giá kỷ lục so với EURO, Yên Nhật và các đồng tiền mạnh khác, giá vàng giao động mạnh và ổn định ở mức cao. Về thị trường tài chính- tiền tệ, trong năm 2007, Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì lãi suất cơ bản ở mức 8,25%/năm. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng dư nợ và huy động của ngân hàng năm 2007 đều cao hơn so với năm 2006. Nợ xấu tăng 9,4% so với cuối năm 2006 nhưng chỉ chiếm 4,1% tổng dư nợ tín dụng, giảm 0,7 % so với tỉ lệ nợ xấu cuối năm 2006. 2.2.2. Hoạt động sử dụng vốn: Bảng 3: Kết quả sử dụng vốn: ( Đơn vị: triệu đồng ) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 2006 so với 2005 2007 so với 2006 Số tiền ± % Số tiền ± % Tổng dư nợ 4.470.200 6.166.620 10.926.794 1.696.420 37,95% 4.760.174 77,19% Khu vực KTQD 2.329.718 3.062.033 4.817.355 669.315 28,73% 1.755.322 57,33% Khu vực KT khác 2.140.284 3.104.587 6.109.439 964.303 45,05% 3.004.852 96,79% (Nguồn báo cáo KQHĐKD năm 2005, 2006, 2007 – NHTMCPQĐ) Tính đến 31/12/2007, tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng là 10.926,794 tỷ đồng, tăng 77,19% so với đầu năm và đạt kế hoạch đề ra. Trong năm, NHQĐ tiếp tục tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, cơ cấu lại nợ vay, đẩy mạnh cho vay DNVVN và tín dụng bán lẻ. Tỷ trọng cho vay khối khách hàng cá nhân đã tăng lên đáng kể trong tỷ trọng cho vay so với đầu năm, hoàn thành kế hoạch đề ra. -Tình hình nợ quá hạn: Bảng 4: Tình hình nợ quá hạn qua các năm: Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 2006 so với 2005 2007 so với 2006 Số tiền ± % Số tiền ± %  Nợ quá hạn (triệu đồng)  75.099  166.499  305.950 91.400 121,71 139.451  83,75  Nợ quá hạn (% ) 1,68 2,7 2,8 _ _ _ _ Theo TPKT (%) +, KTQD +, Ngoài QD  1,12 1,96  3,1 2,25  2,63 3,22 _ _ _ _ _ _ _ _ (Nguồn báo cáo KQHĐKD năm 2005, 2006, 2007 – NHTMCPQĐ) Tính đến 31/12/2007, tỷ lệ nợ quá hạn là 2,8%, tăng so với năm 2006 ( 2,7% ), phù hợp với xu thế và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta, và vẫn ở mức chấp nhận được. Mặt khác, Ngân hàng đã từng bước xây dựng và hoàn thiện quy chế hoạt động của quản lý tín dụng, chỉ đạo các chi nhánh thực hiện nghiêm túc Quyết định 493 của NHNN. 2.2.3. Các hoạt động khác - Kinh doanh vốn và ngoại tệ: Hoạt động kinh doanh vốn và ngoại tệ đã đảm bảo việc quản lý thanh khoản, quản lý dự trữ bắt buộc toàn hệ thống một cách chặt chẽ, quản lý vốn tập trung thông qua cơ chế mua bán vốn nội bộ, mang._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7667.doc
Tài liệu liên quan