Hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU

LỜI MỞ ĐẦU Kể từ sau khi thực hiện chính sách “Đổi mới” (Đại hội Đảng VI, năm 1986) và chiến lược “hướng về xuất khẩu” đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, mức sống của người dân đã được cải thiện, vị thế của Việt Nam cũng ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Cho tới nay, Việt Nam đã có quan hệ với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với hơn 100 nước, trong đó có thể kể tới các đối tác lớn như: Liên minh Châu Âu (EU), Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, A

doc121 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1965 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SEAN,…Trong các đối tác quan trọng này, nổi lên là Liên minh Châu Âu - một thực thể kinh tế chính trị hùng mạnh, có khả năng chi phối đến kinh tế, chính trị của các nước trên thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Về thương mại, EU đứng đầu thế giới về xuất khẩu, đứng thứ hai thế giới về nhập khẩu (sau Hoa kỳ). Kể từ sau ngày 01/05/2004, Liên minh Châu Âu mở rộng, nâng tổng số thành viên lên con số 25 nước, càng trở thành một thực thể kinh tế quan trọng đối với quan hệ kinh tế quốc tế và quan hệ kinh tế, thương mại đối với Việt Nam. Vậy, làm thế nào để mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam – EU được củng cố và phát triển hơn nữa? Một trong những biện pháp quan trọng là thực hiện hoạt động xúc tiến xuất khẩu đối với thị trường này. Nhờ có hoạt động xúc tiến xuất khẩu mà hàng hoá Việt Nam mới dễ dàng thâm nhập hơn vào thị trường EU. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam mới có cơ hội chủ động khai thác và nắm bắt các cơ hội kinh doanh với đối tác này. Chính vì nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến xuất khẩu đối với công tác thương mại quốc tế của Việt Nam, em chọn đề tài “Hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU” làm đề tài nghiên cứu của Luận văn tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế quốc tế. Mục đích nghiên cứu Luận văn: Ðánh giá thực trạng quan hệ xuất khẩu của Việt Nam – EU và các hoạt động xúc tiến xuất khẩu mà Việt Nam thực hiện đối với thị trường EU. Đưa ra những định hướng và một số giải pháp cơ bản đối với hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU. Ðối tượng nghiên cứu: Hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU. Phạm vi nghiên cứu Luận văn: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu vào hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU dưới giác độ Chính phủ. Kết cấu của Luận văn bao gồm 3 phần: Phần 1: Những lý luận chung về hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Phần 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU. Phần 3: Định hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU. PHẦN I NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN XUẤT KHẨU Những khái niệm cơ bản về xuất khẩu, xúc tiến thương mại và xúc tiến xuất khẩu Khái niệm về xúc tiến thương mại Khái niệm về xúc tiến Xúc tiến có rất nhiều khái niệm khác nhau: Khái niệm 1: Theo Philip Kolter, một nhà kinh tế học nổi tiếng của Mỹ trong cuốn “Marketing cơ bản” thì: “Xúc tiến là hoạt động thông tin tới khách hàng tiềm năng. Đó là hoạt động trao truyền, chuyển tải tới khách hàng những thông tin cần thiết về doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp, phương thức phục vụ và những lợi ích khác mà khách hàng có thể thu được từ việc mua sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp cũng như các thông tin phản hồi từ phía khách hàng để từ đó doanh nghiệp tìm ra cách thức tốt nhất nhằm thoả mãn yêu cầu của khách hàng”. Khái niệm 2: Các nhà lý luận tư bản thì cho rằng “Xúc tiến là hình thái quan hệ xác định giữa người bán và người mua, là một lĩnh vực hoạt động định hướng vào việc chào hàng một cách năng động và hiệu quả nhất”. Khái niệm 3: Các nhà kinh tế học các nước Đông Âu định nghĩa xúc tiến là “một công cụ, một chính sách thương mại nhằm làm năng động và gây ảnh hưởng định hướng giữa người bán và người mua, là một hình thức hoạt động tuyên truyền nhằm mục tiêu đạt được sự chú ý và chỉ ra những lợi ích của khách hàng tiềm năng về hàng hóa dịch vụ”. Từ các khái niệm trên có thể nhận thấy, cho dù xúc tiến được định nghĩa ra sao, bản chất của công việc xúc tiến chỉ có một, đó là: Thúc đẩy, phát triển việc giao tiếp giữa người bán và người mua nhằm mục đích thúc đẩy nhận thức của người mua về sản phẩm của người bán một cách có hiệu quả. Khái niệm về thương mại Khái niệm 1: Theo điều 3 - Giải thích từ ngữ, thuộc Luật Thương mại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005: “Hoạt động thương mại là là hoạt động nhằm sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” Khái niệm 2: Theo từ điển của tác giả Đào Duy Anh, từ điển về mọi lĩnh vực của Tiếng Việt, thương mại là “buôn bán vào ra, từ chỉ chung việc buôn bán” (Trang 1994, Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin – Ban biên soạn chuyên Từ điển: New era) Khái niệm về xúc tiến thương mại Bản thân khái niệm xúc tiến thương mại đã có từ lâu và được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau: Khái niệm 1: Jerome và William định nghĩa Xúc tiến thương mại trong cuốn “Essentials of marketing” như sau: “Xúc tiến thương mại là việc truyền tin giữa người bán và người mua hay những khách hàng tiềm năng khác nhằm tác động vào hành vi quan điểm mua hàng. Chức năng xúc tiến thương mại chính của nhà quản trị marketing là mách bảo cho khách hàng mục tiêu biết đúng sản phẩm, đúng chỗ và đúng giá”. Khái niệm 2: Tạp chí Bussiness Today định nghĩa một cách đơn giản là: “Xúc tiến thương mại và hỗ trợ kinh doanh là việc doanh nghiệp sử dụng rộng rãi các kỹ thuật thuyết phục khách hàng khác nhau để được liên hệ với thị trường mục tiêu và tất cả công chúng”. Khái niệm 3: Trong cuốn “Áp dụng kinh nghiệm xúc tiến thương mại của Nhật Bản” của TS. Phạm Quang Thao thì “Xúc tiến thương mại là các hoạt động nghiên cứu bàn giấy, khảo sát và các dịch vụ liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới hành vi mua bán nhưng không thuộc hành vi mua bán mà chỉ hỗ trợ, đem lại hiệu quả cao nhất”. Khái niệm 4: Giáo trình lý luận và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh của khoa Marketing trường đại học Kinh tế quốc dân cho rằng “Xúc tiến thương mại là các biện pháp và nghệ thuật mà các nhà kinh doanh dùng để thông tin về hàng hoá, tác động tới người mua, lôi kéo người mua về phía mình và các biện pháp hỗ trợ cho bán hàng. Xúc tiến thương mại bao gồm 3 nội dung chính: quảng cáo, các hoạt động yểm trợ, xúc tiến bán hàng”. Khái niệm 5: Theo Luật Thương mại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 thì “Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại” (trích Điều 3 - “Giải thích từ ngữ”). Các biện pháp thực hiện xúc tiến thương mại Theo Luật Thương mại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 thì xúc tiến thương mại gồm 4 hoạt động: (1) Khuyến mại, (2) Quảng cáo thương mại, (3) Trưng bày, giới thiệu hàng hóa dịch vụ, (4) Hội chợ, triển lãm thương mại. - Khuyến mại là: (1) Hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. (2) Thương nhân thực hiện khuyến mại là thương nhân thuộc một trong các trường hợp sau đây: (a) Thương nhân trực tiếp khuyến mại hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh. (b) Thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại, thực hiện khuyến mại cho hàng hoá dịch vụ của thương nhân khác theo thoả thuận với thương nhân đó. - Quảng cáo thương mại: Là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình. - Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ: Là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân dùng hàng hoá, dịch vụ và tài liệu về hàng hoá, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về hàng hoá dịch vụ đó. - Hội chợ triển lãm thương mại: Là hoạt động xúc tiến thương mại được thực hiện tập trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định để thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ. Như vậy là tuy dùng những từ ngữ khác nhau để diễn đạt, tất cả các khái niệm về xúc tiến thương mại vừa nêu đều có cùng một bản chất. Đó là hoạt động thông tin có định hướng tới khách hàng, nhằm mục đích chào hàng năng động và có hiệu quả, khuyến khích nhu cầu mua hàng của khách hàng. Đây chính là quan niệm truyền thống về xúc tiến thương mại. Cách tiếp cận này coi hoạt động xúc tiến thương mại là một trong 4P của marketing. Xúc tiến thương mại là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của marketing hỗn hợp (marketing mix), làm cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, tác động trực tiếp hay gián tiếp đến hành vi mua hàng thông qua các hoạt động cung cấp thông tin, thuyết phục và nhắc nhở. Với thời gian, khi môi trường thương mại quốc tế đã có những biến đổi sâu sắc dưới sự tác động của toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại thì quan niệm về xúc tiến thương mại cũng đã có những biến đổi lớn, trong đó nổi lên quan niệm của Trung tâm thương mại quốc tế (ITC). Đây là một định nghĩa rộng và tổng quát đề cập đầy đủ cả công tác xúc tiến ở tầm doanh nghiệp, cả ở tầm Chính Phủ, cả thời gian trước mắt và lâu dài. Bảng 1.1: Xúc tiến thương mại – Quan niệm cơ bản Trước mắt Dài hạn Doanh nghiệp Quá trình xuất khẩu (Marketing xuất khẩu) Phát triển kinh doanh xuất khấu (Markering quốc tế) Chính phủ và các tổ chức hỗ trợ thương mại (TSIs) Xúc tiến xuất khẩu Phát triển xuất khẩu Nguồn: Sách “Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Tác giả: TS Nguyễn Thị Nhiễu, NXB Lao động – Xã hội – 2003 Quan niệm của ITC đã mở rộng phạm vi của xúc tiến thương mại, nếu chỉ hiểu theo như những quan niệm cũ thì hoạt động xúc tiến thương mại là chưa đầy đủ và thụ động, nó chỉ coi xúc tiến thương mại là một tham số trong 4P (Product – Price – Place – Promotion: Sản phẩm – Giá cả - Phân phối – Xúc tiến thương mại) trong đó P cuối cùng – xúc tiến thương mại bị đồng nhất với xúc tiến bán, tức là thụ động bán những cái mình sản xuất được cho thị trường. Nhưng quan niệm của ITC thì khác, xúc tiến ở đây tức là phải chủ động tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường, sản phẩm hoàn toàn lệ thuộc vào thị trường, thị trường mới là nhân tố quyết định. Ở Việt Nam hiện nay, nhìn chung quan niệm về xúc tiến thương mại vẫn được hiểu theo cách tiếp cận hẹp, rất nhiều các trường đại học thuộc các khối kinh tế thương mại vẫn tiếp cận xúc tiến thương mại như là một P của marketing hỗn hợp. Điều này được phản ánh qua Giáo trình “Lý luận và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh” của khoa Marketing trường Đại học Kinh tế quốc dân và khái niệm đề cập trong Luật Thương mại. Thực tế nước ta cho thấy là hoạt động xúc tiến thương mại đang diễn ra theo hướng tích cực và phát triển, ngày càng có nhiều cơ quan Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp có cách nhìn mới về xúc tiến thương mại và tiếp cận xúc tiến thương mại theo nghĩa rộng. Sự chuyển biến này ở Việt Nam diễn ra ngày càng mạnh mẽ dưới sự tác động ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu, hợp tác kinh tế thương mại với thế giới và khu vực… Ngoài ra, nó còn được sự hỗ trợ, hậu thuẫn của các tổ chức xúc tiến thương mại như quốc tế như ITC, JETRO, KOTRA ,… Khái niệm về xúc tiến xuất khẩu 1.2.1 Khái niệm về xúc tiến xuất khẩu Hoạt động xúc tiến xuất khẩu (Export promotion) là một trong ba hình thức của xúc tiến thương mại quốc tế (gồm xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến nhập khẩu, xúc tiến đầu tư). Nhìn từ góc độ nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, xúc tiến xuất khẩu chỉ là một bộ phận của xúc tiến thương mại quốc tế nhằm tìm kiếm nhu cầu thị trường nước ngoài để đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, tăng kim ngạch xuất khẩu. Xúc tiến xuất khẩu là những hoạt động thúc đẩy việc bán hàng hoá, dịch vụ của một nước này cho các nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong nền kinh tế mở bao gồm việc tìm kiếm giải pháp bán hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế nên rất phức tạp. Do văn hoá và tập quán tiêu dùng giữa các quốc gia khác nhau là khác nhau dẫn tới mỗi quốc gia có những đặc điểm thị trường riêng, có nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng không giống nhau, và khác với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong nước, vì vậy việc tìm ra đúng nhu cầu và sản phẩm thích hợp cho hoạt động xuất khẩu là rất khó khăn phức tạp. Trong tạp chí của Trung tâm xúc tiến nhập khẩu từ các nước đang phát triển Hà Lan tháng 12/1993, ông H.H.Kernveld, Giám đốc điều hành đã viết “Xúc tiến xuất khẩu là những dịch vụ được Chính phủ của một nước cung cấp để đáp ứng nhu cầu của các nhà xuất khẩu với mục tiêu nhằm đẩy mạnh sự tăng trưởng xuất khẩu”. Như vậy, xúc tiến xuất khẩu được thừa nhận là một trong những hoạt động cần thiết và quan trọng trong thương mại quốc tế. Do đó, các Chính phủ trong chiến lược phát triển kinh tế của nước mình đều coi các hoạt động xúc tiến xuất khẩu là một hoạt động trọng tâm để thúc đẩy xuất khẩu của quốc gia làm đòn bẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để đạt được những điều đó, hoạt động xúc tiến xuất khẩu thực hiện bởi các tổ chức xúc tiến thương mại là rất quan trọng, bao gồm: việc hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm thông tin về thị trường nước ngoài, tổ chức các chuyến khảo sát thị trường hay tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở thị trường nước ngoài, tìm kiếm cơ hội để giới thiệu sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước với đối tác nước ngoài, hướng dẫn các thủ tục và kinh nghiệm xuất khẩu với từng khách hàng của các thị trường khác nhau,… Ngoài ra, những công việc xúc tiến xuất khẩu ở đây còn là việc giúp các doanh nghiệp lựa chọn và vận dụng các chiến lược Marketing thích hợp để thâm nhập thị trường nước ngoài, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm và trong trường hợp cần thiết xây dựng kho phân phối ở nước ngoài. Trong thời đại ngày nay, thời đại của cùng tồn tại hoà bình, cùng vươn tới ấm no hạnh phúc và cũng là thời đại của việc “mở cửa” và mở rộng giao lưu kinh tế, nhiều quốc gia đã chuyển từ chiến lược phát triển “thay thế nhập khẩu” sang “hướng vào xuất khẩu” nhằm tìm ra con đường đúng đắn cho sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế quốc gia. Do đó, mọi Chính phủ đều rất chú trọng đến các chiến lược hướng về xuất khẩu, đặt nhiệm vụ xúc tiến xuất khẩu là nhiệm vụ cấp thiết và quan tâm hàng đầu để thúc đẩy công ăn việc làm cho người lao động. Chính vì vị trí quan trọng như vậy trong thương mại nên còn có nhiều ý kiến nhầm tưởng rằng xúc tiến thương mại chính là xúc tiến xuất khẩu. Trên thực tế, các nước đang phát triển quan tâm nhiều hơn tới hoạt động xúc tiến xuất khẩu để thu ngoại tệ và cân bằng cán cân thanh toán, trong khi các nước phát triển thì chú trọng nhiều hơn tới hoạt động xúc tiến nhập khẩu và xúc tiến đầu tư để nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu giá rẻ hơn hoặc chuyển dần việc sản xuất sang các nước đang phát triển. 1.2.2 Phân biệt xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu Xuất khẩu nói một cách đơn giản nhất là việc bán một sản phẩm hay một dịch vụ ra thị trường nước ngoài để thu ngoại tệ. Xuất khẩu thuần tuý là chức năng của hoạt động thương mại. Nhưng nếu ta muốn đẩy mạnh xuất khẩu thì đó lại là chức năng của xúc tiến thương mại mà cụ thể là xúc tiến xuất khẩu. Động lực để một đất nước tiến hành hoạt động xúc tiến xuất khẩu chính là nhu cầu và yêu cầu của đất nước đó phải đẩy mạnh xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là bài học kinh nghiệm của các nước Đông và Đông Nam Á. Hiện nay, trên thế giới có nhiều định nghĩa về xúc tiến xuất khẩu, có định nghĩa không đề cập đến chủ thể của xúc tiến xuất khẩu: “xúc tiến xuất khẩu là các hoạt động thiết kế để tăng xuất khẩu của một đất nước hay một doanh nghiệp”, có định nghĩa mang tính tổng quát: “xúc tiến xuất khẩu là chiến lược phát triển kinh tế như nhấn mạnh đến việc mở rộng xuất khẩu thông qua các biện pháp chính sách khuyến khích, hỗ trợ cao nhất cho hoạt động xuất khẩu”, ở tầm quản lý vĩ mô, định nghĩa của Rosson & Seringhaus như sau: “Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ là những biện pháp chính sách của Nhà nước có tác động trực tiếp hay gián tiếp khuyến khích hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp, của các ngành, và của đất nước”. (Theo sách: Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tác giả: Nguyễn Thị Nhiễu, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, 2003). Tất cả các định nghĩa này đều thống nhất rằng mục đích của xúc tiến xuất khẩu là nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Tất cả các hoạt động có tác động khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu dù là gián tiếp hay trực tiếp, dù là trước mắt hay lâu dài đều được coi là hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Dựa trên các định nghĩa này, có thể nói hoạt động xúc tiến xuất khẩu không thể tách rời hoạt động xuất khẩu và nội dung, phạm vi của xúc tiến xuất khẩu rộng lớn hơn nhiều so với xúc tiến bán hàng chỉ là một trong 4P của Marketing xuất khẩu. Trọng tâm hoạt động xúc tiến thương mại hiện nay ở Việt nam là xúc tiến xuất khẩu. Hoạt động này bao trùm lên hoạt động marketing xuất khẩu nhằm mục đích đẩy mạnh xuất khẩu của nước nhà. Do đó, việc nghiên cứu xúc tiến xuất khẩu ở Việt Nam phải đi liền với việc nghiên cứu phân tích hoạt động xuất khẩu của đất nước. Tiếp cận xúc tiến xuất khẩu theo nghĩa rộng là cách tiếp cận phù hợp nhất để định hướng cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở nước ta. Phân biệt xúc tiến thương mại và xúc tiến xuất khẩu Có thể nói, xúc tiến xuất khẩu là một bộ phận, một hoạt động cụ thể trong tổng thể hoạt động xúc tiến thương mại. Nhưng trên thực tế, vào những thời kỳ nhất định, ở những không gian nhất định và trong những môi trường kinh doanh cụ thể hoạt động xúc tiến xuất khẩu lại được đồng nhất với hoạt động xúc tiến thương mại. Trên phạm vi toàn thế giới, ở đó diễn ra hoạt động trao đổi thương mại giữa các quốc gia thì xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, hay xúc tiến nhập khẩu chỉ là một mục đích làm tăng khối lượng và giá trị trao đổi thương mại của thế giới. Thực tiễn hoạt động xúc tiến thương mại của Nhật Bản những năm 50-60, của Hàn Quốc những năm 60-70 của thế kỷ XX, của các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi ngày nay cũng chính là thực tiễn xúc tiến xuất khẩu của các nước này. Mọi nỗ lực của Chính phủ, của các tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp ở các nước này đều tập trung cho mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu. Việc nhiều nước xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược xuất khẩu quốc gia là nội dung chính của hoạt động xúc tiến thương mại và nhấn mạnh các giải pháp về xúc tiến xuất khẩu. Việc dùng xúc tiến xuất khẩu thay cho xúc tiến thương mại là do tầm quan trọng đặc biệt của xuất khẩu nói chung, hoạt động xúc tiến xuất khẩu nói riêng đối với sự tăng trưởng kinh tế của các nước trong giai đoạn hiện nay. Việc đồng nhất xúc tiến xuất khẩu với xúc tiến thương mại khi các nước đang phát triển và chuyển đổi nền kinh tế đang đặt trọng tâm vị trí của xuất khẩu và hoạt động xúc tiến xuất khẩu không trái với nguyên lý chung là xúc tiến xuất khẩu nằm trong xúc tiến thương mại. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay, trọng tâm của hoạt động xúc tiến thương mại là phải đẩy mạnh xuất khẩu làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu hàng năm đạt 16% thời kỳ 2001-2005 và nhịp độ tăng xuất khẩu hàng năm trên 2 lần nhịp độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2001-2010 đòi hỏi phải đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu trong phạm vi các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp và toàn xã hội. Trong vòng 10 năm tới, hoạt động xúc tiến xuất khẩu vẫn là trọng tâm của hoạt động xúc tiến thương mại ở Việt Nam. Phân loại hoạt động xúc tiến xuất khẩu Việc phân loại hoạt động xúc tiến xuất khẩu có thể theo các tiêu chí khác nhau như: Mục đích, nội dung các lĩnh vực cụ thể của xúc tiến xuất khẩu (thông tin, nghiên cứu thị trường,…), các chủ thể của xúc tiến xuất khẩu (Nhà nước, các tổ chức hỗ trợ thương mại, doanh nghiệp,…), không gian của hoạt động xúc tiến xuất khẩu (xúc tiến xuất khẩu ở trong nước (onshore), xúc tiến xuất khẩu ở nước ngoài (offshore)), phạm vi hoạt động xúc tiến xuất khẩu… Xúc tiến xuất khẩu theo phạm vi hoạt động xúc tiến xuất khẩu được phân loại như sau: Xúc tiến xuất khẩu quốc tế Môi trường thương mại thế giới ngày nay đã có những thay đổi căn bản. Xu thế mạnh mẽ của toàn cầu hoá, khu vực hoá và tự do hoá thương mại; giao lưu quốc tế trở nên nhanh chóng và dễ dàng hơn; những xu hướng thị trường mới…tất cả đều ảnh hưởng tới hoạt động xúc tiến thương mại ở quy mô thế giới. Các tổ chức kinh tế thuộc Liên hiệp quốc, các thể chế kinh tế thương mại toàn cầu và các tổ chức Phi Chính phủ trên thế giới đều thực hiện xúc tiến phát triển thương mại tự do. Tự do hoá thương mại như một công cụ đảm bảo cho hoà bình và sự phát triển thịnh vượng của thế giới trong tương lai. Tổ chức thương mại thế giới – WTO, Trung tâm thương mại quốc tế ITC, cơ quan chức năng xúc tiến thương mại trực thuộc WTO và UNCTAD, Phòng thương mại quốc tế (ICC)…là những tổ chức tiêu biểu thực hiện xúc tiến phát triển thương mại tự do. Xúc tiến xuất khẩu quốc gia Trên bình diện quốc gia, có sự tham gia xúc tiến xuất khẩu của Nhà nước (Chính phủ) và của các tổ chức hỗ trợ thương mại (TSIs). Hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ nhằm tạo môi trường pháp lý, khoa học kỹ thuật, kinh tế văn hoá – xã hội thuận lợi cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu và xuất khẩu, trực tiếp tiến hành các hoạt động xúc tiến xuất khẩu hay cung cấp dịch vụ xúc tiến xuất khẩu… Các TSIs phối hợp hoạt động trong mạng lưới xúc tiến thương mại quốc gia và cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp và các khách hàng có yêu cầu,… Xúc tiến xuất khẩu ở doanh nghiệp Việc tham gia vào quá trình xuất khẩu trước hết đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường xuất khẩu cho sản phẩm hay dịch vụ của mình. Nghiên cứu thị trường là quá trình điều tra thị trường để tìm kiếm cơ hội bán hàng hay là hay là để phát hiện ra nhu cầu của thị trường (nhu cầu hiện tại và nhu cầu tiềm năng). Từ đó tìm ra các cách thức, biện pháp để biến các cơ hội bán hàng đó thành hiện thực nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Các bản báo cáo kết quả nghiên cứu thị trường cung cấp cơ sở khoa học, độ tin cậy cho việc xây dựng và thực hiện các chiến lược, chính sách marketing hỗn hợp về sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến. Khi đã thâm nhập thị trường thành công, việc củng cố và mở rộng thị phần, phát triển kinh doanh xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu phải coi việc triển khai các chiến lược, các chính sách nghiên cứu phát triển, chính sách đầu tư, phát triển công nghệ mới, chính sách liên doanh và hợp nhất quốc tế, đa dạng hoá sản phẩm và thị trường xuất khẩu... là mục đích hoạt động chính của mình. Vị trí, vai trò của hoạt động xúc tiến xuất khẩu Vị trí của hoạt động xúc tiến xuất khẩu Xúc tiến xuất khẩu giữ vị trí quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xúc tiến xuất khẩu có chức năng cơ bản là khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu. Do đó, hoạt động xúc tiến xuất khẩu có vị trí quan trọng như thế nào là tuỳ thuộc vào nhu cầu và yêu cầu cần đạt được của một quốc gia hay một doanh nghiệp đối với các mục tiêu xuất khẩu. Xúc tiến xuất khẩu sẽ có vị trí đặc biệt quan trọng đối với một đất nước vào thời kỳ mà nước đó chủ trương phát triển kinh tế hướng ngoại. Nói cách khác, nước đó muốn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo theo định hướng xuất khẩu. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của Việt Nam, vị trí quan trọng của xuất khẩu là điều không thể phủ nhận. Do tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến xuất khẩu trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bộ Luật Thương mại được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 đã có những quy định cơ bản điều chỉnh hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, trong các Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 1991 – 2000 và 2001 – 2010 đã được Quốc hội thông qua, đẩy mạnh xuất khẩu luôn được coi là một trong những hoạt động kinh tế trọng yếu của đất nước. Trong công tác chỉ đạo điều hành nền kinh tế đất nước hiện nay, Chính phủ luôn theo dõi chặt chẽ tình hình của đất nước và có các giải pháp kịp thời nhằm thực hiện tốt các mục tiêu phát triển xuất khẩu đã được đề ra… Xúc tiến xuất khẩu giữ vị trí mở đường cho một doanh nghiệp tham gia thị trường quốc tế, đồng thời là một trong những hoạt động kinh tế trọng yếu của doanh nghiệp hiện đại ngày nay. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở một doanh nghiệp chính là hoạt động marketing xuất khẩu của doanh nghiệp. Hoạt động mà một doanh nghiệp cần phải tiến hành khi muốn thâm nhập thị trường quốc tế bao gồm: Nghiên cứu thị trường xuất khẩu để tìm các thị trường và khách hàng tiềm năng. Nắm bắt được các đặc điểm và xu hướng phát triển của các thị trường, khách hàng tiềm năng đó. Xây dựng và thực hiện các chiến luợc marketing xuất khẩu hỗn hợp. nếu không có các hoạt động này thì doanh nghiệp sẽ không thể xuất khẩu được. Chính vì vậy, xúc tiến xuất khẩu sẽ khai thông con đường gia nhập thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Hơn nữa, việc tiến hành các hoạt động xúc tiến xuất khẩu với mục đích tạo dựng và phát triển thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp ngày càng củng cố vị trí là một trong những hoạt động chính yếu nhất của doanh nghiệp trong môi trường toàn cầu hoá và cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay. Vai trò của hoạt động xúc tiến xuất khẩu Hoạt động xúc tiến xuất khẩu giữ vai trò là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Xúc tiến xuất khẩu hiện đại, với những nội dung hoạt động mới (nhất là việc xây dựng và thực hiện chiến lược xuất khẩu quốc gia, các chiến lược xuất khẩu ngành) sẽ tạo ra những động lực và những nhân tố mới thúc đẩy xuất khẩu trong môi trường kinh doanh quốc tế ngày càng trở nên cạnh tranh khốc liệt. Sơ đồ 1.1: Tác động của xúc tiến xuất khẩu tới phát triển kinh tế của một nước Xúc tiến xuất khẩu Phát triển sản xuất trong nước Tạo công ăn, việc làm Tạo nguồn thu ngoại tệ Mua tư liệu sản xuất và nguyên liệu Trả nợ nước ngoài Tăng thu nhập Nguồn: Sách “Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Tác giả Nguyễn Thị Nhiễu, NXB Lao động - Xã hội Hà Nội - 2003 Việc thực hiện xúc tiến xuất khẩu hay thúc đẩy xuất khẩu sẽ có tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều việc làm mới và góp phần cải thiện thu nhập cho người lao động. Mặt khác, khuyến khích xuất khẩu sẽ tạo nguồn thu ngoại tệ lớn hơn để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho mua sắm máy móc thiết bị, nhập khẩu các sản phẩm trung gian phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời, đây là nguồn thu để trả nợ nước ngoài, giúp cân bằng và lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tình hình kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển. Xúc tiến xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thành công, đảm bảo hiệu quả hoạt động xuất khẩu và góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Tham gia xuất khẩu là mong muốn của nhiều doanh nghiệp. Thứ nhất, xuất khẩu tạo ra các cơ hội cho doanh nghiệp đạt được quy mô cần thiết, do đó mà tiết kiệm được chi phí, đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cả ở thị trường trong nước và quốc tế. Thứ hai, thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp thực hiện việc đa dạng hoá thị trường đảm bảo sự phát triển ổn định, tránh những rủi ro có thể phát sinh khi bị phụ thuộc quá mức vào một thị trường. Thứ ba, tham gia xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ cọ sát bằng cạnh tranh khốc liệt, trở nên mẫn cảm hơn với các đặc điểm văn hoá và cấu trúc của các thị trường để có thể cạnh tranh thắng lợi. Thứ tư, xuất khẩu là một trong những khả năng chiến lược marketing quốc tế, từ xuất khẩu sẽ mở ra các khả năng chiến lược khác như đầu tư, liên doanh… để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển được một cách bền vững. Tác động của các hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ (và các tổ chức hỗ trợ thương mại - TSIs) là giúp cho doanh nghiệp tận dụng các cơ hội thị trường trong quá trình này và hạn chế những rủi ro có thể làm nản ý chí và quyết tâm xuất khẩu của doanh nghiệp. Ví dụ, một doanh nghiệp đang ở giai đoạn có ý tưởng tham gia xuất khẩu, lúc này yếu tố liên quan là thông tin về thị trường và khách hàng nước ngoài. Nếu doanh nghiệp tiếp cận được những thông tin cần thiết đó một cách thuận lợi do được sự hỗ trợ, giúp đỡ của Chính phủ, doanh nghiệp cảm thấy được tiếp sức để đi đến các quyết định tham gia xuất khẩu nhanh chóng hơn. Trường hợp ngược lại, tuy doanh nghiệp có ý tưởng xuất khẩu thật, nhưng ý tưởng đó chỉ thoáng qua vì doanh nghiệp không có các thông tin cần thiết để xem xét một cách nghiêm túc ý tưởng của mình hay ít ra là xuất khẩu cho ai, ở đâu và tiến hành như thế nào… Trong từng bước đi tới xuất khẩu của doanh nghiệp, sự hỗ trợ, khuyến khích của xúc tiến xuất khẩu Chính phủ đều có ý nghĩa tương tự. Chính mối quan hệ biện chứng giữa quá trình triển khai hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp và những yếu tố môi trường liên quan đã giải thích lý do tại sao cần phải có sự hỗ trợ của xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ và các TSIs để khuyến khích doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Các nhân tố ảnh hưởng đến xúc tiến xuất khẩu Quy mô và khối lượng hàng hoá đưa vào lưu thông trong nền kinh tế Khi nền kinh tế phát triển, sản xuất được mở rộng, thương mại trong nước và quốc tế được mở rộng thì khối lượng hàng hoá đưa vào trao đổi trên thị trường trong nước và quốc tế càng lớn, đặc biệt là trên thị trường quốc tế do thị trường quốc tế có khả năng đem lại lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp. Nhưng để tiêu thụ khối lượng hàng hoá đó các quốc gia cũng như từng doanh nghiệp phải tăng cường đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Theo tính toán của các nhà kinh tế, lượng hàng hoá đưa vào lưu thông giữa các quốc gia có thời kỳ lên tới 6,7 nghìn tỷ USD. Theo WTO, nếu thành lập các trung tâm xúc tiến xuất khẩu giúp các quốc gia nghèo tiếp cận thị trường thì họ sẽ tiết kiệm được 25% tổng chi phí xúc tiến. Nếu tính trên toàn cầu sẽ tiết kiệm được 300 tỷ USD. Ngoài khối lượng hàng hoá đưa vào trong lưu thông tăng cao, danh mục các mặt hàng đưa vào kinh doanh cũng tăng do nhu cầu của con người ngày càng đa dạng làm cho các mặt hàng mới trên thị trường ngày càng nhiều. Theo các nhà nghiên cứu, sự gia tăng da._.nh mục các hàng hoá nhanh hơn nhiều so với sự gia tăng của các chủ thể tham gia vào kinh doanh thương mại thế giới. Chính nhân tố này làm cho chu kỳ sống của hàng hoá bị ngắn lại, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp và quốc gia. Nó làm cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu luôn phải thay đổi cách thức tiến hành, chiến lược hành động trong cả ngắn hạn và dài hạn… 4.2 Sự phát triển của khoa học và công nghệ truyền thông Muốn xúc tiến xuất khẩu các tổ chức phải sử dụng công nghệ phù hợp. Sự phát triển của khoa học công nghệ tạo tiền đề cho việc nâng cao chất lượng xúc tiến xuất khẩu. Sự ra đời và phát triển của công nghệ thông tin, các phương tiện truyền thanh, truyền hình, công nghệ Internet… làm cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu đạt hiệu quả hơn không chỉ về mặt thời gian mà còn về mặt chất lượng các hoạt động xúc tiến. Những phương tiện hiện đại ngày càng được ứng dụng nhiều và trở nên phổ biến trong các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, nhất là trong hoạt động thu thập và xử lý thông tin. 4.3 Sự cạnh tranh ngày càng lớn giữa các quốc gia và doanh nghiệp Do sự tham gia ngày càng nhiều của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới và vì mục tiêu lợi nhuận làm cho tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một nước hay giữa các nước với nhau ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp ngoài việc ngày càng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm… còn phải nỗ lực trong các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Vì thế, dẫn tới sự cạnh tranh ngay cả trong các tổ chức xúc tiến xuất khẩu. Sự cạnh tranh diễn ra ngay giữa các tổ chức xúc tiến xuất khẩu với nhau, tính cạnh tranh làm cho các tổ chức này không ngừng phát triển để phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của doanh nghiệp. Do doanh nghiệp gặp phải sự cạnh tranh lớn trên thị trường đòi hỏi các hoạt động xúc tiến xuất khẩu phải được thực hiện như thế nào làm cho sức cạnh tranh của doanh nghiệp được tăng lên. Tổ chức nào có khả năng cung cấp các hoạt động xúc tiến đem lại hiệu quả cạnh tranh cho doanh nghiệp cao hơn thì sẽ được các doanh nghiệp tin cậy, tổ chức đó mới có thể tồn tại được. Điều này đòi hỏi tổ chức xúc tiến thương mại phải cạnh tranh nhau nhằm hoạt động tốt hơn, hỗ trợ doanh nghiệp nhiều hơn. 4.4 Xu thế tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá trong nền kinh tế thế giới Một nền kinh tế mở cửa, thông thoáng sẽ làm cho giao lưu thương mại tăng nhanh, số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu tăng lên không ngừng. Các quốc gia sử dụng chính sách mở cửa nền kinh tế sẽ tham gia vào các khối kinh tế khu vực, hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Để phát triển kinh doanh trên thị trường quốc tế các doanh nghiệp thương mại cũng như các tổ chức xúc tiến thương mại cũng cần phải có những kiến thức nhất định về thị trường quốc tế, phải xúc tiến với thị trường bên ngoài, xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với bạn hàng trên thị trường quốc tế. Quan hệ kinh tế quốc tế phát triển tạo điều kiện cho xúc tiến xuất khẩu phát triển. Một ví dụ đơn giản là khi Việt Nam có quan hệ tốt với nước khác, như buôn bán với họ có uy tín, hàng xuất khẩu của nước ta được thị trường bạn chấp nhận,… thì việc xúc tiến xuất khẩu sang nước họ dễ dàng hơn, ta có thể mở các cuộc triển lãm, hội chợ, hoặc mở các thương vụ ở nước ngoài… 4.5 Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước Chủ trương chính sách của Nhà nước trong xúc tiến xuất khẩu thể hiện vai trò của nhà nước đối với xúc tiến xuất khẩu. Tuỳ theo điều kiện của từng nước, từng thời kỳ, từng thị trường mà các chủ trương chính sách sẽ tác động vào xúc tiến xuất khẩu khác nhau. Các chủ trương chính tạo hành lang pháp lý cho xúc tiến xuất khẩu của một đất nước. Nó cũng thường thể hiện sự khuyến khích của một quốc gia đối với xuất khẩu của nước mình. Ngoài ra các chính sách này cũng thường mang tính định hướng đối với các hoạt động xúc tiến xuất khẩu vì bản thân Chính phủ của mỗi quốc gia cũng đóng vai trò của một tổ chức xuất khẩu ở tầm vĩ mô. Các chủ trương chính sách của Nhà nước sẽ có tác động trực tiếp đối với hoạt động xúc tiến xuất khẩu, hoạt động xúc tiến xuất khẩu sẽ có hiệu quả nếu các chính sách này đúng hướng với hoạt động xuất khẩu hiện tại của đất nước. Hiện nay, Việt Nam đang chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu. Nếu chủ trương của Nhà nước là thúc đẩy xuất khẩu thì chủ trương này sẽ có tác động rất tích cực tới hoạt động xuất khẩu của đất nước, làm tăng khối lượng hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, tìm được thêm các thị trường mới,… 4.6 Khả năng tài chính dành cho xúc tiến xuất khẩu Để tiến hành được các hoạt động xúc tiến xuất khẩu phải có những khoản chi phí nhất định, thậm chí các khoản chi phí này không phải là nhỏ vì thông thường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu thường được các tổ chức tại nhiều nước khác nhau trên thế giới, bằng nhiều cách thức khác nhau. Ngân sách dành cho xúc tiến xuất khẩu ảnh hưởng trực tiếp khả năng lựa chọn các công cụ thực hiện xúc tiến xuất khẩu. Nếu ngân sách dành cho xúc tiến xuất khẩu lớn thì khả năng thành công của các hoạt động này sẽ cao. Tất nhiên, cứ không phải dành ngân sách lớn cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu thì hiệu quả sẽ cao. Vì ngân sách của các hoạt động xúc tiến xuất khẩu cũng được tính vào chi phí của doanh nghiệp. Việc coi ngân sách là chi phí thì dẫn tới là khoản ngân sách doanh nghiệp bỏ ra phải đem lại hiệu quả hay lợi nhuận lớn hơn chi phí đó. Do đó, việc cân nhắc ngân sách dành cho xúc tiến xuất khẩu như thế nào còn tuỳ thuộc vào khả năng tài chính cũng như hiệu quả mà hoạt động của nó mang lại. 4.7 Nhân tố con người và khả năng tổ chức xúc tiến xuất khẩu Nhân tố con người ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xúc tiến xuất khẩu, ảnh hưởng này của nó được xem xét trên ba giác độ: Người tiêu dùng, người làm công tác xúc tiến xuất khẩu và các nhà hoạch định chiến lược xuất khẩu. Sự hiểu biết của khách hàng về xúc tiến xuất khẩu làm cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu được dễ dàng chấp nhận và có hiệu quả hơn. Người làm công tác xúc tiến xuất khẩu có kiến thức về xúc tiến xuất khẩu, có khả năng nắm bắt thông tin, thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường. Cán bộ làm công tác xúc tiến xuất khẩu có kỹ năng quản lý xúc tiến xúc khẩu cũng như trình độ nghiệp vụ xúc tiến khẩu cao thì hoạt động trở nên có hiệu quả hơn. Xây dựng chiến lược xúc tiến xuất khẩu như thế nào, cách thức thực hiện ra sao hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm của người đưa ra chiến lược. Người đưa ra chiến lược phải là người có kiến thức sâu rộng về xúc tiến xuất khẩu, có tầm nhìn chiến lược thì khả năng thành công của các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sẽ còn cao hơn và ngược lại. Xúc tiến xuất khẩu Chính phủ Trong mạng lưới xúc tiến xuất khẩu quốc gia có sự tham gia xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Trong phạm vi của Luận văn, em chỉ tập trung nghiên cứu xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ. Định nghĩa, mục đích, đối tượng của xúc tiến xuất khẩu Chính phủ Định nghĩa: Theo Rosson & Seringhaus “Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ là những biện pháp chính sách của Nhà nước có tác động trực tiếp hay gián tiếp khuyến khích các hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp, của các ngành và của đất nước”. Định nghĩa này thể hiện quan niệm rộng về xúc tiến xuất khẩu, phù hợp với những xu hướng phát triển mới của môi trường thương mại quốc tế và với yêu cầu thực tế phải đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam… Mục đích: Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ là khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu của đất nước. Đối tượng: Đối tượng tác động của xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ là các doanh nghiệp, các ngành sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ cho xuất khẩu, các thể chế và các tổ chức hỗ trợ thương mại của đất nước, các thị trường và các nhà nhập khẩu nước ngoài. Vị trí, vai trò của xúc tiến xuất khẩu Chính phủ Vị trí, vai trò của xúc tiến xuất khẩu Chính phủ quan trọng đến mức nào là tuỳ thuộc vào hệ thống cơ chế quản lý kinh tế, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, nhận thức chung của mỗi quốc gia về xúc tiến xuất khẩu… Ở nhiều nước công nghiệp phát triển, xúc tiến xuất khẩu Chính phủ chủ yếu giữ vai trò thuận lợi hoá thương mại. Trái lại, ở các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi, xúc tiến xuất khẩu Chính phủ có khi lại giữ vai trò quan trọng quyết định đối với việc phát triển xuất khẩu của đất nước. Điều này đã từng xảy ra đối với các nước như Nhật bản, Hàn quốc, Đài Loan, Singapore… Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, xúc tiến xuất khẩu là lĩnh vực hoạt động còn rất mới mà yêu cầu đẩy mạnh xuất khẩu lại rất bức xúc, vì vậy xúc tiến xuất khẩu Chính phủ phải giữ vị trí quan trọng nhất. Cụ thể, Chính phủ phải là người tiên phong và giữ vai trò lãnh đạo trong các hoạt động xúc tiến xuất khẩu của đất nước, thống nhất quản lý các hoạt động này, tạo môi trường và mọi điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hoạt động xúc tiến xuất khẩu, đồng thời trực tiếp tiến hành các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Nội dung hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ Quản lý Nhà nước về xúc tiến xuất khẩu. Nhà nước xây dựng khuôn khổ pháp lý điều tiết hoạt động, tạo môi trường thuận lợi, như cung cấp các phương tiện hỗ trợ để công tác xúc tiến xuất khẩu thực sự có hiệu quả và có tác động thiết thực tới việc đẩy mạnh xuất khẩu. Cụ thể: Nhà nước tạo dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý theo cơ chế thị trường điều chỉnh hoạt động xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án xúc tiến xuất khẩu và phát triển xuất khẩu cụ thể của đất nước. Định hướng và phát triển các hoạt động xúc tiến xuất khẩu của cơ quan Chính phủ, các TSIs và các doanh nghiệp. Việc quan trọng nhất hiện nay là Chính phủ phải xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược xuất khẩu quốc gia và chiến lược xuất khẩu ngành/sản phẩm. Nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Lãnh đạo, chỉ dẫn, hướng dẫn, điều phối hoạt động xúc tiến xuất khẩu của đất nước trong mạng lưới xúc tiến xuất khẩu quốc gia. Giám sát, kiểm tra và thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về xúc tiến xuất khẩu. Xây dựng các biện pháp chính sách khuyến khích, hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu (chính sách tài chính, thuế, khoa học và công nghệ: giáo dục và đầo tạo, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài: phát triển cơ sở hạ tầng xúc tiến xuất khẩu…) Sơ đồ 1.2: Mạng lưới xúc tiến xuất khẩu quốc gia Sản xuất và xuất khẩu Đại diện thương mại nước ngoài Chiến lược xuất khẩu quốc gia Chiến lược xuất khẩu ngành Nhà xuất khẩu Chính phủ Các tổ chức hỗ trợ thương mại Cạnh tranh và hợp tác Chuyên môn hoá theo chức năng và vị trí Điều phối hoạt động Nguồn: Sách “Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Tác giả Nguyễn Thị Nhiễu, NXB lao động - xã hội Hà Nội - 2003 Trực tiếp thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu Chính phủ thành lập các cơ quan thực hiện hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Cục xúc tiến thương mại, các trung tâm, Phòng xúc tiến thương mạỉ ở các tỉnh thành phố, các địa phương, các đại diện thương mại ở Việt nam ở nước ngoài đều trực tiếp tiến hành các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Đây là lực lượng nòng cốt trong mạng lưới xúc tiến xuất khẩu quốc gia. Chính phủ đàm phán và ký kết các hiệp định song phương và đa phương tạo điều kiện tiếp cận thị trường rộng hơn cho các nhà xuất khẩu và sản phẩm xuất khẩu. Chính phủ xây dựng và tổ chức mạng lưới thông tin quốc gia đáp ứng yêu cầu thông tin thương mại của các nhà xuất khẩu. Chính phủ thiếp lập hệ thống văn phòng đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài và xây dựng các Trung tâm thương mại Việt Nam ở nước ngoài để xúc tiến thương mại hình ảnh đất nước, con người và sản phẩm của Việt Nam. Các phái đoàn kinh tế thương mại Chính phủ tham quan khảo sát thị trường nước ngoài và tiến hành xúc tiến xuất khẩu ở nước ngoài. Đón tiếp các phái đoàn kinh tế thương mại của Chính phủ nước ngoài. Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài. Hỗ trợ các đoàn doanh nghiệp trong nước và nước ngoài tham gia khảo sát lẫn nhau. Chính phủ tham gia đào tạo nguồn nhân lực xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu của đất nước. Dưới góc độ xuất khẩu sản phẩm, xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ (theo quan niệm rộng) phải bao gồm tất cả mọi biện pháp trực tiếp hay gián tiếp khuyến khích xuất khẩu sản phẩm được cấu thành trong 4 nhóm biện pháp: Nhóm biện pháp liên quan tới đầu vào của sản phẩm. Nhóm biện pháp liên quan tới đầu ra của sản phẩm. Nhóm các biện pháp khuyến khích kinh tế vĩ mô. Nhóm các biện pháp khuyến khích mang tính thể chế, tổ chức. Bảng 1.2: Khuyến khích xuất khẩu ở Đông và Đông Nam Á Loại chương trình khuyến khích xuất khẩu Các chính sách cụ thể Các biện pháp khuyến khích liên quan đến đầu vào Miễn thuế, hoàn thuế đầu vào nhập khẩu. Trợ cấp cho hao hụt được phép. Giảm giá đối với đầu vào là dịch vụ công ích. Khấu hao nhanh. Giảm lãi suất, tiếp cận và ưu đãi tín dụng. Các biện pháp khuyến khích liên quan đến đầu ra Ưu đãi các khoản vay dùng cho sản xuất. Miễn hoặc hoàn thuế trong nước. Cho phép quyền nhập khẩu gắn với xuất khẩu. Tín dụng xuất khẩu. Ưu tiên vay ngoại tệ. Trợ cấp bảo hiểm, vận chuyển hàng hoá. Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp. Các biện pháp khuyến khích kinh tế vĩ mô Chính sách hối đoái. Chính sách tự do hoá thương mại. Các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các biện pháp khuyến khích mang tính thể chế/tổ chức Khu chế xuất. Trung tâm thương mại. Đầu tư phát triển cơ sở hậ tầng. Nguồn: Ari Kokko, Quản lý quá trình chuyển đổi sang chế độ thương mại tự do: Chính sách thương mại của Việt Nam trong thế kỷ XXI, Stockholm, tháng 5/1997 – Sách “Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Tác giả Nguyễn Thị Nhiễu, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội - 2003 Kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu của một số nước điển hình trên thế giới - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu của Nhật Bản Từ những năm 1950, khi Nhà nước Nhật Bản không còn độc quyền ngoại thương nữa, nền kinh tế Nhật sau chiến tranh trải qua thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng, ngoại tệ thiếu thốn, người Nhật bắt tay vào khôi phục sản xuất từ đầu. Công việc đầu tiên họ nghĩ đến là xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu. Hàng loạt các Luật ra đời nhằm xây dựng hệ thống pháp lý cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu và xúc tiến thương mại. Luật kiểm soát ngoại thương (1949), Luật Bảo hiểm tín dụng (1950), Luật thuế đặc biệt (1953), Luật mẫu mã hàng xuất khẩu (1958)… Sau đó hàng loạt các tổ chức xúc tiến xuất khẩu được thành lập như: Ngân hàng xuất khẩu Nhật Bản (1950), Viện Nghiên cứu Ngoại thương (1951), Hội chợ triển lãm quốc tế (1952) và năm 1958 tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO ra đời từ sự sáp nhập một số cơ quan xúc tiến và nằm trong Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản (MITI). Cùng với sự phát triển của hệ thống các cơ quan xúc tiến, cơ chế quản lý về xúc tiến xuất khẩu từng bước được hình thành. Các chức năng quản lý hội chợ, nghiên cứu, hướng dẫn thị trường rải rác nằm trong các bộ phận của MITI trước năm 1952. Đến năm 1953, MITI cho tổ chức lại thành một bộ phận gọi là Tổ hợp tác kinh tế trực thuộc Cục Thương mại MITI. Bộ phận này tương đương cấp Phòng của Bộ Thương mại theo cơ cấu của Việt Nam. Năm 1958, Phòng này được tổ chức và xây dựng lại ở mức tương đương với cấp Vụ và năm 1962 được chính thức gọi là Vụ xúc tiến xuất khẩu. Năm 1964, Vụ này trở thành Cục xúc tiến thương mại và ngày nay là một bộ phận nằm trong MITI với chức năng xúc tiến thương mại. Dưới Cục xúc tiến thương mại là các cơ quan xúc tiến thương mại trực thuộc JETRO và MIPRO (xúc tiến nhập khẩu) được phát triển và mở rộng về quy mô, đồng bộ và tự chủ tối đa. Ngoài các tổ chức Chính phủ, còn có các tổ chức Phi Chính phủ được pháp luật Nhật Bản cho phép thành lập. Nhóm thứ nhất gồm năm liên minh các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế Nhật Bản. Đây là các tổ chức phi lợi nhuận, hoạt động dựa trên cơ sở lệ phí hội viên và có định hướng chính trị với quy mô lớn, bao gồm cả Viện Nghiên cứu các Quỹ hợp tác Phát triển với chức năng vận động hàng lang cho Chính phủ và đấu tranh gây ảnh hưởng trong việc định hướng chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp. Nhóm thứ hai là Phòng Thương mại và Công nghiệp và các Hiệp hội ngành hàng hoạt động trên cơ sở phí hội viên và dịch vụ đại diện quyền lợi cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ Nhật còn thành lập nhiều cơ quan hợp tác quốc tế có liên quan đến xúc tiến xuất khẩu như JICA, JAIPO, OCSIDI,… trực thuộc Bộ Ngoại giao và các Bộ khác. Tóm lại, ở Nhật Bản tồn tại hai hệ thống các cơ quan xúc tiến, một thuộc Chính phủ và một thuộc hệ thống Phi Chính phủ. Sự khác biệt chủ yếu giữa hai nhóm này cơ cấu nguồn kinh phí hoạt động. Chức năng của cả hai hệ thống xúc tiến này là giúp đỡ các doanh nghiệp đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu. Tuy có tồn tại nhiều loại hình xúc tiến thương mại như trên, song phải kể đến vai trò đầu tàu quan trọng của hệ thống xúc tiến thương mại Chính phủ. Hệ thống xúc tiến thương mại Chính phủ có chức năng xây dựng quan hệ kinh tế, thương mại giữa các nước và thúc đẩy thương mại phát triển. Về hoạt động xúc tiến xuất khẩu thì JETRO là cơ quan hoàn thiện nhất chuyên về hoạt động xúc tiến xuất khẩu, trên cơ sở sáp nhập Viện Nghiên cứu Ngoại thương, Cơ quan Triển lãm, sau đó thành lập các văn phòng đại diện ở nước ngoài. Tới nay, JETRO đã có thêm các bộ phận nghiệp vụ như phòng giao dịch, phòng phát triển thương mại, các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp, bộ phận điều phối văn phòng nước ngoài,… Chức năng chủ yếu của JETRO được hình thành như sau: Trung tâm thông tin nghiên cứu tiềm năng xuất khẩu của Nhật Bản và khuyếch trương tiềm năng đó, cung cấp những thông tin nghiên cứu từ thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp. Phòng quản lý các văn phòng đại diện ở nước ngoài chịu trách nhiệm hoạch định việc mở cửa các văn phòng ở nước ngoài, chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của các văn phòng và quản lý an ninh đối với các nhân viên Nhật Bản ở nước ngoài. Các văn phòng ở nước ngoài hoạt động dưới sự chỉ đạo của phòng quản lý trong nước thực hiện ba nhiệm vụ chính: Thông tin nghiên cứu thị trường nước sở tại. Khuyếch trương tiềm năng xuất khẩu của Nhật bản và thông tin nghiên cứu thị trường trong nước sở tại. Mở rộng hợp tác với nước sở tại trong công tác xúc tiến thương mại. Phòng hội chợ triển lãm chuyên tổ chức hội chợ và triển lãm tại Nhật bản và tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài. Phòng phát triển thương mại không phải làm chức năng đưa đón các Đoàn, mà là xây dựng và thực hiện các dự án phát triển như đào tạo nhân lực, trao đổi chuyên gia, phát triển mặt hàng xuất khẩu,… Các phòng còn lại được thành lập phụ thuộc vào nhu cầu thực tế và ngân sách cho phép. Các phòng nghiệp vụ lập kế hoạch công tác hàng năm và điều phối các hoạt động của các phòng trong JETRO, tổ chức thu thập và xử lý thông tin kỹ thuật, xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại. Mục tiêu hoạt động chủ yếu của các phòng thuộc JETRO là xác định nhu cầu của người tiêu dùng, thu thập và xử lý ý kiến của người tiêu dùng bằng hình thức phát phiếu điều tra thăm dò ý kiến về hàng hoá, giám sát phản ứng và hành động tiếp theo của người tiêu dùng để có những cải tiến phù hợp nhằm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Những năm qua JETRO đã tham gia thực hiện một chương trình tổng hợp về hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực xúc tiến xuất khẩu với một số nước thành viên của ASEAN. Chương trình này bao gồm các hoạt động khác nhau như hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc quản lý, xuất khẩu, ứng dụng công nghệ thích hợp, cung cấp thông tin thương mại, cải tiến sản phẩm, các biện pháp xúc tiến xuất khẩu cụ thể có liên quan đến các triển lãm thương mại ở Nhật Bản, cải tiến các kỹ thuật quảng cáo, hướng dẫn kiểm tra chất lượng, và tổ chức các đoàn xúc tiến bán hàng và đầu tư ở Nhật. Những hoạt động này đã rất thành công Đối với Việt Nam, JETRO đã mở hai văn phòng đại diện tại Hà Nội (tháng 10/1993) và tại Thành phố Hồ Chí Minh (tháng 10/2000). Hiện nay JETRO đã và đang phối hợp với các cơ quan Chính phủ Việt Nam và khối doanh nghiệp tiến hành nhiều hoạt động nhằm mở rộng giao lưu thương mại và đầu tư giữa hai nước. Các hoạt động chủ yếu của JETRO bao gồm xúc tiến xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Nhật Bản, hỗ trợ đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam và hỗ trợ nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Các hình thức hoạt động chủ yếu của JETRO là: Cung cấp thông tin về khách hàng Nhật Bản và giới thiệu hàng Việt Nam cho khách hàng Nhật thông qua mạng trên trang Web của JETRO. Trao đổi nhân sự. Phái cử các chuyên gia chuyên ngành sang Việt Nam trực tiếp tư vấn, đào tạo tại chỗ. Việt Nam của các cán bộ quản lý, kỹ thuật sang thăm quan học tập tại Nhật Bản. Tổ chức và tham gia các hội thảo chuyên đề tại Việt Nam, cung cấp thông tin thị trường và xu hướng tiêu dùng tại Nhật Bản đối với các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam. Tổ chức hội chợ triển lãm xúc tiến xuất khẩu tại Việt Nam. Mời đại diện của các doanh nghiệp Việt Nam tham gia Chương trình Nghiên cứu xuất khẩu sang Nhật bản. Giúp đào tạo kỹ năng xúc tiến thương mại cho các cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại của Việt Nam. Giúp và hỗ trợ các nhà làm công tác xuất khẩu của Việt Nam tham gia các triển lãm tại Nhật Bản. Kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu của Mỹ Tổ chức xúc tiến thương mại có tên gọi tắt là ITA (Iternational Trade Administration) là cơ quan trực thuộc Bộ Thương mại Hoa Kỳ, dưới quyền Bộ trưởng Bộ ngoại thương Hoa Kỳ. ITA có biên chế 1257 người, trong đó 350 người làm việc tại Mỹ tại 104 văn phòng, và 269 nhân viên Mỹ và 638 nhân viên địa phương làm việc tại 141 văn phòng ở các nước sở tại. Tổng ngân sách 317 triệu USD/năm (Nhà nước cấp 285 triệu USD/năm, tự tạo nguồn 32 triệu USD/năm) - Nguồn: TS Đỗ Thị Loan, Xúc tiến thương mại lý thuyết và thực hành, NBX Khoa học và kỹ thuật, 2004. Các hoạt động xúc tiến xuất khẩu được tổ chức bởi bộ phận quản lý thương mại quốc tế của phòng thương mại của chức năng chủ yếu là giúp các doanh nghiệp Mỹ củng cố thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu với ba mục tiêu cơ bản sau: Tăng xuất khẩu của Mỹ thông qua việc thực hiện chiến lược xuất khẩu quốc gia nhằm mở rộng hoạt động thương mại với ý nghĩa hoạt động ưu tiên cơ bản của quốc gia, thúc đẩy sự quan tâm của các doanh nghiệp Mỹ tới buôn bán quốc tế, đặc biệt là các công ty vừa và nhỏ. Thông qua đảm bảo việc thực thi các Hiệp định thương mại, gặp gỡ các hàng rào thương mại và đầu tư nhằm trợ giúp các doanh nghiệp Mỹ có được tương quan cần thiết ở các thị trường nước ngoài. Đảm bảo cho các doanh nghiệp Mỹ có thể cạnh tranh với các hàng hoá thâm nhập một cách ưu đãi bằng việc thực hiện có hiệu quả các đạo luật thương mại của Hoa Kỳ, thực hiện tức thì và kiên quyết và các biện pháp chống lại các hoạt động thương mại không lành mạnh Bộ phận quản lý thương mại quốc tế chia thành bốn ban chính, phụ trách những mảng hoạt động sau: Mảng quản lý hoạt động thương mại thi hành các chính sách xuất nhập khẩu. Mảng phát triển hoạt động thương mại có chức năng phân tích thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế và các xí nghiệp Mỹ, để chính sách thương mại hỗ trợ và hướng dẫn các hoạt động xúc tiến thương mại Mảng hoạt động chủ yếu là hỗ trợ các chính sách thương mại song phương và đa phương và tiếp tục phân tích các điều kiện thị trường nước ngoài. Mảng hoạt động gắn liền với việc thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại cả ở thị trường Mỹ và các thị trường nước ngoài. Số nhân viên được tuyển dụng ở Mỹ và ở nước ngoài nhằm phục vụ cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Hàng loạt các dịch vụ được cung cấp trong lĩnh vực: thông tin thương mại; nghiên cứu thị trường tổng thể; nghiên cứu thị trường sâu theo ngành hàng, nghiên cứu thị trường cụ thể theo nhu cầu của các công ty; xúc tiến và phát triển thị trường, sản phẩm; hỗ trợ chuyên môn cho các nhà xuất khẩu; trợ giúp các thông ty Mỹ thông qua các văn phòng đại diện thương mại ở thị trường nước ngoài; tổ chức đoàn ra, đoàn vào, tổ chức các chương trình viếng thăm, cung cấp hệ thống tự động hoá thông báo các cơ hội thương mại ở nước ngoài cho các nhà cung cấp trong nước; thưởng xuất khẩu cho các công ty trong nước đạt thành tích xuất khẩu; xúc tiến biểu tượng và nhãn hiệu của các sản phẩm và quốc gia, giải đáp các câu hỏi liên quan đến xuất khẩu qua đường dây nóng; cung cấp tín dụng và bảo hiểm xuất khẩu; tổ chức hội chợ triển lãm ở nước ngoài; viết bài kinh doanh; tổ chức các cửa hàng bán lẻ ở nước ngoài, trưng bày các ca-ta-log hàng bán; dịch vụ đại lý và phân phối ở nước ngoài; tổ chức các chương trình đào tạo ngắn hạn cho các nhà làm công tác xuất khẩu; viết báo cáo kinh doanh cung cấp tình hình thị trường (mỗi đợt xuất bản khoảng 2.000 tờ báo kinh doanh ở nước ngoài và hầu hết các nhà xuất khẩu Mỹ và chủ yếu những hãng kinh doanh lớn). Cuộc trưng bày ca-ta-log giúp các nhà doanh nghiệp kiểm tra sức hấp dẫn của sản phẩm của họ, phát triển tiềm năng bán hàng và phân phối của các đại lý. Bài học cho Việt Nam Từ những kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu của Nhật Bản và Mỹ đã nêu, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: Xúc tiến xuất khẩu là hoạt động cần thiết khách quan không thể thiếu được để đẩy mạnh xuất khẩu, phát sinh do nhu cầu kinh tế thị trường, như vậy cần phải có sự quan tâm của Nhà nước, nếu không sẽ tồn tại một cách tự phát như các dịch vụ sinh lời không có định hướng chiến lược. Khi vai trò điều tiết của Nhà nước càng phát triển thì các cơ quan xúc tiến xuất khẩu Nhà nước càng trở nên quan trọng, đóng vai trò như các công cụ thúc đẩy thực hiện chiến lược thương mại của mỗi quốc gia. Để hoạt động một cách có hiệu quả, các tổ chức xúc tiến xuất khẩu cần phải có sự hỗ trợ của các bộ phận chức năng của cơ quan Nhà nước. Khi các cơ quan xúc tiến xuất khẩu hoàn thiện về cơ cấu, đồng bộ về nghiệp vụ thì quy mô của các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ giảm dần, chức năng của nó chỉ còn là định hướng chiến lược, hướng dẫn và quản lý ngân sách. Việt Nam hiện nay chỉ tương đương với Nhật Bản vào giai đoạn năm 1955 – 1958. Đây là giai đoạn Nhật Bản bắt tay vào xây dựng hệ thống xúc tiến xuất khẩu để có được thành quả như ngày hôm nay. Việt Nam để có thể bắt đầu củng cố và từng bước hoàn thiện công tác xúc tiến xuất khẩu nhằm xây dựng xúc tiến xuất khẩu có hiệu quả và có đặc thù riêng của mình. Hệ thống kinh nghiệm của các nước hệ thống xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam, nên tăng cường mạng lưới đại diện ở nước ngoài, hoạt động vì lợi ích của doanh nghiệp, thu thập thông tin, trợ giúp trực tiếp cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc điều phối các cơ quan hoạt động theo chương trình chung phải dựa trên sự chủ động của nhiều nguồn kinh phí và tính độc lập tương đối của các cơ quan đang tồn tại, không chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách của Nhà nước. Cần nhấn mạnh tính chất “cung cấp dịch vụ” của các tổ chức xúc tiến xuất khẩu để nâng cao chất lượng dịch vụ mà các tổ chức này cung cấp. PHẦN II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ XÚC TIẾN XUẤT HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU Tổng quan về thị trường EU 1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của EU Liên minh Châu Âu - một trong ba trụ cột kinh tế của thế giới là một tổ chức kinh tế chính trị hùng mạnh, 15 thành viên cũ của EU (EU 15) gồm: Ðức, Bỉ, Hà lan, Luc-xem-bua, I-ta-lia, Pháp, Anh, Tây ban nha, Bồ đào nha, Ðan mạch, Ailen, Thuỵ Ðiển, Áo, Phần Lan, Hy lạp. Ngày 01/05/2004, mười nước Đông Âu và Địa Trung Hải (CEEC) là Síp, Man-ta, Séc, Es-tô-nia, Hungari, Latvia, Lit-va, Ba lan, Slovakia và Slovenia chính thức gia nhập Liên minh, đưa tổng số thành viên của tổ chức này lên con số 25 nước (EU 25). Dự kiến Bun-ga-ri và Ru-ma-ni sẽ gia nhập EU năm 2007, Thổ Nhĩ Kì (nước Châu Á duy nhất cho đến thời điểm này hy vọng được gia nhập EU thì chưa ấn định thời gian đàm phán. Trong tương lai EU sẽ còn mở rộng nhiều hơn và mạnh mẽ hơn. Nếu tính từ khi Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than – Thép Châu Âu (1951) thì đến nay Liên minh Châu Âu đã bước vào năm thứ 55. Trong suốt thời gian qua, nhìn tổng quát có thể thấy Liên minh Châu Âu đã trải qua 3 giai đoạn phát triển chủ yếu sau: Giai đoạn 1 (1951 – 1957): Hợp tác trong phạm vi Cộng đồng Than Thép Châu Âu gồm 6 nước Pháp, Cộng hoà Liên Bang Đức, Italia, Hà Lan, Bỉ và Lúc xăm bua. Giai đoạn 2 (1957 – 1992): Phát triển mối quan hệ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế và chính trị gồm 12 nước: 6 nước của Cộng đồng Than Thép Châu Âu cộng thêm Anh, Đan mạch, Ai len, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và Hy lạp. Giai đoạn 3 (1992 đến nay): Liên minh Châu Âu đã thay thế cho Cộng đồng Châu Âu (EC). Đây là giai đoạn đẩy mạnh “nhất thể hoá” trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế - tiền tệ, ngoại giao, an ninh, đến nội chính và tư pháp. Với việc kết nạp thêm Áo, Thuỵ điển, Phần Lan vào năm 1995, số thành viên của EU đã lên tới 15 và từ 01/05/2004 EU với 25 nước thành viên. Giai đoạn thứ 3 là giai đoạn phát triển về chất so với 2 giai đoạn trước. Tuy nhiên, con tàu EU chưa thể chạy nhanh với tốc độ chóng mặt ngay vì thành viên cũ và mới vẫn đang chạy trên 2 tốc độ. Cho đến nay, EU đạt trình độ cao về khoa học kỹ thuật, công nghệ, hệ thống công nghiệp hiện đại, đặc biệt về cơ khí, năng lượng nguyên tử, dầu khí, hoá chất, dệt may, điện tử công nghiệp vũ trụ và vũ khí. Đặc điểm chung của thị trường EU Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất hải quan, có định mức thuế quan chung với các nước ngoài khối. Ngày 07/02/1992, Hiệp ước Maastricht được ký kết tại Hà Lan, hình thành lên một khối thị trường chung gồm 12 nước thành viên của EU. Ngày 01/01/1993, Hiệp ước Maastricht bắt đầu có hiệu lực, cũng là ngày thị trường chung Châu Âu được chính thức hình thành thông qua việc huỷ bỏ các đường biên giới nội bộ trong Liên minh (biên giới quốc gia, biên giới hải quan). Thị trường chung hay còn gọi là thị trường nội khối thống nhất ngày càng được kiện toàn. Việc tự do lưu chuyển các yếu tố sản xuất không còn nhiều vướng mắc như trước đây. Gắn liền với sự ra đời của thị trường chung là một chính sách thương mại chung để điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hoá dịch vụ trong nội khối. Quy mô thị trường lớn EU có nền thương mại lớn thứ hai thế giới. Kim ngạc._. tranh. Đến cuối năm 2004, EU chấm dứt thực hiện giai đoạn 2 của chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và xoá bỏ hạn ngạch đối với các nước là thành viên của WTO. Đối với Việt Nam không phải là thành viên của WTO, EU đã quyết định bỏ hạn ngạch, đồng thời vẫn cho Việt Nam hưởng GSP. Quyết định này là rất thuận lợi cho Việt Nam nhưng dù thuận lợi như vậy, thì không thể coi là chỉ có thuận lợi, giai đoạn 2005 – 2010 sẽ rất khó khăn và thử thách đối với các doanh nghiệp và hàng xuất khẩu Việt Nam. Nếu Việt Nam gia nhập WTO được trong năm 2006 này thì hàng xuất khẩu của ta sẽ thuận lợi khi thâm nhập vào EU so với thời kỳ 2000 – 2004. EU là thị trường lớn, sự tiêu thụ ổn định, lại hứa hẹn có những khởi sắc về kinh tế trong thời kỳ 2001 – 2010 (nếu Liên Minh Tiền Tệ thành công) nên việc đẩy mạnh xuất khẩu vào EU đang là một trong những trọng điểm của chính sách thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ, các ngành chủ đạo như da giày, dệt may và thuỷ sản đang có những chương trình cụ thể để phát triển sản xuất và tăng cường xuất khẩu sang EU. Còn các doanh nghiệp là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của xuất khẩu cũng đang có nỗ lực vươn lên để thâm nhập và đứng trên thị trường EU (cải tiến xuất khẩu: đẩy mạnh việc áp dụng tiêu chuẩn HACCP, ISO 14000 để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và môi trường; phát huy tính năng động, …). Giai đoạn 2000 - 2010 tuy không mấy thuận lợi, nhưng với những cố gắng của Chính phủ và các doanh nghiệp, xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ vẫn trên đà phát triển, quy mô buôn bán không ngừng gia tăng, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có thể giảm chút ít (tăng 30% /năm). Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam - EU sẽ chuyển biến theo hướng tích cực: tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến lên 90% (có nhiều mặt hàng xuất khẩu chế biến sâu và tinh) và giảm mạnh hàng nguyên liệu thô xuống 10%. Trong nhóm hàng công nghệ phẩm, sẽ giảm mạnh tỷ lệ hàng gia công và tăng tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp (mua nguyên liệu của nước ngoài về sản xuất và xuất khẩu), và tăng tỷ lệ sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu nội địa. * Đối với nhóm hàng xuất khẩu truyền thống: Giày dép, dệt may và nông sản, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng trưởng chậm lại. Riêng thuỷ sản sẽ có tốc độ tăng trưởng kinh ngạch cao hơn so với thời kỳ 1995 - 1999 vì mặt hàng này đang có cơ hội thuận lợi để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường EU (tháng 06/2000 EU đã công nhận 40 doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản của ta đạt tiêu chuẩn về chất lượng và vệ sinh của EU). Trong nhóm hàng nông sản xuất khẩu sang EU, hạt điều sẽ có tốc độ tăng trưởng cao vì vùng nguyên liệu được phát triển mạnh; còn chè, cà phê và một số mặt hàng khác sẽ tăng trưởng chậm hơn so với những năm trước. Hai mặt hàng giày dép và dệt may sẽ có tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp tăng lên và tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm cũng tăng nhanh. * Đối với nhóm hàng xuất khẩu đang được người tiêu dùng thị trường EU ưa chuộng, như: hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gia dụng, sản phẩm nhựa gia dụng, thực phẩm chế biến và hàng điện tử tin học sẽ có tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao hơn nhiều so với những năm vừa qua vì nhu cầu của thị trường EU đối với nhóm hàng này đều rất lớn. Đặc biệt là mặt hàng điện tử, thực phẩm chế biến và đồ gỗ gia dụng, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng trưởng mạnh. Còn đối với một số mặt hàng mới phát triển trong thời kỳ này thì kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng rất nhanh. Sắp tới Việt Nam còn có khả năng xuất khẩu phần mềm tin học vào EU. Đây có thể sẽ là một trong những mặt hàng mới phát triển trong thời kỳ này. Hiện nay, Đức, Pháp, Bỉ, Hà Lan và một số nước khác trong EU đang báo động thiếu kỹ sư tin học và các sản phẩm tin học bắt đầu khuyến khích nhập khẩu lao động và sản phẩm tin học từ nước ngoài. Ấn Độ, Đài Loan và Malaysia đang mở rộng xuất khẩu mặt hàng này với giá thấp hơn so với Châu Âu. Với cơ cấu kinh tế hoàn toàn bổ sung cho nhau, môi trường quốc tế thuận lợi, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế và nỗ lực của Việt Nam, hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào EU sẽ có bước chuyển biến vượt bậc và phát triển mạnh mẽ hơn trong những năm đầu thế kỷ mới. Quy mô xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này sẽ được mở rộng tương xứng với tiềm lực kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU. Thị trường EU có thể chiếm tỷ trọng 25% - 27% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ 2005 - 2010. 4. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu 4.1 Nhóm giải pháp vĩ mô 4.1.1 Tạo môi trường quốc tế thuận lợi Để tạo ra môi trường marketing quốc tế thuận lợi nhằm hỗ trợ cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, Nhà nước cần đẩy nhanh tiến trình gia nhập vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Chúng ta đã là thành viên của ASEAN, đã tham gia vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), đã tham gia với tư cách là thành viên sáng lập của Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), chúng ta cần tiến hành những việc làm cần thiết để trở thành thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc trở thành thành viên của WTO không những chúng ta hội nhập được với nền kinh tế thế giới mà còn tránh được tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế, tranh thủ được sự ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển. Gia nhập WTO sẽ làm cho khách hàng và các nhà đầu tư nước ngoài an tâm hơn khi làm ăn buôn bán với chúng ta, hàng hoá của chúng ta có thêm điều kiện để thâm nhập mở rộng thị trường nước ngoài và quan trọng hơn cả là chúng ta được hưởng chế độ ưu đãi mà các nước thành viên giành cho nhau. Đây là hình thức tốt nhất để Nhà nước giúp đỡ các doanh nghiệp làm công tác xúc tiến xuất khẩu. Tăng cường hơn nữa việc ký kết các Hiệp định song phương, đa phương giữa các quốc gia như Hiệp định thương mại Việt Mỹ, Hiệp định khung hợp tác với EU nhằm tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu từ đó sẽ nâng cao vị thế đất nước Việt Nam, tạo uy tín cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. 4.1.2 Hoàn thiện hành lang pháp lý cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu Tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Quản lý Nhà nước đóng một vai trò quan trọng đối với các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Quản lý Nhà nước góp phần tạo môi trường pháp lý thuận lợi công bằng khuyến khích các doanh nghiệp và tổ chức tham gia vào công tác xúc tiến xuất khẩu. Trong thời gian vừa qua công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này còn nhiều tồn tại: Chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động xúc tiến xuất khẩu còn chồng chéo và không rõ ràng; các quy định về phạm vi trách nhiệm quản lý hoạt động xúc tiến xuất khẩu chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành hữu quan từ trung ương đến địa phương, do đó các doanh nghiệp, các tổ chức làm công tác xúc tiến xuất khẩu thường gặp phải những thủ tục phiền hà trong việc xin giấy phép hoạt động; quản lý Nhà nước chưa nghiêm mình gây nên tình trạng lộn xộn trong quản lý hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Vì vậy, Nhà nước cần kiện toàn bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động xúc tiến xuất khẩu nhằm chuyên môn hoá việc ban hành luật, các văn bản pháp luật và quản lý giám sát các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Ngoài ra các Bộ, Ngành khác nhau tuỳ theo chức năng quản lý hoạt động xúc tiến xuất khẩu có tính chất đặc thù của ngành mình. Các cơ quan chính quyền địa phương có thể đưa ra những quy định riêng phù hợp với điều kiện, đặc điểm địa phương về văn hoá, kinh tế, song không được trái với các văn bản pháp quy về xúc tiến xuất khẩu của Nhà nước. Cần quy định chức năng nhiệm vụ rõ ràng cho các cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực xúc tiến xuất khẩu. Có vậy các doanh nghiệp, các tổ chức làm công tác xúc tiến xuất khẩu có thể biết đích xác cơ quan nào quản lý trực tiếp mình. Hộp 3.1: Thiếu đồng bộ trong xúc tiến thương mại 'Việc hình thành các trung tâm xúc tiến thương mại tỉnh là do nhu cầu của mỗi tỉnh chứ chưa có sự kết hợp đồng bộ từ trung ương đến địa phương', bà Phan Thị Thúy Truyển, Giám đốc Trung tâm xúc tiến Thương mại Du lịch - Đầu tư tỉnh An Giang, nói. Theo bà Truyển, hiện nay hầu hết các tỉnh thành trên cả nước đều có một bộ phận chuyên về xúc tiến thương mại. Nhưng sự gắn kết giữa các bộ phận này với nhau theo khu vực và ngành hàng thì chưa hề có. Trong khi đó, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại) chưa thể hiện được vai trò là một đầu tàu định hướng và gắn kết các trung tâm này lại với nhau. Có rất nhiều UBND tỉnh vẫn chưa hiểu xúc tiến thương mại là trách nhiệm của mình. Tùy từng điều kiện mà UBND mỗi tỉnh hoạt động theo các kiểu khác nhau. Sự xuất hiện các hiệp hội ngành hàng ngày càng nhiều nhưng vẫn chưa có mối quan hệ hợp tác với trung tâm xúc tiến thương mại. Dẫn đến, công tác xúc tiến thương mại giữa tỉnh thành, hiệp hội và doanh nghiệp chưa có sự kết nối, còn manh mún, rời rạc. Trong khi đó, chính các hiệp hội là những người được hưởng lợi từ hoạt động của các Trung tâm xúc tiến thương mại. Chính những hạn chế này làm cho nguồn kinh phí Nhà nước đầu tư vào các trung tâm xúc tiến thương mại tỉnh vẫn chưa đem lại hiệu quả. Ông Võ Trung Hòa, Phó giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho biết, đẩy mạnh xúc tiến tiến thương mại luôn là mục tiêu của tỉnh nhưng kết quả nhận được vẫn còn khiêm tốn. Lý do, khả năng đưa thông tin đến với khách hàng quá yếu kém, bởi nguồn nhân lực không được đào tạo một cách bài bản, nguồn kinh phí hạn hẹp, 120 triệu đồng/năm. Bên cạnh đó, Cục Xúc tiến thương mại chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể, thiếu sự nhất quán và lắm nhiêu khê. Trong chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia năm 2004, Cục hứa hỗ trợ 50% kinh phí cho doanh nghiệp tham gia. Nhưng đến khi doanh nghiệp quyết toán kinh phí đó thì rất khó khăn, bởi các giấy tờ gốc đều do Bộ Thương mại giữ. Trung tâm xúc tiến thương mại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phấn khởi tham gia hội chợ ASEAN, vì được Cục hứa hỗ trợ 50%. Để kịp kịp thời trang trải chi phí, Trung tâm đã ứng trước số tiền hỗ trợ 50%, đến nay vẫn chưa quyết toán được. Nguồn: Cục xúc tiến thương mại – www.vnn.vn, cập nhật 8/2005 Cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là khâu giấy phép, giảm bớt những giấy phép không cần thiết. Nhà nước cũng cần chấn chỉnh lại công tác kiểm tra giám sát các hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay theo đúng quy định của pháp luật. Xử lý nghiêm minh những sai phạm. Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Hành lang pháp lý điều tiết và quản lý các hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở nước ta đã hình thành song còn đang trong quá trình hoàn thiện. Hệ thống pháp quy chi phối và quản lý các hoạt động xúc tiến xuất khẩu hiện nay rất rộng và tản mạn ở rất nhiều các văn bản khác nhau và còn nhiều bất cập. Do vậy Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện thêm và phải coi đây là công việc ưu tiên hàng đầu. Cần ban hành một hệ thống chính sách đầy đủ, chính xác, ổn định, tránh thay đổi quá nhiều, quá nhanh gây khó khăn cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Tăng cường phổ biến pháp luật, giám sát, kiểm tra và thanh tra các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Điều này gián tiếp giúp các doanh nghiệp có hướng đi đúng trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu. 4.1.3 Sắp xếp lại các tổ chức xúc tiến thương mại nhằm tạo một hệ thống xúc tiến thương mại hữu hiệu trong cả nước. Sắp xếp lại các tổ chức xúc tiến thương mại hiện có ở Việt Nam để khắc phục tình trạng đông nhưng không mạnh do thiếu phối hợp trong hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại. Mạng lưới xúc tiến thương mại sẽ có các tổ chức nòng cốt và các tổ chức vệ tinh. Các tổ chức nòng cốt là: Cục xúc tiến thương mại, các bộ ngành liên quan đén thương mại như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư…, các hiệp hội ngành hàng, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam. Các tổ chức này tập trung vào xây dựng, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện, theo dõi, đánh giá và điều chỉnh các chiến lược và kế hoạch xúc tiến xuất khẩu, gắn những mặt hàng cụ thể với những thị trường cụ thể. Ngoài ra, các tổ chức này cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo, nâng cao năng lực xúc tiến xuất khẩu ở các cấp. Các tổ chức vệ tinh của mạng lưới là các tổ chức xúc tiến xuất khẩu Nhà nước cấp tỉnh/thành phố, các chi nhánh của các hiệp hội ngành hàng, hiệp hội kinh doanh địa phương và các tổ chức cung ứng dịch vụ xúc tiến xuất khẩu. Các tổ chức này sẽ tập trung vào việc tổ chức thực hiện chiến lược xúc tiến xuất khẩu dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của các tổ chức nòng cốt nói trên. 4.1.4 Tăng cường hỗ trợ tài chính cho công tác xúc tiến xuất khẩu Tháng 08/2001 Bộ Tài chính ban hành Thông tư 61 thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Ngày 27/09/2002 Bộ Tài chính lại ban hành Thông tư 86 hướng dẫn chi hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia xúc tiến xuất khẩu. Tuy nhiên chỉ những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn mới được hưởng trợ cấp từ quỹ này và thủ tục duyệt xin trợ cấp rất phức tạp. Nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có kim ngạch xuất khẩu nhưng rất có tiềm năng xuất khẩu và rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong công tác xúc tiến xuất khẩu thì lại không thuộc diện được trợ cấp. Do vậy cần phải thành lập quỹ hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu riêng để hỗ trợ cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, việc duyệt cấp kinh phí từ Quỹ hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu phải dựa trên các chương trình hoạt động cụ thể phục vụ chung cho cả cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các hoạt động mà bản thân doanh nghiệp không tự làm được hoặc làm không hiệu quả bằng Nhà nước. Tích cực khai thác nguồn vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xúc tiến xuất khẩu. Nguồn vốn này có thể do các doanh nghiệp, các tổ chức xúc tiến xuất khẩu Phi Chính phủ, các tổ chức xã hội nghề nghiệp đóng góp và cũng có thể trích số phần trăm nhất định (0,25%) từ kim ngạch xuất khẩu. 4.1.5 Nhà nước giúp cải tiến và nâng cao chất lượng các dịch vụ xúc tiến xuất khẩu. Dịch vụ cung cấp thông tin thương mại: Theo điều tra, có đến 90% doanh nghiệp cảm thấy thiếu thông tin về thị trường quốc tế. Nhu cầu về thông tin rất lớn đa dạng và luôn biến động. Để đáp ứng nhu cầu này, Nhà nước cần mở rộng và phát huy vai trò của các đại diện thương mại và ngoại giao của nước ta ở nước ngoài, đào tạo nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, thu thập, xử lý và phân tích thông tin, tạo điều kiện cho họ làm việc. Chỉ nên lấy phí đối với các thông tin chuyên sâu, được thu thập và xử lý theo yêu cầu của doanh nghiệp. Nhà nước nên khuyến khích và hỗ trợ cho các tổ chức như các hiệp hội ngành hàng, các công ty dịch vụ thông tin, các công ty tư vấn kinh doanh…cung cấp thông tin bằng nguồn hội phí hoặc theo cơ chế thị trường. Các trung tâm thông tin thương mại của Nhà nước như Viện nghiên cứu thương mại và Trung tâm thông tin Thương mại của Bộ Thương mại cần chuyển thành các doanh nghiệp độc lập. Các cơ quan quản lý Nhà nước có thể đặt mua thậm chí đấu thầu mua thông tin đầu ra ở bất kỳ tổ chức dịch vụ thông tin nào mà họ thấy tốt nhất. Làm như vậy sẽ đẩy mạnh thị trường cung cấp thông tin phát triển, nhất định sẽ nâng cao được chất lượng cung cấp thông tin cũng như chất lượng nguồn tin. Nhà nước cũng cần sớm ban hành những hướng dẫn cụ thể về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet;… Hoạt động hội chợ triển lãm: Nhà nước cần nhanh chóng thành lập hiệp hội Hội chợ triển lãm và hỗ trợ cho hiệp hội này phát triển thành một Diễn đàn chung của các tổ chức kinh doanh hội chợ triển lãm. Sử dụng hiệp hội như một trợ thủ đắc lực của các cơ quan quản lý Nhà nước về xúc tiến xuất khẩu trong việc đào tạo nâng cao năng lực tổ chức và tham gia hội chợ triển lãm, lập kế hoạch tổ chức hội chợ triển lãm hàng năm cũng như giám sát và kiểm tra các hoạt động hội chợ triển lãm. Nhà nước thông qua Bộ Thương mại chỉ đạo các đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài lựa chọn các hội chợ triển lãm quốc tế truyền thông hàng năm phù hợp và có hiệu quả đối với hàng xuất khẩu của nước ta để hướng dẫn; giúp đỡ các doanh nghiệp tham gia; tổ chức đào tạo nâng cao kỹ năng tổ chức hội chợ triển lãm, nhất là tổ chức ở nước ngoài cho các doanh nghiệp và tổ chức và tham gia hội chợ triển lãm; giúp đỡ và hỗ trợ cả về mặt kỹ thuật lẫn tài chính để các doanh nghiệp tăng cường hơn nữa các cuộc hội chợ triển lãm ở nước ngoài Việt Nam. Đối với các hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng: Nhà nước cần sớm ban hành và hướng dẫn thực hiện một cách chi tiết những quy định pháp luật và quảng cáo và xúc tiến bán hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh doanh dịch vụ quảng cáo biết và thực hiện để tránh những vi phạm không chủ ý; xem xét nới lỏng mức khống chế được phép chi cho quảng cáo và xúc tiến bán hàng của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp có những sản phẩm mới cần quảng cáo hay muốn xây dựng thương hiệu trên thị trường thế giới; sớm ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý các hoạt động quảng cáo, nhất là trong việc xin và cấp giấy phép quảng cáo, nếu làm được như vậy thì sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí trong lĩnh vực này nhất là cho những người xin giấy phép; tổ chức đào tạo nâng cao kỹ năng về quảng cáo cho các doanh nghiệp cũng như tổ chức các dịch vụ quảng cáo để khắc phục những yếu kém trong quảng cáo. 4.1.6 Khuyến khích và tạo cơ chế để các tổ chức nước ngoài tham gia xúc tiến xuất khẩu từ Việt Nam Thuận lợi hoá và đơn giản hơn nữa thủ tục nhập cảnh của người nước ngoài vào khảo sát thị trường và cư trú ngắn hạn bằng cách lập các trung tâm thương mại cung cấp các thiết bị văn phòng, thông tin tư vấn cho các nhà đầu tư và nhập khẩu nước ngoài. Từng bước cho phép các công ty nhập khẩu nước ngoài mở chi nhánh ở Việt Nam để đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích họ phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới. Tháo gỡ vướng mắc để doanh nghiệp có vốn nước ngoài tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời đàm phán với các nước hữu quan có chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư của họ tại Việt Nam. Ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân gây phiền hà, sách nhiễu đối với khách du lịch và thương nhân xuất, nhập cảnh. Tạo điều kiện thuận lợi về lãnh sự cho thương nhân. Thực tế cho thấy những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên một cách đáng kể, đóng góp không nhỏ vào việc tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. 4.1.7 Tăng cường xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác xúc tiến xuất khẩu ở trong và ngoài nước Một khó khăn lớn nhất cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu hiện nay là cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu không chỉ ở các địa phương mà ở cả các thành phố và các trung tâm thương mại lớn trong cả nước đều yếu kém và thiếu. Hiện nay, trung tâm quảng cáo lớn nhất của Việt Nam - Triển lãm Giảng Võ, Hà Nội mới chỉ có 650 gian hàng tiêu chuẩn 3mx3m. Trang thiết bị cũng như phòng hội nghị quốc tế của các địa điểm triển lãm quá nghèo nàn hoặc hầu như không có. Do hạn chế về nguồn lực, kể cả nguồn nhân lực, tài lực và phương tiện kỹ thuật, các hoạt động xúc tiến xuất khẩu do các cơ quan thương vụ tiến hành đang gặp những khó khăn lớn. Để khắc phục tình trạng này hiện nay Chính phủ đã phê duyệt cho Bộ Thương mại thành lập 3 trung tâm giới thiệu sản phẩm tại Mỹ, Nga và Dubai. Đây là một bước tiến lớn trong công tác xúc tiến xuất khẩu để phục vụ các doanh nghiệp. Tuy nhiên, Chính phủ nên tiếp tục thành lập thêm các trung tâm ở các nước khác nữa và hỗ trợ cho các trung tâm này về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực để các trung tâm này thực sự là đầu mối xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu. 4.1.8 Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xúc tiến xuất khẩu Cho đến nay Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ to lớn của các tổ chức xúc tiến thương mại trên thế giới như Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC), nhóm đặc trách về xúc tiến thương mại của APEC, tổ chức xúc tiến thương mại của Nhật Bản (JETRO), của Thụy Sỹ (SIPPO), của Hàn Quốc (KOTRA), Đài Loan (CETRA), Australia (AUSTRADE)… và đến nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của Trung tâm xúc tiến thương mại - Đầu tư – Du lịch Nhật Bản – ASEAN (AJC), của Diễn đàn các tổ chức xúc tiến thương mại Châu Á (ATPF). Dự án VIE-98-021 về xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu đã được tiến hành xong giai đoạn đầu và đang chuẩn bị bước vào giai đoạn chính. Đây là những nỗ lực lớn trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về xúc tiến thương mại. Tuy nhiên, để hoạt động xúc tiến thương mại thực sự có hiệu quả, nhằm đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu, Chính phủ cần thiết phải tăng cường hơn nữa việc thiết lập quan hệ hợp tác song phương, đa phương giữa các tổ chức xúc tiến thương mại trên thế giới nhằm tranh thủ tối đa sự trợ giúp từ bên ngoài. Thiết lập lại quan hệ chính thức cấp bộ với các bộ phận kinh tế thương mại của các sứ quán tại Hà Nội, các văn phòng đại diện của các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài ở Việt Nam, phát triển hơn nữa quan hệ trực tiếp với các tổ chức xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Hiện nay trên thế giới có trên 150 nước có cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia tạo thành một hệ thống các tổ chức xúc tiến thương mại. Việc học hỏi kinh nghiệm các tổ chức này về cách thức tổ chức, về quy mô hoạt động…; việc thiết lập quan hệ hợp tác song biên, đa biên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay khi nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 4.2 Nhóm giải pháp vi mô Để các hoạt động xúc tiến xuất khẩu thực sự có hiệu quả, phát huy vai trò là động lực chính thúc đẩy xuất khẩu, ngoài sự giúp đỡ của Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp và các tổ chức làm công tác xúc tiến xuất khẩu phải nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể có những bước đột phá trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Vì vậy đối với các doanh nghiệp và các tổ chức làm công tác xuất khẩu, những kiến nghị sau đây cần được thực hiện: 4.2.1 Cần nâng cao nhận thức về xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp và các tổ chức xúc tiến xuất khẩu Nhận thức và hiểu biết về xúc tiến xuất khẩu của các doanh nghiệp nói chung và các tổ chức làm công tác xúc tiến xuất khẩu nói riêng còn yếu, chưa đầy đủ hoặc chưa hệ thống. Do vậy, cần phải nâng cao nhận thức và hiểu biết về xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu không chỉ dừng lại ở chỗ tìm kiếm, mở rộng thị trường và khách hàng mà phải biết gắn kết với hoạt động cải tiến và phát triển sản phẩm mới để bán ra cái mà thị trường cần chứ không phải cái mà mình có. Phải đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu thị trường, phát hiện lợi thế cạnh tranh, tạo ra những sản phẩm độc đáo. Kết hợp hoạt động mở rộng thị trường với các biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá, tạo chỗ đứng vững chắc cho hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. 4.2.2 Cần đưa ra chiến lược, kế hoạch và mục tiêu xúc tiến xuất khẩu cụ thể Cần phải xây dựng chiến lược, kế hoạch cụ thể rõ ràng cho mỗi chương trình xúc tiến xuất khẩu. Xác định mục tiêu phù hợp với công cụ xúc tiến xuất khẩu. Các công cụ này phải phù hợp với mục tiêu đã đưa ra trong chiến lược và kế hoạch marketing, kế hoạch và chiến lược xúc tiến xuất khẩu và nhất là đặc điểm của từng công cụ xúc tiến xuất khẩu. Hướng xúc tiến xuất khẩu cần phải nhằm vào việc nâng cao chất lượng hàng hoá, cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu và xây dựng uy tín cho sản phẩm của công ty. Các hoạt động xúc tiến xuất khẩu của nước ta hiện nay vẫn bao gồm các hoạt động tình thế, ngắn hạn, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực hội chợ triển lãm, quảng cáo và khuyến mại ở các thị trường trong nước, thiếu tầm nhìn và định hướng chiến lược lâu dài và rõ ràng cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu, nhiều hoạt động xúc tiến xuất khẩu không có mục tiêu cụ thể, không có trọng tâm, trọng điểm, được tiến hành một cách bị động hoặc chưa gắn những mặt hàng cụ thể để có những hình thức xúc tiến cụ thể phù hợp hơn. Do vậy, xúc tiến xuất khẩu thường ào ào, dàn trải gây tốn kém mà không đạt được hiệu quả trong kinh doanh. 4.2.3 Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và các tổ chức xúc tiến xuất khẩu Hoạt động xúc tiến xuất khẩu ngày càng đông song sự phối hợp giữa các tổ chức này còn yếu nên dẫn đến tình trạng đông nhưng không mạnh. Do vậy, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, hợp tác và liên kết hoạt động giữa các tổ chức này để tránh tình trạng trùng lặp, chỗ thừa, chỗ thiếu, chỗ cần thì không đáp ứng đủ và kịp thời và ít tổ chức đứng ra đảm nhiệm (dịch vụ thông tin, dịch vụ nghiên cứu và phát triển sản phẩm). Phối hợp và liên kết các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sẽ tạo ra một sức mạnh chung với mục tiêu mà các bên cùng hướng tới đó là tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế để có thể đối đầu với các công ty quốc tế.4.2.4 Cần ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động xúc tiến xuất khẩu Khoa học công nghệ và thông tin góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường trao đổi thông tin xuất khẩu và phối hợp các hoạt động xúc tiến xuất khẩu giữa các tổ chức xúc tiến xuất khẩu. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh gay gắt như hiện nay yếu tố điện tử trong công nghệ thông tin hỗ trợ một cách đắc lực cho các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Cần thiết phải lập thêm các trang Web cung cấp thông tin xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng Internet để phục vụ các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Cung cấp các trang thiết bị như hệ thống máy vi tính, fax, photocopy, điện thoại, kết nối mạng Internet với các trung tâm cung cấp dữ liệu quốc tế và địa phương cũng như quốc gia. 4.2.5 Xác định và tăng ngân sách cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu Khó khăn mà các doanh nghiệp và tổ chức xúc tiến xuất khẩu gặp phải là thiếu ngân sách cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Một phần là nguồn lực tài chính của các tổ chức này còn rất hạn chế, một phần do ràng buộc pháp lý trong vấn đề chi cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu theo quy định của Nhà nước. Ngay khi đề ra kế hoạch xúc tiến, các doanh nghiệp cần phải cân đối các khoản chi tiêu, xác định ngân sách cho từng khâu cụ thể trong xúc tiến, ưu tiên những mục tiêu quan trọng. 4.2.6 Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực Hiện nay nguồn nhân lực làm công tác xúc tiến xuất khẩu ở tất cả các cấp đều thiếu và yếu. Thiếu cán bộ có chuyên môn, có kinh nghiệm, có kỹ năng, có tâm huyết trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Hơn nữa, xúc tiến xuất khẩu là một lĩnh vực tương đối mới ở Việt Nam, vì vậy hầu hết cán bộ làm công tác này chuyên môn còn rất non kém, bỡ ngỡ trong việc sử dụng các công cụ xúc tiến xuất khẩu lại hạn chế về trình độ ngoại ngữ nên gặp nhiều khó khăn trong việc giao tiếp với người nươc ngoài, với các chuyên gia giỏi hạn chế trong việc đọc các tài kiệu, các sách nói về kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu của các nước tiên tiến. Do vậy, việc làm cấp bách trước mắt là phải năng cao năng lực, trình độ, kỹ năng xúc tiến xuất khẩu của cán bộ làm công tác xúc tiến xuất khẩu. Tổ chức các khoá đào tạo và đào tạo lại cán bộ làm công tác xúc tiến xuất khẩu cả về nghiệp vụ xúc tiến xuất khẩu lẫn ngoại ngữ, có thể ở trong nước, có thể gửi đi nước ngoài, ngắn hạn, dài hạn, tuỳ tình hình và mục tiêu cụ thể. Ngoài ra, cần tuyển mới đội ngũ những người có kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu, có trình độ ngoại ngữ giỏi, có chuyên sâu về nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, có thể là những sinh viên mới tốt nghiệp đạt loại khá trở lên của các trường đại học thuộc khối kinh tế. Nhìn chung, để hoạt động xúc tiến xuất khẩu mang lại hiệu quả tốt nhất, các cá nhân và tổ chức làm công tác xúc tiến xuất khẩu phải đảm bảo các tiêu chí sau: Là người cung cấp thông tin; Là người môi giới; Là người chắp mối; Là nhà tư vấn và đào tạo; Là nhà tài trợ cấp tín dụng xuất khẩu; Là người tổ chức đoàn ra, đoàn vào, các chuyến du lịch, các cuộc hội thảo, hội nghị,… để tìm cơ hội xuất khẩu; Là người phát hiện thị trường mục tiêu, ngành hàng mục tiêu,…; Là người sử dụng thành thạo các công cụ xúc tiến xuất khẩu như quảng cáo, hội chợ triển lãm, xúc tiến bán hàng, quan hệ công chúng, dịch vụ đường dây nóng, bảng quảng cáo, các phương tiện thông tin đại chúng,… Và cuối cùng, phải là người biết lựa chọn những thị trường có vị trí địa lý thuận lợi để thâm nhập. KẾT LUẬN Liên minh Châu Âu (EU) hiện nay là tổ chức có hình thức liên kết khu vực phát triển nhất trên thế giới, có đồng tiền chung, chính sách chính trị, kinh tế, an ninh dựa trên các quy tắc chung cho cả khối. Kể từ khi hình thành EU đã không ngừng mở rộng và phát triển, góp một vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống kinh tế thế giới. Hoạt động thương mại hai chiều nói chung và xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU nói riêng đang chuyển sang một thời kỳ mới gắn liền với những chuyển biến kinh tế của cả hai phía. EU là thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. EU đã và đang thúc đẩy hoạt động hợp tác kinh tế thương mại song phương và mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng Việt Nam. Với một thị trường phát triển và tiềm năng như vậy, Việt Nam cần phải hết sức nỗ lực hoạt động để chiếm lĩnh, một trong những biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh và củng cố hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang EU là thực hiện tốt các biện pháp xúc tiến xuất khẩu. Luận văn đã đưa ra thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU đồng thời Luận văn cũng chỉ ra các hoạt động cụ thể của Nhà nước và các Tổ chức xúc tiến xuất khẩu, các Hiệp hội ngành nghề, các tổ chức Phi Chính phủ và các doanh nghiệp trong việc hỗ trợ, cung cấp các biện pháp xúc tiến xuất khẩu như: cung cấp thông tin thị trường, tổ chức hội chợ triển lãm, tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với các đối tác, bạn hàng,… cho doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Từ đó, xây dựng những định hướng và giải pháp cả ở tầm vĩ mô, về phía Nhà nước và giải pháp ở tầm vi mô, về phía doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến xuất khẩu, từ đó đẩy mạnh hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Với nỗ lực và thiện chí của cả Việt Nam và EU, tin rằng quan hệ thương mại, đặc biệt là đối với xuất khẩu hàng hoá, Việt Nam – EU sẽ được cải thiện cả bề rộng và bề sâu. MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28579.doc
Tài liệu liên quan