Luận án Định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt (qua một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam)

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN THỊ MỸ HẠNH ĐỊNH NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TIẾNG VIỆT (QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM) LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN THỊ MỸ HẠNH ĐỊNH NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TIẾNG VIỆT (QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM) Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 922 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. PHAN MẬU CẢNH 2. TS. NGUYỄN HOÀI NGUYÊN

pdf187 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt (qua một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHỆ AN - 2021 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ đề tài “Định ngữ nghệ thuật trong Tiếng Việt (qua một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam)” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Nghệ An, tháng 01 năm 2021 Tác giả luận án ii MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. iv DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................v MỞ ĐẦU...........................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................1 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................2 4. Nguồn ngữ liệu............................................................................................3 5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................4 6. Đóng góp của luận án..................................................................................5 7. Kết cấu của luận án .....................................................................................6 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI..............................................................................7 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu định ngữ và định ngữ nghệ thuật .......7 1.1.1. Tình hình nghiên cứu định ngữ ở ngoài nước .....................................7 1.1.2. Tình hình nghiên cứu định ngữ ở Việt Nam .......................................9 1.1.3. Tình hình nghiên cứu định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt ..............14 1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài ........................................................................18 1.2.1. Câu và cụm từ tiếng Việt ..................................................................18 1.2.2. Một số khái niệm lí thuyết về Phong cách học và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật ........................................................................25 1.2.3. Định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt ...............................................30 1.3. Tiểu kết chương 1...................................................................................39 CHƯƠNG 2. CÁCH THỨC TỔ CHỨC CỦA ĐỊNH NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TIẾNG VIỆT (QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM) ....................................................................................................40 2.1. Cách thức tổ chức ngữ pháp của định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt .......40 2.1.1. Vị trí của định ngữ nghệ thuật trong cụm danh từ............................. 40 2.1.2. Số lượng các định ngữ nghệ thuật trong cụm danh từ .......................42 2.1.3. Cấu tạo của định ngữ nghệ thuật trong cụm danh từ .........................43 iii 2.1.4. Các dạng biểu hiện của định ngữ nghệ thuật trong cụm danh từ .......56 2.1.5. Cấu tạo của cụm danh từ chứa định ngữ nghệ thuật..........................57 2.2. Cách thức tổ chức ngữ nghĩa của định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt........65 2.2.1. Chức năng ngữ nghĩa của định ngữ nghệ thuật .................................65 2.2.2. Cách thức tổ chức ngữ nghĩa của định ngữ nghệ thuật......................72 2.3. Tiểu kết chương 2...................................................................................92 CHƯƠNG 3. VAI TRÒ CỦA ĐỊNH NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TIẾNG VIỆT (QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM) ......93 3.1. Vai trò của định ngữ nghệ thuật trong cụm danh từ ................................ 93 3.1.1. Vai trò của định ngữ nghệ thuật đối với trung tâm cụm danh từ (DTTT)............................................................................................ 93 3.1.2. Vai trò của định ngữ nghệ thuật đối với các thành tố phụ trong cụm danh từ .....................................................................................95 3.2. Vai trò của định ngữ nghệ thuật đối với câu văn nghệ thuật ...................97 3.2.1. Vai trò của định ngữ nghệ thuật đối với cấu tạo câu văn nghệ thuật .....98 3.2.2. Vai trò của định ngữ nghệ thuật đối với nội dung ngữ nghĩa của câu văn nghệ thuật ......................................................................... 101 3.2.3. Vai trò của định ngữ nghệ thuật đối với nhạc điệu của câu văn nghệ thuật ...................................................................................... 115 3.3. Vai trò của định ngữ nghệ thuật với tác phẩm nghệ thuật ..................... 119 3.3.1. Định ngữ nghệ thuật góp phần thể hiện đặc điểm phong cách chức năng văn bản ......................................................................... 119 3.3.2. Định ngữ nghệ thuật góp phần thể hiện đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của nhà văn............................................................................. 126 3.3. Tiểu kết chương 3................................................................................. 130 KẾT LUẬN................................................................................................... 132 NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN................................................................................ 135 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 136 NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN ............................................................. 150 PHỤ LỤC iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CT : Cụm từ DT : Danh từ DTTT : Danh từ trung tâm ĐT : Động từ ĐNNT : Định ngữ nghệ thuật TT : Tính từ v DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Thống kê các vị trí của ĐNNT ......................................................... 40 Bảng 2.2. Thống kê các từ loại đứng trước ĐNNT và sau DTTT ..................... 41 Bảng 2.3. Bảng thống kê phân loại cấu tạo ĐNNT trong cụm DT .................... 43 Bảng 2.4. Bảng thống kê các kiểu cấu tạo từ của ĐNNT .................................. 44 Bảng 2.5. Bảng thống kê các từ loại của ĐNNT ............................................... 46 Bảng 2.6. Bảng thống kê dạng cấu tạo của các ĐNNT là tiểu cụm từ ............... 50 Bảng 2.7. Bảng thống kê phân loại tiểu cụm chính phụ làm ĐNNT ................. 51 Bảng 2.8. Bảng tổng hợp các kiểu cấu tạo của ĐNNT là tiểu cụm từ ............... 53 Bảng 2.9. Bảng thống kê phân loại các cụm DT có ĐN đứng trước DTTT....... 58 Bảng 2.10. Thống kê các thành tố phụ sau ĐNNT trong cụm DT tiếng Việt .... 61 Bảng 2.11. Thống kê các kiểu quan hệ với ĐNNT của các thành tố phụ sau .... 62 Bảng 2.12. Bảng tổng hợp các ý nghĩa do chức năng thẩm mỹ biểu thị ............ 69 Bảng 2.13. Bảng tổng hợp các cách thức tổ chức ngữ nghĩa của ĐNNT........... 73 Bảng 2.14. Bảng thống kê phân loại các biện pháp ẩn dụ tu từ trong ĐNNT .... 77 Bảng 2.15. Bảng thống kê các kiểu so sánh trong ĐNNT ................................. 84 Bảng 3.1. Bảng tổng hợp các ĐNNT theo thể loại .......................................... 125 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Mỗi ngôn ngữ có những quy ước, tạo thành những quy tắc nhất định để sử dụng các đơn vị ngôn ngữ thành đơn vị giao tiếp, trong đó có đơn vị câu. Về cấu tạo ngữ pháp, câu trong tiếng Việt gồm thành phần chính (nòng cốt câu) và các thành phần phụ; việc phân loại các kiểu câu về mặt ngữ pháp cơ bản là dựa vào các thành phần đó. Thành phần chính giữ vai trò quan trọng, quyết định và chi phối sự xuất hiện của các thành phần phụ trong câu. Thành phần phụ với vai trò bổ sung thông tin nhưng trong nhiều trường hợp nó có khả năng làm biến đổi ý nghĩa, nâng cấp chất lượng thông tin và tình thái của câu. Định ngữ (ĐN) trong tiếng Việt là một trong những thành phần phụ có vai trò như vậy. Tìm hiểu, khảo sát định ngữ theo hướng gắn liền với sự hành chức trong thực tế giao tiếp vừa góp phần vào việc phân tích ngữ pháp vừa làm rõ sự hoạt động của các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp. x 1.2. Trong tổ chức lời nói, nội dung thông báo thường được thể hiện rõ ở các thành phần chính, việc bổ sung, làm rõ nội dung nào đó cho vị trí trung tâm thường là do các thành phần phụ đảm nhiệm. Trong tác phẩm văn học, câu văn có xu hướng mở rộng thành phần với nhiều cách diễn đạt linh hoạt, sinh động, có tính thẩm mĩ. Một trong những thành phần mở rộng thể hiện rõ tính thẩm mĩ trong tác phẩm văn học là định ngữ nghệ thuật (ĐNNT). Có thể nói, ĐNNT là một trong những yếu tố đã góp phần làm nên vẻ đẹp văn chương, thể hiện một phần phong cách ngôn ngữ nghệ thuật và phong cách tác giả. Ở mỗi giai đoạn của văn học Việt Nam, chúng ta đều có thể nhìn thấy các dấu ấn sáng tạo của các nhà văn thông qua việc sử dụng ngôn từ và định hình phong cách tác giả. 1.3. Trong các công trình nghiên cứu ngữ pháp, định ngữ được xếp vào thành tố phụ của từ hoặc thành phần phụ của câu, là thành phần mở rộng nằm ngoài trung tâm kiến trúc của câu. Khi phân tích thành phần câu từ góc độ phong cách học hay từ góc nhìn lý luận phê bình văn học, tên gọi “định ngữ”, “định 2 ngữ nghệ thuật” cũng là một trong những thuật ngữ được nhắc đến để phân tích, bình giá... Như vậy, có thể thấy, ĐN (trong đó có ĐNNT) trong tiếng Việt vẫn là một vấn đề thú vị cần được tiếp tục tìm hiểu, phân tích thấu đáo để thấy rõ hơn vai trò chuyển tải thông tin, tính chất nghệ thuật của đơn vị thông báo. Việc tiếp tục hệ thống hoá, làm sáng tỏ các khía cạnh chưa được khảo cứu đầy đủ (về cấu tạo, ý nghĩa, vai trò) của ĐNNT là thiết thực góp phần vào việc nghiên cứu lí thuyết về thành phần câu và trong một phạm vi nhất định, còn giúp ích cho việc tìm hiểu phong cách ngôn ngữ văn chương và phong cách tác giả. Thêm nữa, tìm hiểu về ĐNNT còn góp phần vào việc thực hành tiếng Việt, tập làm văn và dạy học ngữ văn trong nhà trường. Từ các lí do chính trên đây, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài luận án: Định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt (qua một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam). 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu định ngữ nghệ thuật nhằm làm rõ các đặc điểm về ngữ pháp, ngữ nghĩa và vai trò của thành phần này trong câu văn tiếng Việt. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án đề ra các nhiệm vụ cụ thể như sau: a) Tổng quan tình hình và kết quả nghiên cứu về ĐNNT; làm rõ cơ sở lí luận và hướng tiếp cận của đề tài; b) Phân tích, miêu tả cách thức tổ chức cấu tạo và cách thức tổ chức ngữ nghĩa của ĐNNT trong tiếng Việt; c) Phân tích vai trò của định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Các ĐNNT trong tiếng Việt sẽ được tìm hiểu ở các phương diện ngữ pháp (cấu tạo, từ loại), ngữ nghĩa và vai trò của nó trong tiếng Việt. Đơn vị làm đối 3 tượng phân tích và miêu tả của luận án giới hạn trong phạm vi là các câu có cụm danh từ chứa ĐNNT trong tiếng Việt (khảo sát trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam). 4. Nguồn ngữ liệu Định hướng lựa chọn ngữ liệu của luận án là những tác phẩm văn xuôi có xu hướng thiên về lối văn miêu tả (tiểu thuyết, truyện ngắn) và giàu tính biểu cảm (tùy bút, ký). Vì số lượng tác phẩm rất lớn và đa dạng về phong cách, nên trong luận án, chúng tôi chỉ khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu, thống kê những câu văn có chứa ĐNNT làm dẫn chứng phân tích, miêu tả đối tượng nghiên cứu. Các câu văn có cụm DT chứa ĐNNT trong 14 công trình thuộc các thể loại như sau: a. Thể loại tiểu thuyết Luận án khảo sát các tác phẩm của các tác giả: Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Bảo Ninh. Cụ thể là các tác phẩm: 1. Nguyễn Minh Châu, Dấu chân người lính, xuất bản năm 1972. 2. Ma Văn Kháng, Côi cút giữa cảnh đời, xuất bản năm 1989. 3. Lê Lựu, Thời xa vắng, xuất bản năm 1986. 4. Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh, xuất bản năm 1990. b. Thể loại truyện ngắn Tiêu biểu là các tác giả: Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Thi được tập hợp vào các tập truyện ngắn sau: 1. Nam Cao, Truyện ngắn trước 1945, xuất bản năm 2016. 2. Tô Hoài, Truyện Tây Bắc, xuất bản 1953. 3. Nguyễn Khải, Mùa lạc, xuất bản 1960. 4. Nguyễn Thi, Truyện và kí, xuất bản năm 1978. 5. Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân tuyển tập, xuất bản năm 2012. c. Thể loại tùy bút, bút kí Tiêu biểu là các tác giả: Vũ Bằng, Lưu Quý Kỳ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Trung Thành, Hoàng Phủ Ngọc Tường với các tác phẩm: 1. Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, xuất bản năm 1956. 4 2. Nguyễn Khải, Tháng ba ở Tây Nguyên, xuất bản năm 1976. 3. Lưu Quý Kỳ, Sông núi còn đây, xuất bản năm, 1973 4. Nguyễn Trung Thành, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, xuất bản năm 1969. 5. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ai đã đặt tên cho dòng sông, xuất bản năm 1986. Việc lựa chọn các tác phẩm trên làm căn cứ khảo sát xuất phát từ những lí do sau: - Hầu hết, các tác giả đã được giảng dạy trong nhà trường phổ thông hoặc đã đạt giải thưởng về văn học nghệ thuật. - Các tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của các nhà văn và cho thể loại được khảo sát. - Các tác phẩm được khảo sát dự đoán có thể xuất hiện nhiều định ngữ nghệ thuật. Số lượng đơn vị được thống kê dùng trong luận án là 2.000 đơn vị (câu có cụm danh từ chứa ĐNNT). 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp miêu tả Phương pháp này dùng để miêu tả đặc điểm của ĐNNT xét trong ngữ cảnh những câu văn thống kê từ các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trên các bình diện cấu tạo (vị trí, số lượng, cấu tạo và khả năng kết hợp) và bình diện chức năng - ngữ nghĩa (mỗi loại đảm nhiệm một/ một vài chức năng nhất định nào đó, có ý nghĩa gì trong câu). Để vận dụng phương pháp miêu tả đồng đại hiệu quả, có thể sử dụng một số thủ pháp đi kèm gồm thủ pháp phân tích ngữ nghĩa, thủ pháp phân tích ngữ cảnh, ngôn cảnh, thủ pháp thử nghiệm như: thay thế, lược bỏ, cải biến, so sánh, đối chiếu, thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp (phân tích cấu trúc câu và cụm từ theo sơ đồ giá nến), 5.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn Phương pháp phân tích diễn ngôn xem tác phẩm văn học là văn bản hoàn chỉnh, trong đó có thể phân xuất các đơn vị trong văn bản thành các thành tố; chúng được trích xuất, trừu tượng hoá để thống kê, phân loại, phân tích các loại 5 ĐNNT xuất hiện trong câu, đoạn văn, tác phẩm; xem xét vai trò, hiệu quả, các mối liên hệ, tác động qua lại của ĐN với các thành phần khác cũng lấy các tác phẩm, với tư cách là các diễn ngôn độc lập để đánh giá. Cơ cấu hành chức của tổ hợp từ chứa ĐNNT cũng xuất phát từ tác phẩm để rút ra đặc điểm và ảnh hưởng của đặc điểm đó đến hệ thống chung. 5.3. Thủ pháp thống kê - phân loại Thủ pháp thống kê - phân loại dùng để thống kê các ngữ liệu thu thập, nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu của luận án. Các ngữ liệu có nguồn gốc, xuất xứ và độ tin cậy cao, được mô tả và phân tích thông qua những tiêu chí rõ ràng, cụ thể. Sau khi thống kê, các ngữ liệu sẽ được phân loại và tập hợp theo một hệ thống nhất định để sử dụng cho từng chương, từng luận điểm của luận án. 6. Đóng góp của luận án Nghiên cứu về ĐNNT ở các lĩnh vực ngữ pháp và ngữ nghĩa sẽ góp phần giải quyết những vấn đề lí luận và thực tiễn sau: 6.1. Về mặt lí luận - Xác định rõ các đặc điểm về hình thức, nội dung và vai trò của ĐNNT trong tổ chức của cụm từ tiếng Việt, làm rõ mối quan hệ giữa ĐNNT với câu văn nói riêng, trong tác phẩm văn học nói chung. - Góp phần bổ sung những khía cạnh lí thuyết về ĐN và ĐNNT trong hành chức; nêu rõ các giá trị và hiệu quả nghệ thuật của ĐNNT trong tác phẩm văn học. 6.2. Về thực tiễn - Nguồn ngữ liệu ĐNNT sử dụng trong luận án được chọn lọc và phân loại dựa trên những tiêu chí nhất định đủ tin cậy để phân tích, miêu tả đặc điểm của ĐNNT, là nguồn tham khảo tin cậy để có thể thực hiện các công trình nghiên cứu tiếp theo; - Kết quả nghiên cứu ĐNNT có thể ứng dụng vào việc dạy học ngữ văn trong trường phổ thông: các giờ tiếng Việt (thực hành viết câu văn, phân tích ngữ pháp) và các tiết học đọc - hiểu (phân tích tác phẩm, tìm hiểu phong cách ngôn ngữ văn chương và phong cách tác giả) trong các nhà trường. 6 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án gồm có 3 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài Chương 2. Cách thức tổ chức của định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt (qua một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam) Chương 3. Vai trò của định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt (qua một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam). 7 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu định ngữ và định ngữ nghệ thuật 1.1.1. Tình hình nghiên cứu định ngữ ở ngoài nước Thuật ngữ định ngữ (Atribute) được dùng trong nghiên cứu của Ngữ pháp học, liên quan đến việc miêu tả cấu tạo ngữ pháp, phân loại và phân tích thành phần câu. Trong các công trình của Ngôn ngữ học đại cương và Ngữ pháp học, định ngữ là một khái niệm được nhiều tác giả bàn tới, đánh giá về cương vị ngữ pháp của nó trong tổ chức cú pháp của câu. Nhưng có thể thấy, cho đến nay, các nhà nghiên cứu còn có những ý kiến khác nhau về định ngữ; nhìn chung, các ý kiến mới chỉ dừng lại ở vài nhận xét sơ giản, mà chưa dành nhiều quan tâm như các thành phần khác. Qua các tài liệu mà chúng tôi có được, tuy chưa đầy đủ nhưng có thể nêu tổng quan mấy điểm chính về tình hình và các kết quả nghiên cứu ngữ pháp có bàn đến định ngữ theo mấy hướng sau đây. Các nhà ngôn ngữ học Nga (như A.A. Potebnja, A.A. Shakhmatov, F.I. Buslaev...) cho rằng thành phần câu gồm: vị ngữ, chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, vị ngữ phụ thuộc và định ngữ. Khi đề cập đến thành phần phụ của câu, người ta xem trạng ngữ là thành phần bị dẫn tiếp, bổ ngữ là thành phần bị chế ước còn định ngữ là thành phần bị hợp dạng [Dẫn theo 163, tr. 11- 12]. Họ phân biệt hai loại cú pháp: Cú pháp học câu nghiên cứu thành phần chính trong mối quan hệ với câu và trong mối quan hệ tương hỗ với nhau; còn Cú pháp học từ tổ chủ yếu nghiên cứu các thành phần phụ của câu trong mối quan hệ với các thành phần chính và cũng đặt trong mối quan hệ tương hỗ với nhau [Dẫn theo 163, tr. 15]. JU.X. Xtepanop, khi bàn về cấu trúc cú pháp ở bậc câu trong tiếng Nga có nói đến hai loại kết cấu: kết cấu hướng tâm (từ tổ có thành phần chủ yếu) và kết cấu li tâm (từ tổ không có thành phần chủ yếu). Kết cấu hướng tâm là loại từ tổ được mở rộng thành phần chính, khi vận động theo hướng ngược lại thì kết cấu được rút gọn cho đến tận thành phần chính. Mô hình: A+N  N (trong đó, A: tính từ - định ngữ, N: danh từ [178, tr. 436]. 8 Các nhà nghiên cứu của Mỹ, Đức, Anh theo quan điểm ngữ pháp quan hệ, ngữ pháp chức năng về sau này chủ yếu quan tâm đến thành phần chính (đặc biệt là vị ngữ); họ không hoặc ít quan tâm đến các thành phần phụ, thậm chí không nói đến định ngữ. Tổng hợp các tài liệu [66], [54] có liên quan đến nội dung đề tài, chúng tôi thấy giai đoạn sau này, khoảng những năm 80 của thế kỷ XX, khi xu hướng nghiên cứu ngữ pháp chú trọng đến ngữ nghĩa và chức năng phát triển, bàn về thành phần câu, người ta có đề cập đến thành phần định ngữ. M. Halliday cho rằng trong cấu trúc kinh nghiệm của danh ngữ tiếng Anh có một số yếu tố, trong đó phải kể đến tính ngữ (epithet) và phân loại tố (classifier). Trong đó, tính ngữ là “chỉ ra một phẩm chất nào đó của tiểu tập hợp, như, old (già/ cũ), long (dài/ lâu), blue (xanh da trời), fast (nhanh)”; phân loại tố lại “chỉ ra tiểu lớp của sự vật [], ví dụ, electric train (tàu điện), passenger train (tàu khách), wooden train (tàu bằng gỗ)” [59, tr. 315, 316]. Trong khi phân loại chức năng các thành tố phụ trong danh ngữ, M. Halliday không xét danh ngữ trong hoạt động hành chức cũng như trong mối quan hệ với ngữ cảnh (cả đối ngôn và hiện thực bên ngoài ngôn ngữ). Mặc dù không trực tiếp nói ra, nhưng ông đã xem xét chức năng của các thành tố phụ trong tiếng Anh (trong đó có các thành phần định ngữ) trên bình diện ngữ nghĩa. Ngoài chức năng tính ngữ và phân loại tố, chúng ta có thể thấy còn các chức năng như hậu chỉ trỏ. Đây là một trong những gợi ý để chúng tôi, khi xem xét chức năng của ĐN nói chung và ĐNNT nói riêng và phân loại chúng trên bình diện ngữ nghĩa ở mục nói về chức năng định ngữ tiếng Việt. Trong một công trình khác, Beatrice Warren [205] cũng có mục nói về các thành phần phụ thuộc của câu, trong đó có định ngữ. Theo tác giả, ngoài chức năng miêu tả, phân loại, định ngữ còn có chức năng định dạng. Khi xem xét chức năng này, tác giả đặt định ngữ trong tình huống sử dụng cụ thể của nó (tức là trong hoạt động giao tiếp cụ thể). Bà viết: “Chúng ta hãy giả sử rằng người A muốn người B đưa cho anh ta một cuốn sách. Nếu có trên một cuốn sách ở gần, A phải nhận dạng cuốn sách nào anh ta đòi hỏi. Một cách tự nhiên làm điều này là bổ nghĩa cho danh từ bằng một tính từ chỉ ra đặc điểm có thể 9 ứng dụng được - hoặc ít nhất là dễ thấy nhất đối với sự biểu đạt có ý định trong những sự biểu đạt có thể của sách trong những tình huống cụ thể. Ví dụ: - Hãy đưa cho tôi cuốn sách màu đỏ!” [205, tr. 98]. Rõ ràng, chức năng miêu tả và phân loại của ĐN trong những ngữ cảnh nhất định thường được dùng để “giúp cho việc nhận dạng” sự vật được nói đến trong ngữ cảnh. Điều này giúp chúng ta nhận ra vai trò cần thiết và quan trọng trong việc phân loại ĐN. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu định ngữ ở Việt Nam Khoảng đầu thế kỷ XX một số tác giả (như: Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Văn Lý) tiếp thu lí thuyết của ngôn ngữ châu Âu vào nghiên cứu tiếng Việt. Riêng ở lĩnh vực ngữ pháp, giai đoạn đầu (những năm 40 thế kỷ XX), các nhà nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt chủ yếu vận dụng lí thuyết các trường phái ngôn ngữ phương Tây vốn phù hợp với các ngôn ngữ biến hình để phân loại từ và câu tiếng Việt - một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập. Giai đoạn tiếp theo (những năm 70), ngữ pháp tiếng Việt đã có những thay đổi theo hướng nghiên cứu câu tiếng Việt trên nền tảng của các lí thuyết mới của phương Tây, bám sát vào cấu trúc cú pháp và cấu trúc ngữ nghĩa. Từ những năm 90 của thế kỉ XX, các nhà Việt ngữ học tiếp cận ngữ pháp từ bình diện chức năng, quan tâm đến ngữ nghĩa ngữ dụng của câu trong hoạt động giao tiếp. Khi đề cập đến cấu trúc câu, một trong những vấn đề trọng tâm mà các tác giả bàn tới là các thành phần câu, trong đó nhiều tác giả đề cập đến thành phần ĐN. Các nhà nghiên cứu dễ dàng xác định ĐN có cương vị ngữ pháp khá đặc thù so với các thành phần khác (như chủ ngữ, vị ngữ hay bổ ngữ) trong câu nhưng đặc điểm và vai trò của nó thì lại có nhiều hướng nhìn nhận, phân tích đánh giá. 1.1.2.1. Định ngữ trong mối quan hệ với câu Hiện nay có hai loại ý kiến phân tích về ĐN tiếng Việt. Loại ý kiến thứ nhất xem ĐN thuộc thành phần của câu, nhưng quan niệm ĐN thuộc thành phần câu cũng khác nhau và có phân biệt về thứ bậc, tôn ti. Phan Khôi (1955) xác định câu tiếng Việt gồm 6 thành phần, xếp vào ba nhóm: thành phần chủ yếu (chủ ngữ và vị ngữ), thành phần liên đới (tân ngữ, bổ túc ngữ) và thành phần phụ gia (hình dung phụ gia ngữ và phó từ phụ gia ngữ). 10 Các tác giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1981, 1992) xem định ngữ là “một loại thành phần phụ có thể đứng trước nòng cốt câu hoặc chen vào giữa chủ ngữ và vị ngữ, có nhiệm vụ biểu thị những ý nghĩa hạn định về tình thái hoặc cách thức cho sự tình được nêu trong câu” [163, tr. 304]. Ví dụ: - Đột nhiên, Hộ nảy ra ý định muốn lại gần Từ, nhìn kĩ xem mặt Từ lúc bấy giờ ra sao (Nam Cao); - Bỗng đùng một cái, tôi nghe tin anh chết (Nam Cao); - Vậy thì hắn đích thực là một con người hay lật lọng (Nam Cao). Các định ngữ, theo quan niệm của hai tác giả, có thể dễ dàng thay đổi vị trí mà không làm thay đổi hay mất đi ý nghĩa của toàn bộ câu văn. Trong công trình viết chung Thành phần câu tiếng Việt (1999), hai tác giả phân chia thành phần câu tiếng Việt làm hai loại: Loại thành phần chủ yếu của câu gồm: vị ngữ, chủ ngữ và bổ ngữ; loại thành phần thứ yếu của câu gồm: khởi ngữ, tình thái ngữ, định ngữ câu và trạng ngữ. Như vậy, định ngữ là thành phần có hai vị trí: đứng trước nòng cốt câu hoặc chen giữa chủ ngữ và vị ngữ, bổ sung ý nghĩa về mặt tình thái (khách quan hay chủ quan) cho câu [163, tr. 328, 330]. Loại ý kiến thứ hai xem ĐN không có cương vị là thành phần câu mà là thành phần phụ thuộc của từ (từ tổ, cụm từ). Nhiều ý kiến của các nhà Việt ngữ học theo hướng này. Hoàng Tuệ (1962) xem ngoài các thành viên chính của câu là chủ ngữ và vị ngữ thì có thành viên thứ yếu bổ ngữ, còn định ngữ (bổ sung ý nghĩa cho danh từ) là loại thành viên không nằm cùng hàng với chủ ngữ, vị ngữ và bổ ngữ [174, tr. 346]. Nguyễn Kim Thản (1964) xác định các thành phần câu gồm: thành phần chính của câu (chủ ngữ, vị ngữ), thành phần thứ yếu của câu (trạng ngữ, khởi ngữ), còn bổ ngữ và định ngữ là thành phần thứ yếu của từ tổ. Thành phần thứ yếu của câu thì phụ thuộc vào cả câu, còn thành phần thứ yếu của từ tổ thì “phụ thuộc hẳn vào một từ nhất định” [145, tr. 207]. Các tác giả I.S. Bưstrov, Nguyễn Tài Cẩn, N.V. Stankevich (1975) xem các thành phần phụ khi ở trong đoản ngữ (cụm từ, từ tổ) là “thành phần phụ thuộc”, điển hình là định ngữ [16, tr. 134]. Cao Xuân Hạo (1999), khi xác định cấu trúc của câu tiếng Việt theo quan điểm ngữ pháp chức năng đã chia theo thứ bậc: Bậc cấu trúc cơ bản của câu, gồm phần chính (đề - thuyết) và phần phụ (trạng ngữ) và các thành 11 phần khác ngoài cấu trúc cơ bản của câu gồm: khởi ngữ, hô ngữ, thành phần chuyển tiếp và thành phần chú thích. Định ngữ và bổ ngữ không phải là thành phần câu mà thuộc cấu trúc của ngữ. “Ngữ làm các thành phần chức năng trong câu có cấu trúc gồm một từ trung tâm và các định ngữ (ngữ danh từ), các bổ ngữ (ngữ vị từ) của nó” [68, tr. 70, 71]. Trong cấu trúc ngữ danh từ kiểu như cái áo cuối cùng, cái áo đẹp nhất thì cuối cùng, đẹp nhất là định ngữ [66, tr. 33]. Tóm lại, các nhà ngôn ngữ học nước ngoài hay trong giới Việt ngữ học khi bàn đến cấu tạo ngữ pháp của câu tiếng Việt đều đề cập đến thành phần câu, miêu tả các thành phần câu. Về ĐN, các tài liệu của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài nghiên cứu về tiếng Việt hay các nhà Việt ngữ học thậm chí không đề cập đến đối tượng này hoặc viết rất sơ lược khi xem xét ĐN trong mối quan hệ với câu. Từ đó, có thể phân thành hai loại ý kiến: hoặc là xếp ĐN vào thành phần thứ yếu của câu hoặc không xem nó là thành phần của câu mà thuộc tổ chức của cụm từ (hay từ tổ, đoản ngữ). Trong luận án, chúng tôi theo quan niệm coi ĐN là thành phần phụ trong cụm danh từ (còn gọi là danh ngữ - DN), có chức năng và ý nghĩa phụ thuộc, liên quan trực tiếp đến danh từ trung tâm. 1.1.2.2. Định ngữ trong mối quan hệ với cụm danh từ Khi xem xét cụm từ, các nhà nghiên cứu ngữ pháp đã bàn thảo phân tích, miêu tả các thành tố trong cụm danh từ. Sau đây, chúng tôi tóm lược một số ý kiến xác định cương vị, vai trò của ĐN trong cụm từ tiếng Việt. a. Vị trí của định ngữ trong cụm danh từ Khi bàn đến ĐN, việc đầu tiên, người ta xác định vị trí của nó trong cấu tạo của cụm danh từ. Từ cách xác định trung tâm, các nhà nghiên cứu phân tích, chỉ ra các phần phụ trước và phần phụ sau trung tâm (gọi là định tố, định ngữ, bổ tố,). Trong mô hình ngữ danh từ của M.B. Emeneau (1951), ông gọi thành phần đứng sau danh từ trung tâm là định ngữ (attribute). Trong tiếng Anh, attribute được hiểu là đặc tính, thuộc tính của một vật, một người nào đó. Như vậy, định ngữ trong quan điểm của M.B. Emeneau chính là thành phần bổ sung thêm những thuộc tính nào đó của danh từ đứng trước nó trong ngữ danh từ. 12 Nguyễn Tài Cẩn (1975) nêu các định tố đầu (trước phần trung tâm) và định tố cuối (sau phần trung tâm). Ông nhận xét trong tiếng Việt không có “loại định tố nào có trật tự tự do, khi thì ở trước, khi thì ở sau” [20, tr. 203]. Đái Xuân Ninh (1978) xem xét các cụm từ trong tiếng Việt, ngoài phần danh từ làm chính tố, đã gọi các thành phần đứng trước hoặc sau chính tố là các bổ tố. Cũng trong công trình của mình, tác giả Đái Xuân Ninh phân tích cấu tạo, xác định sự phân bố của các bổ tố trong cụm danh từ [126, tr. 235]. Tuy nhiên, cách gọi “bổ tố” trong cụm danh từ có thể làm cho người đọc nhầm lẫn giữa thành phần phụ của cụm danh từ với cụm động từ và cụm tính từ trong tiếng Việt. Hơn nữa, việc phân loại bổ tố của tác giả cũng chưa triệt để và có thể tiếp cận đến tất cả các cấu trúc làm thành phần phụ trong “cụm danh từ”. Các tác giả trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (1983), bàn đến vai trò của danh ngữ: “danh từ không trực tiếp làm yếu tố cấu tạo của câu, mà chỉ danh ngữ có tính xác định mới đóng vai trò đó” [176, tr. 103]. Các yếu tố thuộc khu vực sau danh từ trung tâm là phụ tố; đồng thời, chia phụ tố thành hai loại: phụ tố hạn định sự vật bằng đặc điểm của nó (S1) và phụ tố chỉ định vị trí của sự vật trong không gian, thời gian (S2) [176, tr. 113]. Nguyễn Thiện Giáp (1997) đưa ra khái niệm cú đoạn “bao gồm hơn một từ và không có cấu trúc chủ vị tiêu biểu cho cú. [] Có những kiểu cú đoạn như: cú đoạn danh từ, cú đoạn động từ, cú đoạn tính từ và cú đoạn giới từ” [52, tr. 205]. Tuy nhiên, trong công trình này, ông không đưa ra mô hình cụ thể của các cú đoạn trong tiếng Việt mà chỉ dừng lại ở việc gọi tên cho nó. b. Về vai trò của định ngữ trong cụm danh từ Đây là nội dung các nhà nghiên cứu bàn luận và phân tích khá ... cách sử dụng có tính chất mĩ học của ngôn ngữ, đặc biệt là cách sử dụng ngôn ngữ trong văn học. b. Phương tiện tu từ Phương tiện tu từ là những phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản ra chúng còn có ý nghĩa bổ sung, có màu sắc tu từ. Người ta gọi chúng là những phương tiện được tu sức về mặt ngôn từ, hoặc đôi khi là những phương tiện được đánh dấu về mặt tu từ. Trong phong cách ngôn ngữ văn chương, phương tiện tu từ được định nghĩa một cách khái quát và nhất quán ở các cấp độ. Những phương tiện tu từ từ vựng, ngữ pháp, văn bản đều khác biệt đối lập tu từ học với những phương tiện trung hòa từ vựng, ngữ pháp cú pháp, văn bản [85, tr. 59, 60] c. Các biện pháp tu từ thường gặp Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng trong lời nói các phương tiện ngôn ngữ (không kể trung hoà hay diễn cảm) để tạo ra hiệu quả tu từ (tức tác dụng gợi hình, gợi cảm, nhấn mạnh, làm nổi bật...) do sự tác động qua lại của các yếu tố trong một ngữ cảnh rộng [75, tr. 19]. Một số biện pháp tu từ tiêu biểu thường gặp gồm: biện pháp tu từ ngữ âm, biện pháp tu từ từ vựng - ngữ nghĩa, biện pháp tu từ cú pháp và biện pháp tu từ văn bản; trong đó, chúng tôi chú ý đến biện pháp tu từ từ vựng - ngữ nghĩa, biện pháp tu từ cú pháp và văn bản. Biện pháp tu từ từ vựng - ngữ nghĩa là những 27 cách phối hợp sử dụng các đơn vị từ vựng trong phạm vi của một đơn vị khác thuộc bậc cao hơn, có khả năng mang lại hiệu quả tu từ do mối quan hệ giữa các đơn vị trong ngữ cảnh. Các biện pháp tu từ từ vựng ngữ nghĩa gồm: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, điệp ngữ, Biện pháp tu từ cú pháp là những cách phối hợp sử dụng các kiểu câu trong ngữ cảnh rộng (đoạn văn, văn bản) nhằm đem lại ý nghĩa biểu cảm - cảm xúc cho những mảnh đoạn của lời nói. Các biện pháp tu từ cú pháp gồm: sóng đôi, đảo đối, câu hỏi tu từ, tách biệt, liên kết tu từ,... Biện pháp tu từ văn bản là những cách phối hợp sử dụng khéo léo các mảnh đoạn của văn bản để tạo ra hiệu quả tu từ (tạo hình, gợi cảm, bày tỏ thái độ, gây ấn tượng, nhấn mạnh). Các biện pháp tu từ văn bản gồm: hoà hợp, tương phản, qui định. Để nghiên cứu đặc điểm của các đơn vị giao tiếp, người ta thường dùng các thao tác phân tích, miêu tả các đơn vị đó dựa vào những dấu hiệu nhất định, ở góc độ tìm hiểu đặc điểm phong cách ngôn ngữ, dấu hiệu đó là các biện pháp tu từ. 1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật a. Các phong cách chức năng Ngôn ngữ có các chức năng cơ bản là phương tiện giao tiếp và là công cụ tư duy, trên cơ sở đó, người ta phân loại ngôn ngữ thành các phong cách chức năng. Phong cách khoa học có chức năng thông báo, phong cách sinh hoạt hàng ngày có chức năng giao tiếp, phong cách công vụ - hành chính có chức năng thông báo, phong cách chính luận có chức năng tác động và phong cách nghệ thuật có chức năng tác động và thẩm mĩ [147, tr. 186]. Cũng có người chia thành hai loại lớn: phong cách hội thoại và phong cách sách vở. b. Khái niệm phong cách ngôn ngữ nghệ thuật Bàn về phong cách nghệ thuật, Nguyễn Thiện Giáp nhận xét: “Phong cách nghệ thuật là một loại phong cách đặc biệt, nó có thể mang đặc điểm của nhiều phong cách” [51, tr. 218]. Còn Nguyễn Thái Hoà nêu các đặc điểm của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật: ở dạng nói hay dạng viết phong cách ngôn ngữ nghệ thuật đều có ba đặc trưng cơ bản sau: Tính hình tượng, tính truyền cảm và tính cá thể hoá [75, tr. 186-187]. Có thể khẳng định phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là một loại phong cách chức năng của ngôn ngữ “được dùng để sáng tạo hình 28 tượng nghệ thuật và các tác phẩm nghệ thuật nhằm phục vụ cho nhu cầu về đời sống tinh thần của con người” [45, tr.276]. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật được thể hiện cụ thể qua tác phẩm văn học và các đặc điểm ngôn ngữ được sử dụng trong tác phẩm. Tác phẩm văn học là “công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hay tập thể sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát bằng hình tượng về cuộc sống con người, biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại”... Ngôn ngữ được dùng trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật [60, tr. 215, 290]. Như vậy, các loại sản phẩm ngôn ngữ, trong đó, có tác phẩm văn học, được tạo ra trong quá trình giao tiếp, mang dấu ấn phong cách của chủ thể sáng tạo. Theo Hugo Schuchardt: “Ngôn ngữ là một sáng tạo của cá nhân trên cơ sở bắt chước cộng đồng và vì vậy ngôn ngữ có một mặt lệ thuộc vào cá nhân là người sáng tạo và sử dụng nó. Vì vậy, ngôn ngữ là một sự kiện phong cách và chính ngôn ngữ phải được xem xét ở phương diện phong cách”. Phân tích các mặt khác nhau của đơn vị ngôn ngữ như vậy liên quan đến đặc trưng phong cách, kiểu loại văn bản” [Dẫn theo 74, tr.20]. c. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật So với các phong cách chức năng khác, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có những đặc trưng riêng biệt. Trước hết, các đơn vị ngôn ngữ trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có chức năng tác động hình tượng, tức là có khả năng đem lại cho người đọc những tình cảm, những rung động về cảm xúc. Hơn thế, nó còn có khả năng tác động đến người đọc qua hệ thống các đơn vị mang tính hình tượng, có khả năng gợi ra những liên tưởng sâu xa. Theo tác giả Hữu Đạt, “khi các đơn vị ngôn ngữ tham gia với tư cách là các tham tố tạo nên hình tượng nghệ thuật, tự nó đã làm mờ nhạt đi tính bản thể của tín hiệu ngôn ngữ để tạo nên một loại nghĩa mới ngoài bản thể hay là “siêu tín hiệu” [45, tr. 285]. Ngoài ra, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật còn có tính thẩm mĩ. Thông qua ngôn từ nghệ thuật, các nhà văn xây dựng hình tượng nghệ thuật để thực hiện chức năng thẩm mĩ, mang đến cho người đọc những rung động mạnh mẽ. Từ đó, tác phẩm văn học mang tính sinh động và biểu cảm cao, làm nên chất trữ tình của văn bản nghệ thuật và tạo cầu nối cảm xúc giữa nhà văn và bạn đọc. 29 d. Màu sắc tu từ và tính thẩm mĩ trong ngôn ngữ nghệ thuật Màu sắc tu từ và tính thẩm mĩ là hai đặc trưng liên quan đến ĐNNT. - Màu sắc tu từ là chỉ phần thông tin có tính chất bổ sung bên cạnh phần thông tin cơ bản của một thực từ. Đa số các từ trong ngôn ngữ chỉ có phần thông tin cơ bản (còn gọi là ý nghĩa biểu vật), như: nhà, cửa, bàn, ghế, tốt, đẹp, đi lại, rất... Nhưng trong ngôn ngữ cũng có nhiều từ ngoài phần thông tin cơ bản ra còn có thông tin bổ sung (còn gọi là ý nghĩa liên hội) vốn hình thành từ những thành tố: biểu cảm, cảm xúc, bình giá và phong cách (còn gọi là tu từ học chức năng). Màu sắc tu từ là phần ý nghĩa bổ sung, là yếu tố tinh tế, làm nên sự đối lập giữa các phương tiện trung hoà với các phương tiện tu từ của ngôn ngữ. Còn trong các biện pháp tu từ thì cách phối hợp sử dụng các phương tiện ngôn ngữ cả trung hoà lẫn tu từ cũng đưa đến một tác dụng, một hiệu quả là nảy sinh những màu sắc tu từ [86; tr. 91- 92]. - Tính thẩm mĩ (chức năng thẩm mỹ) thể hiện rõ trong tác phẩm văn học, qua hệ thống hình tượng, qua tổ chức ngôn từ của tác phẩm, tạo nên tính nghệ thuật. Tính nghệ thuật trong ngôn ngữ văn chương được “thể hiện ở cấu tứ độc đáo, miêu tả sinh động, kết cấu tài tình, ngôn ngữ gợi cảm, gây ấn tượng đặc biệt tạo thành sức thuyết phục và lôi cuốn của tác phẩm” [60, tr. 238]. Tính nghệ thuật cho phép người viết tạo ra những cách diễn đạt mới mẻ, độc đáo và người đọc cảm nhận đối tượng được nói đến theo cách riêng, tùy thuộc vào trí tưởng tượng và khả năng cảm nhận của mình. Như vậy, có thể hiểu tính thẩm mĩ thể hiện trên hai phương diện: bổ sung thêm một nét “ý nghĩa mới”, một cách tiếp nhận mới về đối tượng được nói đến; “trang trí, làm đẹp” cho câu văn, ngôn bản, tạo nên tính nghệ thuật cho câu văn. Tóm lại, cả hai tính chất: màu sắc tu từ và tính thẩm mĩ có mối quan hệ tương liên; màu sắc tu từ góp phần đem lại hiệu quả thẩm mĩ, ấn tượng thẩm mĩ, làm nên tính thẩm mĩ và ngược lại, tình thẩm mĩ là biểu hiện cụ thể sinh động của màu sắc tu từ. Cả hai có mặt trong ngôn từ của tác phẩm văn học, làm nên tính nghệ thuật của tác phẩm văn học. Vì vậy, “với người sáng tạo, tác phẩm văn học là nơi kí thác, nơi khẳng định nhân sinh, lí tưởng thẩm mĩ... Với người đọc, tác phẩm văn học là đối tượng tích cực của cảm thụ thẩm mĩ” [60, tr. 291]. 30 1.2.3. Định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt Trong phần tổng quan về nghiên cứu định ngữ và định ngữ nghệ thuật (mục 1.1), chúng tôi đã trình bày một số ý kiến và kết quả khảo sát về định ngữ của các công trình đã công bố. Trong phần này, chúng tôi trình bày khái niệm định ngữ và định ngữ nghệ thuật trong tiếng Việt, các tiêu chí phân biệt giữa định ngữ và định ngữ nghệ thuật. Đây là những giới thuyết làm cơ sở cho việc trình bày các nội dung định ngữ nghệ thuật trong các phần tiếp theo. 1.2.3.1. Định ngữ trong tiếng Việt a. Về tên gọi, khi xác định các thành tố trong cấu tạo của cụm danh từ thì thành tố phụ sau danh từ - thành tố chính, hiện có hai tên gọi được dùng: định tố và định ngữ. Một số tác giả trong giới Việt ngữ học gọi thành tố này là định tố (có sự phân biệt với định ngữ). Hoàng Trọng Phiến dùng cả hai thuật ngữ này nhưng có cân nhắc, phân biệt về vai trò của thành phần này ở trong câu. “Định ngữ được xét như một yếu tố trong quan hệ nội bộ của nhóm thì gọi là định tố. Tuy nhiên, khi định tố của một nhóm từ nào đó làm thành phần chính của câu thì định tố có giá trị như một thành phần câu với tên gọi định ngữ... Sự phân biệt định ngữ và định tố là sự phân biệt cấu trúc - chức năng của từ pháp và cú pháp” [132, tr. 42]. Như vậy, có thể hiểu, tên gọi định tố là nói đến vai trò của thành tố này trong cụm từ (từ pháp), còn tên gọi là định ngữ là nói đến vai trò của thành phần này trong quan hệ với câu (cú pháp). Quan niệm này tương cận với tên gọi định ngữ của Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp như đã nói ở trên. Nguyễn Thị Nhung cũng gọi tên định tố với cách hiểu là một thành tố phụ cho từ; chức năng ngữ pháp của nó thể hiện trong danh ngữ, định tố không có vai trò ngang hàng với những thành phần câu khác như vị ngữ, chủ ngữ, trạng ngữ, đề ngữ [125, tr. 38]. Nhiều tác giả (Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Kim Thản, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Như Ý...) gọi thành tố này là định ngữ. Diệp Quang Ban định nghĩa: “Định ngữ là thành phần phụ đi kèm danh từ và nêu lên những đặc trưng của sự vật do danh từ biểu thị” [12, tr. 182, 184]. 31 Nguyễn Như Ý coi định ngữ “là thành phần phụ của cụm danh từ trong câu có chức năng bổ sung thêm cho thành phần chính bằng quan hệ phụ thuộc, chỉ ra các thuộc tính, tính chất của người, vật, sự vật, hiện tượng do danh từ làm thành phần chính gọi tên [179, tr. 89]. Nguyễn Thiện Giáp định nghĩa: “Định ngữ là một bộ phận của danh từ, chỉ ra những đặc trưng của danh từ chính” [57, tr. 163]. b. Về cấu tạo, các nhà Việt ngữ học (N.V.Stankêvích, Nguyễn Tài Cẩn, Diệp Quang Ban,) khi bàn về vai trò của định ngữ đã nhận xét cấu tạo của định ngữ; chẳng hạn, theo Diệp Quang Ban, định ngữ có thể là một từ, cụm từ hay kết cấu chủ vị [8, tr. 182, 184]. Về từ loại, định ngữ có thể là danh từ, động từ, tính từ, hoặc các đại từ xác định, các từ có ý nghĩa thời gian, vị trí và số từ [18] hay từ chỉ trỏ, từ chỉ vị trí và từ chỉ con số [20, tr. 237], các số từ xác định, số từ thứ tự, đại từ, thời - vị từ [7, tr. 57]. N.V. Stankêvích nhận xét: “định ngữ biểu thị bằng các từ loại khác nhau có ý nghĩa và đặc điểm hình thức khác nhau. Định ngữ là tính từ chỉ đặc điểm phẩm chất của sự vật còn định ngữ là danh từ chỉ đặc điểm của sự vật thông qua một sự vật khác. Đối với định ngữ là danh từ thì có một hình thức giới từ riêng, còn định ngữ là tính từ thì không được dẫn nối bởi giới từ. Ngoài ra, đặc tính từ loại cũng xác định vị trí của định ngữ trong dãy ĐN” [18, tr. 6]. c. Về phân loại vị trí định ngữ trong cụm từ, các nghiên cứu về định ngữ (hay định tố) đều cho rằng định ngữ là thành phần phụ nghĩa cho thành tố chính trong cụm danh từ. Việc xác định vị trí của định ngữ trong cụm danh từ có phạm vi rộng hẹp khác nhau. Diệp Quang Ban xác nhận định ngữ có hai loại: định ngữ chỉ lượng (đứng trước danh từ) và định ngữ miêu tả (đứng sau danh từ) [8, tr. 182, 184]. Nguyễn Thiện Giáp lại cho rằng, có ba loại định ngữ trong cụm danh từ: định ngữ hạn định, định ngữ miêu tả và định ngữ chỉ xuất. Định ngữ hạn định có tác dụng thu hẹp ngoại diên của danh từ trung tâm (cá trê, dưa hấu...). Định ngữ miêu tả thêm vào nghĩa của danh ngữ một nét riêng của cái cá thể hay những cá thể cụ thể được nói đến trong câu. Định ngữ chỉ xuất có thể là những từ trực chỉ và cả những ngữ đoạn vị từ hoặc tiểu cú như bức tranh ấy, bức tranh treo trên tường ấy, cuốn sách mà anh vừa mới mua ấy... [57, tr. 163]. 32 d. Về chức năng của định ngữ, như đã trình bày ở phần tổng quan về định ngữ (mục 1.1.1.2.), nhiều nhà nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt đều đồng ý với quan điểm cho rằng các thành tố trong phần cuối của cụm danh từ tiếng Việt có chức năng hạn định, chức năng miêu tả. .Đầu tiên là nói về chức năng hạn định, Hoàng Tuệ (1962) gọi ĐN là “hạn định ngữ” và cho rằng “không phải vì có ĐN mà kết cấu của câu bị thay đổi” [174, tr. 90]. Đinh Văn Đức (1986) cho rằng “Chức năng của nó (định ngữ - ĐVĐ) là hạn định” [48, tr. 90], coi định ngữ chỉ ra đặc trưng hạn định mà nội dung cơ bản là miêu tả cho cái nội dung của danh từ (có thể hiểu như nội hàm và ngoại diên của danh từ). Đồng thời, ông cũng phân loại các ĐN theo những từ loại nhất định và từ đó, chỉ ra chức năng hạn định của mỗi loại ĐN trong cụm danh từ. Cao Xuân Hạo (1998) trong khi phân loại đã gọi tên một số ĐN đứng sau DTTT là “định ngữ hạn định, mà ý nghĩa và tác dụng là thu hẹp ngoại diện của DTTT bằng cách thêm vào nghĩa của nó một số định tính riêng tạo thành một tiểu loại trong cái chủng loại do DTTT” [66, tr. 377]. Chẳng hạn: cá trê phi, cá bống mú, cái trống cơm Chức năng thứ hai của định ngữ là chức năng miêu tả (trang trí). Cao Xuân Hạo (1998) cùng các tác giả Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tất Tươm (1992) khi phân loại đã đề cập đến chức năng trang trí của ĐN trong cụm DT, không chỉ xem định ngữ có chức năng hạn định như trên mà còn có chức năng trang trí (hay còn gọi là định ngữ miêu tả, hay tính ngữ); định ngữ chỉ xuất hay trực chỉ [66, tr. 377, 385]. Ngoài chức năng hạn định và miêu tả, có ý kiến còn nói đến chức năng chỉ xuất. Nguyễn Thiện Giáp [57], Hoàng Dũng, Nguyễn Thị Ly Kha [39] đều có chung ý kiến này. Những thành tố phụ đứng sau vị trí trung tâm (0) là các: “định ngữ hạn định” (1’); “định ngữ trang trí” (2’). Trong đó, vị trí (2’) được các tác giả tiếp tục phân chia thành các tiểu loại: định ngữ phức số, định ngữ chỉ xuất, định ngữ miêu tả 33 1.2.3.2. Định ngữ nghệ thuật a. Nhận xét chung Mỗi thành phần, mỗi yếu tố khi đi vào câu (phát ngôn), trở thành đơn vị giao tiếp đều có một ý nghĩa nhất định và giữ một vai trò cụ thể. Định ngữ là một thành phần của cụm danh từ, đến lượt mình, cụm danh từ lại là một bộ phận của câu, đương nhiên có ý nghĩa và vai trò nhất định. Hiện nay, việc nghiên cứu về ĐNNT của các nhà Việt ngữ học chưa nhiều; một số bài viết mới chỉ dừng lại ở định nghĩa và được điểm qua trong các công trình nghiên cứu về phong cách ngôn ngữ tác giả cụ thể. Chẳng hạn, khái niệm ĐNNT được nhắc đến trong công trình nghiên cứu của tác giả Trần Đình Sử (1998) khi ông trích dẫn nhận định của A.N. Veclovxki: “Lịch sử của ĐNNT là lịch sử của phong cách thi ca dưới dạng rút gọn” [dẫn theo 138, tr. 171]. b. Về định nghĩa Định ngữ nghệ thuật là một thuật ngữ mà trước đây được gọi là hình dung từ, hay tính ngữ nghệ thuật (ephithet). Hình dung từ là: 1. Một “điều biến tố” nêu đặc trưng về chất của một danh từ, phân biệt yếu tố chỉ lượng hay chỉ định đi với danh từ, như trong cụm danh từ những ngôi nhà cao mới xây kia. 2. Một “điều biến tố” nêu đặc trưng của một danh từ riêng, như trong Tân cao kều, Dũng béo [13, tr. 259, 260]. Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, trong Từ điển thuật ngữ văn học xác định: Định ngữ nghệ thuật là “Phương thức chuyển nghĩa, trong đó một từ (hoặc một cụm từ) đóng vai trò phụ nghĩa cho một từ (hoặc cụm từ) khác nhằm làm nổi bật một đặc điểm nào đó của đối tượng để tạo ra ấn tượng thẩm mĩ” [60, tr.120]. Nguyễn Thái Hoà nêu một số đặc điểm của định ngữ nghệ thuật: Định ngữ nghệ thuật là phương thức tu từ có chức năng định ngữ (epithete) nhưng giàu màu sắc biểu cảm tu từ... Phần lớn những định ngữ nghệ thuật là những ẩn dụ (ẩn dụ bổ sung, ẩn dụ tượng trưng). Do vậy, định ngữ nghệ thuật thường được xếp vào ẩn dụ. Định ngữ nghệ thuật xuất hiện khá nhiều trong văn thơ làm nên hình tượng và cảm xúc thơ [75, tr.80]. 34 c. Phân biệt định ngữ và định ngữ nghệ thuật Định ngữ nghệ thuật không nằm ngoài quy luật hoạt động của định ngữ trong cụm từ. Xét về chức vụ cú pháp trong câu và trong cấu trúc của cụm danh từ, chúng hầu như không có sự khác biệt. Tuy nhiên, ngoài những phẩm chất vốn có của định ngữ thông thường, ĐNNT tạo ra cho mình những dấu ấn, những đặc điểm riêng trong văn chương nghệ thuật. Những điểm phân biệt định ngữ thông thường và định ngữ nghệ thuật là: - Về vị trí: Định ngữ (tác giả Nguyễn Tài Cẩn gọi là định tố) có thể xuất hiện ở ba vị trí: i) Trước danh từ trung tâm, bổ sung các ý nghĩa định lượng cho danh từ trung tâm (trong sơ đồ cấu tạo cụm danh từ đó là vị trí (-3) và (-2); hoặc: ii) Trước danh từ trung tâm, bổ sung ý nghĩa chỉ xuất (trong sơ đồ cấu tạo cụm danh từ đó là vị trí (-1). Ví dụ: Tất cả những cái con mèo... Và iii) Sau danh từ trung tâm, bổ sung các ý nghĩa chỉ định cho danh từ trung tâm (trong sơ đồ cấu tạo cụm danh từ đó là vị trí: (2). Ví dụ: Tất cả những cái con mèo ấy. Và iiii): Sau danh từ trung tâm, bổ sung các ý nghĩa hạn định hay miêu tả cho danh từ trung tâm (trong sơ đồ cấu tạo cụm danh từ đó là vị trí (1). Ví dụ: Tất cả những cái con mèo đen ấy. Còn định ngữ nghệ thuật chỉ xuất hiện ở vị trí (1) ngay sau danh từ trung tâm. Ví dụ: Tất cả những cái con mèo đen tuyền, đáng yêu ấy. - Về cấu tạo và từ loại, định ngữ thường có các từ loại phụ thuộc vào vị trí trước (phụ từ chỉ lượng) và sau (đại từ chỉ định), riêng ở vị trí (1) có thể có nhiều từ loại tham gia (danh, động, tính), các thành tố phụ ở mỗi vị trí thường đơn giản (1 từ). Còn định ngữ nghệ thuật thường có cấu tạo đa dạng, từ 1 từ, tiểu cụm từ thậm chí là một tiểu cú (kết cấu c - v); các từ loại tham gia cũng đa dạng, rõ nhất là tính từ và các cấu trúc so sánh có tính từ làm hạt nhân. - Về ý nghĩa, các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cho rằng, điểm cơ bản để phân biệt hai khái niệm này chính là mặt ý nghĩa của chúng. ĐN thường chỉ có ý nghĩa xác định đặc điểm vốn có của sự vật, hiện tượng, mang tính khách quan. Ví dụ: tóc dài, bàn vuông, mèo đen... “ĐNNT mang lại một ý 35 nghĩa mới cho sự vật hiện tượng, không chỉ ý nghĩa vốn có mà còn là ý nghĩa có thể có, tạo cảm xúc cho người đọc, người nghe” [60, tr. 120]. Nó có màu sắc tu từ, đem lại hiệu quả thẩm mỹ. Ví dụ: Đầu xanh đã tội tình gì... Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Chỉ khi các ĐN được vận dụng “phương thức chuyển nghĩa, trong đó, một từ (hoặc một cụm từ) đóng vai trò phụ nghĩa cho một từ (hoặc một cụm từ) khác nhằm làm nổi bật một đặc điểm nào đó của đối tượng để tạo nên ấn tượng thẩm mỹ” thì mới trở thành ĐNNT [60, tr. 119]. Nguyễn Cao Đàm (2005) đã nói đến ý nghĩa của định ngữ “làm tăng sắc thái ý nghĩa, tạo hình nghệ thuật, gợi ý bóng bẩy, uyển chuyển cho câu văn”, tạo ra giá trị và hiệu quả nghệ thuật cho câu văn mà nếu lược bỏ chúng sẽ làm cho “câu văn trở nên méo mó, nghèo nàn hoặc mất hẳn tác dụng thẩm mỹ” [44, tr. 363]. Đó chính là một trong những quan điểm gần gũi với khái niệm ĐNNT. Từ những tiêu chí trên, có thể so sánh một số cụm danh từ để làm rõ sự khác biệt giữa định ngữ thông thường và định ngữ nghệ thuật. Ví dụ: Trong cụm DT những ngõ hẻm dài, ĐN thông thường xuất hiện ở các vị trí (-2) những và (1) dài. Trong đó, vị trí (1) xuất hiện TT dài chỉ “khoảng cách” từ đầu đến cuối ngõ hẻm, có thể lưu ý chiều dài “hơn mức bình thường” [130, tr.300]. Như vậy, trong cụm DT này, các ĐN miêu tả đặc điểm vốn có của sự vật một cách khách quan, giúp người đọc hình dung về chiều dài của con hẻm được nói đến ở DTTT. Với cụm DT những ngõ hẻm câm lặng như hang sâu, ĐNNT xuất hiện ở vị trí (1) được cấu tạo bởi một cấu trúc so sánh ngang bằng, một kiểu cấu trúc cho phép người viết thể hiện cách đánh giá và trí liên tưởng của mình một cách tối đa. Cấu trúc so sánh này có tính từ trung tâm, hạt nhân miêu tả: câm lặng - “im lặng như không thể nói, không thể phát ra tiếng động” [130, tr. 151] và đối tượng so sánh là “hang sâu” - “khoảng trống sâu vào trong lòng đất” [130, tr. 530]. Như vậy, ĐNNT trong cụm DT không chỉ cung cấp đặc điểm của những con hẻm: sâu và vắng, mà còn giúp người đọc hình dung về một không gian vắng lặng, buồn bã, mà khi bước vào đó, con người trở nên nhỏ bé, bất lực và cô đơn đến rợn ngợp. Định ngữ thông thường trong các cụm DT vẫn xuất hiện những cấu trúc phức tạp như: tiểu cụm từ, tiểu cú. Chẳng hạn, trong cụm DT những cuốn sách 36 tôi đọc khi còn nhỏ đó, ở vị trí (1) có kiểu cấu tạo là tiểu cú. Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, ĐN này chỉ nêu lên một hiện thực khách quan, đơn giản là thời gian xảy ra sự kiện gắn liền với đối tượng được nói đến ở DTTT (cuốn sách). Với cụm DT những cuốn sách đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ ngọt ngào của tôi, ĐNNT không chỉ nhắc đến thời gian mà còn chứa đựng trong đó những cảm xúc, những rung cảm mạnh mẽ của người viết đối với đối tượng. Những cuốn sách chính là nơi nuôi dưỡng tâm hồn con trẻ, làm cho tuổi thơ trở nên đáng yêu, đáng quý. Đó là cảm xúc nâng niu, trân trọng một miền kí ức ngọt ngào - có thể là môi trường, chất xúc tác để góp phần hình thành nên những phẩm chất tốt đẹp của con người trong hiện tại. Có thể so sánh hai câu văn để thấy rõ hơn những khác biệt giữa ĐN thông thường và ĐNNT như sau: (1) Có lẽ chưa bao giờ cái biệt hiệu Thần Sầu phải mang từ hồi mới nhập ngũ lại chí lí với hình ảnh con người Kiên như vào những ngày mưa sầu thảm sống ở Gọi Hồn này. [X, tr. 23] (1’) Có lẽ chưa bao giờ cái biệt hiệu Thần Sầu phải mang từ hồi mới nhập ngũ lại chí lí với hình ảnh con người Kiên như vào những ngày mưa dầm sống ở Gọi Hồn này. Ở (1’), cụm DT những ngày mưa dầm giúp người đọc hình dung về cơn mưa “kéo dài nhiều ngày, thường diễn ra trên một diện tích rộng” [130, tr. 825]. Riêng đối với cụm DT những ngày mưa sầu thảm ở (1), không chỉ cho người đọc liên tưởng đến những cơn mưa kéo dài trên diện rộng mà còn giúp hình dung sự buồn bã, cô đơn của lòng người trong những ngày mưa. Cách sử dụng và kết hợp từ ngữ ngày mưa sầu thảm khiến cho cơn mưa trở thành một thực thể có linh hồn, biết đồng cảm với dòng tâm trạng của nhân vật được nói đến trong câu văn. Nghĩa là cụm DT ở ví dụ (1) đã tạo nên màu sắc tu từ cho câu văn nghệ thuật. (2) Rồi ở xa xa, xa tít đàng xa, có hai cái hình bóng bé nhỏ hiện lên trên hai con ngựa gầy cúi đầu đạp tuyết mà đi về phía chân trời tẻ ngắt. [I, tr. 276] 37 Nếu như chân trời xa chỉ miêu tả đặc điểm về khoảng cách, về độ dài con đường mà hai con ngựa gầy phải đi đến thì chân trời tẻ ngắt (2) mang đến cho người đọc những cảm xúc khác. Cách sử dụng từ ngữ trong cụm DT không chỉ gợi lên một không gian rộng lớn mà còn giúp người đọc liên tưởng đến tâm trạng buồn chán, đơn điệu, không có một chút hấp dẫn, lôi cuốn nào ở phía trước cho những con người đang trên cuộc hành trình. Cụm DT trong câu (2) không chỉ miêu tả cảnh vật vắng vẻ, cô liêu mà còn mang đến giá trị biểu cảm. Sự buồn chán từ câu văn lan tỏa đến tâm trạng của người đọc khi cảm thụ bức tranh cảnh vật được miêu tả ở đây. Đó chính là giá trị thẩm mĩ mà ĐNNT mang đến cho câu văn cũng như cho cụm DT chứa nó. Như vậy, ĐNNT là loại định ngữ không chỉ có chức năng hạn định và miêu tả cho danh từ như ĐN thông thường mà còn có chức năng thẩm mĩ (mang màu sắc tu từ và tính thẩm mĩ). Để có một khái niệm định hướng cho việc thực hiện đề tài, chúng tôi xác định: Định ngữ nghệ thuật là loại định ngữ nằm trong cấu trúc của cụm danh từ, là thành phần mang màu sắc tu từ và tính thẩm mĩ cho câu văn thuộc văn bản nghệ thuật. Khi phân tích các ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy các ĐNNT đều có màu sắc tu từ và tính thẩm mĩ (chức năng thẩm mĩ). Chúng mang lại những cách cảm nhận mới mẻ về đối tượng được nói đến, mang đến một cách nhìn về sự vật vừa mới lạ vừa gần gũi thân quen đối với sự liên tưởng, tưởng tượng của người đọc như cách nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả tiếng nước thác sông Đà: (3) “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá truông rừng lửa, rừng lửa cũng gào thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” [XIII, tr. 279]. Nó thể hiện hàm ý của nhà văn khi giải thích nguyên cớ cơn giận của bà cô Thị Nở, một người đàn bà cô độc không chồng, không con: (4) “Người đàn bà đức hạnh thấy cháu bà sao mà đĩ thế?” [II, tr. 50]. Nó mang đến nhạc điệu, chất thơ, sự gợi cảm cho câu văn trong những dòng tùy bút của nhà văn Vũ Bằng: (5) “Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng” [I, tr. 18] 38 Từ những đặc điểm trên nên trong công trình này, chúng tôi sẽ tìm hiểu các phương diện như: cấu trúc, phong cách của ĐNNT. d. Các bình diện nghiên cứu định ngữ nghệ thuật Từ yêu cầu và mục đích của đề tài, trong luận án, chúng tôi định hướng nhiệm vụ tìm hiểu định ngữ nghệ thuật liên quan đến quá trình sáng tác cũng như tiếp nhận các tác phẩm văn chương nghệ thuật. Do đó, ĐNNT được xem xét một cách toàn diện cả về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa và phong cách của nó đặt trong ngữ cảnh hẹp (CT) và ngữ cảnh rộng (câu, văn bản- tác phẩm văn học). Những nghiên cứu đó góp phần khẳng định: ĐNNT là loại định ngữ không chỉ có chức năng hạn định và miêu tả cho danh từ mà còn có chức năng thẩm mĩ (mang màu sắc tu từ và tính thẩm mĩ). - Bình diện cấu tạo của định ngữ nghệ thuật Tìm hiểu ĐNNT trên bình diện cấu trúc là xác định cấu tạo của DN có chứa ĐNNT, xác định ranh giới của ĐNNT trong cụm DT. Tuy nhiên, ĐNNT không phải là một đơn vị có thể đứng độc lập, hoạt động tự do mà nó cần được đặt vào trong một chỉnh thể lớn hơn, là một đơn vị nhỏ nhất bao hàm trong câu, đó là cụm DT. Chỉ khi được đặt vào trong cụm DT, ĐN nói chung và ĐNNT nói riêng mới phát huy được vai trò của mình. Do đó, khi nghiên cứu bình diện cấu tạo của ĐNNT, có thể xem xét ở các nội dung sau: - Tìm hiểu vị trí của ĐNNT trong tương quan với thành tố trung tâm. - Các kiểu cấu tạo của ĐNNT: từ (DT, ĐT, TT); cụm từ; cụm chủ vị - Số lượng các ĐNNT có thể xuất hiện trong một cụm DT. - Các thành tố có thể xuất hiện (kết hợp) cùng ĐNNT trong cụm DT và quan hệ giữa các yếu tố tạo nên ĐNNT. Từ những nội dung trên, chúng ta có thể đánh giá được vai trò chức năng ngữ nghĩa của ĐNNT có thể đảm đương (hạn định, miêu tả, trang trí...) trong cụm DT cũng như trong câu. - Bình diện phong cách của định ngữ nghệ thuật Khi nghiên cứu ĐNNT trên bình diện phong cách học, chúng ta quan tâm đến ĐNNT trong hoạt động hành chức trong các tác phẩm văn học. Như vậy, thứ nhất, ĐNNT sẽ được đặt trong mối quan hệ với các đơn vị khác có liên quan như DN, câu và ngôn bản (tức các ngữ cảnh hiện hữu bao quanh của ĐNNT). 39 Thứ hai, ĐNNT thể hiện dấu ấn, thói quen của nhà văn trong việc chọn lựa và sử dụng từ ngữ trong câu nhằm đạt được hiệu quả nghệ thuật cao nhất trong sáng tác, thể hiện cả phong cách và đặc trưng thể loại của tác phẩm văn học. Cả hai điều trên cho thấy tính lâm thời và tính cá thể trong cách sử dụng cụ thể, chịu sự chi phối của ngữ cảnh xuất hiện phát ngôn. ĐNNT là một thành phần phụ trong cụm DT, trong câu nên nó chịu sự chi phối của những đơn vị bao chứa nó trong hoạt động giao tiếp cụ thể. Tuy nhiên, dù trong hoàn cảnh giao tiếp nào, ĐNNT xét trong những ngữ cảnh cụ thể, nó đều phát huy hết vai trò miêu tả và tác động của mình để có thể thực hiện chức năng thông tin và chức năng thẩm mỹ trong câu. 1.3. Tiểu kết chương 1 Trong các công trình của Ngôn ngữ học đại cương và Ngữ pháp học, khái niệm định ngữ đã có khá nhiều tác giả bàn tới. Tuy nhiên, các tài liệu ở ngoài nước hay trong nước viết rất ngắn gọn, sơ lược về cương vị, vai trò, đặc điểm của định ngữ trong tổ chức cú pháp của câu hoặc trong mối quan hệ với câu. Hiện có hai loại ý kiến: hoặc là xếp định ngữ vào thành phần thứ yếu của câu hoặc không xem nó là thành phần của câu mà thuộc tổ chức của cụm từ (hay từ tổ, đoản ngữ, ngữ). Trong luận án, chúng tôi theo quan niệm coi định ngữ là thành phần phụ trong cụm danh từ, có chức năng và ý nghĩa phụ thuộc, liên quan trực tiếp đến danh từ trung tâm. Để tìm hiểu định ngữ nghệ thuật, luận án làm rõ các cơ sở lí thuyết có liên quan trực tiệp đến đề tài là: Ngữ pháp học (gồm các khái niệm về câu, thành phần câu, ngữ pháp, ngữ nghĩa của câu, tổ chức của cụm từ); Phong cách học (gồm các biện pháp tu từ, ngôn ngữ nghệ thuật, màu sắc tu từ, tính thẩm mĩ). Định ngữ là một thành phần của cụm danh từ, đến lượt mình, cụm danh từ lại là một bộ phận của câu, đương nhiên có ý nghĩa và vai trò nhất định. Khi định ngữ nằm trong các câu thuộc văn bản nghệ thuật, mang đến màu sắc tu từ và chức năng thẩm mỹ cho câu văn thì chúng được xem là định ngữ nghệ thuật - đối tượng nghiên cứu của đề tài. ĐNNT là loại định ngữ không chỉ có chức năng hạn định và miêu tả cho danh từ như ĐN thông thường mà còn có chức năng thẩm mĩ (mang màu sắc tu từ và tính thẩm mĩ). 40 CHƯƠNG 2 CÁCH THỨC TỔ CHỨC CỦA ĐỊNH NGỮ NGHỆ THUẬT ... trên hai con mắt sáng quắc, cái gò mũi ngay thẳng, chính trực, Hứng đen ngòm cặp kính râm, áo ca-rô nâu vàng, tay lủng lẳng cái túi da in dòng chữ adidas PL 14 khuôn mặt đàn ông trẻ và trần trụi nọ Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc - Nguyễn Trung Thành Tiếng hát êm ả, người tình mong đợi, bãi sông tiễn đưa, mảnh đất cháy bỏng này, tấm thân còm cõi của mẹ ta, một linh cảm mơ hồ, một thân thể cường tráng, một bàn tay nặng trịch, cái thân hình mảnh dẻ của nó, một linh cảm mơ hồ, tiếng hát êm ả của quê hương, túp lều chui đụt, kẻ thù tàn bạo nhất, một sự biến hóa phi thường, cơn đau xé ruột, bài học đắng cay Một cơn sóng ngầm xao động ở tận chỗ sâu kín của tâm hồn, hai viên gạch nặng trĩu căm thù, một hạt muối trắng mặn mà, kẻ thù tàn bạo nhất của loài người, hai cái tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh, những đôi chân nhỏ thoăn thoắt gánh lúa, lòng dũng cảm trầm lặng và vững chãi của đất nước, của chúng tôi, một con ác thú dữ tợn và thâm hiểm, hai chân vững chãi, rập ràng, một hạt muối trắng mặn mà Tiếng hát đậm đà, uyển chuyển của những bản dân ca Việt Nam, tiếng hát trữ tình, điềm đạm, trong sáng, duyên dáng và say sưa như một cuộc hẹn hò, xao xuyến như buổi gặp gỡ ban đầu, cuộc chiến đấu trường kỳ và dữ dội, cuộc chiến đấu lớn lao, quyết liệt và tiêu biểu nhất, chông nhọn hoắt căm thù và trí tuệ chúng ta, Những mưu đồ mà những cái đầu thông minh nhất trong những cái đầu tư bản đần độn của chúng đã nghĩ ra được, hai hàng lông mày đậm đến che tối cả đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt, giọt nước mắt vui lặng lẽ của người vợ ở quê ta gặp chồng sau mười năm trời cách biệt, khóe mắt người yêu mới gặp, những mũi thò cẩn thận, tinh vi như những suy nghĩ cô đọng mười năm của chúng ta Mùa lạc - Nguyễn Khải Những khóm tre xào xạc, cái thú vui ích kỉ, mùi hương ngan ngát, cái màu xanh lặng Những thân cây đứng trơ trụi, mùi ẩm ướt nồng nồng của những cây lạc, hai con mắt hẹp và dài, Cặp mắt màu nâu nhạt ẩn dưới đôi lông mày đen và mịn như nét vẽ, cặp mắt hơi nâu, rất đẹp của anh, Hai cánh tay cuồn cuộn những thớ thịt cháy nắng của Huân, hai bàn tay nhỏ nhắn PL 15 lẽ của lá lạc, một miếng vàng sẫm của mấy miếng cỏ gianh, cái thân người sồ sề của chị, hai mắt nhỏ tí, mái tóc xanh mỡ của Huân, một cảnh gia đình hạnh phúc, một cảm giác êm đềm, những sườn đồi chon von người đàn bà ít duyên dáng ấy, đôi mắt dài lóng lánh của Đào, cô gái mảnh khảnh, rụt rè, cách sống rút rát, lo âu và cô độc, những chấm hoa đỏ thắm như nhung, những bông hoa rền tía đỏ thắm hình tháp bút, hai bàn tay to và đen một màu xanh mờ mờ, cao tít, những ngọn đèn nhỏ dờn dợt vàng, những thớ thịt tròn trĩnh, nhẵn nhụi, đỏ rực đầy tia máu nhưng các ngón đã vàng sẹm, hai con mắt có những sợi lông mi thưa, Thời xa vắng - Lê Lựu Cái lớp da mịn màng của mình, những cái nhìn đăm đăm của người con trai, đôi môi đỏ mọng, số phận hẩm hiu, một thứ trò đùa dai dẳng, cái gáy nõn nà của cô, cái khoảng tự do cuối cùng của tình cảm, cái thân thể nõn nà của cô, cái quyết định tai quái, một tảng đá khổng lồ, một quyết định dũng cảm, một thứ trò đùa dai Cái cơ thể dồi dào sức lực của mình, mái tóc cứng quèo chưa khô, chiếc áo con căng cứng ninh ních, đôi cánh tay trần mát lạnh, khuôn ngực đầy ngồn ngộn ánh trăng, tiếng gọi tha thiết yêu thương, cánh đồng lởm chởm mấp mô, cái tính chân thật, rụt rè của Sài, những hơi thở buồn bã và lo lắng, tất cả mệnh lệnh gắt gỏng và ngọt ngào của các Thứ ánh sáng rập rờn, lấp lánh như bạc, đôi mắt to, đẹp và thông minh, một người có chí, ham học và chịu đựng nhẫn nhục mà học, cái hạnh phúc vất vả, cực nhọc đã đến với con bà, cái vẻ thẳng thắn cương nghị mà rất dịu dàng của cô, những lời lẽ cay độc sỉ vả nặng nề của Hương Một ông đầu chít khăn nâu vá, khoác bao tải, cái buốt lạnh mênh mang của cánh đồng táp vào da thịt mỗi người PL 16 dẳng, cô bé tinh ma này, anh bộ đội lém lỉnh kia cô Truyện Tây Bắc - Tô Hoài Những người đàn bà khốn khổ, một dòng nước mắt lấp lánh, một người to lớn, những làng Mông đỏ hẻo lánh vùng Phiềng Sa, con bướm sặc sỡ, hai người khổ sở, các lỗ cửa sổ tun hút Hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù, một làn ánh sáng đục lờ như thể cà phê sữa, cặp môi mọng ngọt như trái chín, tiếng gọi man rợ, hoang dã ấy của tuổi thanh xuân, cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng, những khuôn mặt hốc hác u tối, hai hõm má đã xám đen lại Cái khăn xéo trắng loang lỗ đầy máu Những triền núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng ruộng, đất đỏ, suối trắng tinh. Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường - Hoàng Phủ Ngọc Tường Vùng châu thổ êm đềm, cuộc hành trình gian truân, một người con gái dịu dàng của đất nước, tấm voan huyền ảo của tự nhiên, những đáy vực bí ẩn, một bản lĩnh gan dạ, tâm hồn sâu thẳm của nó, người tình Hai dãy đồi sừng sững như thành quách, dòng sông mềm như tấm lụa, một linh hồn mô tê xưa cũ, cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả từ ấy, một tâm hồn tự do và trong sáng, một cô gái Di- gan phóng phoáng và man dại, một chút Những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng Người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ, cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”, PL 17 mong đợi, những rừng thông u tịch, vẻ đẹp trầm mặc nhất, những vành trăng non, những biền bãi xanh biếc, vầng lá u sầm, những xóm thuyền xúm xít, đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy, những hành khách tí hon của nó, điệu chảy lặng lờ của nó, lẳng lơ kín đáo của tình yêu, một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc Truyện và ký - Nguyễn Thi Những bờ kinh xanh biếc này, những hình ảnh thân yêu, tiếng pháo lễnh lảng của giặc, những đám lửa dữ dội, những mũi lê nhọn hoắt trong đêm, mấy ngón tay cứng còng, một lời thề dữ dội, cây xoài mồ côi, một tấm mền bông xám ngoét, cả khoảng trời nặng nề ấy, những trái dừa xanh biếc đó, Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo, cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, hai cái chót mũi hơi hớt lên của chị em Việt, trong đêm vui náo nức này, những chiều hè dai dẳng nặng nề, Hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, cả thân người to và chắc nịch của mình, cái giọng rành rọt tiếng nào ra tiếng nấy, một vết sẹo dài nằm ngang thái dương, nụ cười hiền hậu đầy tình thương, Những căn hầm chúng lùa hơi độc, những vòm cây chúng làm trụi lá, một anh bộ đội mặt mũi hiền khô, một sức sống tha thiết, mãnh liệt dâng lên trên bờ sông lạnh lẽo, PL 18 những người đàn bà thùy mị nhất, một người đàn bà tần tảo Gió đầu mùa - Thạch Lam Quầng sáng thân mật, tâm hồn thơ ngây của chị, một mùi âm ẩm, một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, ngọn lửa xanh biếc, ngọn gió xa xôi, giấc ngủ yên tĩnh, cái sự thực chua chát của cuộc đời, những ngày sung sướng, những câu chuyện kín đáo, tiếng hát lanh lảnh của bác gái, những thứ đồ tồi tàn ấy, những cơn gió lạnh lùng, những cặp mắt bẩn thỉu, một bát nước đỏ thắm Một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, một vùng sáng rực và lấp lánh, một buổi chán nản, yếu hèn, cái dĩ vảng xa xôi thăm thẳm, căn nhà ẩm ướt và tối tăm, nét mặt gian ác và tinh nghịch của cậu Phúc, căn nhà lạnh lẽo âm u, một cảm giác lo sợ đè nèn lấy tâm can họ, căn phòng tối tăm, ẩm thấp này, cái tiếng cười ghê gớm như tiếng cười của một người điên, một cảm giác lạnh lùng như thắt lấy ruột gan, những cái tã rách như xơ mướp Cái hành vi khốn nạn và nhỏ nhen đáng khinh bỉ của tôi, một dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo như trên bờ một cái đầm, mấy đứa trẻ nhà quê trần truồng và đen xạm, một cô gái quê ăn mặc giản dị nhưng sạch sẽ, cái miệng xinh xắn, có duyên chúm chím như tinh nghịch Gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, mấy miếng thịt ướp hồng hào, mỡ trắng và trong như thủy tinh, những người gày gò, rách rưới như những người sống trong cơn mê, một bức thư mà chữ viết non nớt nguệch ngoạc, lời lẽ quê kệch, những mái tóc đen nhánh che lấp vành tai hồng hồng và xinh xắn Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Những cặp mắt ngây thơ của những đứa trẻ, năm ngón tay Đôi lòng đen như hai hạt nhãn, mười ngón tay trắng nhợt, Đôi mắt to, sáng, hết sức ngây thơ của đứa em trai vừa chết bom ở Một tên lính ngụy mặt rỗ, một con búp bê tóc vàng hoe, PL 19 Châu cáu đen, cái thân hình dài ngoằng, cái khuôn mặt dài thượt, cái mùi khét ghê tởm, hai hố mắt trũng sâu, một miền heo hút, một con người lẩn thẩn, đôi chân vững chãi, những sợi nước mưa óng ánh, những cánh hoa mai trắng rợn, cái nhìn lấm lét, một thứ ánh sáng xanh lét, một dãy hàng rào bùng nhùng, một vệt cây xanh um, những hạt thóc vàng mẩy, khuôn mặt trầm tĩnh của vợ khoảng trời xám mù mịt, một đám lửa cháy lem lém trên một cái thân cây đỗ, một cái hố bom sâu hoắm, lút đầu, những hố đỏ loét, những ngày đen tối và đau khổ nhất, một luồng hơi thở ghê tởm như hơi thở của một con thú dữ, một thành phố Thủ đô cháy ngùn ngụt sau lưng, hai bờ cát thẳng và trắng xóa, một con đường mòn sâu hun hút, mười đầu ngón tay sần sùi và cáu đen, vầng trán trắng xanh như men sứ, ngọn đồi đỏ quạch như máu nhà, những chiếc nụ xòe hình tròn xinh xắn như những chiếc con quay đẽo bằng gỗ, đôi mắt đầy lòng đen, to và sáng, một nỗi lo mơ hồ và gần như bất lực, một mối tình yêu thương im lìm và sâu xa của người cha, đôi mắt hết sức lạnh lẽo và nghiêm khắc của Nhẫn, những đống cơm nắm cao lù lù và trắng phau, một cái đầu xám ngoét, sần sùi như củ nâu, hai con mắt vàng vàng đỏ đỏ long lanh như mắt hổ, một giọt nước mắt hiếm hoi đặc quánh như chất dầu hai con mắt tròn xanh biếc, nỗi mong mỏi và lo âu vẩn vơ của một người cha suốt cả đời sống biền biệt, một thanh củi ruột trắng nõn như lụa, hàng râu xanh lờ mờ trên khuôn mặt xương xương, những con sóc nâu mõm nhọn hoắt, cặp lông mày bạc như lông mày một người mắc bệnh hủi, một cậu trinh sát đầu húi trọc PL 20 Bảng 2.d. Bảng thống kê các cách thức cấu tạo ngữ nghĩa của ĐNNT Liệt kê Ẩn dụ So sánh Điệp cú pháp Một mùi hương dìu dịu, man mát lại chua chua, mấy quả cà nghệ thanh thanh, mằn mặn, cái hình hài yêu dấu, mong manh, mềm mại như cánh hồng ấy, những ngón tay dài ngoằng lạnh toát, những giấc mơ đậm đặc cảm giác, nóng bỏng và ngọt lịm như mật, cô gái mắt nâu long lanh bất tử, kiều mị và điên rồ của anh, những con người xảo trá, tham tàn, độc ác, tiếng hát trữ tình, điềm đạm, trong sáng, duyên dáng và say sưa như một cuộc hẹn hò, xao xuyến như buổi gặp gỡ ban đầu, cái hạt cơm trong muốt, trắng tinh, ong óng như con ong, một giọng hát dân ca ngân nga bát ngát như cánh cò trên đồng lúa miền Nam chạy tới chân trời, tiếng hát Một phiến trăng sầu, một gốc đèn rầu rĩ, một cái giường mệt nhọc, những giấc mộng thiên thần, những cái giếng sâu nước ặc lên như vừa rót dầu sôi vào, tất cả bấy nhiêu cái luồng giận dữ của một con thác, mùi da thịt phụ nữ chín rũ, bài học đắng cay, mười năm xương máu, những bản nhạc ma, tiếng cười ma quỷ, một tình thương trầm mặc, buồn bã và không lời, một ánh đèn mệt nhọc, một buổi chiều mưa gió đìu hiu, những ấn tượng rầu rĩ, cái rét ngọt ngào, mặt trăng buồn hiu hiu, cái rét muộn màng đó, sự im lặng thần tiên đó, bao nhiêu cuộc phù trầm cay đắng của những ngày xa thật là xa, một ngọn đèn hồng ấm áp, cái rét êm Những đêm xanh như tóc những cô gái tuyết trinh, những đêm trăng êm mượt như nhung, bầu trời thâm xám, thấp và tối như vòm hang, cái xác lở loét, ốm o như xác nhái, ánh lửa dập dờn như lửa ma trơi, nỗi đơn độc bí ẩn, sắc như dao, đầy hiểm nghèo của anh, một làn ánh sáng đục lờ như thể cà phê sữa, lớp bùn đặc ghê tanh như mùi thịt thối, kỉ niệm bi thảm, thương tâm và hiểm nghèo nhất trong kí ức chiến tranh của Kiên, một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng mun, một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, hai dãy đồi sừng sững như thành quách, những ngõ hẻm câm lặng như hang sâu, dòng sông mềm như tấm Những căn nhà nhỏ bé xanh um cây cối, trắng xóa tường vôi, thời thơ ấu vô cùng hạnh phúc và vô cùng buồn đau, một thứ ánh sáng trắng như sữa, nhẹ như bông, những ao rau cần xanh ngăn ngắt, tươi hơn hớn, một bầu không khí vừa vừa lạnh, hiu hiu gió, biêng biếc sầu, một thành phố khét lẹt hơi người, chói chang nắng lửa, những lá non bé tí tẹo, xanh mươn mướt, những cuộc ân ái đẹp như trăng thu, trắng như tuyết núi, những cô sơn nữ đẹp não nùng, sầu biêng biếc, một sa mạc lạnh tê, trắng xóa, vừa nên thơ, vừa ghê rợn, cái cảnh trập trùng non non, nước nước, mây mây đó, những u hồn lang thang khe suối gốc cây, vất vưởng nơi cầu PL 21 đậm đà, uyển chuyển của những bản dân ca Việt Nam, cuộc chiến đấu lớn lao, quyết liệt và tiêu biểu nhất, cái chiến dịch tố cộng âm u và rùng rợn ấy, một màn mờ mỏng, dịu như sương, những linh hồn lở loét không manh áo che mình, bầu không khí ẩm rượt, nồng ngạt mùi mồ hôi và khét lẹt khói xông muỗi, một cỗ bài sờn nát, quăn queo, lem nhem dấu tay của những người đã chết, một thời tai họa, thảm khốc và đẫm máu êm, ngòn ngọt, những con mắt ngọt ngào, bộ ngực ngát thơm, một tiếng tì bà oán hận, quầng sáng thân mật, ngọn gió xa xôi, cái lão cáo già này, cái óc nặng nề ấy, cái đồng tiền tụ máu, cái mặt xanh lè thất vọng, cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, một con sông Đà hung tợn độc ác khét tiếng, làn nước ghen oán, bộ mặt khô héo, những câu mát mẻ, một câu hát sầu lạnh, một màu mưa trĩu lòng, những ngày mưa sầu thảm lụa, những cái môi nứt nẻ như bờ ruộng vào kì đại hạn, cái mặt rạch ngang rạch dọc như cái mặt thớt, một giàn lửa đỏ chói lòa như mẻ thép, một luồng hơi thở ghê tởm như hơi thở của một con thú dữ, hai con mắt vàng vàng đỏ đỏ long lanh như mắt hổ, một giọt nước mắt hiếm hoi đặc quánh như chất dầu, vầng trán trắng xanh như men sứ, ngọn đồi đỏ quạch như máu sương điếm cỏ, mây ngàn trắng màu bạc cũ, gió núi biêng biếc màu bằng lăng PL 22 Phụ lục chương 3 Bảng 3.a. Danh sách các câu văn có ĐNNT được sử dụng trong luận án TT Câu có ĐNNT Tác giả Tác phẩm Số trang 1. Anh cứ áp mặt mình với với mặt nước mát lạnh chốc chốc lại xô lên đầu như đùa rỡn với anh, con người đang giang hai hay, áp mình vào phiến đá và áp khuôn mặt cháy bỏng vì cơn khát vào với dòng nước suối hào phóng và vô tình đã đem đến cho anh niềm sung sướng mãn nguyện mà cả cuộc đời từ bé đến bây giờ chưa có một lần nào có được cái hạnh phúc lớn lao ấy để rồi vĩnh viễn chấm dứt mọi gian khổ và hi vọng Lê Lựu Thời xa vắng 215 2. Những bờ vai sát lại những bờ vai; những con mắt nhõng nhẽo tìm những con mắt ngọt ngào; mớ tóc ai đen rung rức như đêm tăm sao khéo buông lơi xuống môi má người thương y như thể tơ hồng quấn quýt lấy cành mộc liên xanh nõn. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 273 3. Cô giáo không quản ngại đường xa đến những bản làng xa xôi hẻo lánh để vận động học sinh đến trường vào năm học mới. Ma Văn Kháng Côi cút giữa cảnh đời 104 4. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà đá dàn trận địa sẵn. Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân tuyển tập 280 5. Và khi những tháng hè đã hết, nó đã đến chỗ Hàn xuvơnia cho Tơ một cái mùi xoa thơm lừng bằng lụa nõn, viền tím và thêu cành hoa con bướm với hai chữ HT gài với nhau. Nam Cao Truyện ngắn trước 1945 260 6. Nguyễn nửa muốn ngồi vào trong xe, nửa muốn đứng mãi ở bệ xe để được ngắm đầy Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân tuyển 11 PL 23 đủ một cái đẹp tơi tả, đĩ thỏa pha trộn vào cái lồng lộn của một bộ máy lớn muốn ngốn lấy ngốn để cả một dải đường đỏ nhiều đoạn thắm như cua gạch. tập 7. Trăng dãi trên đường thơm thơm, trăng cài lên tóc ngoan ngoan của những khóm tre xào xạc, trăng thơm môi mời đón của dòng sông chảy êm đềm, trăng ôm lấy những bộ ngực xanh của những trái đồi ban đêm ngào ngạt mùi sim chín trăng ơi sao trăng khéo đa tình, cứ đi hoài theo chân cô gái tuyết trinh và lẻn cả vào phòng the của người cô phụ lay động lá màn chích ảnh? Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 179 8. Vậy mà bây giờ ngoài một cỗ bài sờn nát, quăn queo, lem nhem dấu tay của những người đã chết, Kiên chẳng còn có thêm một kỉ vật nào nữa về trung đội mình. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh 15 9. Đã sang tuổi mười bảy, cái tuổi dậy thì của người con gái mỗi ngày như trông thấy cái cơ thể dồi dào sức lực của mình cứ phổng lên, cái lớp da mịn màng của mình cứ mát mẻ và êm ái căng đầy lên, đã thấy khao khát đến cháy khô đôi môi đỏ mọng trước những cái nhìn đăm đăm của người con trai, đã thấy phập phồng mỗi đêm nghe thấy tiếng chân chồng chạy về nhà. Lê Lựu Thời xa vắng 48 10. Mười năm nay bao nhiêu triệu cặp mắt mong chờ lo âu chăm chú nhìn về phía chúng ta từ khắp nơi trên trái đất, chăm chú theo dõi ta, từ cái thủa ta còn len lõi trong rừng đêm bốn bề giặc bủa: Những đôi mắt nặng trĩu chịu đựng và lo chờ, xám bạc như lớp tro phủ hòn than vùi trên khuôn mặt đen bóng của Châu Phi; Những đôi mắt sôi nổi từ phía Châu Mỹ Latin; Những đôi mắt trầm ngâm của Châu Á, long lanh của Châu Âu; Những đôi mắt Nguyễn Trung Thành Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc 78 PL 24 xao động sóng gió từ vô số hòn đảo trên Châu Đại Dương rộng lớn. 11. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da chày bùng bùng. Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân tuyển tập 276 12. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân tuyển tập 275 13. Những cái phá sặc sở, những cái khăn, những đôi hài sảo thêu xanh viền đỏ với bao nhiêu hoa tai bạc, vòng cổ vàng, vòng tay đen, vòng chân tím giao hoan với mây ngàn trắng màu bạc cũ, gió núi biêng biếc màu bằng lăng làm cho phiên chợ cưới và bao nhiêu cảnh vật ở chung quanh có một vẻ huyền ảo lung linh như một buổi quần tiên đại hội trong một thửa vườn thần thánh trên Thiên đình. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 290 14. Người đàn bà đức hạnh thấy cháu bà sao mà đĩ thế! Nam Cao Truyện ngắn trước 1945 50 15. Đêm xanh biêng biếc, tuy chưa có mưa rây, nhưng nhìn lên thấy rõ từng cánh sếu bay. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 21 16. Nào đâu những buổi hoàng hôn lành lạnh quấn quýt tơ hồng; nào đâu những đêm trăng êm mướt như tơ, mái tóc ai xõa trên gối đầy những bông sao rụng; nào đâu những tiếng tơ, tiếng nhạc của trời tình bát ngát hoa hương, mến thương nhịp thở ái ân thường vẫn thấy viết ở trên những báo Xuân, sách Tết? Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 186 17. Vì thế những cảm nghĩ ấy ngày một ngày hai nó lần cả vào trong tiềm thức để rồi có những đêm xanh như tóc những cô gái Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 128 PL 25 tuyết trinh, người xa nhà mộng thấy mình phiêu phiêu đi về những đường cũ lối xưa trò chuyện với những người thương yêu đã mấy thế kỷ nay vắng mặt. 18. Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn đang lay động trên chõng hàng của chị Tí. Thạch Lam Gió đầu mùa 47 19. Tự nhiên mình có cảm giác trăng ở trong lòng mình cũng lung linh một thứ ánh sáng xanh màu huyền diệu, thắm hoa hương, làm cho cả tâm óc chơi vơi, rung động. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 205 20. Một người tách ra, bước vào trong vòng sáng dập dờn màu đỏ nhạt của ngọn lửa. Nguyễn Minh Châu Dấu chân người lính 196 21. Thế nhưng lạ lùng thay, từ trong máu lửa cháy đỏ cả lịch sử, chúng ta lên tiếng nói, và tiếng nói ấy lại là tiếng hát trữ tình, điềm đạm, trong sáng, duyên dáng và say sưa như một cuộc hẹn hò, xao xuyến như buổi gặp gỡ ban đầu. Nguyễn Trung Thành Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc 75 22. Con sông Đà tuôn dài như một áng trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân tuyển tập 287 23. Bây giờ ngồi nghĩ lại những hình ảnh xưa ấy, tôi vẫn còn thấy đời ngọt ngào như có vị đường và tưởng như không bao giờ có thể quên được hương thơm quyến rũ của trời nước, của hoa đào, của da thịt những cô sơn nữ đẹp não nùng, sầu biêng biếc, ngửa mặt lên cười một cách hồn nhiên trong cánh rừng bạt ngàn san dã hoa đào. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 44 PL 26 24. Thị chống hai tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và tớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô. Nam Cao Truyện ngắn trước 1945 50 25. Bà tôi vừa mở hai vạt áo che ngực, rồi để mặc cho hai hàng nước mắt tràn qua hai má gầy, bà tôi gào lên khản re, và bước lên với vùng ngực già xám ngắt, nhăn nheo, khốn khổ. Ma Văn Kháng Côi cút giữa cảnh đời 176 26. Một giọng hát dân ca ngân nga bát ngát như cánh cò trên đồng lúa miền Nam chạy tới chân trời, có lúc rụt rè, e thẹn như khóe mắt người yêu mới gặp, có lúc tinh nghịch, duyên dáng như những đôi chân nhỏ thoăn thoắt gánh lúa chạy trên những con đường làng trộn lẫn bóng tre và bóng nắng. Nguyễn Trung Thành Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc 62 27. Và trống ngực nện thùm thùm, tôi nhìn chằm chằm vào các góc tối cầu thang nơi các hồn ma rách nát thường vẫn hiện hình, ôm theo những vết thương đỏ lòm, toác hoác. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh 59 28. Thì ra không cần nhiều: chỉ một câu nói rất tầm thường vào một buổi chiều mưa gió đìu hiu cũng gợi lên được những ấn tượng rầu rĩ trong một tấm lòng có mối xông. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 10 29. Bởi vì miệng Phương anh thấy đang bị một bàn tay to xù bịt chặt. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh 238 30. Lườn đi êm như trườn xuống một cái dốc ngọn thác mà lòng thác đều lót một lớp đầy rêu tơ nõn. Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân tuyển tập 179 31. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược cotre-plongée lóe lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân tuyển tập 275 PL 27 vào máy, cả người quay phim, cả người đang xem. 32. Đêm ấy, trên căn gác nhỏ leo lét một ánh đèn mệt nhọc, có một người nhớ da diết giao thừa Bắc Việt ngồi giở những trang sách cũ, xem lại những tranh con gà, con lợn. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 308 33. Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 18 34. Ngồi nhìn ra chung quanh, anh cảm thấy đắm chìm trong một sa mạc lạnh tê, trắng xóa, vừa nên thơ, vừa ghê rợn, vì thỉnh thoảng lại nghe thấy một con chim kêu quái gỡ hay tiếng của một đoàn sơn cầu nhìn lên mặt trăng buồn hiu hiu mà tru lên. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 47 35. Tháng Ba mà không có những ao rau cần xanh ngăn ngắt, tươi hơn hớn không phải là tháng Ba Bắc Việt. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 69 36. Chắc anh ta cho rằng có thêm một đứa bé, một hài nhi tham gia vào thì câu chuyện tối tăm điên dở mịt mờ không lối thoát này sẽ đỡ thương tâm, sẽ có hương vị hi vọng và sẽ thành ra một câu chuyện có hậu. Lê Lựu Thời xa vắng 281 37. Thực ra cảnh tượng và tình cảnh chung của đội điều trị thế nào Kiên chẳng hay biết, bởi vì suốt gần hai tháng trời trước khi được đưa lên chữa chạy ở Viện 211 anh bị nằm chôn trong một cái hầm mái bằng tối mờ mờ, ướt át, rỉ rỉ nước. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh 177 38. nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn yên trí rằng nếu ngày rằm tháng Bảy mà không lễ các cô hồn thì là một cái tội không thể tha Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 159 PL 28 thứ được đối với những người đã khuất, nhất là những u hồn lang thang khe suối gốc cây, vất vưởng nơi cầu sương điếm cỏ. 39. Mỗi lần đạp xe qua phố Huế, tai vẫn lắng nghe tiếng còi tàu báo động mà lòng thì bổi hổi bồi hồi một nỗi niềm Kim Luông Nam Phổ nước đổ về Sình, đôi lứa mình dẫu có làm răng chăng nữa cũng không đành quên nhau. Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân tuyển tập 257 40. Có gì đây đang trào dậy trong lòng tôi, như một linh cảm mơ hồ, như một hơi men cay, một cơn sóng ngầm xao động ở tận chỗ sâu kín của tâm hồn. Nguyễn Trung Thành Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc 76 41. Cho đến ngôi sao xa ngoài khung cửa cũng đứng im, lóng lánh như giọt nước mắt vui lặng lẽ của người vợ ở quê ta gặp chồng sau mười năm trời cách biệt. Nguyễn Trung Thành Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc 59 42. Món hàng yêu nước giả hiệu và giọng hùng hồn khô rúm của bọn tướng tá Mỹ cũng sẽ theo những giọt mồ hôi trên khuôn mặt nhạt nhẽo, phờ phạc của bọn binh sĩ Mỹ lăn xuống bãi cát của bờ biển, bốc thành hơi, tan đi trong gió. Lưu Quý Kỳ Sông núi còn đây 314 43. Mối cuồng si bí ẩn, đầy tội lỗi và có một không hai bắt đầu ra sao, nhen lên từ ai, đã ôm cuốn lấy những ai vào vòng tay của nó, Kiên hầu như không biết. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh 34 44. Bốn bề mìn mịt chỉ một màu mưa trĩu lòng, một màu núi màu rừng ảm đạm và đói khổ. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh 21 45. Bất đồ Can òa khóc, gục mặt xuống đầu gối, bả vai và mảng lưng trần gầy guộc, ướt loáng bần bật run. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh 29 PL 29 46. Một anh phụ trách quân lực mặc quần đùi áo lót, khuôn mặt còn trẻ mà đã hói lên tận đỉnh đầu, anh ta ngồi dạng chân trước chiếc ba lô cóc to kềnh càng để quấy sữa bột, chợt trông thấy cái dáng nhỏ bé và nhanh như sóc của Khuê vác súng tiểu liên đi vụt qua liền cất tiếng gọi ầm ĩ cả rừng. Nguyễn Minh Châu Dấu chân người lính 38 47. Một giọng hát dân ca ngân nga bát ngát như cánh cò trên đồng lúa miền Nam chạy tới chân trời, có lúc rụt rè, e thẹn như khóe mắt người yêu mới gặp, có lúc tinh nghịch, duyên dáng như những đôi chân nhỏ thoăn thoắt gánh lúa chạy trên những con đường làng trộn lẫn bóng tre và bóng nắng. Nguyễn Trung Thành Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc 75 48. Máu thắm đượm rãnh cày ta gieo hạt giống, máu thấm đượm mảnh sân con ta nô đùa ngày bé, máu thắm đượm con đường nơi đó mẹ ta lau nước mắt ngày tiễn ta ra đi, máu thắm đượm bờ ao em ta ngồi giặt áo trên chiếc cầu nhỏ gập ghềnh. Nguyễn Trung Thành Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc 76 49. Tôi van cô bạn đừng có lấy đôi đũa xinh xinh đó để lùa một mạch vào trong miệng tươi hơn hớn, mà tôi xin cô khẽ cầm đũa xới từng hạt rượu nếp lên, để lên đũa rồi thong thả nhấm nhót từng miếng nho nhỏ, be bé và cô sẽ thấy cái rượu ấy nó ngọt biết chừng nào, cái nếp ấy nó ngậy, nó thơm, nó bùi, nó bổ biết chừng nào. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 116 50. Đấy là cái màu xanh dịu mát của chất ngọc bích; đấy là cái màu xanh ở những cánh đồng lúa non ngút ngàn của xứ sở không bao giờ có nạn binh lửa. Vũ Bằng Thương nhớ mười hai 174 51. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân tuyển 283 PL 30 lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội vì mỗi độ thu về. tập 52. Biết bao kỉ niệm bi thảm, bao nhiêu là nỗi đau mà từ lâu lòng đã nhủ lòng là phải gắng cho qua đi, rốt cuộc đều dễ dàng bị lay thức bởi những mối liên tưởng tuồng như không đâu nảy sinh một cách khôn lường từ muôn vàn những chi tiết tầm thường, rời rác và vô vị nhất có thể có trong chuỗi bất tận ngày qua ngày nhạt thếch, buồn tẻ và êm đềm đến phát ốm. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh 57 53. Còn Kiên, theo như cách anh tự biểu tượng, vẫn đang hằng đêm hóa thân thành ngọn nến leo lét cháy lên trong bầu không khí tù đọng, trong cảm giác ngột ngạt và trong những buồn đau say khướt không tài nào ai hiểu nổi của anh. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh 114

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_dinh_ngu_nghe_thuat_trong_tieng_viet_qua_mot_so_tac.pdf
  • pdf2a. Tom tat Luan an _Tieng Viet_My Hanh.pdf
  • pdf2b. Tom tat Luan an _Tieng Anh_My Hanh _Translated.pdf
  • pdf3a. Trich yeu luan an _Tieng Viet_My Hanh.pdf
  • pdf3b. Trich yeu luan an (Tieng Anh)_My Hanh_Translated.pdf
  • pdf4a. Thong tin diem moi Luan an _Tieng Viet_My Hanh.pdf
  • pdf4b. Thong tin diem moi Luan an (Tieng Anh)_My Hanh_Translated.pdf
Tài liệu liên quan