Hoạt động Xuất khẩu dầu thô của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp

Lời mở đầu Dầu mỏ là nguồn năng lượng quan trọng của tất cả các nước. Nó đang chiếm khoảng 65% trong tổng các nguồn năng lượng toàn cầu. Về đặc điểm kinh tế, dầu mỏ là ngành phát triển nhanh và yêu cầu về vốn đầu tư rất lớn, đối với một số công đoạn trong ngành có sự rủi ro cao. Hầu hết ở các nước đặc biệt là các nước đang phát triển, dầu mỏ thường là ngành độc quyền của doanh nghiệp nhà nước hoặc một số các công ty xuyên quốc gia. Nguồn thu của ngân sách nhà nước từ ngành dầu mỏ chiếm một tỷ t

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động Xuất khẩu dầu thô của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rọng tương đối cao (ở Việt Nam trên 10%). Đối với Việt Nam ngành dầu khí còn mới mẻ với 25 năm tuổi. Tuy trữ lượng dầu khí ở nước ta không lớn nhưng nó có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, là nguồn năng lượng nguyên liệu phục vụ cho nền kinh tế quốc dân. Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã, đang ngày càng phát triển với tốc độ nhanh chóng, bao trùm tất cả các lĩnh vực từ thượng nguồn (tìm kiếm, thăm dò, khai thác) đến hạ nguồn (hoá dầu, lọc dầu, chế biến kinh doanh các sản phẩm dầu khí). Dầu thô Việt Nam bắt đầu được khai thác vào năm 1986 tại mỏ Bạch Hổ do công ty Liên doanh Việt - Xô Petrol (Việt Nam - Liên Xô cũ) khai thác, từ đó đến nay sản lượng dầu thô Việt Nam ngày càng tăng lên đáng kể. Do ngành lọc dầu ở Việt Nam chưa phát triển (trước đây chỉ mỏ Bạch Hổ thì nay đã có 6 mỏ đang được đưa vào khai thác, làm cho sản lượng dầu thô ngày càng gia tăng, nhà máy lọc dầu số một Dung Quất đang khởi công và xây dựng đến năm 2004 mới đưa vào hoạt động) nên toàn bộ sản lượng dầu thô của Tổng công ty dầu khí được xuất khẩu hàng năm giá trị xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty đã đóng góp rất lớn trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty Dầu khí Việt Nam em đã nghiên cứu thực tiễn hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty dầu khí Việt Nam, nhằm củng cố, vận dụng kiến thức đã học vào thực tế và mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé để đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Vì thế em xin trình bày đề tài: " Hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam - thực trạng và giải pháp ". Luận văn này được chia thành 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Chương III: Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Qua luận văn này, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn, và các bác, cô, chú cùng các anh chị phòng kế hoạch thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành luận văn này. Mục lục  Chương II Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu dầu thô của tổng công ty dầu khí Việt Nam I- Sự ra đời và phát triển của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam I.1. Sự ra đời và phát triển của Tổng Công ty. Nguồn năng lượng dầu mỏ rất quan trọng đối với mỗi quốc gia. Ngay từ buổi đầu tiên Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng đến vấn đề này. Trong khi cuộc chiến tranh chống Mỹ còn diễn ra khốc liệt, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định thành lập đoàn địa chất 36 trực thuộc Tổng cục địa chất có chức năng tìm kiếm - thăm dò dầu khí ở khu vực Miền Bắc (1961 – 1969). Chuyển đoàn địa chất 36 thành liên đoàn địa chất 36. - 1975: Ngay sau ngày miền Nam giải phóng 30/4/1975 Bộ chính trị đã có Nghị quyết số 224 NQTW về việc triển khai thăm dò dầu khí cả nước. Tách các tổ chức làm công tác dầu khí ở Tổng Cục Địa chất, Tổng Cục hoá chất ở miền Bắc và Tổng Cục Dầu hoả và khoáng sản ở miền Nam để thành lập Tổng Cục Dầu khí Việt Nam. Tổng Cục Dầu khí Việt Nam là tổ chức chịu trách nhiệm trước Nhà nước về toàn bộ các khâu thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí... Tổng Cục Dầu khí gồm: Công ty dầu khí miền Bắc, Công ty dầu khí miền Nam, Viện dầu khí Việt Nam, các công ty dịch vụ và trường đào tạo cán bộ công nhân. - 1977: thành lập Công ty Petro Việt Nam trực thuộc Tổng Cục dầu khí làm nhiệm vụ hợp tác và tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí với nước ngoài tại Việt Nam - 4/1990: Sáp nhập Tổng Cục dầu khí vào Bộ Công nghiệp nặng. 9/1990: Thành lập Tổng Công ty dầu khí Việt Nam trên cơ sở các đơn vị cũ của Tổng cục Dầu khí. - 5/1992: Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam tách khỏi Bộ Công nghiệp nặng và trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Tên giao dịch quốc tế là PETRO VIETNAM. - 5/1995: Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ Quyết định là Tổng Công ty Nhà nước, có tên giao dịch quốc tế là PETRO VIETNAM. - Đồng bằng sông Hồng được coi là cái nôi của ngành dầu khí Việt Nam. Vào những năm 1973 - 1974 ở đồng bằng sông Hồng đã có các phát hiện dầu khí tại đồng bằng sông Hồng đó là mỏ khí Tiền Hải (Thái Bình) với trữ lượng khoảng 1,3 tỷm3 và đã được khai thác từ mùa hè năm 1981. Tuy nhiên sản lượng khí của mỏ Tiền Hải (Thái Bình) còn rất khiêm tốn chỉ đủ phục vụ sản xuất tiêu dùng của tỉnh Thái Bình. Nhưng nói có ý nghĩa rất to lớn đối với ngành dầu khí Việt Nam trong khi lực lượng cán bộ còn non trẻ mà đã tự lực khai thác được tài nguyên khí, thành công này đã khuyến khích động viên toàn thể cán bộ công nhân của ngành ngày càng hăng say lao động. - 1980 Liên doanh dầu khí Việt - Xô (Viet Sovpetro) ra đời. Các cán bộ công nhân của ngành dầu khí Việt Nam cùng với các chuyên gia Liên Xô đã có tiến hành tìm kiếm thăm dò ở bể Cửu Long. Đến năm 1986 Viet Sovpetro đã cho dòng dầu thô đầu tiên tại mỏ Bạch Hổ. Năm 1986 cũng là mốc đánh dấu năm Việt Nam xuất khẩu dầu thô đầu tiên của mình. Từ 1988 chính sách "mở cửa" và sự ra đời của các Luật đầu tư nước ngoài, Luật Dầu khí đã tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc tìm kiếm thăm dò dầu khí triển khai rầm rộ trên thêm lục địa Việt Nam. Cho tới nay 6 mỏ dầu và 1 mỏ khí đang khai thác, 2 hợp đồng đang chuẩn bị đưa mỏ vào khai thác và 5 hợp đồng tiếp tục thẩm lượng mỏ. Trữ lượng dầu khí đã phát hiện và có thể thu hồi đạt khoảng 1,0 tỷ m3 quy dầu trên tổng tiềm năng dự báo là 3,5 - 5,0 tỷ m3. Đây là cơ sở ban đầu đáng tin cậy, làm đà cho sự phát triển và nâng cao sản lượng khai thác dầu từ mức 16 triệu tấn năm 2001 lên mức 23-24 triệu tấn dầu quy đổi/năm trong những năm đầu của thế kỷ mới. I.2. Chức năng- nhiệm vụ - quyền hạn của Tổng Công ty. Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam là Tổng Công ty Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Chức năng: Nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, vận chuyển tàng trữ, vận chuyển, dịch vụ dầu khí, xuất - nhập khẩu vật tư thiết bị và kinh doanh sản phẩm dầu khí. - Tổng Công ty có các nhiệm vụ chính sau: + Theo Nghị Quyết 37/CP và NQ 38/CP/1995 Tổng Công ty có nhiệm vụ tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến tàng trữ vận chuyển dịch vụ về dầu khí, xuất nhập khẩu vật tư thiết bị dầu khí, dầu thô, các sản phẩm khí, lưu thông các sản phẩm dầu khí, tiến hành các hoạt động kinh doanh khác theo pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ khác do Nhà nước giao, liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước phù hợp với pháp luật và chính sách của Nhà nước. + Nhận và sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, bao gồm cả phần vốn đầu tư vào các doanh nghiệp khác. Nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, vùng biển và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh và các nhiệm vụ khác được giao. + Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân trong công ty. - Quyền hạn của Công ty. + Công ty có quyền sử dụng đất đai, vốn, vùng biển, tài nguyên, có quyền phân giao lại cho các đơn vị thành viên quản lý, sử dụng các nguồn lực mà Tổng Công ty đã nhận của Nhà nước, điều chỉnh những nguồn lực đã phân giao cho các đơn vị thành viên trong trường hợp cần thiết phù hợp với kế hoạch phát triển chung của Tổng Công ty. + Có quyền liên doanh, liên kết, chuyển nhượng cho thuê thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của Tổng Công ty. I.3. Bộ máy quản lý điều hành. I.3.1. Hội đồng quản trị. + Tổng Công ty Petro Vietnam được quản lý bởi Hội đồng quản trị và được điều hành bởi tổng giám đốc. + Hội đồng quản trị do Thủ tướng và Chính phủ lập ra bao gồm 1 chủ tịch hội đồng quản trị và 6 thành viên của hội đồng quản trị là các chuyên gia về quản lý kinh tế, tài chính, hoá dầu, khai thác - thăm dò địa chất. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước Nhà nước về vốn, tài sản mà Nhà nước giao cho. Ngoài ra hội đồng quản trị điều hành trực tiếp Ban kiểm soát thanh tra để kiểm tram, giám sát các hoạt động điều hành của Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc, hàng quí, cuối năm phải báo cáo lên hội đồng quản trị về tình hình hoạt động điều hành của Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc. I.3.2. Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc. - Tổng giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong Tổng Công ty. Tổng giám đốc do Thủ tướng Chính phủ cử ra để điều hành Tổng Công ty. Thường xuyên phải báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh lên Thủ tướng và Chính phủ. - Phó Tổng giám đốc cũng do Thủ tướng cử ra và có quyền bãi miễn (thường có 6 phó tổng giám đốc) là người giúp tổng giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực khác theo phân công hoặc uỷ quyền của Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật. - Kế toán trưởng Tổng Công ty giúp Tổng giám đốc chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê của Tổng công ty. - Trưởng phòng kế hoạch Tổng công ty giúp Tổng giám đốc chỉ đạo tổ chức thực hiện và đưa ra các kế hoạch sản xuất trong thời gian tới và điều hành quá trình sản xuất ở các đơn vị thành viên. Sơ đồ cơ cấu tổ chức điều hành của Tổng công ty C.ty chế biến sản phẩm dầu (PVPDC) Văn phòng C.ty chế biến kinh doanh sản phẩm khí (PVGC) Phòng thanh tra C.ty thiết kế - xây dựng dầu khí (PVECC) Phòng đào tạo C.ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí (PTSC) C.ty dịch vụ khoan - hoá phẩm dầu khí (DMC) Tổ chức nhân sự C.ty thương mại dầu khí (Petechim) Phòng kế hoạch C.ty dịch vụ du lịch dầu khí (PVTSC) Phòng tài chính TGĐ - Các phó TGĐ Hội đồng quản trị Bảo hiểm dầu khí (PVIC) Phòng thương mại C.ty thăm dò - khai thác dầu khí (PVEP) Phòng kế toán C.ty giám sát hợp đồng chia sản phẩm (PVSC) Phòng hợp tác q.tế TT. đào tạo - cung ứng nguồn lực DK (PVTMSC) P. thăm dò – k.thác Viện dầu khí (VPI) P.chế biến dầu khí Trung tâm nghiên cứu phát triển (RDCPP) Phòng vận chuyển xử lý phân phối khí Trung tâm an toàn môi trường dầu khí (RDCPSE) Trung tâm thông tin tư liệu dầu khí (PIC) Phòng khoa học công nghệ và môi trường - Các phòng ban khác trong Tổng công ty hoạt động theo đúng chức năng và quy định của pháp luật , điều lệ hoạt động của Tổng giám đốc để tham mưu , giúp việc cho Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong việc quản lý điều hành công việc. I.3.3. Quyền - nghĩa vụ của các đơn vị thành viên và mối quan hệ với Tổng Công ty. Hiện nay Tổng Công ty có 15 đơn vị thành viên trong đó có 8 đơn vị là doanh nghiệp hạch toán độc lập, 3 đơn vị hạch toán phụ thuộc 4 đơn vị sự nghiệp. - Các giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng các đơn vị do Tổng giám đốc và ban lãnh đạo Tổng Công ty đề cử ra để quản lý phần vốn tài sản của Tổng Công ty ở các doanh nghiệp thành viên. - Các DNNN hạch toán độc lập trong Tổng Công ty: Có quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ tài chính chịu sự ràng buộc, quyền lợi - nghĩa vụ đối với Tổng công ty. + Trong chiến lược phát triển và đầu tư phát triển được giao hoặc được uỷ quyền tổ chức thực hiện các dự án đầu tư phát triển theo kế hoạch của Tổng Công ty. Doanh nghiệp tự đầu tư những công trình dự án phát triển không nằm trong các dự án cho tổng công ty trực tiếp điều hành. + Trong kinh doanh các doanh nghiệp xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch của mình trên cơ sở: Bảođảm các chỉ tiêu, mục tiêu cân đối lớn. Kế hoạch mở rộng kinh doanh trên cơ sở sử dụng tối ưu mọi quyền lực mà doanh nghiệp có và tự huy động phù hợp với nhu cầu thị trường. Được quyền huy động vốn, các nguồn tín dụng khác theo pháp luật để thực hiện kinh doanh đầu tư phát triển của mình - Các đơn vị hạch toán phụ thuộc. + Là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo phân cấp của Tổng Công ty chịu sự rằng buộc về nghĩa vụ - quyền lợi đối với Tổng Công ty. Tổng Công ty là người chịu trách nhiệm cuối cùng về các nghĩa vụ tài chính. - Được ký kết các hợp đồng kinh tế được chủ động thực hiện các hoạt động kinh doanh, tài chính, tổ chức và nhân sự theo sự phân cấp hoặc uỷ quyền của Tổng công ty. Những nghĩa vụ và quyền hạn của các đơn vị hạch toán phụ thuộc được cụ thể hoá trong điều lệ tổ chức và hoạt động do hội đồng quản trị phê duyệt. - Các đơn vị sự nghiệp : Các đơn vị này có quy chế và tổ chức hoạt động do HĐQT phê duyệt, thực hiện chế độ lấy thu bù chi, được tạo nguồn thu từ việc thực hiện dịch vụ, ký kết hợp đồng nghiên cứu khoa học và đào tạo cho các đơn vị trong và ngoài nước được thụ hưởng phân phối quĩ khen thưởng và quĩ phúc lợi theo chế độ. Trong trường hợp thấp hơn mức bình quân của của Tổng Công ty thì có thể được hỗ trợ từ quĩ khen thưởng và phúc lớn của Tổng công ty. + Riêng đối với xí nghiệp liên doanh VietSovpetro mà PETROVIETNAM là một phía tham gia là một dạng đặc biệt, khác với các liên doanh khác vì nó là một liên doanh theo hiệp định liên Chính phủ. Do đó hoạt động dầu khí và hạch toán theo các quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. + Các đơn vị liên doanh khác mà Tổng Công ty hoặc doanh nghiệp thành viên Tổng Công ty trực tiếp tham gia quản lý và điều hành, hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài, Luật Công ty và các luật khác có liên quan của Nhà nước Việt Nam Tổng công ty hoặc các doanh nghiệp thành viên của Tổng Công ty thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ - trách nhiệm của các liên doanh này các hoạt động tài chính theo quy định của pháp luật và theo hợp đồng đã ký kết. II- Thực trạng quá trình sản xuất - kinh doanh của Tổng Công ty II.1. Thăm dò và khai thác dầu khí (thượng nguồn) - Công tác thăm dò khai thác dầu khí ở Việt Nam đã được khởi nguồn từ những năm 60 khi các nhà địa chất liên đoàn 36 với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô (cũ) bắt đầu tiến hành khảo sát thực địa lập bản đồ và khoan các giếng khoan tìm kiếm dầu khí đầu tiên ở đồng bằng sông Hồng và Trũng An Châu. - Vào những năm 1973 - 1974 khi ở đồng bằng sông Hồng có các phát hiện dầu khí tại Tiền Hải (Thái Bình) thì công cuộc khoan thăm dò dầu khí cũng được bắt đầu ở thềm lục địa Nam Việt Nam. Trong thời gian này chính quyền Sài Gòn đã ký hợp đồng đặc nhượng ở 17 lô với 9 tổ hợp Công ty dầu khí quốc tế như Mobil, Pecten, Sunning Dale, Union Texas, Marathon... các Công ty này đã khoan 6 giếng thăm dò , phát hiện dầu khí tại các giếng Bạch Hổ - 1X, Mía - 1X, Dữa - 1X - Thời kỳ 1975 - 1987. Tuy bị cấm vận của Mỹ nhưng công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí vẫn được thúc đẩy một cách tích cực. Từ 1977 đến 1980 Việt Nam đã ký 3 hợp đồng phân chia sản phẩm với các công ty AGIP (Italia) Deninex (CH LB Đức), Bow VAlley (Canada) khoan 9 giếng trong đó có một giếng phát hiện tại các lô 04 và 12. - Từ sau 1975 đến nay Tổng Công ty đã thực hiện một khối lượng công việc to lớn khoan và thăm dò hơn 300.000 km2 tuyến địa chấn 2D và 3 D, thu nổ và xử lý trên tổng diện tích hơn 300.000 km2 của hơn 30 lô hợp đồng, khoan hơn 150 giếng thăm dò với tổng chi phí gần 4 tỷ USD. - Công tác thăm dò tìm kiếm của Tổng Công ty đã thực sự phát triển cả về diện rộng lẫn chiều sâu với hiệu quả cao tại các bể trầm tích như: Bể sông Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Thềm Tây Nam, bể Phú Khánh, Bể Vũng Mây- Tư Chính. Bảng 4: Kết quả công tác thăm dò. Tên mỏ Năm Phát hiện Người điều hành Mỏ đang khai thác Bạch Hổ 1985-1986 Oil VIET SOVPETRO Tiền Hải C 1975 Gas THAI BINH Rồng 1988/1994 Oil VIET SOVPETRO Đại Hùng 1994 Oil VIET SOVPETRO Bungakekwa (PM3) 1997 Oil LUNDIN Rạng Đông 1998 Oil JVPC Ruby 1998 Oil PETRNAS Các phát hiện Tam Đảo 1988 Oil VIET SOVPETRO Bà Đen 1989 Oil VIET SOVPETRO Ba Vì 1989 Oil VIET SOVPETRO Sói 1989 Oil VIET SOVPETRO Cam 1990 Oil INTEROIL Lan Đỏ 1993 Gas BP/STATOIL/ONGC Lan Tây 1993 Gas BP/STATOIL/ONGC Rồng Bay 1994 Oil/gas PEDCO Mộc Tinh 1995 Gas AEDC Cá Chó 1995 Gas/oil TOGI Kim cương tây 1995 Oil/gas BP/STATOIL Rồng Đôi 1995 Gas/oil PEDCO Hải Thạch 1996 Gas/oil BP/STATOIL Năm Căn-Đầm Dơi 1996 Oil/gas PETROFINA Sông Trà Lý 1996 Gas ANZOIL Hải Âu 1996 Gas CANPETROLEUM - Cho đến nay đã phát hiện được 23 mỏ cả dầu lẫn gas. Trong đó có 6 mỏ dầu và 1 mỏ khí đang được khai thác (bảng 4). Qua đó cho chúng ta thấy được thành tựu to lớn của Tổng Công ty dầu khí Việt Nam trong lĩnh vực thăm dò và tìm kiếm dầu khí. II.2. Khai thác sản xuất khí thiên nhiên. Mỏ khí Tiền Hải C (Thái Bình) với trữ lượng 1,3tỷ m3 đã bắt đầu được khai thác từ mùa hè 1981. Tuy nhiên sự khởi đầu hết sức khiêm tốn nhưng hoàn toàn thuyết phục của ngành dầu khí. Sản lượng khí này đã có những đóng góp kịp thời khắc phục tình trạng thiếu điện nghiêm trọng và nâng cao giá trị của các sản phẩm đồ sứ, xi măng trắng, thuỷ tinh cao cấp, vật liệu xây dựng. .. tuy tất cả đều có quy mô nhỏ nhưng có ý nghĩa rất lớn đối với một tỉnh lúa như Thái Bình trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội rất khó khăn lúc bấy giờ. Tuy nhiên ý tưởng về một ngành công nghiệp khí đốt, chỉ thực sự hình thành từ đầu những năm 90, khi sản lượng khí đồng hành của mỏ Bạch Hổ trở nên có ý nghĩa hơn (hơn 1 tỷ m3 phải đốt bỏ hàng năm). Một dự án đồng bộ có tổng dự đoán lên tới 460 triệu USD đã được thiết lập. Do việc đàm phán với các nhà đầu tư nước ngoài kéo dài, trong khi đó lượng khí cứ tiếp tục bị đốt bỏ, Tổng công ty đã phải từng bước tự thu xếp vốn để thuê làm thiết kế tổng thể và đồng thời tổ chức đấu thầu xây dựng ngay phần đường ống ngoài biển từ cuối năm 1993. Đây là công trình đầu tay của công nghiệp khí Việt Nam được hoàn thành 4/1995, cung cấp 17 triệu m3/ngày cho nhà máy điện Bà Rịa, thay thế cho 180.000 tấn dầu Diesel (DO) hàng năm phải nhập khẩu để phục vụ cho nhà máy điện. Công trình này đã đánh giá dầu sự khởi đầu đáng khích lệ của một nền công nghiệp khí thực thụ. - Đến đầu năm 2000 công trình đường ống dẫn khí Bạch Hổ đã đi vào ổn định với công suất đưa lên bờ là 4 triệu m3/ngày. Bên cạnh đó nhà máy khí hoá lỏng (LPG) Dinh Cố chính thức đi vào hoạt động từ ngày 9/7/2000 bắt đầu cung cấp LPG cho thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước giảm bớt lượng khí phải nhập khẩu để tiết kiệm ngoại tệ. Trong 2000 sản lượng khí LPG đạt 156.656 tấn trong đó 132.164 tấn được cung cấp cho thị trường trong nước và 24.492 tấn bán ra thị trường nước ngoài. - Tiềm năng tương lai của ngành khí rất to lớn trữ lượng tiềm năng dự đoán khoảng 2.100 tỷ m3 và trữ lượng xác minh có thể thu hồi là 530 tỷ m3. Các dự án khí Nam Côn Sơn (các mỏ Rồng Đôi, Mộc Tinh, Cá Chó, Hải Thạch, Hải Âu) đang tiếp tục được triển khai thẩm lượng các mỏ và sớm sẽ trở thành cột sống của công nghiệp khí Việt Nam. II.3. Phát triển lĩnh vực hạ nguồn. Tổng Công ty PETROVIETNAM được Nhà nước giao nhiệm vụ triển khai các hoạt động khép kín trong những năm tới bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động thuộc khâu thăm dò khai thác, việc tích cực triển khai các hoạt động hạ nguồn (lọc dầu, hoá dầu, chế biến kinh doanh các sản phẩm dầu khí) sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu của tổng Công ty dầu khí Việt Nam. - Trong giai đoạn 2001 - 2005 Tổng Công ty dầu khí Việt Nam sẽ tập trung đẩy mạnh khâu chế biến dầu khí nhằm từng bước bảo đảm nhiên liệu cho phát triển đất nước, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp hoá dầu đặc biệt là nguyên liệu sản xuất sợi tổng hợp cho ngành công nghiệp may mặc, dệt, sản xuất phân đạm, chất nổ, chất dẻo nguyên liệu cho các ngành công nghiệp như dầu nhờn, nhựa đường... - Lọc dầu: Để đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm xăng dầu của thị trường trong nước giai đoạn sau năm 2001 (2001 - mức tiêu thụ 8 triệu tấn, dự kiến 2005 là 13-16 triệu tấn/năm) đồng thời đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước và làm tiền đề cho sự phát triển 2 dự án xây dựng nhà máy lọc dầu. - Dự án nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất: Được khởi công động thổ vào năm 1999 dự kiến năm 2005 đi vào hoạt động. Đây là xí nghiệp liên doanh giữa Tổng Công ty dầu khí Việt Nam và liên đoàn kinh tế đối ngoại Nga (Zaru beznheft) với tỷ lệ góp vốn 50/50. Công suất 6,5 triệu tấn/năm trong giai đoạn đầu chủ yếu chế biến dầu thô Việt Nam. Sản phẩm của nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất bao gồm: LPG, xăng không chì, dầu hoả, nhiên liệu phản lực, nhiên liệu diesel vận tải, diesel công nghiệp, FO và Propylene làm nguyên liệu sản xuất Polprropylene. Các sản phẩm này đều đảm bảo theo tiêu chuẩn Việt Nam và khu vực và được ưu tiên phục vụ nhu cầu thị trường trong nước (sẽ đáp ứng khoảng 50% nhu cầu nội địa). Tuy nhiên theo kế hoạch sau khi nhà máy lọc dầu số 1 đi vào hoạt động thì mới chỉ cung cấp được 50% nhu cầu thị trường nội điạ vào năm 2005. Do đó việc triển khai xây dựng nhà máy lọc dầu số 2 với công suất 7-8 triệu tấn/năm để đảm bảo hơn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp hoá dầu là nhu cầu khách quan và là nhiệm vụ quan trọng nhất trong chiến lược phát triển khâu sau của Tổng công ty dầu khí Việt Nam - Dự án sản xuất nhựa đường: Cũng trong lĩnh vực chế biến, dự án sản xuất và phân phối nhựa đường liên doanh giữa Tổng Công ty dầu khí Việt Nam với tập đoàn Total-Elf-fina có tổng số vốn đầu tư 200 triệu USD được xây dựng tại Bà Rịa - Vũng Tàu có công suất 200.000 tấn/năm và còn một số sản phẩm kèm theo là 400.000 tấn dầu mazuts (FO) và 500.000 tấn dầu Diezel (DO) phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. - Hoá dầu: Công nghiệp hoá dầu là một ngành công nghiệp rất mới mẻ ở Việt Nam. Do điều kiện chủ quan và tình hình kinh tế Việt Nam chưa có điều kiện xây dựng các khu liên hiệp lọc hoá dầu hoàn chỉnh. Để đáp ứng nhu cầu thị trường và xuất phát từ xây dựng ngành công nghiệp hiện đại, phục vụ công cuộc CNH - HĐH đất nước. Tổng Công ty đã chủ trương phát triển ngành công nghiệp hoá dầu theo hướng từ nhập mononer từ nước ngoài về chế biến sản xuất các sản phẩm hoá dầu trong giai đoạn đầu, sau đó tiến tới sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước qua việc hình thành và phát triển các tổ hợp hoá dầu trên cơ sở nguồn nhiên liệu từ dầu và khí, tạo thành một chu trình khép kín từ khâu lọc dầu đến khâu hoá dầu. - Hiện nay Tổng Công ty đã thực hiện dự án sản xuất DOP công suất 300.000 tấn/năm đi vào hoạt động từ 7/1998 và đang triển khai hoàn thành đầu tư vào các dự án sản xuất PVC có công suất 100.000 tấn/năm, sản xuất chất tẩy rửa LAB công suất 80.000 tấn/năm, nhà máy phân đạm Phú Mỹ công suất 800.000 tấn. Dự kiến các dự án này sẽ đi vào hoạt động vào năm 2004 - 2005. - Phân phối và kinh doanh cũng là một phần quan trọng trong hoạt động của Tổng Công ty. Đây là lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đội ngũ cán bộ có trình độ cao về quản lý và kinh doanh để phát triển kinh doanh xăng dầu, đảm bảo cho việc kinh doanh - phân phối sản phẩm từ nhà máy lọc dầu số 1 và số 2 và xây dựng Tổng công ty dầu khí Việt Nam thành một tổ hợp sản xuất khép kín. - Hiện nay Tổng Công ty đã lập quy hoạch tổng thể về phát triển hệ thống cơ sở cũng như mạng lưới phân phối và kinh doanh sản phẩm dầu khí để phục vụ công tác bán buôn và bán lẻ bao gồm hệ thống tổng kho dầu mới từ Bắc - Trung - Nam phía Nam Cần Thơ và Nhà Bè với Tổng công suất 65.000m3 đảm bảo sức chứa để kinh doanh tại khu vực Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Khu vực miền Trung sử dụng hệ thống kho sản phẩm 247.000m3 của nhá máy lọc dầu Dung Quất. Miền Bắc tổng kho xăng dầu Đình Vũ (Hải Phòng) với công suất 45.000m3 đã bắt đầu xây dựng 3-2001. Ngoài ra còn có các hệ thống cây xăng bán lẻ, phương tiện vận tải ô tô, tàu biển nhằm phục vụ cho việc tiêu thụ sản phẩm của nhà máy lọc dầu tương lai. II.4. Dịch vụ dầu khí. - Trong hơn 25 năm xây dựng và phát triển TCông ty dầu khí Việt Nam từ những cơ sở vật chất nghèo nàn ban đầu với đội ngũ cán bộ công nhân viên chức vừa ít về số lượng, vừa mới lạ đối với ngành dịch vụ nhưng cùng với sự phát triển của ngành dầu khí công tác dịch vụ dầu khí đã vươn lên và đạt được những thành tựu đáng kể. -Về mặt các loại hình dịch vụ từ chỗ chỉ có một số loại hình dịch vụ đơn giản kỹ thuật thấp như dịch vụ cung cấp lao động giản đơn, dịch vụ sinh hoạt.... đến nay phía Tổng Công ty đã có khả năng cung cấp được nhiều loại hình dịch vụ khác nhau từ đơn giản đến phức tạp như dịch vụ căn cứ, dịch vụ tàu thuyền bao gồm cả tàu bảo vệ và tàu chuyên dùng, dịch vụ trực thăng, dịch vụ chống sự cố dầu tràn, dịch vụ xây lắp các công trình dầu khí biển, bảo hiểm phân tích mẫu, sửa chữa bảo dưỡng, xây dựng biển, dự báo thời tiết, thông tin liên lạc, cung cấp lao động kỹ thuật cho thuê văn phòng v.v... Trong đó một số loại hình dịch vụ như căn cứ, tàu bảo vệ, dịch vụ bay.... Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã chiếm được tỷ trọng cao từ 60-80% thị trường. Các loại hình dịch vụ do Tổng công ty cung cấp ngày càng đạt các tiêu chuẩn chất lượng cao và đã được các nhà thầu quốc tế như BPAmoco, Shell, Unocal,Total... đánh giá cao về chất lượng dịch vụ. Ngoài ra Tổng Công ty không những chỉ cung cấp các dịch vụ kỹ thuật cho ngành dầu khí Việt Nam mà ngày càng mở rộng triển khai các dịch vụ kỹ thuật ở nước ngoài như ở Lào, Mông Cổ.... II.5. Nghiên cứu khoa học và công nghệ - Tổng Công ty dầu khí Việt Nam đã và đang từng bước phát triển và trở thành một ngành công nghiệp dầu khí tương đối hoàn chỉnh từ thượng nguồn (thăm dò, tìm kiếm, khai thác) đến khâu hạ nguồn (vận chuyển - tàng trữ - chế biến - kinh doanh và dịch vụ dầu khí) - So với đặc thù là ngành công nghiệp hiện đại có kỹ thuật phức tạp, yêu cầu vốn đầu tư lớn và mang tính rủi ro cao, những thành tựu mà ngành dầu khí đạt được bao gồm cả rất nhiều yếu tố. Nhưng trong đó có yếu tố hết sức quan trọng đó có yếu tố hết sức quan trọng đó là việc nghiên cứu khoa học, triển khai áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới vào điều kiện Việt Nam. - Hiện nay Tổng Công ty dầu khí Việt Nam có 4 đơn vị nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ là: - Viện dầu khí - Trung tâm nghiên cứu và phát triển chế biến dầu khí - Trung tâm an toàn - môi trường dầu khí - Trung tâm thông tin - tư liệu dầu khí. - Ngoài ra xí nghiệp liên doanh Viet Sovpetro có Viện nghiên cứu khoa học và thiết kế dầu khí biển. - Chức năng, nhiệm vụ của hệ thống nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ bao gồm: + Nghiên cứu đánh giá tiềm năng và quy luật hình thành, phân bổ dầu khí trên phạm vi toàn lãnh thổ và thềm lục địa Việt Nam. + Nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong thăm dò, khai thác, vận chuyển chế biến dầu khí và hoá dầu, cũng như trong lĩnhvực kỹ thuật an toàn và bảo vệ môi trường. + Thực hiện các dịch vụ khoa học, tư vấn khoa học và phân tích mẫu (đất đá, dầu khí, nước v.v...) cho các công ty dầu khí đang hoạt động ở Việt Nam. + Nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến trong xây dựng hệ thống quản lý và khai thác các thông tin, tư liệu dầu khí do người sử dụng thông tin ở trong và ngoài nước. - Các đơn vị nghiên cứu khoa học và công nghệ trong ngành dầu khí có một đội ngũ cán bộ khoa học được đào tạo ở trong nước và từ nhiều nước trên thế giới đã qua thực tiễn sản xuất ở Việt Nam, có đủ năng lực chủ trì và thực hiện các chương trình nghiên cứu quan trọng trong tất cả các lĩnh vực, từ khâu trước đến khâu sau nhằm giải quyết các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của ngành. Hệ thống nghiên cứu khoa học công nghệ ngày càng được Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đầu tư trang bị, các bộ chương trình (Soft Ware) (xử lý, mô phỏng, thiết kế...) khá hiện đại , có khả năng phân tích, thí nghiệm, tính toán... đáp ứng được các yêu cầu của sản xuất. - Với việc tăng cường công tác đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực cho công tác khoa học công nghệ và đổi mới cơ chế quản lý công tác nghiên cứu khoa học công nghệ với sản xuất, các tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đang phấn đấu để vươn tới trình độ khu vực và quốc tế. II.6. Nguồn nhân lực - Qua 25 năm xây dựng và phát triển của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đến nay Tổng Công ty đã xây dựng được đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật có trình độ chính trị, quản lý, chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh của ngành. Từ chỗ chỉ có 2001 khi mới thành lập, đến nay đội ngũ cán bộ công nhân viên của ngành đã lên tới 14.000 người bao gồm các ngành nghề khác nhau của công nghiệp dầu khí đã được đào tạo ở trong và ngoài nước với cơ cấu trình độ như sau: - Trên đại học: 1% - Đại học: 32% - Trung cấp: 15% - Công nhân kỹ thuật: 52%. Tỷ lệ cán bộ khoa học công nghệ và công nhân kỹ thuật, kỹ sư là khá cao chiếm 83% so với một số ngành cán bộ công nhân viên của ngành có trình độ đại học và cao đẳng chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều. - Trong những năm qua, ngoài việc ổn định sắp xếp lại cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã không ngừng xây dựng và phát triển nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ nhân viên của mình. Chỉ tính từ năm 1991 đến hết 2000 đã có 10.636 lượt cán bộ công nhân viên được tham gia các chương trình đào tạo, bỗi dưỡng ở trong nước và nước ngoài, cụ thể: - Đào tạo tiến sĩ: 19 người. - Đào tạo cao học: 90 người. - Đào tạo nâng cao: 1452 người. - Đào tạo cơ bản: 1786 người. - Đào tạo chuyên sâu: 1289 người. Vì vậy đội ngũ cán bộ công nhân viên của Tổng Công ty đã có đủ năng lực quản lý, điều hành và triển khai mọi lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty cũng như giám sát hoạt động dầu khí của các nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam. III- Phân tích hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam. III.1. Đặc điểm lợi thế cạnh tranh của dầu thô Việt Nam. Việt Nam bắt đầu khai thác dầu thô năm 1986 tại mỏ Bạch Hổ do xí nghiệp liên doanh VietSovPetro từ đó đến nay sản lượng khai thác ngày một tăng 15 triệu tấn năm 2000 và 16 triệu tấn năm 2001. - Đặc điểm thành phần của dầu mỏ ở các mỏ hiện nay là gần như nhau, đặc trưng là giàu hàm lượng Prafin và hàm lượng lưu huỳnh chiếm khoảng 0,06 - 0,1%. Tỷ lệ này thấp hơn so với các loại dầu mỏ trên thế giới (tỷ lệ này trung bình 2 - 3%, thậm chí là 5% ở các nước có sản phẩm dầu mỏ). Bảng 5: Thành phần hoá lý cơ bản của dầu mỏ Bạch Hổ và Rồng Stt Chỉ tiêu Bạch hổ Rồng 1 Tỷ trọng kg/m3 ở 200C 829-860 830-930 2 Hàm lượng tạp chất 0,064 0,06-0,40 3 Nhiệt độ đông đặc (0C) 30-34 28-33 4 Độ nhớt ở: 500C 6-14 8-63 700C 6-4 5-30 5 Hàm lượng lưu huỳnh 0,065-0,1 0,013-0,13 6 Hàm lượng parafin 20-25 11-21 7 Hàm lượng nhựa đường 2,7-11,8 9,4-21,9 8 Nhiệt độ nóng chảy Parafin (0C) 56-59 56-58 Đặc trưng này của dầu mỏ Việt Nam đã hấp dẫn đối với tất cả các khách hàng. Ngày nay do quá trình sản xuất công nghiệp ngày ._.càng làm cho môi trường trở nên ô nhiễm, công việc bảo vệ và làm sạch môi trường đã trở nên mang tính cấp bách, chiến lược toàn cầu, cho nên sản phẩm dầu thô có chứa hàm lượng lưu huỳnh thấp ngày càng trở nên có giá trị. Hơn nữa dầu thô Việt Nam chứa hàm lượng Parafin cao (chuỗi Hydro các bon) nhiệt đô đông đặc rất cao 30-340C đã đông đặc do đó rất khó khăn cho quá trình vận chuyển cho nên dầu thô Việt Nam luôn phải xử lý để nhiệt độ luôn ở mức 50-600C để đảm bảo không bị đông đặc trong quá trình vận chuyển. Xăng dầu được sản xuất ra từ dầu thô có chứa hàm lượng Parafin cao chứa ít độc hại hơn xăng dầu được sản xuất ra từ dầu thô chứa hàmg lượng chứa lưu huỳnh nhiều (do sản xuất ra xăng pha chì, có hại cho môi trường). Bên cạnh đó, phải tốn kém chi phí rất lớn để xử lý hàm lượng lưu hùynh trong dầu thô và sản phẩm. III.2. Nguồn hàng - thực trạng khai thác dầu của Tổng Công ty dầu khí Việt Nam. Ngành dầu khí Việt Nam còn rất non trẻ được thành lập hơn 25 năm nay. Năm 1986 đánh dấu sự khởi đầu của ngành dầu khí Việt Nam, dầu thô lần đầu tiên được khai thác từ mỏ Bạch Hổ với sản lượng khiêm tốn 40.000 tấn từ đó đến nay sản lượng hàng năm liên tục tăng. Sản lượng dầu thô bắt đầu gia tăng trên 1triệu tấn từ 1989 đến 1998 trở lại đây hàng năm khai thác trên 10 triệu tấn (trung bình tốc độ khai thác năm trước so với năm sau tăng từ 10 - 15%) ( Biểu đồ sản lượng phía dưới ). Đến năm 2000 tổng sản lượng khai thác đạt 84 triệu tấn và đến tháng 3/2001 Tổng Công ty đã kỷ niệm tấn dầu thứ 100 triệu của mình. Bảng 6: Sản lượng khai thác ở các mỏ. Đơn vị: 1.000 tấn Tên mỏ 1998 1999 2000 2001 SL % SL % SL % SL % Bạch Hổ 8.956 85,5 10.178 80,7 11.596 76,2 11.900 74 Rồng 506 5,0 512 4,0 528 3,5 600 3,8 Đại Hùng 304 3,0 320 2,5 360 2,4 420 2,7 PM3 250 2,5 290 2,3 330 2,2 390 2,5 Ruby - - 560 4,5 1.054 6,9 1.240 7,88 Rạng Đông - - 750 6 1.346 8,8 1.450 9,12 Tổng 10,016 100 12.610 100 15.214 100 16.000 100 Hiện nay đang có 6 mỏ dầu và 1 mỏ khí đang được khai thác,trong đó khí đồng hành mới được đưa vào sử dụng từ mỏ Bạch Hổ. + Mỏ dầu thứ nhất: là mỏ Bạch Hổ đưa vào khai thác mùa hè 1986, sản lượng từ mỏ Bạch Hổ chiếm 80% trong tổng sản lượng dầu được khai thác của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam. Mỏ Bạch Hổ do xí nghiệp Viet Sovpetro đảm nhiệm khai thác, sản lượng bình quân 200.000 - 250.000 thùng/ngày. Hàng năm sản lượng khai thác dầu cảu Viet Sovpetro luôn vượt mức kế hoạch đề ra, tính từ năm 1998 đến năm 2001 tổng sản lượng khai thác của Viet Sovpetro là 42,63 triệu tấn tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 10% về khối lượng. Chỉ riêng trong 4 năm 1998 đến hết năm 2001 sản lượng khai thác đã tăng lên 3 triệu tấn (bảng 6) + Mỏ dầu thứ 2: là Mỏ Rồng, nằm ở phía Tây Nam của mỏ Bạch Hổ được phát hiện năm 1988 và đến cuối năm 1994 mới bắt đầu khai thác. Mỏ Rồng cũng do Viet Sovpetro điều hành khai thác, sản lượng của mỏ thấp chỉ chiếm khoảng 4-5% trong tổng sản lượng dầu khai thác của Tổng công ty, sản lượng trung bình là 12-16 ngàn thùng/ngày theo bảng 6 cho thấy 4 năm liền sản lượng của Mỏ Rồng tăng đều đặn năm 2001 so với năm 1998 tăng 94.000 tấn, tốc độ tăng trưởng sản lượng bình quân 6%/năm. Hiện nay là mỏ dầu Biểu đồ sản lượng khai thác dầu của tổng công ty dầu khí việt nam đứng thứ 4 trong tổng 6 mỏ dầu của Tổng công ty về khai thác dầu thô. + Mỏ thứ 3: là mỏ Đại Hùng thuộc lô 05 bể Nam Côn Sơn được phát hiện 1993 và đi vào khai thác năm 1994, do Viet Sovpetro điều hành sản lượng khai thác thấp đứng thứ 5 trong tổng 6 mỏ, sản lượng khai thác dầu chiếm 2-3% trong tổng sản lượng khai thác dầu của Tổng công ty (bảng 6), trung bình 10-15 nghìn thùng/ngày + Mỏ thứ 4: Là mỏ PM3 (Bungakek wa - Cái Nước), đây là mỏ phát triển chung với Malaysia ở vùng biển Tây Nam (vùng chồng lẫn giữa 2 nước) do nhà thầu Lundin điều hành khai thác, sản lượng của mỏ thấp nhất trong 6 mỏ dàu, chỉ chiếm 2-2,5% trong tổng sản lượng khai thác (bảng 6), sản lượng bình quân 13 nghìn thùng/ngày. Trong 4 năm từ 1998 (bắt đầu khai thác) đến hết năm 2001 tổng sản lượng khai thác chỉ đạt 1,26 triệu tấn. Sản lượng này so với các mỏ khác là quá nhỏ bé, kém 35 lần so với sản lượng của mỏ Bạch Hổ (cũng trong 4 năm liền tính từ 1998 - 2001). + Mỏ dầu thứ 5: là mỏ Rạng Đông (lô 15-2) thuộc bể Cửu Long hpát hiện năm 1994 và bắt đầu đưa vào khai thác năm 1999 do nhà điều hành JVPC (Nhật Bản) điều hành khai thác mỏ. Hiện nay sản lượng khai thác của mỏ Rạng Đông đứng thứ hai trong tổng só 2 mỏ, năm 2001 đạt 11,836 triệu thùng (1,45 triệu tấn) sản lượng bình quân là 33.000 thùng/ngày. + Mỏ thứ 6: Là mỏ Ruby (lô 01-02) cũng thuộc bể Cửu Long được phát hiện năm 1994 và đã đi vào khai thác 1999 do nhà điều hành Petronas (Malaysia) điều hành khai thác. Sản lượng khai thác của mỏ Ruby đứng thứ 3 trong tổng số 6 mỏ và năm 2001 sản lượng đã đạt 8,321 triệu thùng (khoảng 1,24 triệu tấn _bảng6) sản lượng bình quân là 23.000 thùng dầu/ngày. - Cơ sở vật chất kho chứa dầu thô + Bất kỳ một hàng hoá nào khi kinh doanh cũng phải có sự dự trữ, một điều tất yếu khách quan có sự dự trữ để đảm bảo quá trình kinh doanh được liên tục và để đối phó kịp thời với những biến động của thị trường trong quan hệ cung - cầu, giá cả. - Dầu thô cũng thế, cũng phải có kho dự trữ, nhưng nói khác với các mặt hàng hoá thông thường khác. Vì cơ sở sản xuất - khai thác dầu chủ yếu ngoài biển khơi rất xa bờ, đặc điểm dầu thô là dạng lỏng do vậy việc xây dựng kho cảng hàng hoá như các kho cảng bình thường khác là không thể được. Do vậy kho dự trữ dầu thô được đặt ngoài biển và gần nơi khai thác và thường được gọi là kho chưá nổi không bến. Tầu chứa dầu - (kho chứa dầu) có thể di chuyển thuận tiện trên biển và rất linh hoạt trong việc san hàng sang các tầu mua hàng khác đây cũng chính là điểm khác với các kho chứa hàng hoá thông thường. Bảng 7: Kho chứa dầu thô ở các mỏ. Mỏ dầu Tên tầu Sức chứa Kiểu tầu Sở hữu Bạch Hổ + Rồng Chí Linh 150.000 tấn FPSO Mua Chi Lăng 150.000 tấn FPSO Mua Ba vì 150.000 tấn FPSO Mua Vietsovpetro 1 150.000 tấn FPSO Mua Rạng Đông Rạng Đông 1 150.000 tấn FPSO Thuê Ruby Ruby Princess 110.000 tấn FPSO Thuê Đại Hùng Hakariorient 230.000 tấn TANKER Thuê Bảng trên cho thấy hiện nay Tổng Công ty có 7 tầu chứa dầu thô và được phân bố tập trung ở gần các mỏ. + Tại mỏ Bạch Hổ và Rồng (gần mỏ Bạch Hổ) có 4 tầu chứa dầu (Chí Linh, Chi Lăng, Ba Vì, Vietsopetro 01) có tổng sức chứa 600.000 tấn và là tầu do Tổng Công ty bỏ tiền ra mua. Dung tích của 4 tầu chỉ đủ dự trữ được trong vòng 10 - 15 ngày là đầy. + Tại mỏ Rạng Đông: có một tầu chứa dầu (Rạng Đông 01) có sức chứa 150.000 tấn do Tổng Công ty đi thuê để phục vụ cho việc dự trữ của mỏ Rạng Đông. Sức chứa của tầu chỉ dự trữ được trong vòng 20 ngày là đầy tầu. + Tại mỏ Ruby: có một tầu chứa dầu (Ruby Princess) có sức chứa 110.000 tấn cũng do Tổng Công ty đi thuê phục vụ cho việc dự trữ dầu khai thác của mỏ Ruby và sức chứa của tầu cũng chỉ giới hạn được 20 ngày. + Tại mỏ Đại Hùng: có một tầu chứa dầu (Hakari orient) có sức chứa 230.000 tấn. Tổng Công ty cũng phải đi thuê để phục vụ việc dự trữ dầu thô của mỏ Đại Hùng. Riêng tầu Hakari orient đảm bảo được mức dự trữ trong cả một quý. + Tại mỏ PM3: do đây là mỏ phát triển chung giữa Việt Nam - Malaysia, quyền lợi phía Việt Nam chỉ chiếm khoảng 25% lượng dầu thô khai thác và việc quản lý mỏ chủ yếu là do phía Malayxia cho nên lượng dầu phía Việt Nam thu hồi được vận chuyển từ mỏ PM3 về các tầu nổi chứa dầu ở các mỏ trên. III.3. Đặc điểm khách hàng - thị trường của dầu thô Việt Nam. Trước năm 1995 thị trường xuất khẩu chính của Tổng Công ty là Nhật Bản, Đông Nam á và Đông Bắc á. Tuy nhiên cơ cấu thị trường đã thay đổi từ năm 1999. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á xảy ra, các khách hàng Châu á đã giảm hẳn lượng mua đối với dầu thô của Tổng Công ty. Bảng 8: Cơ cấu thị trường dầu thô của Tổng Công ty (Đơn vị: nghìn tấn) Thị trường 1998 1999 2000 2001 SL (tấn) (%) SL (tấn) (%) SL (tấn) (%) SL (tấn) (%) 1 Japan 5.828,522 59,62 4.605.899 38,9 4.646,861 31,23 5.502,50 35,5 2 Singapore 1.762,470 18,03 2.275,344 19,22 2.490.975 16,74 2.712,50 17,5 3 China 522,835 5,35 448,148 3,79 876,236 5,89 1.131,50 7,3 4 USA merica 1.473,485 15,07 2.403,853 20,3 2.924,911 19,66 3.208,50 20,7 5 Malayxia 1880.573 1,93 497,287 4,2 565,288 3,8 914,50 5,9 6 Hồng Kông - - 606,894 5,13 - - - - 7 EngLand - - 946,087 7,99 1.237,469 8,32 - - 8 The Nethezland - - 55,932 0,47 1.408,187 9,46 1.410,509 9,1 9 Swizerland - - 729,154 4,9 620,00 4,0 Tổng 9.775,888 100 11.839,522 100 14.879,082 100 15.500 100 Bảng trên cho thấy: - Trước đây 1998 thị trường Nhật Bản chiếm khoảng 607 thị trường xuất khẩudầu thô của Tổng Công ty nhưng đã giảm xuống 40% vào năm 1999, 31,23% năm 2000 và đã tăng lên một chút 35,5% năm 2001. Tuy thị trường có biến động nhiều nhưng thị trường Nhật Bản vẫn là khách hàng lớn nhất của Tổng Công ty như: Itochu, Japan Energy, Mitshubishi Mitsui, Showa Shell,... - Thị trường Mỹ đã và đang tăng nhanh trong việc mua bán dầu với Tổng Công ty từ 17% năm 1998 lên đến 20% năm 1999 và 2 năm 2000, 2001 cũng ở mức tương tự. Các khách hàng chủ yếu ở Mỹ là: Cantex, chevron, Coastal Bel_cher hiện nay thị trường Mỹ- khách hàng đang đứng thứ 2 trong mua bán dầu thô vớiTổng Công ty Dầu khí Việt Nam. - Thị phần ở các nước EU (Anh, Hà Lan, Thuỵ Sỹ) cũng đang tăng nhanh chiếm 20% thị phần dầu thô của Tổng công ty (2000). Nhưng đến năm 2001 đã giảm xuống còn 15%. - Từ trước khi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ (1998) khách hàng của dầu thô Việt Nam mới chỉ có 5 nhưng từ sau 1998 để đảm bảo cho quá trình sản xuất và tranh thủ sự biến động linh hoạt của thị trường Tổng CTDKVN đã mở rộng thay đổi cấu trúc thị trường khách hàng lên tới 9 thị trường. Tuy nhiên thị trường khách hàng được mở rộng nhưng thị trường chủ yếu vẫn là thị trường truyền thống ở Châu á như Nhật Bản và Singapo. III.4. Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Ngành dầu khí Việt Nam tuy có sự cố gắng vượt bậc trong khai thác sản xuất kinh doanh năm 2001 đã khai thác được 16 triệu tấn, trung bình 300-350.000 thùng/ngày. Tuy nhiên so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới thì sản lượng của Tổng Công ty vẫn còn rất nhỏ bé. Bảng 9: Sản lượng khai thác dầu trên thế giới. Đơn vị: Triệu thùng/ngày Khu vực/nước 8/00 7/00 6/00 5/00 3/00 2000 1999 1998 OPEC 31,64 30,79 30,93 31,04 29,77 29,44 30,68 29,99 OECO 21,73 22,24 21,96 22,15 22,29 21,41 22,86 22,07 Mỹ 8,17 8,22 8,22 8,11 0,17 8,08 8,35 8,64 Canada 2,63 2,65 2,65 2,65 2,67 2,56 2,67 2,57 Anh 2,61 2,77 2,82 2,85 2,97 2,93 2,84 2,76 Mêhicô 3,54 3,55 3,48 3,55 3,33 3,35 3,21 3,41 Na uy 3,12 3,42 3,15 3,33 3,46 3,14 3,14 3,28 Ngoài OECD 22,04 22,04 2,19 22,00 21,84 21,57 21,09 20,76 Liên Xô cũ 6,52 7,85 7,8 7,75 7,66 7,49 7,28 7,20 Trung Quốc 3,23 3,24 3,25 3,25 3,20 3,19 3,19 3,19 Malasia 0,67 0,67 0,67 0,66 0,72 0,71 0,74 0,75 ấn Độ 0,73 0,72 0,71 0,71 0,71 0,75 0,74 0,76 Braxin 1,49 1,48 1,46 1,45 1,43 1,36 1,28 1,13 Achentina 0,82 0,82 0,82 0,82 0,82 0,85 0,90 0,88 Colombia 0,62 0,70 0,68 0,73 0,77 0,83 0,77 0,66 Oman 0,91 0,90 0,91 0,95 0,90 0,90 0,90 0,91 Ai Cập 0,81 0,81 0,82 0,83 0,83 0,85 0,88 0,90 Angqola 0,75 0,77 0,77 0,83 0,85 0,76 0,73 0,70 Toàn thế giới 77,11 76,75 76,48 76,88 75,63 74,09 74,05 75,35 Hiện nay trên thế giới có 20 nước có sản lượng khai thác dầu mỏ lớn nhất thế giới đứng đầu là Mỹ có sản lượng bình quân là 8,3 triệu thùng/ngày. Tuy nhiên, Mỹ cũng là quốc gia tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới. Đứng thứ hai là ARập xe út (8,081 triệu thùng/ngày) và thứ ba là Liên Xô cũ với sản lượng 6,998 triệu thùng/ngày. Trên thế giới chỉ có 50 quốc gia hiện đang có dầu mỏ được khai thác nhưng phạm vi hoạt động rất sâu rộng trên toàn thế giới từ Châu á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi... cuộc chiến dầu lửa luôn diễn ra trên thế giới giữa các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Liên Xô tại vùng biển Caxpi Trung á (Adecbai - dan, Cadắc xtan, Tuốc mê - ni - tan)đại biểu tiêu biểu là tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC với các nước tư bản phát triển luôn làm cho tình hình giá cả dầu thô biến động nhất và năm 1973 và gần đây nhất là sự biến động giá cuối năm 2001 có lúc giá dầu đã ở mức 38USD/thùng. Các quốc gia khác nằm ngoài OPEC tuy nắm giữ trữ lượng không nhiều nhưng mức sản xuất ngày càng tăng lại hoàn toàn bị chi phối bởi cơ chế thị trường tự do và không có quan hệ phối hợp nào với OPEC. Mặt khác áp lực của chính trị, quân sự, kinh tế của các nước phương Tây rất lớn đã tạo nên một cuộc chiến trên lĩnh vực cung - cầu dầu mỏ trở nên khó khăn phức tạp hơn. Bảng 9 trên cho ta thấy được toàn cảnh tình hình khai thác dầu thô trên thế giới từ năm 1998 đến năm 2001. Qua đó ta thấy được vị trí của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam cũng như ưu thế của người cung cấp là không có mấy và thường bị chi phối bởi cơ chế thị trường tự do thế giới và đặc biệt cũng như các nước có sản lượng khai thác thấp khác thường bị ảnh hưởng bởi các quyết định từ phía các nước xuất khẩu dầu OPEC. Bảng 10: Sản lượng khai thác dầu của các nước ASEAN (nghìn thùng/ngày) Năm Brunei Việt Nam Philipin Indonexia Malaysia Thái Lan Myanman 1980 256 0 10 1.576 277 0 27 1985 152 0 8 1.178 443 40 29 1991 134 51 5 1.398 632 42 14 1992 165 80 3 1.573 640 48 13 1993 186 111 10 1.520 646 54 14 1994 168 126 10 1.466 630 53 14 1995 166 144 5 1.466 640 54 15 1996 176 180 3 1.476 685 61 16 2001 180 300 4 1.310 670 60 17 Sự cạnh tranh của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam không chỉ có trên thế giới mà thậm chí ngay cả trong khối ASEAN. Hiện nay trong 10 nước thành viên ASEAN có đến 7 nước có sản lượng khai thác dầu mỏ (trừ Singapore là nươc có nền công nghiệp lọc dầu lớn nhưng không có sản lượng khai thác dầu). Trong đó Indonexia là quốc gia có sản lượng dầu cao nhất trong khối (đứng thứ 14 trong tổng số 20 nước có sản lượng khai thác dầu lớn nhất thế giới) sản lượng khai thác bình quân là 1,4 triệu thùng/ ngày (bảng 10). Năm 2001 tuy đã có thành công trong việc nâng cao năng suất khai thác dầu lớn 300.000 thùng/ ngày tăng 120.000 thùng so với năm 1996, nhưng sản lượng khai thác của Tổng Công ty vẫn rất khiêm tốn so với Indonesia, Malaysia (bình quân 670.000 thùng/ngày - năm 2001), chỉ đứng thứ ba trong khối SAEAN. Bảng 12: Dự đoán cung cầu dầu khí thế giới. 2001 2002 (dự đoán) 2003 (dự đoán) I- Nhu cầu thế giới 75,9 76,9 78,9 1. OECD 43 43,2 43,9 2. Mỹ 19,6 19,7 40,0 3. Nhật 5,5 5,6 5,6 4. Ngoài OECD 32,9 33,7 34,8 II- Cung thế giới (1)+(2) 76,6 6,8 78,2 1. OECD (1) 19,8 19,9 20,0 Mỹ 9,1 9,0 9,0 2.Ngoài OECD (2) 56,8 56,9 58,2 OPEC (cả khí lỏng) 31 30,4 30,9 Liên Xô cũ 7,9 8,2 8,6 Theo bảng trên (bảng 11) ta thấy được tình hình cung - cầu trên thị trường thế giới trong tương lai (theo dự đoán của cơ quan năng lượng quốc tế IEA) thì cầu sẽ có khả năng vượt quá cung do đó trong tương lai người cung cấp sẽ có lợi thế hơn trên thị trường. Dầu khí do đặc điểm của ngành là ngành độc quyền vì thế sự cạnh tranh thường mang tính quốc tế hơn là nội địa. Sự cạnh tranh cũng không diễn ra đến nổi "tranh mua - tranh bán" như những sản phẩm "thô" khác (chưa qua chế biến "tinh"). III.5. Các hình thức xuất khẩu. Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam là một doanh nghiệp sản xuất và khai thác, sản phẩm chủ yếu là dầu mỏ và khí gas. Từ dầu mỏ thông qua nhà máy lọc dầu sẽ cho ta được nhiều sản phẩm tiện dụng. Hiện nay nhà máy lọc dầu Việt Nam chưa hoàn thành (nhà máy lọc dầu số 1 dự kiến 2005 đi vào hoạt động) nên toàn bộ sản phẩm khai thác được chủ yếu xuất khẩu đổi lấy ngoại tệ để phục vụ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hình thức xuất khẩu dầu thô của Tổng Công ty chủ yếu được thực hiện xuất khẩu trực tiếp tự tham gia đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng. Ngoài ra từ năm 1999 trở lại đây Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã mở rộng việc kinh doanh của mình sang thị trường Trung Đông trong chương trình đổi dầu lấy lương thực của Liên hiệp quốc với Irắc. Đây là hình thức kinh doanh mới của Tổng Công ty, đó là hình thức kinh doanh tạm nhập tái xuất. Trong năm 200o, việc mua bán dầu thô của Irắc đã đạt được kết quả là 17,71 triệu tấn, trị giá gần 448 triệu USD và lợi nhuận thu về khoảng 3,26 triệu USD. III.6. Quá trình giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng. Hiện nay Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam có 7 đơn vị thành viên thực hiện trực tiếp việc kinh doanh xuất - nhập khẩu nhưng chỉ duy nhất có Công ty Petechim thực hiện nhiệm vụ xuất khẩu dầu thô trực tiếp. III.6.1. Giao dịch đàm phán. Thông thường trong kinh doanh quốc tế do sự cách biệt về địa lý xa xôi cách trở việc giao dịch đàm phán trực tiếp thường rất ít khi xảy ra, chủ yếu thông qua giao dịch gián tiếp như điện thoại, fax, thư điện tử...., công đoạn đầu tiên là người mua, người bán tiến hành việc chào hàng (offer) và hỏi giá (Inquyry). Hiện nay trong quá trình giao dịch đàm phán về mua - bán dầu thô của Tổng Công ty chủ yếu được thực hiện gián tiếp. Tổng Công ty thường đầu một quí hay nửa năm sẽ tổ chức đấu thầu bán dầu thô của mình thông qua việc thông báo cho các khách hàng bằng việc gửi một thư chào hàng tự do (free offer) trong đó có các thông tin rõ ràng về hàng hoá, điều kiện giao hàng, giá cả, số lượng... + Giá cả: Giá cả dầu thô của Tổng Công ty thường được yết như sau: Giá dầu (Bạch Hổ, Đại Hùng....) = Giá dầu Minas ± Dcents/thùng Sở dĩ cách tính giá dầu thô của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam như trên là do: + Do đặc điểm chung của dầu thô ở các nước trong khu vực Đông Nam á thường có các thành phần gần như nhau. + Do dầu Minas (Indonexia) đã có tiếng trên thị trường thế giới trước khi dầu thô của Tổng Công ty xuất hiện. - Trước đây khi Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam bắt đầu có sản phẩm dầu thô thì giá cả thường được yết là: Giá dầu thô của Tổng Công ty = Giá dầu minas - D cents/ thùng. Nhưng mấy năm gần đây do lợi thế đặc điểm dầu có hàm lượng lưu huỳnh thấp 0,01% đã dần dần lấy được sự uy tín trên thị trường và đối với các khách hàng truyền thống. Nên việc giá cả dầu thô đã tính = giá dầu Dcents USD/thùng). - Giá cả dầu minas thường được xác định trên thị trường thế giới chung cho khu vực Đông Nam á, còn D cents chính là sự thoả thuận thêm giữa người mua và người bán. - Số lượng: Trong thư chào hàng của Tổng Công ty hay các khách hàng thường được thông tin như sau: + D thùng/ngày và cộng với việc ký hợp đồng trong thời gian bao lâu. Sở dĩ trong điều khoản số lượng được chào như trên vì do đặc điểm của dầu thô có sự dự trữ rất thấp (bảng 7) cho thấy Bạch Hổ + Rồng dự trữ trong vòng 10-15 ngày, Rạng Đông, Ruby là 20 ngày, riêng Đại Hùng là 1 quý, vì thế việc mua bán dầu thô không giống như các hàng hoá khác là đã có trong kho sẵn mà việc xuất khẩu dầu mỏ tuỳ thuộc vào việc khai thác của mỏ. Việc quy định rõ D thùng/ngày còn có ý nghĩa đảm bảo việc sản xuất khai thác của các mỏ được diễn ra liên tục không bị gián đoạn. + Điều kiện vận tải: Tổng Công ty trong mấy năm gần đây đã thực hiện giao hàng theo điều kiện CIF tuy nhiên vẫn còn thấp so với tổng khối lượng xuất khẩu. Điều kiện vận tải vẫn chủ yếu được chào là FOB - Vũng Tàu. Hiện nay Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam chưa có đội chuyên chở dầu thô nào vì thế thường phải đi thuê tàu để thực hiện các hợp đồng có điều kiện vận tải CIP, CFR, CIF. Trong tương lai Tổng Công ty Dầu khí sẽ có kế hoạch mua sắm tàu chở dầu không chỉ phục vụ cho công tác xuất khẩu dầu thô mà còn để vận chuyển dầu từ Trung Đông về Việt Nam để chế biến hay để bán. + Phương thức thanh toán: Trong điều khoản thanh toán, Tổng Công ty và các khách hàng thường thoả thuận đồng tiền thanh toán là USD, phương thức thanh toán là L/C không huỷ ngang hay TTR, thời gian hiệu lực thanh toán sau 30 ngày kể từ ngày cấp vận đơn (B/L). III.6.2. Ký kết và thực hiện hợp đồng. Sau khi nhận được thông tin phản hồi từ phía khách hàng về các điều khoản số lượng, giá cả.... Công ty thương mại dầu khí (Petechim) sẽ lập các phương án và trình lên Tổng Công ty để xét duyệt cho phép xuất khẩu dầu trong thời gian tới. Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam chủ yếu là phòng thương mại xem xét bản trình lên của Petechim về giá là chính xem có phù hợp với mức giá sàn Tổng Công ty quy định không và sau đó ra quyết định cho phép thực hiện phương án bán dầu. Đối với việc chuẩn bị giao hàng cho khách hàng thì do kho chứa dầu có hạn cho nên việc đó tuỳ thuộc phần lớn vào tình hình khai thác và những lần tầu đên nhận hàng. Dầu thô luôn được đưa lên từ các mỏ một cách liên tục thường xuyên cho nên vấn đề quan trọng chủ yếu là ở bộ phận kho dự trữ và khả năng sẵn sàng nhận hàng của khách hàng để làm sao đảm bảo được việc khai thác một cách liên tục không bị gián đoạn. III.7. Kết quả hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam. Ngành dầu khí từ khi được thành lập luôn được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Kể từ khi những tấn dầu đầu tiên được khai thác cho tới nay, ngành dầu khí từng bước trở thành ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết 15/TW ngày 7/7/1988 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển ngành dầu khí là "dầu mỏ và khí thiên nhiên là nguồn năng lượng và nhiên liệu quan trọng nhất của đất nước... phải tập trung những cố gắng đến mức cao nhất để biến tiềm năng đó thành hiện thực, từng bước đưa dầu khí trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng nhất trong chiến lược phát triển kinh tế những thập kỳ tới". Bảng 12: Khối lượng dầu thô xuất khẩu Đơn vị: Triệu tấn Năm 87-94 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Số lượng XK 20,97 6,316 7,625 8,624 9,776 11,891 14,882 15,423 Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô năm 1986, khối lượng xuất khẩu chỉ 40.000 tấn nhưng đến năm 2001 sản lượng xuất khẩu đã tăng lên 15,5 triệu tấn gấp 387,5 lần so với năm 1986. Trong 8 năm 1986 - 1993 tổng sản lượng xuất khẩu dầu thô chỉ đạt được 20,97 triệu tấn bình quân mỗi năm xuất khẩu 2,6 triệu tấn (bảng 12). Năm 1989 đã đánh dấu sự kiện Tổng Công ty xuất khẩu được trên 1 triệu tấn dầu thô và từ đó khối lượng dầu thô luôn được tăng nhanh. Năm 1999 sản lượng dầu xuất khẩu đã vượt mức 10 triệu tấn (11,891 triệu tấn (bảng 12) tăng 21,6% so với năm 1998 (tăng 2,115 triệu tấn). Năm 2000 công tác xuất khẩu dầu thô đã đạt 14,882 triệu tấn đạt 104% so với kế hoạch đề ra tăng 2,991 triệu tấn so với năm 1999 tăng tương ứng 25,15% so với năm 1999. Năm 2001 Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam được ghi nhận là năm mà xuất khẩu dầu thô đạt kết quả kỷ lục cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu. Bên cạnh đó, yếu tố thuận lợi do tình hình thị trường tiêu thụ dầu thô trên thế giới có nhiều biến động thuận lợi, nhu cầu thị trường tiêu thụ dầu thô thế giới có nhiều biến động, giá dầu tăng cao đã tác động không nhỏ đến kế hoạch sản xuất, khai thác ở các mỏ cộng thêm những khó khăn như sự cố tàu chứa dầu Ba Vì, Chí Linh, thời tiết xấu.... đã tác động không nhỏ đến kế hoạch khai thác cũng như công tác xuất khẩu dầu thô để thực hiện tốt công tác xuất khẩu được Tổng Công ty giao, Công ty thương mại dầu khí (Petechim) đã tổ chức phối hợp chặt chẽ các đơn vị sản xuất (các mỏ) duy trì mối quan hệ tốt với các khách hàng truyền thống Nhật (như: Japan Energy, Itochu...)Singapore (Shell - Singapore...) và mở rộng thị trường, phát triển mạng lưới khách hàng tiêu thụ từ 5 lên tới 9 khách hàng, tích cực nắm bắt các thông tin thị trường, chủ động trong đàm phán ký kết hợp đồng và sắp xếp kế hoạch giao hàng hợp lý nên đã xuất khẩu được toàn bộ số lượng dầu thô khai thác 15,432 triệu tấn tăng 540.000 tấn (tăng tương ứng 3,7%) so với năm 2000. Như vậy từ tháng 4/1994 đến năm 2001 trong vòng 6 năm Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã xuất khẩu được 70,02 triệu tấn dầu thô. Tháng 3/2001 vừa qua tổng sản lượng xuất khẩu mà Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã xuất khẩu đạt mức 100 triệu tấn. Bên cạnh việc xuất khẩu dầu thô trong nước Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã mở rộng việc mua bán dầu thô với I rắc tuy nhiên khối lượng còn nhỏ. Năm 2001 mặc dù thị trường thế giới đầy biến động (như việc OPEC gia tăng sản lượng) nhưng Tổng Công ty đã tiếp tục thực hiện thành công trong việc mua - bán 17,71 triệu thùng với I rắc, trị giá xấp xỉ 448 triệu USD và lợi nhuận thu được khoảng 3,26 triệu USD. Bảng 13: Bảng giá trị của xuất khẩu dầu thô Đơn vị: Triệu USD. Năm 1998 1999 2000 2001 Giá trị xuất khẩu 1.436,6 1.246,62 2.062,75 3.493,99 Tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. 11.592,3 11.495 11.636 14.308 % so với tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. 12,47% 10,84% 17,72% 24,427 Sự đóng góp của dầu thô cho nền kinh tế rất lớn, nó không những cung cấp nhiên liệu cho đất nước mà còn góp phần đảm bảo cân đối ngân sách quốc gia. Năm 1998 giá trị xuất khẩu dầu thô đạt 1,4366 tỷ USD chiếm 12,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á 7/1998 giá dầu thô năm 1999 đã giảm xuống còn 13USD/thùng dẫn đến giảm kim ngạch xuất khẩu dầu. Tuy sản lượng xuất khẩu tăng 2,115 triệu tấn so với năm 1998 nhưng giá trị xuất khẩu chỉ đạt 1,24662 tỷ USD, giảm 189,98 triệu USD so với năm 1998,chỉ chiếm 10,84% trong tổng kim nghạnh xuất khẩu. Năm 2000 tổng giá trị xuất khẩu dầu của Tổng Công ty đạt 2,06275 tỷ USD tăng 816,12 triệu USD (tương ứng 65,46%) so với năm 1999 chiếm 17,72% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Năm 2001 Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công không chỉ về mặt số lượng mà còn cả về mặt giá trị trong một năm đầy biến động, giá dầu thô đã tăng lên cao đỉnh điểm hơn 29 USD/thùng, thậm chí có lúc lên đến 34USD/thùng. Giá trị kim ngạch xuất khẩu dầu của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã đạt được 3,49399 tỷ USD tăng hơn 1,43124 tỷ USD (tương ứng tăng 69,38%) so với năm 2000. Chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và nó cũng chính là một trong những nguyên nhân làm cho tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng cao 6,75% so với dự kiến là 5-6% trong năm 2001. Bảng 14: Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam Đơn vị: tỷ đồng. Năm 2000 2001 Doanh thu 30.676 33.471 Vốn kinh doanh 18.100 20.870 Lợi nhuận trước thuế 5.587 6.979 Nộp ngân sách Nhà nước 15.176 16.615 Tỷ lệ lợi nhuận/vốn 30,9% 33,4% Hàng năm Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đóng góp vào ngân sách Nhà nước rất lớn. Cụ thể năm 2000 là 15.176 tỷ đồng và năm 2001 đã tăng lên 16.615 tỷ đồng. Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam do đặc điểm là ngành độc quyền nhưng hiệu quả kinh doanh toàn ngành đem lại là rất cao, tỷ lệ sinh lời trên vốn là cao, năm 2000 là 30,9%, năm 2001 là 33,4%. Ngoài ra đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện, hiện nay mức lương bình quân của cả ngành là 1,5 - 2 triệu đ/người/tháng. IV- Đánh giá qua nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam. IV.1. Các ưu thế - ưu điểm. Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ hoạt động từ lĩnh vực tìm kiếm thăm dò, khai thác (thượng nguồn) đến lĩnh vực chế biến, kinh doanh, phân phối các sản phẩm dầu khí (khâu hạ nguồn). Có thể nói hiện nay Tổng Công ty đã tham gia thực hiện kinh doanh khép kín toàn bộ của ngành dầu khí Việt Nam, điều này đã đem lại cho Tổng Công ty một lợi thế rất lớn trong việc phát triển kinh doanh và nâng cao hiệu qảu cạnh tranh nhờ quy mô. Bên cạnh đó, hiện nay Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam có một đội ngũ nhân lực rất lớn mạnh 14.000 người, tỷ lệ cán bộ nhân viên có trình độ đại học trở lên chiếm 32% cao hơn hẵn so với các ngành khai thác trong cả nước. Trong lĩnh vực xuất khẩu dầu thô thì cơ sở vật chất như các kho cảng dịch vụ phục vụ cho dầu khí (thuyền, tầu xe chở sản phẩm dầu khí, máy bay...) cũng góp phần rất lớn trong việc tạo nên các lợi thế của Tổng Công ty. Thuận lợi lớn nhất đối với hoạt động xuất khẩu dầu khí của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đó chính là đặc điểm lợi thế cạnh tranh mà dầu thô mang lại như hàm lượng Prafin cao, lưu huỳnh ít trong dầu thô chỉ chiếm khoảng 0,01% trong khi đó hàm lượng lưu huỳnh trung bình của dầu thô thế giới rất cao 2-3% thậm chí đến 5% vì vậy dầu thô Việt Nam đang ngày càng khẳng định mình trên thị trường thế giới. Do đặc điểm của ngành dầu khí đem lại cho Tổng Công ty những cơ sở vật chất trang thiết bị máy móc hiện đại và tự động hoá rất cao tạo nên năng suất lao động của công nhân trong ngành ngày càng cao lên. Theo như phân tích ở trên chỉ tính từ năm 1994 đến năm 2001 Tổng Công ty đã xuất khẩu được 70,02 triệu tấn dầu gấp 3 lần giai đoạn 1986-1993. Hiện nay khoa học công nghệ trang thiết bị của Tổng Công ty không những đáp ứng phục vụ tốt cho nhu cầu trong nước mà còn thực hiện ở nước ngoài như các dự án tìm kiếm thăm dò dầu khí ở Lào, Mông Cổ, I rắc., Indonesia, Malaysia. Tiềm năng của dầu khí Việt Nam còn rất lớn điều này cũng tạo nên ưu điểm của Tổng Công ty trong hoạt động xuất khẩu dầu. Hiện nay đã phát hiện được 17 mỏ trong đó có những mỏ chứa cả dầu và khí, tuy nhiên mới chỉ có 6 mỏ dầu đang được đưa vào khai thác. Các chuyên gia khảo sát phân tích cho rằng trữ lượng tiềm năng dầu khí Việt Nam khoảng 2,7 đến 3,5 tỷ m3 dầu quy đổi trong đó 1-1,3 tỷ m3 dầu trữ lượng đã xác minh được là 950 triệu m3 quy dầu và trong đó dầu được xác minh là 420 triệu m3 (tương đương 420 triệu tấn). Do vậy trong tương lai 20-30 năm nữa ngành dầu khí sẽ còn đóng góp hơn nữa trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước. IV.2. Khó khăn tồn tại. Bên cạnh những ưu điểm trên thì hiện nay Tổng Công ty còn rất nhiều khó khăn cần được giải quyết như: - Mặc dù hiện nay hàng năm sản lượng xuất khẩu dầu của Tổng Công ty tiếp tục được giá đăng nhưng số lượng so với thế giới còn rất nhỏ bé không những trên thế giới mà còn so với cả trong khối ASEAN. Chính vì điểm yếu này mà dầu thô Việt Nam luôn phải chấp nhận giá cả theo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0516.doc
Tài liệu liên quan