Luận án Nhân vật Dương Vân Nga - Lịch sử và truyền thuyết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI HOÀNG THỊ HỒNG THẮM NHÂN VẬT DƯƠNG VÂN NGA - LỊCH SỬ VÀ TRUYỀN THUYẾT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2020 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI HOÀNG THỊ HỒNG THẮM NHÂN VẬT DƯƠNG VÂN NGA - LỊCH SỬ VÀ TRUYỀN THUYẾT Chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 9 22 01 25 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Hà HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan mọi kết quả nghiên c

doc186 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 316 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nhân vật Dương Vân Nga - Lịch sử và truyền thuyết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứu của đề tài Nhân vật Dương Vân Nga - lịch sử và truyền thuyết là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Nguyễn Thị Bích Hà. Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa được công bố dưới bất kì hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình. Hà Nội, ngày 9 tháng 2 năm 2020 Tác giả Hoàng Thị Hồng Thắm LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Bích Hà, người đã tận tình hướng dẫn, giúp tôi hoàn thành luận án này. Tôi xin trân trọng cảm ơn phòng Sau Đại học, khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam I, trường Đại học Sư phạm Hà Nội và các nhà khoa học trong các Hội đồng đánh giá luận án đã tạo điều kiện, đồng thời có những nhận xét, góp ý quý báu để luận án được hoàn thiện. Ngoài ra, trong quá trình điền dã, thực tế, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, tổ chức văn hoá và nhân dân các địa phương: Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Thanh Hóa và Nghệ An. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 9 tháng 2 năm 2020 Tác giả Hoàng Thị Hồng Thắm MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Thông tin về năm hoàng hậu của vua Đinh Tiên Hoàng 50 Bảng 2.2: Tư liệu sưu tầm truyền thuyết Dương Vân Nga 66 Bảng 2.3: Truyền thuyết về Dương Vân Nga đã xuất bản 68 Bảng 2.4: Không gian lưu truyền nhóm truyền thuyết về Dương Vân Nga 71 Bảng 3.1: Bảng khảo sát các motif trong truyền thuyết Dương Vân Nga 73 Bảng 3.2: Tâm thức dân gian và tư tưởng Nho gia trong nghi thức phụng thờ Dương Vân Nga 100 Bảng 3.3: Sự tương đồng giữa sử sách và truyền thuyết về nhân vật Dương Vân Nga 104 Bảng 3.4: Sự khác biệt giữa sử sách và truyền thuyết về nhân vật Dương Vân Nga 106 Bảng 4.1: Các di tích thờ tự Dương Vân Nga còn lưu tồn đến ngày nay 113 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, thế kỉ X là một mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của dân tộc: chuyển từ đêm trường nghìn năm Bắc thuộc sang thời kì độc lập tự chủ. Trong thế kỉ này đã xuất hiện những anh hùng hào kiệt làm nên lịch sử như Khúc Thừa Dụ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn Có một nhân vật cũng tham gia và giữ vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử giai đoạn này, là người chuyển giao quyền lực từ vương triều Đinh sang Tiền Lê nhưng không được vinh danh như các nhân vật trên vì những tồn nghi và dư luận trái chiều. Đó là Thái hậu họ Dương mà người đời sau quen gọi là Dương Vân Nga. Với đóng góp nổi bật trong tiến trình phát triển chung của lịch sử, bà xứng đáng được hậu thế ghi nhớ công trạng và tôn vinh. 1.2. Dương Thái hậu vốn là hoàng hậu của vua Đinh Tiên Hoàng nhưng sau khi nhà vua bị sát hại, triều đình rối loạn, bà đã trao ngai vàng của con trai mình cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn và sau trở thành hoàng hậu của vị tướng tiền triều này. Với hành động này, người chỉ trích bà là dâm phụ, vì tư tình mà đặt dấu chấm hết cho một dòng họ đế vương; người lại ngợi ca bà có con mắt sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, hi sinh lợi ích cá nhân vì sự sống còn của cả dân tộc. Trong khi các cuốn sử phong kiến ra sức phê phán thì truyền thuyết dân gian chủ yếu lại ca ngợi, ghi nhận công trạng của bà đối với nhân dân và đất nước. Hệ thống đền thờ và phối thờ bà chính là chứng tích sinh động cho lòng biết ơn của dân chúng đối với bà. Sự trái chiều trong đánh giá, quan điểm khác nhau trong việc ghi công luận tội của hậu thế đã tạo nên nét thú vị và hấp dẫn về vị hoàng hậu “một vai gánh vác cả đôi sơn hà”. Sự lí thú ấy đã trở thành động lực để chúng tôi tiếp cận nhân vật này từ truyền thuyết, nhằm khám phá cách cảm, cách nghĩ của dân gian trong đối sánh với sử sách về bà. 1.3. Trong truyền thuyết người Việt, nhóm truyện về các nhân vật lịch sử, đặc biệt là anh hùng dân tộc chiếm một khối lượng lớn và có vị trí quan trọng. Các nhân vật này khi được lựa chọn đưa vào các cấp học đều là những anh hùng dân tộc với âm hưởng chung là ngợi ca, tôn vinh. Những nhân vật gây tranh cãi như Dương Vân Nga, Trần Thủ Độ chỉ được nhắc đến với những đánh giá dè dặt, khiêm tốn bởi xung quanh cuộc đời và hành trạng của họ đến nay vẫn còn những khoảng trống tồn nghi và dư luận nhiều chiều. Vấn đề phân định công hay tội dành cho họ có thể chưa được thống nhất nhưng có một thực tế là họ đã tham gia và trở thành cầu nối chuyển giao lịch sử. Đó là điều không thể phủ nhận và cũng không nên né tránh. Việc tiếp cận nhóm nhân vật này nói chung và trường hợp Thái hậu họ Dương nói riêng ở phương diện truyền thuyết là cần thiết đối với công tác giảng dạy và nghiên cứu văn học dân gian hiện nay. Đó cũng là một trong những lí do thúc đẩy chúng tôi lựa chọn đề tài Nhân vật Dương Vân Nga - lịch sử và truyền thuyết làm đối tượng nghiên cứu của mình. Hi vọng từ địa hạt của truyền thuyết, đề tài sẽ góp thêm cách nhìn mới mẻ về một trong những hiện tượng đặc biệt của lịch sử Việt Nam. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt giữa lịch sử và truyền thuyết về Dương Vân Nga, từ đó có thể thấy quan điểm, thái độ tác giả dân gian đối với nhân vật này, đồng thời mong muốn tìm hiểu sâu và trọn vẹn hơn về thể loại truyền thuyết, hỗ trợ cho việc nghiên cứu - giảng dạy truyền thuyết của chúng tôi ở bậc Đại học. Dương hậu/ Dương Thái hậu là một trong những nhân vật đặc biệt của lịch sử Việt Nam, cho đến nay bà vẫn có một vị trí nhất định trong tâm thức và đời sống văn hóa, chính trị người Việt. Từ góc độ truyền thuyết, chúng tôi đặt nhân vật này trong một phạm vi rộng hơn là văn hóa và xã hội đương đại (cụ thể là văn hóa tâm linh, văn hóa chính trị, văn học nghệ thuật đương đại và những nghi án hiện tồn) nhằm hướng đến những đánh giá đầy đủ, khách quan hơn về Dương Vân Nga cũng như thấy được những thể hiện mới mẻ và sức sống mạnh mẽ của nhân vật lịch sử đặc biệt này trong dòng chảy của thời gian. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Trong luận án này, chúng tôi xác định các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Hệ thống hóa tư liệu lịch sử và truyền thuyết về Dương Vân Nga - Tìm hiểu thêm hoặc xác định lại nguồn tư liệu sẵn có về nhân vật Dương Vân Nga qua việc điền dã ở các địa phương - Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu nhân vật Dương Vân Nga dưới hai góc độ lịch sử - truyền thuyết và theo trục thời gian từ quá khứ đến đương đại - Xác định những vấn đề lí luận liên quan đến truyền thuyết nhằm làm chỗ dựa để nghiên cứu đề tài này - Tìm và phân tích các motif cơ bản cấu tạo nên truyền thuyết Dương Vân Nga - So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa sử sách và truyền thuyết về Dương Vân Nga và lí giải nguyên nhân - Đưa ra và kiến giải, đánh giá góc nhìn của dân gian đương đại về nhân vật Dương Vân Nga 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Chọn đề tài Nhân vật Dương Vân Nga - lịch sử và truyền thuyết, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu là nhân vật Dương Vân Nga từ hai phương diện lịch sử và truyền thuyết dân gian. Về phạm vi tư liệu, chúng tôi khảo sát 27 truyền thuyết (13 truyền thuyết đã được sưu tầm và xuất bản, 14 truyền thuyết còn hiện tồn trong dân gian) liên quan đến Dương Thái hậu, kết hợp điền dã những nơi có dấu tích, bút tích lịch sử về nhân vật này. Về lịch sử, chúng tôi quan tâm đến những cuốn chính sử bao gồm sử phong kiến và sử hiện đại ghi chép về con người và thời đại của bà như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử kí toàn thư (Ngô Sĩ Liên), Đại Việt sử kí tiền biên (Ngô Thì Sĩ), Việt sử tiêu án (Ngô Thì Sĩ), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Quốc sử quán triều Nguyễn), Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến cuối thế kỉ XIX) - Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, tập 1 (Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam), Tiến trình lịch sử Việt Nam (Nguyễn Quang Ngọc chủ biên) nhằm có một sự đánh giá tổng thể, hệ thống về bà với tư cách nhân chứng lịch sử và nhân vật của truyền thuyết dân gian. Không gian nghiên cứu của đề tài tập trung ở Ninh Bình và mở rộng ra các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Thanh Hóa và Nghệ An, những địa phương có truyền thuyết hoặc di tích thờ tự Dương Vân Nga. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp điền dã: Sự tồn tại đích thực của văn học dân gian là trong môi trường diễn xướng của nó. Do đó, quá trình điền dã giúp chúng tôi thu thập được những tư liệu và thông tin hữu ích cho đề tài luận án của mình đồng thời xác định lại nguồn tư liệu đã có, qua đó thấy được mối quan hệ giữa tư liệu truyền thuyết, tư liệu lịch sử với di tích thờ tự. - Phương pháp so sánh loại hình: chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh loại hình – phương pháp so sánh dựa trên sự tương đồng loại hình giữa nhóm truyện về Dương Vân Nga và truyện dân gian để tìm ra các motif cấu thành cốt truyện Dương Vân Nga, cụ thể là các motif sự ra đời kì lạ, đặt tên theo đặc điểm lúc chào đời, hồng nhan họa thủy, tiếng hát mang khẩu khí đế vương, luyến ái, trao ngôi và hiển linh. - Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: chúng tôi tiến hành phân loại, đánh giá và sử dụng các nguồn tài liệu đã được công bố liên quan đến đề tài (bài báo khoa học, báo cáo khoa học, tài liệu giáo trình...) tùy theo những yêu cầu cụ thể của luận án nhằm phục vụ một cách tốt nhất cho mục đích nghiên cứu của mình. - Phương pháp nghiên cứu ngữ văn dân gian: từ phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tiếp cận nhóm truyện về Dương Vân Nga dựa trên những đặc trưng của thể loại truyền thuyết, đồng thời cũng luôn ý thức rằng văn học dân gian là một bộ phận của văn học, nên những thao tác như phân tích, mô tả, suy luận, tổng hợp - những thao tác công cụ của ngữ văn đã được chúng tôi sử dụng khá triệt để trong luận án. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: vận dụng phương pháp này vào quá trình nghiên cứu, chúng tôi tìm hiểu văn học dân gian, cụ thể là truyền thuyết trong mối quan hệ với các ngành khoa học và các phạm trù khác như lịch sử, văn hóa, dân tộc học, nghệ thuật, tín ngưỡng nhằm có được một hướng tiếp cận đa chiều, đa diện và bao quát về nhóm truyền thuyết Dương Vân Nga. 6. Dự kiến đóng góp của luận án Đề tài Nhân vật Dương Vân Nga - lịch sử và truyền thuyết là công trình đầu tiên tái hiện và hệ thống hóa các truyền thuyết đã được xuất bản và đang lưu truyền trong dân gian (hiện chúng tôi được biết) về Thái hậu họ Dương, một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử thời Đinh – Lê (xin xem Phụ lục trang 1). Dựa trên phương pháp so sánh loại hình, chúng tôi cũng đã tìm, phân tích bảy motif cơ bản cấu tạo nên truyền thuyết Dương Vân Nga. Những motif này cho thấy sự tương đồng giữa truyền thuyết về Dương Vân Nga với một số truyền thuyết khác, đồng thời là minh chứng sinh động cho đặc điểm chung của truyện kể dân gian. Với 27 truyền thuyết về Dương Vân Nga mà chúng tôi đã hệ thống hóa, với 11 di tích thờ tự riêng và phối thờ bà, với việc hệ thống hóa các ý kiến và quan điểm trái chiều về bà, luận án Nhân vật Dương Vân Nga - lịch sử và truyền thuyết sẽ là một tư liệu tham khảo bổ ích về nhân vật Dương Vân Nga, đồng thời góp phần làm phong phú cho hệ thống truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Việt Nam. Không giống các nhân vật khác trong nhóm truyền thuyết nhân vật lịch sử thường xuất hiện với cảm hứng chủ đạo là được tôn vinh, ngợi ca, Dương Vân Nga là một trong số ít những nhân vật đứng giữa hai chiều tranh luận. Quá trình phân tích bảy motif chính, sơ đồ hóa mô hình kết cấu cốt truyện và so sánh sự tương đồng - khác biệt giữa sử sách và truyền thuyết về Dương Vân Nga của chúng tôi nhằm làm nổi bật giá trị của nhóm truyền thuyết cũng như quan điểm của dân gian trong cách đánh giá nhân vật lịch sử phức tạp này. Khi đề cập đến lịch sử thời Đinh – Lê, chúng ta không thể không nhắc đến nhân vật Dương Thái hậu với vai trò chuyển giao quyền lực từ triều đại nhà Đinh sang Tiền Lê. Tuy nhiên, sự xuất hiện của bà thường khá mờ nhạt bên cạnh những tên tuổi lừng lẫy như Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn... Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn dành cho bà một vị trí xứng đáng hơn trong đời sống văn hóa, xã hội hôm nay. Ở góc độ văn hóa học, luận án đã tiếp cận các phương diện: văn hóa tâm linh, văn hóa chính trị và văn học nghệ thuật đương đại, đồng thời cũng phân tích hai nghi án hiện tồn về Dương Thái hậu để thấy rằng những cuộc tranh luận liên quan đến bà trong xã hội đương đại vẫn còn hiện diện một cách sống động trong đời sống văn hóa người Việt. 7. Cấu trúc luận án Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 4 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài Chương 2: Khảo sát tư liệu lịch sử và truyền thuyết về nhân vật Dương Vân Nga Chương 3: Nhân vật Dương Vân Nga qua lăng kính của tác giả truyền thuyết Chương 4: Nhân vật Dương Vân Nga trong đời sống văn hóa, xã hội đương đại NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI Nhiệm vụ trọng tâm của chương 1 là lược thuật tình hình nghiên cứu và trình bày những vấn đề lí thuyết cơ bản. Về lịch sử nghiên cứu, các tài liệu liên quan đến nhân vật Dương Vân Nga bao gồm sử biên niên và các công trình nghiên cứu độc lập. Những tài liệu này chủ yếu chỉ giới hạn ở góc độ sử học và tập trung vào việc đánh giá, bày tỏ quan điểm về hành trạng của bà (sự kiện trao ngôi cho Lê Hoàn và sau đó tái giá với ông). Về cơ sở lí thuyết, chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề cơ bản, có liên quan mật thiết và làm chỗ dựa cho việc triển khai đề tài. Đó là mối quan hệ giữa truyền thuyết và lịch sử, mối quan hệ giữa truyền thuyết và tục thờ, vấn đề truyền thuyết và văn bản hóa truyền thuyết cùng một số lí thuyết khác. 1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu đề tài Với số phận đặc biệt “Một vai gánh vác cả đôi sơn hà”, Dương Thái hậu đã trở thành đề tài bàn luận của các nhà chép sử, các nhà nghiên cứu và tác giả dân gian. Những tư liệu mà chúng tôi sưu tập được về nhân vật lịch sử này bao gồm: sử biên niên (Đại Việt sử lược, Đại Việt sử kí toàn thư, Đại Việt sử kí tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục...), chí (Lịch triều hiến chương loại chí), các công trình nghiên cứu từ góc độ lịch sử (Nguyễn Danh Phiệt, Nguyễn Thị Phương Chi, Trần Trọng Dương...), từ góc độ y học kết hợp với tâm lí học (Bùi Minh Đức) hoặc từ quan điểm cá nhân (Song Cối, Nguyễn Thế Giang...), truyền thuyết lưu truyền trong dân gian (tài liệu điền dã), truyền thuyết được văn bản hóa (do Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nguyễn Thị Kim Cúc, Nguyễn Văn Trò sưu tầm...), truyền thuyết được văn học hóa (Hoàng Công Khanh, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Huy Sanh, Trương Đình Tưởng...), diễn ca (Thiên Nam ngữ lục, Đại Nam quốc sử diễn ca...) và gia phả (Phả hệ họ Ngô Việt Nam). Những tư liệu này được phân loại và sử dụng theo những mục đích khác nhau trong luận án, trong đó, các cuốn sử biên niên là chỗ dựa tin cậy về phương diện lịch sử; các nghiên cứu từ góc độ lịch sử gợi mở, bổ sung thêm cho hướng nghiên cứu của đề tài; những truyền thuyết dân gian cùng các bài viết thể hiện quan điểm cá nhân sẽ giúp chúng tôi nhận diện được quan niệm, thái độ của người đời sau đối với bà hoàng hậu của hai triều Đinh - Lê. Những nghiên cứu về nhân vật lịch sử Dương hậu/ Dương Thái hậu thời Đinh - Lê Với những biến cố liên tiếp dưới triều Đinh cuối năm 979 và đặc biệt là sự kiện trao áo long bào cho Lê Hoàn vào năm 980, Dương Thái hậu đã chính thức tham gia vào lịch sử và để lại tên tuổi trong các cuốn sử biên niên. Đại việt sử lược, cuốn sử được cho là ra đời sớm nhất ở nước ta, đã bắt đầu ghi chép về bà. Điều đáng chú ý là tác giả không hề bày tỏ thái độ của mình về hành động trao ngôi của Dương Thái hậu như các sử gia đời sau, cụ thể là: năm 980, khi nhà Tống phát binh sang đánh chiếm Đại Cồ Việt, Thái hậu đã sai Phạm Cự Lượng đốc suất quân lính đánh giặc. Trước ngày xuất quân, Phạm Cự Lượng đã vào nội điện nói với vua nhỏ rằng: “Nay chúa thượng còn nhỏ dại chưa hiểu biết được sự siêng năng, khó nhọc của bọn chúng tôi. Nếu như có một thước tấc công lao nào thì rồi ai biết cho. Không bằng cái cách là trước đưa Thập đạo tướng quân lên ngôi thiên tử rồi sau mới ra quân”. Quân sĩ nghe vậy đều hô “vạn tuế”. Thái hậu thấy tình người vui thuận mới sai lấy áo long cổn khoác lên mình Lê Hoàn và xin ngài lên ngôi” [20, tr. 97-98]. Bên cạnh đó, việc Dương Thái hậu trở thành hoàng hậu của Lê Hoàn cũng không được tác giả ghi chép cụ thể, chỉ có một dòng ngắn gọn: “Năm Nhâm Ngọ là năm thứ hai niên hiệu Thiên Phúc vua lập vương hậu năm bà” [20, tr 99], thậm chí ông còn cho rằng việc vua Lê, vua Lý lập nhiều hoàng hậu trước hết là do lỗi của Đinh Tiên Hoàng đã “khởi xướng sự rối loạn thứ bậc”. Nếu như tác giả của Đại Việt sử lược không thể hiện thái độ đối với Dương Vân Nga khi ghi chép sự kiện bà trao ngôi cho Lê Hoàn thì Đại Việt sử kí toàn thư, Đại Việt sử kí tiền biên và Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều lên tiếng phê phán Dương Thái hậu vì “yêu mến”, “phải lòng” nên tư thông với Lê Hoàn, thậm chí “cho Hoàn quyền tạm làm công việc thay vua như Chu Công khi trước” [70, tr. 244]. Còn Ngô Thì Sĩ thì luận tội bà một cách đanh thép rằng “Người cướp ngôi của Vệ Vương là Dương hậu, chứ không phải Thập đạo (tướng quân)” [75, tr. 165]. Song Cối (Hoa Bằng) là một trong những “luật sư” sớm lên tiếng chiêu tuyết cho Dương hậu. Năm 1942, trong bài viết “Tôi bào chữa cho Dương Thái hậu”, ông đã ghi nhận công lao của bà đối với đất nước trong hoàn cảnh “nghìn cân treo sợi tóc”: “Dương hậu đối với nhà Đinh tuy có khuyết điểm nhưng đối với quốc dân, bà là một người hoàn toàn vô tội nếu không kể là có công” [dẫn theo tài liệu 78, tr. 78]. Trong Đại Nam dật sử - sử ta so với sử Tàu (in lần đầu trên tạp chí Tri Tân năm 1943), Nguyễn Văn Tố không trực tiếp bày tỏ quan điểm về sự kiện bà Dương Thái hậu trao ngôi cho Lê Hoàn mà dẫn lời bàn của Nguyễn Đình Tuân về chuyện này như sau: “Lê Hoàn thay nhà Đinh, do các tướng tôn lên, là bắt chước việc Tống Thái Tổ ở Trần Kiều nhưng đã cùng bọn Phạm Cự Lạng ngầm mưu kết làm tâm phúc từ trước, chứ không phải việc ngẫu nhiên (...), lấy vợ vua trước cho ở hậu cung (nguyên mẹ Đinh Toàn là họ Dương, trước lấy Đinh Tiên Hoàng sinh ra Toàn, khi Toàn nối ngôi mới lên sáu tuổi, mẹ Toàn tư thông với Lê Hoàn, bàn mưu cướp ngôi, đến năm 982, Lê Hoàn đã làm vua được ba năm, phong mẹ Đinh Toàn làm Đại Thắng Minh hoàng hậu)” [95, tr. 257-258]. Việc Nguyễn Văn Tố dẫn một lời bàn không mấy thiện cảm dành cho Dương Thái hậu như trên cũng có thể coi là một cách thể hiện quan điểm riêng vậy. Vào năm 1981, với bài báo Dương hậu - Dương Thái hậu, lịch sử và huyền thoại, Nguyễn Danh Phiệt đã lí giải mối quan hệ tình cảm giữa Lê Hoàn và Dương hậu trong bối cảnh lịch sử của thế kỉ X chưa bị ràng buộc bởi đạo Nho. Trong xã hội Đại Cồ Việt khi ấy, “những sinh hoạt thoải mái, phóng khoáng trong bối cảnh văn hóa cộng đồng làng xã người Việt thuần khiết vẫn chưa bị lớp mây mù văn hóa Tàu vây ám. Sinh hoạt đó không chỉ bao trùm nơi dân dã mà còn chiếm lĩnh cả chốn cung đình. Trong bối cảnh đó thì hiện tượng Dương Thái hậu - Lê Hoàn cũng là một chuyện bình thường, hợp lẽ... Đinh Bộ Lĩnh chết, Dương Thái hậu lấy Lê Hoàn là theo tập tục thông thường của xã hội. Lê Hoàn lên ngôi vua, đứng đầu cả nước là theo truyền thống “lựa chọn”, “suy tôn” thủ lĩnh phổ biến trong sinh hoạt cộng đồng” [dẫn theo tài liệu 78, tr.79]. Trong cuốn sách Kinh đô cũ Hoa Lư (1982), Nguyễn Thế Giang nhân bàn về hai triều đại Đinh - Lê đã ca ngợi, đề cao Dương Vân Nga với vai trò của một Thái hậu chấp chính. Tác giả dựa vào hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng lúc bấy giờ để bình luận về Dương hậu: “Khi đất nước lâm nguy, hiểm họa xâm lăng đe dọa dân tộc quá lớn mà tự lượng sức mình không đảm đương, giải quyết nổi, bà quyết định trao ngôi báu và uy quyền cho người đủ sức đảm đương, cứu nguy cho đất nước. Đối với bà, ngôi báu không phải là cơ nghiệp riêng của dòng họ Đinh mà lúc này bà là người đại diện, ngôi báu là của chung của dân tộc. Và không có ngôi báu nào cao hơn sự sống còn của đất nước”... “Bà đã hành động một cách thẳng thắn trước mặt bá quan văn võ. Bà lấy áo long cổn của chồng tự tay khoác lên người quan Thập đạo tướng quân Lê Hoàn (...). Hành động sáng suốt của bà đã mở lối thoát cho triều đình (...). Ngày nay, chúng ta trìu mến và kính phục gọi: “Thái hậu Dương Vân Nga là một phụ nữ thức thời yêu nước” [29, tr. 114-115]. Lã Đăng Bật là một nhà nghiên cứu đã dành rất nhiều tâm huyết tìm hiểu văn hóa, lịch sử Ninh Bình. Về hành động Dương Thái hậu trao ngôi cho Lê Hoàn, ông đánh giá đó là công lớn nhất của bà, là suy nghĩ thức thời, tiến bộ: “Công lao lớn nhất của bà là lượng sức mình không đảm đương nổi việc nước, bà đã quyết định trao ngôi báu cho Lê Hoàn, tức là đã truất bỏ cơ nghiệp của nhà Đinh, xây dựng nhà Tiền Lê. Đây là việc làm hợp với lòng trời và lòng người khi đó. Bà là người phụ nữ thức thời, nghĩ đến vận mệnh đất nước trên hết, bỏ qua những lời bàn tán, phản đối, thậm chí cả những dư luận xấu của triều đình lúc bấy giờ” [8, tr. 55]. Năm 2000, nữ tác giả Lee Seon Hee nghiên cứu nhân vật Dương Vân Nga trong mối tương quan với phụ nữ Việt Nam thế kỉ thứ X. Tác giả đã nhận xét bà Dương hậu từ bốn góc độ: “Một là, Thái hậu Dương Vân Nga đã biết hi sinh quyền lợi hạn hẹp của gia đình gia tộc và bản thân để đặt lợi ích chung của quốc gia dân tộc, cộng đồng lên trên hết... Hai là, mặc dầu Dương Vân Nga là phụ nữ, nhưng bà đã có tầm nhìn chiến lược, chính xác và cũng rất nhân bản để nhận ra cái chân giá trị của Lê Hoàn... Ba là, Dương Vân Nga là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên trong lịch sử chính thống đã nêu một tấm gương sáng về quyền tự quyết định vận mệnh của bản thân mình - quyền tự do yêu đương, tự do hôn nhân mà không bị lệ thuộc vào giáo lí phong kiến cũng như thói thường của dư luận... Cuối cùng, ở Thái hậu Dương Vân Nga còn có một giá trị tổng thể, nằm trong sự đánh giá, định vị và lưu giữ của cộng đồng dân tộc Việt... Nhân dân đồng cảm và đồng tình với mối tình cao đẹp của Thái hậu” [Dẫn theo tài liệu 78, tr. 80]. Các tác giả của tập biên niên khảo Các triều đại Việt Nam (năm 2001) đã đánh giá Dương Vân Nga từ góc độ của một người cầm quyền trị nước để thấy hành động trao áo long bào cho Lê Hoàn là thức thời: “Sự tỏ ý nhường ngôi của Dương Vân Nga trong hoàn cảnh ấy đã biểu hiện thái độ chính trị sáng suốt của một người thức thời, có tầm nhìn xa trông rộng, xứng đáng được coi là anh hùng” [14, tr. 71]. Dành khá nhiều trang viết về Dương Thái hậu nhưng nhóm tác giả của cuốn Nhìn lại lịch sử (2013) lại chủ yếu phê phán, lên án bà gay gắt trong các bài Người phụ nữ ba lần là hoàng hậu và vụ án lịch sử: ai giết vua Đinh; Điền dã, khảo sát các di tích lịch sử, các tư liệu thành văn về: Đinh Điền - Nguyễn Bặc; Dương hậu - Lê Hoàn và Nét độc đáo tình sử. Họ cho rằng hành động Dương Thái hậu trao ngôi cho Lê Hoàn là một màn kịch được dụng tâm dựng sẵn: “Nếu Lê Hoàn hành động như một trung thần, nghĩa là vẫn chỉ huy quân đội chiến đấu để bảo vệ đất nước và vương quyền cho họ Đinh, thì làm gì có “màn kịch” trao áo long cổn của tình nhân Dương Thái hậu cho quan Thập đạo. Thế nhưng màn kịch đã được dàn dựng và được hoàn tất, với sự tham gia của các diễn viên chính Dương Thái hậu, Lê Hoàn, Phạm Cự Lượng và với sự tổng đạo diễn của quân sư Hồng Hiến” [41, tr. 225]. Năm 2005, trong hội thảo Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, TS. Nguyễn Thị Phương Chi đã công bố bài viết Vai trò của Thái hậu Dương Vân Nga đối với đất nước Đại Cồ Việt hồi thế kỉ X. Tác giả đã khái quát những ý kiến khác nhau của các sử gia, nhà nghiên cứu từ cổ chí kim về Dương hậu như Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Văn Tố, Song Cối (Hoa Bằng), Nguyễn Danh Phiệt và Lee Seon Hee (Hàn Quốc)... Về phần mình, tác giả khẳng định Dương Vân Nga là một phụ nữ “thông minh, tài giỏi”, một “người mẹ can đảm mới đi đến quyết định sáng suốt như vậy. Bà hiểu rằng con trai bà - vua Đinh Toàn mới 6 tuổi lên làm vua theo chế độ cha truyền con nối, chưa hề có công lao gì đối với đất nước (...). Nếu như trong hoàn cảnh đất nước bình yên, sự việc trên có thể cho rằng bà vì tình riêng” nhưng “bà thực hiện việc trao ngôi báu cho Lê Hoàn một cách đàng hoàng trước sự đồng tình của các tướng sĩ quân đội. Vì vậy, Dương Vân Nga chính là người phụ nữ của chính trường, thông minh, mưu lược, vì đất nước vì nhân dân mà “hi sinh” quyền lực chính trị của mình cho một người có đầy đủ uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước” [78, tr. 83]. Năm 2007, trong hội thảo Thân thế, sự nghiệp và tượng đài Lê Đại Hành - Dương Vân Nga tổ chức ở Ninh Bình, các nhà khoa học đã nêu lên những quan điểm trái chiều về Dương Vân Nga, trong đó, đa số ca ngợi, bênh vực bà, tiêu biểu như: GS. Vũ Khiêu đặt vị trí của bà trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước để khẳng định: “Bà đã sẵn sàng hi sinh quyền lợi của cá nhân và của con mình để đặt vận mệnh của đất nước lên trên hết. Nhân dân Hoa Lư từ trước vẫn tôn trọng bà. Sử gia thời Trần như Lê Văn Hưu cũng không chê trách bà. Chỉ từ khi những tư tưởng tiêu cực của Nho giáo với những quan điểm khinh rẻ người phụ nữ và trói buộc phụ nữ vào “tam tòng, tứ đức” thì mới nảy sinh ra sự phê phán Dương Vân Nga và xây dựng xung quanh bà những chuyện riêng tư với Lê Hoàn”. Tác giả cho rằng, theo quan điểm sáng suốt của dân tộc ta từ trước, theo quan điểm nhân văn của nhân loại tiến bộ cũng như theo quan điểm đạo đức tiên tiến của nhân dân ta ngày nay thì bà là một người “sống với bản lĩnh vững vàng của người phụ nữ Việt Nam, vừa có tinh thần yêu nước, thương dân, vừa khẳng định quyền lợi chính đáng của người phụ nữ”. Trong hoàn cảnh của mình, bà đã “giao toàn bộ sự nghiệp của tổ quốc vào tay một vị anh hùng. Đó là một sự lựa chọn sáng suốt. Việc kết duyên cùng Lê Hoàn và trao gửi con của mình cho Lê Hoàn cũng là một việc mà Thái hậu họ Dương cần phải làm để bảo vệ cho dòng họ Đinh, bảo vệ mạng sống của các con mình và gia thất (...). Việc Đinh Toàn được Lê Hoàn coi như con đẻ, chính sử đã nêu rõ điều ấy. Trong cuộc chiến đấu, Đinh Toàn tử trận thì Lê Hoàn đã đau xót thét lên một tiếng và xông lên giết giặc. Không nên suy luận thành việc Lê Hoàn mượn tay giặc để giết Đinh Toàn. Cũng không thể dựng lên việc này để chê trách Dương Vân Nga” [79, tr. 20]. Với PGS.TS Nguyễn Danh Phiệt, bà Dương Thái hậu đã khéo xử lí hài hòa mối quan hệ giữa lí trí và tình cảm, chính điều đó đã giúp bà vừa trọn tình riêng, vừa vẹn nghĩa chung: “Việc yêu Lê Hoàn, nặng tình với Lê Hoàn là việc riêng của bà, thuộc về lĩnh vực tình cảm, về con tim, còn trao cho Lê Hoàn tổ chức chống giặc, đồng tình với quân sĩ tôn ông lên ngôi vua lại liên quan đến lợi ích của dân, của nước, là vấn đề chung, vấn đề của lí trí. Ở đây có sự hài hòa giữa lí trí và tình cảm, giữa con tim và khối óc. Bà đã xử lí đúng đắn, hợp với lòng mong mỏi của quân dân, phù hợp với lợi ích của tổ quốc và thuận theo nhịp đập của trái tim bà. Có thể nghĩ rằng trong tình thế đó khó có một cách xử lí nào hợp lí hơn, đẹp đẽ hơn” [79, tr. 74]. PGS.TS Phan Khanh xuất phát từ quan điểm: để xác định một danh nhân lịch sử - văn hóa thì trước tiên phải xét đến những lợi ích chung mà danh nhân đó mang lại vì sự phát triển tiến bộ của dân tộc, đất nước, chứ không chỉ vì lợi ích riêng của một triều đại, một dòng họ để đi đến nhận định: “Câu chuyện Thái hậu Dương Vân Nga năm 979 trao áo long cổn, nhường ngôi vua của con trai còn nhỏ cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn thực sự đã tạo nên bước ngoặt lịch sử quyết định và là một sự kiện quyền biến lịch sử theo hướng tiến bộ đáng được ghi tạc vào văn hóa dân tộc ta” [79; tr. 53]... “Dương Vân Nga đã quyết định, hành động đúng đòi hỏi của vận mệnh đất nước để giữ sơn hà xã tắc, đúng với đạo trời, lòng người của năm 979. Đó là tư tưởng và hành động của một phụ nữ chính thống, quyền quý, thức thời và khả kính của Việt Nam, của thế kỉ thứ X” [79, tr. 57]. PGS Vũ Ngọc Khánh (Viện Nghiên cứu Văn hóa) coi hành động trao hoàng bào của bà Dương Thái hậu cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn là “hành động đẹp”, “phi thường”: “Bất ngờ, bà đã có một cử chỉ, một hành động đẹp, là khoác áo hoàng bào lên vai Lê Hoàn. Không một lời phát biểu (sử sách không hề chép), không một chút do dự, đột nhiên bà đã có một sáng kiến, một hành động rất bình thường mà lại rất phi thường. Một cử chỉ nhỏ mà gây được sự náo nức lòng quân dân, sự ổn định của triều đình và cuối cùng là đưa đến thắng lợi vĩ đại của lịch sử. Nhỏ nhặt mà trọng đại, bình thường mà phi thường, việc nhỏ trước mắt mà thành việc lớn lâu dài. Cái đẹp của bà là ở đó, và đây cũng là một hiện tượng đẹp trong lịch sử Việt Nam” [79; tr. 128]. PGS. TS. Trần Thị Vinh (Viện sử học) cho rằng “giữa lúc vận mệnh sống còn của đất nước và dân tộc đặt lên hàng đầu thì quyết định về chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê của Thái hậu Dương Vân Nga là hợp lí”. Tác giả còn dẫn nhận định của Phan Huy Lê (người khảo tác giả - văn bản - tác phẩm Đại Việt sử kí toàn thư) về bà Dương Thái hậu nhằm khẳng định thêm quan điểm của mình: “... Dương Vân Nga là một người phụ nữ yêu nước biết xử sự việc nội bộ cung đình một cách sáng suốt, đúng đắn, có lợi cho dân cho nước (...). Ảnh hưởng của Nho giáo đã làm cho Ngô Sĩ Liên và nhiều sử thần phong kiến xa rời đạo lí truyền thống đó, đi đến những lời buộc tội bất công và oan uổng cho Lê Hoàn và Dương Vân Nga” [79, tr. 136-137]. Vũ Bá Tiên đã không tiếc lời ca ngợi bà Dương Thái hậu là “nữ anh hùng cái thế, đã hiến dâng cả cuộc đời vì nền độc lập dân tộc và nhà nước phong kiến tập quyền vừa mới phôi thai. Có thể nói, bà là người phụ nữ cao quý và quả hiếm hoi trong lịch sử “một vai gánh vác cả đôi sơn hà”, làm hoàng hậu gần suốt hai triều vua, có đóng góp bất hủ trong lịch sử dựng nước” [79, tr. 211]. Riêng GS. Đinh Xuân Lâm, Phó Chủ tịch hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã không tán đồng việc dựng tượng Dương Vân Nga ở Ninh Bình vì cho rằng: “... qua vài dòng sử ghi chép về quá trình Lê Hoàn thâu tóm quyền hành vào tay mình rồi lên ngôi hoàng đế, có thể khẳng định trong sự nghiệp đó có vai trò to lớn (và chủ động) của hoàng hậu họ Dương. Chính vì hành tung bí mật (theo lối thâm cung bí sử) đó mà đương thời có nhiều điều dị nghị, đặt nghi vấn rằng đây có phải là một vụ án cung đình khi hai cha con Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị ám sát ngay trong cung cấm. Hiện nay, cũng đã có ý kiến rằng nhân vật Đỗ Thích xưa nay vẫn bị cho là người giết cha con Đinh Tiên H...tin tiềm tàng luôn ẩn giấu đằng sau những thông tin hiển thị bề mặt” [1, tr. 149]. Nguồn thông tin tiềm tàng ấy phản ánh bề sâu, tính quá trình, tính xu thế của lịch sử, chứa đựng “những phức cảm tâm lí, những khát vọng hoặc các ngụ ý sâu xa không dễ bộc bạch của cộng đồng” [1, tr. 150]. Đây cũng là điều mà Tylor đã từng bàn luận: “Tuy cho rằng một truyền thuyết nào đó không phải là sự truyền đạt một sự kiện hiện thực, nhưng nhà văn vẫn không đuổi nó khỏi những cuốn sách hoặc khỏi trí nhớ như một cái gì chẳng có ý nghĩa gì hết, mà còn tìm hiểu cặn kẽ xem nội dung ban đầu của nó là thế nào, nó có thể diễn đạt thành thế này từ câu chuyện cổ nào, sự kiện có thực nào hay quan niệm thịnh hành nào có thể bắt nó phải phát triển tới hình thức như nó đã xuất hiện trước chúng ta?” [111, tr. 377]. Các yếu tố lịch sử trong truyền thuyết nhiều khi không hoàn toàn có thật, vì thế, nếu chú trọng đến “cái lõi” lịch sử trong truyền thuyết thì cần phải có sự phân tích thấu đáo và cụ thể, làm rõ nội dung của cốt lõi ấy để tránh những ngộ nhận, nhầm lẫn. Nếu coi sử liệu truyền miệng là việc cắt gọt các chi tiết bên ngoài truyền thuyết dân gian để tìm ra “cái lõi” lịch sử thì sẽ khó phân tách ranh giới giữa truyền thuyết dân gian với tư cách là một thể loại độc lập thuộc bộ phận folklore ngôn từ và truyền thuyết dân gian với tư cách là một nguồn sử liệu. Sự nhầm lẫn này dẫn đến hệ quả là sau quá trình phân tích, nguồn sử liệu thu được sẽ không chính xác. Có một thực tế là trong các truyền thuyết đã được văn bản hóa ở các thư tịch thời trung đại cũng như các truyền thuyết được sưu tầm sau này, với một số lượng lớn truyền thuyết kể về các nhân vật vô danh, những sự kiện tưởng tượng, những hư cấu đượm màu kì ảo thì việc đi tìm “lõi lịch sử” là hết sức khó khăn. Đó là chưa kể hiện tượng trong quá trình văn bản hóa truyền thuyết, không phải không có khả năng người ghi chép đã tô vẽ thêm để hợp thức hóa nhân vật được thờ phụng, bỏ đi những gì không phù hợp vào thời điểm ấy. Như vậy, xét từ góc độ “độ tin cậy của nội dung thông tin” thì sẽ có nhiều truyền thuyết khó có thể tồn tại với tư cách là một nguồn sử liệu, bởi lịch sử trong truyền thuyết không phải lịch sử đích thực, lịch sử khách quan như nó vốn có mà là tình cảm, thái độ của tác giả dân gian đối với lịch sử. Theo tác giả Trần Thị An, “cần có một cái nhìn vượt qua giá trị sử liệu của truyền thuyết vì người kể truyền thuyết không hướng tới mục đích phản ánh lịch sử xác thực mà chỉ mong muốn, bổ sung những khoảng trống, những chỗ thiếu hụt trong chính sử hoặc bổ khuyết những chỗ đứt đoạn trong thư tịch để “nêu rõ đại nhất thống”, hoặc đính chính lại lịch sử, giải thích lịch sử theo quan điểm của người kể để thể hiện tình cảm của cộng đồng đối với tiền nhân” [1, tr. 65]. Đó chính là chức năng quan trọng của truyền thuyết. Quá khứ của cộng đồng qua quá trình lưu truyền đã được kết tụ ở những biểu tượng có giá trị biểu đạt “nhu cầu tâm lí - tinh thần” của người kể truyền thuyết cũng như các giá trị tín ngưỡng, phong tục của cộng đồng địa phương và quốc gia, dân tộc. Do đó, đối với bộ phận truyền thuyết này, cần phải hướng đến cách tiếp cận văn học dân gian, nghĩa là cách tiếp cận folklore học với một bộ phận ngôn từ đặc biệt, bên cạnh đó, nhà nghiên cứu cũng không nên cố gắng chứng minh giá trị lịch sử của truyền thuyết mà cần tìm hiểu cấu trúc tự sự và hệ thống biểu tượng của truyền thuyết với tư cách là một thể loại văn học dân gian. Đó cũng là điều mà Jacob Ludwig Karl Grimm từng chia sẻ về một thể loại tiệm cận với truyền thuyết: “Sử thi không phải chỉ là sự trình bày các sự kiện theo niên đại, mà còn là tất cả những gì mà nhân dân đã suy nghĩ và mơ ước, bất kể những tư tưởng và khát vọng của họ được biểu đạt ở đâu và thế nào” [dẫn theo tài liệu 1, tr. 65]. Những đặc điểm này của truyền thuyết sẽ được tường minh ở chương 3 của luận án. Tác giả dân gian khi kể sử là muốn tái hiện bản thân lịch sử một cách thẩm mĩ (mĩ hóa lịch sử). Truyền thuyết có logic riêng của nó, “không phải lúc nào cũng trùng với thế giới tự nhiên; sự linh hồn hóa, và hơn thế nữa sự đồng cảm và điều kì diệu, tạo nên những nguyên lí riêng của nó” [91, tr. 252]. Giữa truyền thuyết và chính sử luôn có “độ vênh” nhất định mà muốn tìm hiểu thể loại tự sự này, ta chỉ có thể đứng từ quan niệm thẩm mĩ của nhân dân. Lấy lịch sử làm đề tài phản ánh nhưng truyền thuyết thường lựa chọn “điều thiêng liêng” hoặc những vấn đề liên quan đến những sự kiện, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng sâu sắc và tích cực tới cộng đồng, dân tộc hay quốc gia. Thông qua truyền thuyết, tác giả dân gian đã tạo tác nên những tượng đài bất tử, đặt chúng trong vòng hào quang thần thánh. Ngôn ngữ của người kể truyền thuyết thường trang trọng để thuyết phục và tạo nên sự tin tưởng ở người nghe. Nó sẽ loại bỏ những chi tiết đời thường không có giá trị tôn vinh nhân vật, đồng thời hướng đến sự hư cấu tối đa với mục đích lí tưởng hóa các nhân vật lịch sử nhằm thỏa mãn nhu cầu kể sử và giải thích lịch sử của nhân dân. Vì “hư cấu lịch sử theo quan điểm tư tưởng, thẩm mĩ của nhân dân” [105, tr. 82] nên sự lí giải của truyền thuyết mang tính chủ quan, đề cập đến những vấn đề mang tính cộng đồng. Nó trả lời những câu hỏi như: đó là sự kiện gì, tại sao lại xảy ra, có thể làm gì với sự kiện đó hoặc tránh việc đó như thế nào?... Với mục đích đi tìm những câu trả lời như vậy nên truyền thuyết cũng tạo nên một hình thức trần thuật đặc thù và phong cách riêng. Kết quả là người nghiên cứu phải sưu tập, lắp ghép rất nhiều mảnh, mẩu của cùng một câu chuyện mới có thể tìm được một ý tưởng, một nội dung trong một kiểu truyện. Như vậy, từ mục đích ích dụng đơn thuần là kể sử, truyền thuyết đã bao hàm cả giá trị thẩm mĩ, nghệ thuật trong bản thân nó. Mối quan hệ giữa lịch sử và truyền thuyết đã tạo nên sự tác động qua lại lẫn nhau giữa hai phạm trù này. Có hiện tượng lịch sử được tác giả dân gian tô vẽ, mở rộng biên độ sáng tạo. Ngược lại, cũng có hiện tượng “lịch sử hóa truyền thuyết”, nghĩa là các nhà chép sử đã sưu tầm, biên chép truyền thuyết dân gian để đưa vào trong chính sử, tạo nên độ nhòe nhất định trong cả lịch sử lẫn truyền thuyết. Ví dụ các nhân vật trong truyền thuyết như Lạc Long Quân, Âu Cơ, chuyện nỏ thần thời An Dương Vương... đã đi vào sử biên niên thời phong kiến. Nhân vật của truyền thuyết là nhân vật hư cấu hoặc do lịch sử tạo ra. Bị chi phối bởi yếu tố lịch sử nên nhân vật của truyền thuyết dù là hư cấu hay có thật thì cũng đều có lí lịch rõ ràng như tên tuổi, xuất thân... mang tính địa phương hay thời đại cụ thể. Thánh Gióng là nhân vật hư cấu nhưng vẫn có quê hương là làng Phù Đổng thuộc bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh ngày nay), Lý Ông Trọng quê ở làng Chèm, sống vào cuối đời Hùng Duệ Vương, đầu thời An Dương Vương... Vì bị chi phối bởi các yếu tố khách quan của lịch sử nên tác giả dân gian khi kể lại lịch sử thông qua nhân vật truyền thuyết phải tuân thủ hiện thực lịch sử, nhân vật đã chết thì không thể tái sinh như trong truyện cổ tích mà chỉ có thể “trở về” dương thế bằng cách hiển linh, âm phù trong khói sương huyền ảo. Nếu như Tấm sau khi chết đi có thể tái sinh qua các kiếp luân hồi như chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi... và trở lại làm người sau khi bước ra từ quả thị thì Bà Trưng, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng... đã “hóa” sẽ không thể tái sinh được nữa. Họ sẽ trở về thế giới con người theo cách đặc trưng của truyền thuyết, đó là hiển linh - âm phù: phù giúp con cháu đánh giặc (Phùng Hưng), chống hạn (Hai Bà Trưng), thậm chí là quở phạt nếu người đời sau phạm tội bất kính... Họ sống - trường tồn trong tâm thức nhân dân và được phụng thờ với một lòng thành kính sâu sắc. Như vậy, giữa truyền thuyết và lịch sử luôn có sự gắn bó khăng khít và tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình hình thành, phát triển của thể loại truyền thuyết. Dương Vân Nga vốn là một nhân vật lịch sử. Dựa vào những sự kiện lịch sử liên quan đến cuộc đời và hành trạng cùng những yếu tố thế tục, tác giả dân gian đã chuyển hóa con người lịch sử của bà thành hình tượng văn học, cụ thể là trong truyền thuyết. Lí thuyết về mối quan hệ truyền thuyết - lịch sử là một trong những cơ sở giúp chúng tôi nghiên cứu nhân vật này qua lăng kính của dân gian, trong đó, lịch sử là một phương diện bổ trợ cho quá trình nghiên cứu. 1.3.2. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và tục thờ Ngay từ thế kỉ XIV, nhà văn kiêm nhà chính trị Hồ Tông Thốc đã chú ý đến mối quan hệ giữa “tục truyền” và “đền miếu thờ cúng”: “... nhưng từ xưa đến nay, chỉ căn cứ vào tục truyền và dấu vết, hỏi về việc dĩ vãng thì nhờ các cụ già kể lại, xét nghiệm ở tương lai thì đã có các đền miếu thờ cúng” [dẫn theo tài liệu 1, tr. 152]. Vấn đề này đã được nhà nghiên cứu truyền thuyết Kiều Thu Hoạch giải thích rõ hơn qua yếu tố trung gian là thần tích: “Do thoát thai từ truyền thuyết dân gian, nên dấu vết dân gian trong các thần tích không thể bị xóa hết. Nhiều thần tích (ngay cả loại phong kiến đậm đặc như Việt điện u linh) vẫn còn thấy những câu tục truyền, tương truyền là những câu mở đầu của các truyền thuyết dân gian” [113, tr. 192]. Còn tác giả Nguyễn Bích Hà lại đặt mối quan hệ này ở một cấp độ rộng hơn là “truyền thuyết và nghi lễ, lễ hội” [31, tr. 53]. Với cách tiếp cận truyền thuyết từ góc độ thần tích, tác giả Trần Thị An một lần nữa đã cho thấy mối quan hệ gắn bó giữa truyền thuyết và tục thờ thành hoàng trong chuyên mục “Truyền thuyết trong thần tích - niềm tin vào sự thiêng liêng” [1]... Tín ngưỡng dân gian là một phạm trù rộng, theo Patrick B. Mullen thì nó “bao gồm sự biểu cảm và cách ứng xử mà ta gọi là mê tín, tín ngưỡng bình dân, làm phép, các hiện tượng siêu tự nhiên, các câu của những bà nội trợ già, y học dân gian, tôn giáo dân gian, các biểu hiện của thời tiết, cây cỏ, các lời cầu khấn tụng niệm, những người hay vật mang vận rủi, đồ làm từ rễ cây, những điềm tốt hay điềm xấu, các chuyện yêu ma và những điều cấm kị” [90, tr. 273]. Một trong những hình thái phổ biến của của tín ngưỡng dân gian người Việt là tục thờ cúng. Thờ cúng vốn là tín ngưỡng đặc thù của văn hóa Đông Nam Á nói chung và người Việt nói riêng. Với người Việt, tín ngưỡng được thể hiện cụ thể qua các phong tục, tục thờ (tín ngưỡng tôn sùng mặt trời thể hiện qua tục cúng gà đêm giao thừa, tục thả diều, thả chim) và có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh của họ. Tục thờ cúng của người Việt có phạm vi rộng, trong gia đình, họ thờ tổ tiên ông bà, các vị thần tại gia, ở phạm vi làng xã, họ thờ các vị thần linh chung của thôn xã hoặc của toàn dân tộc. Việc thờ phụng ấy không chỉ cầu mong nhận được sự phù trợ mà còn thể hiện lòng thành kính, sự biết ơn đối với các bậc tiền nhân, đặc biệt là các nhân vật lịch sử có công với cộng đồng, dân tộc. Ý thức “con người có tổ, có tông” được gìn giữ và lưu truyền qua các thế hệ. Điều đặc biệt là tín ngưỡng này được các thể chế chính trị từ xưa đến nay công nhận ở các mức độ và cấp độ khác nhau: trong gia đình là thờ cúng tổ tiên, đến làng xã là thành hoàng và quốc gia là quốc tổ. Các hình thức tín ngưỡng nói chung và tục thờ nói riêng xuất phát từ quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Đó là quan niệm “vạn vật hữu linh” - mọi sự vật đều có linh hồn. Ban đầu, người ta thờ các lực lượng tự nhiên như mây, mưa, nước, mặt trời... Các hiện tượng này đã được thần thánh hóa và nhân hóa trong trí tưởng tượng của con người (thần có thể hiền/ dữ, là phúc thần hay tà thần...). Dần dà, trong quá trình khám phá tự nhiên và khám phá chính bản thân mình, con người bắt đầu nhận thức về những quy luật liên quan mật thiết đối với đời sống của họ mà rõ rệt nhất là sự sống và cái chết. Với quan niệm vật linh, họ tin rằng con người gồm có phần thể xác và linh hồn. Trong nhận thức của dân gian, hai yếu tố này vừa gắn bó, vừa độc lập. Khi còn ở trạng thái sống, chúng hòa quyện vào nhau, nhưng khi trạng thái này kết thúc, chúng sẽ hoàn toàn tách biệt. Tuy nhiên, “thác là thể phách, còn là tinh anh”, phần xác có thể hóa thành cát bụi nhưng phần hồn sẽ tồn tại trong một thế giới khác - thế giới của những âm hồn. Dân gian cũng quan niệm rằng “trần sao, âm vậy”, chết là bắt đầu một cuộc sống ở thế giới khác, người âm nếu không được chu cấp đầy đủ sẽ trở thành ma đói lang thang, vất vưởng, quấy nhiễu người sống. Bên cạnh đó, họ còn tin vào sự âm phù, nghĩa là người chết có thể trở về phù hộ độ trì cho người thân, con cháu của mình... Như vậy, niềm tin vào sự bất tử của linh hồn đã góp phần hình thành nên tục thờ cúng của người Việt. Tục thờ cúng của người Việt bao gồm nhiều yếu tố như đức tin, tính thiêng, tính thực tiễn... Tính thiêng thể hiện ở quan niệm về sự tồn tại của linh hồn, về mối liên hệ linh ứng giữa người sống và người chết mà dân gian đã đúc kết qua tục ngữ: Có thờ có thiêng, có kiêng có lành;Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề... Yếu tố thiêng đã tạo ra hai loại hình di sản văn hóa là văn hóa vật thể: đền, chùa, lăng mộ... và văn hóa phi vật thể như lễ hội truyền thống, các nghi thức thờ cúng, lễ vật, phong tục, tập quán liên quan đến tín ngưỡng, truyền thuyết, tục ngữ, ca dao... Tính thực tiễn thể hiện ở mong muốn được nhận “phúc ấm của tổ tiên”, được thần linh che chở, phù trợ. Những tai họa, thách thức, rủi ro... xảy đến mà con người không thể lí giải hoặc đương đầu với chúng đã hình thành ở họ tâm lí sợ hãi và sùng bái một thế lực vô hình nhưng có khả năng chi phối, can thiệp cuộc sống của họ. Tục thờ cúng chính là chỗ dựa về mặt tâm linh và tinh thần, giúp con người thanh thản và có thêm sức mạnh để đối mặt với những rủi ro, bất trắc từ thiên nhiên và xã hội. Nó đã đi vào tiềm thức và trở thành một phần trong nếp sống, phong tục của người dân Việt. Theo Ray A. Rappaport, “các loại hành động và lời nói có tính thủ tục tạo nên nghi thức không nhất thiết phải bất biến mà chỉ tương đối bất biến. Quy định này cho phép không chỉ sự bất biến hoàn hảo trong sự diễn xướng mà còn thừa nhận một số biến thái có thể xuất hiện theo bất kì trật tự nghi thức nào” [90, tr. 178]. Tục thờ, một phạm trù của nghi thức tín ngưỡng cũng có những biến đổi theo quan niệm và lợi ích của các thể chế chính trị, tôn giáo, thời đại... khác nhau. Tục thờ của người Việt đã có sự ảnh hưởng, giao thoa với các tôn giáo ngoại lai như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo... Vốn gắn liền với đời sống nông nghiệp và nguyên lí âm dương, người Việt có xu hướng “đề cao nữ tính với hàng loạt nữ thần: bà Trời, mẹ Đất, bà Thủy, bà Hỏa, các nữ thần Mây - Mưa - Sấm - Chớp; đạo thờ Tam phủ, Tứ phủ, 12 bà mụ...” [89, tr. 288]. Khi Phật giáo rồi Nho giáo du nhập vào nước ta, để thích nghi và tồn tại, chúng buộc phải có sự kết hợp và biến đổi. Phật giáo Ấn Độ đã kết hợp với tục thờ Mẫu của tín ngưỡng bản địa để tạo thành hình tượng Mẫu Man Nương và hệ thống chùa Tứ pháp với những vị Phật Bà như Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn; quan niệm về cái chết, về kiếp luân hồi... cũng ảnh hưởng rất lớn đến tín ngưỡng thờ cúng của người Việt. Tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tứ phủ, thờ các vị anh hùng, thần linh, thờ thổ công, thổ địa... có sự chi phối của tư tưởng thiên - địa - nhân hợp nhất của đạo Nho. Triết lí đề cao gia đình, gia tộc cùng với nội dung chữ hiếu của Khổng giáo đã làm cho tín ngưỡng thờ cúng càng có ý nghĩa hơn. Còn Đạo giáo góp phần làm phong phú thêm cho các nghi thức thờ cúng của người Việt thông qua các hành động có tính ma thuật như gọi hồn, bùa chú, đốt vàng mã..., từ đó củng cố niềm tin của con người vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên của những linh hồn, thúc đẩy sự kết nối, thông giao giữa người sống và người chết, cõi dương và cõi âm. Điều kiện lịch sử, xã hội cũng tác động đến tục thờ cúng của người Việt. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và thời kì hậu chiến, nhiều lễ hội đã bị tạm dừng hoặc được tổ chức khá đơn giản. Ngày nay, khi đời sống kinh tế đã ổn định và phát triển hơn, hoạt động thờ cúng không chỉ được chú trọng trong khuôn khổ gia đình, dòng tộc mà còn mở rộng ra phạm vi làng xã, quốc gia. Hội làng được tổ chức thường niên để tưởng nhớ công trạng của các vị thành hoàng, các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa... Tuy nhiên, tư duy thực tế và sự tác động của nền kinh tế thị trường của xã hội hiện đại cũng in dấu ấn trong tục thờ, mà điển hình là tư tưởng cầu may, cầu tài lộc, thậm chí là cả cách hành xử “mặc cả với thánh thần” của một số người. “Các loại truyền thuyết nhất định cũng chứa đựng tín ngưỡng dân gian trong cốt lõi của chúng” [90, tr. 279] và biểu hiện đậm nét nhất của tín ngưỡng dân gian trong truyền thuyết chính là tục thờ cúng. Trong lễ hội cổ truyền, nghi thức thờ cúng mang tính thiết yếu và có vai trò vô cùng quan trọng. Nó hiện hữu trong thời gian thiêng của lễ hội, được thực hiện một cách quy củ, thành kính đúng như lời nhận xét của GS. Đinh Gia Khánh: “Việc thờ phụng thần cũng như việc mở lễ hội định kì (thường là mỗi năm một lần) để tôn vinh thần và cầu mong sự phù hộ của thần thường được tiến hành với những tục lệ có khi rất cầu kì, với những nghi thức bao giờ cũng nghiêm mật” [45, tr. 331]. Biểu hiện vật chất của tục thờ là các ngôi đình, đền, miếu... và để lí giải cho sự tồn tại của các di tích mang tính tín ngưỡng ấy chính là các sự tích, truyền thuyết liên quan. Truyền thuyết là tiền đề cho sự hiện hữu của tục thờ và ngược lại, tục thờ lại giúp truyền thuyết tồn tại và được lưu truyền rộng rãi, nhuận sắc qua thời gian và không gian. Mối quan hệ ấy cho thấy sự tồn tại không thể tách rời của hai yếu tố này. Như vậy, “gắn với nghi lễ thờ cúng chính là một tín hiệu để nhận diện các nhân vật và tác phẩm truyền thuyết” [31, tr. 58]. Truyền thuyết và nghi lễ, trong đó có tục thờ, tuy là hai phạm trù khác nhau nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chất keo gắn kết hai phạm trù này chính là nhân vật trung tâm trong mỗi truyền thuyết. Các nhân vật được phụng thờ chủ yếu là những người anh hùng, danh nhân văn hóa... đã được nhân dân ghi nhận công trạng. Họ không chỉ bất tử trong tâm thức dân gian mà đã trở thành thần thánh, thành hoàng làng, chủ thần của một lễ hội... Việc nhân dân thờ tự và mở hội tưởng nhớ công lao của họ chính là biểu hiện của lòng biết ơn sâu sắc, sự lưu giữ một nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt. Tục thờ thường đi kèm với một số nghi thức mang tính đặc thù liên quan đến cuộc đời nhân vật lúc sinh thời, với tục hèm, kiêng kị... Những thành tố này gắn bó chặt chẽ với nhân vật được phụng thờ và được lưu giữ trong truyền thuyết. Ví dụ: hội Gióng luôn diễn cảnh ông hiệu cờ (hiện thân của Thánh Gióng) phất cờ hất tung ba chiếc bát trên ba chiếc chiếu (tượng trưng cho đồi núi và cánh đồng) nhằm tái hiện sức mạnh vô song của người anh hùng trước kẻ thù; từ tết Nguyên đán đến trước ngày mùng sáu tháng ba âm lịch, người dân Hát Môn kiêng ăn món bánh trôi vì theo truyền thuyết, Hai Bà Trưng đã ăn bánh trôi vào mùng sáu tháng ba âm lịch trước khi tuẫn tiết; trong lễ cúng vua Đinh của dân làng Trường Yên phải kiêng món lòng lợn vì đó là món ăn mà vua bị hạ độc... Bên cạnh đó, các nghi thức thờ tự cũng cho ta thấy phần nào thái độ, quan điểm của người đời đối với các nhân vật được thờ phụng. Chẳng hạn, tay ngai ở long sàng vua Đinh ngự thì hai đầu rồng chầu ra ngoài (thuận chiều) nhưng tay ngai vua Lê ngự thì hai đầu rồng lại quay về phía sau (ngược chiều) [21, tr. 70] hoặc đền vua Đinh cao hơn đền vua Lê nên dân gian còn gọi hai ngôi đền này là “đền Đinh thượng miếu, đền Lê hạ từ”; Lý Chiêu Hoàng được thờ riêng ở một ngôi đền nằm ở phía tây (phía mặt trời lặn, biểu tượng cho sự tàn tạ) của Thọ Lăng Thiên Đức, nơi yên nghỉ của các vị vua triều Lý... Cùng với bước đi của thời gian, tục thờ cũng có những thay đổi theo các diễn ngôn và hệ tư tưởng của từng thời đại. Tục chém lợn trong hội làng Ném Thượng (Bắc Ninh) vốn rất trọng đại với người dân địa phương nhưng hiện nay, do bị dư luận phản đối vì tính chất bạo lực, phản cảm nên nó đã được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế, đồng thời vẫn giữ được tập tục cổ truyền. Nói chung, mối quan hệ giữa tục thờ cúng và truyền thuyết là mối quan hệ có tính quy luật, có sự gắn bó khăng khít không thể tách rời. Nghi thức thờ cúng mang lại tính thiêng cho truyền thuyết, ngược lại, truyền thuyết giải thích và hợp thức hóa tục thờ. Cả hai thành tố này đã góp phần khẳng định, tôn vinh và thiêng hóa nhân vật được thờ phụng. Mối quan hệ giữa hai thành tố này cũng đặt ra một yêu cầu đối với với người nghiên cứu truyền thuyết, đó là cần tìm hiểu những di tích thờ tự và tục thờ cúng liên quan đến những di tích ấy. Cùng với truyền thuyết, nhân vật Dương Vân Nga đã và đang được phụng thờ ở nhiều địa phương. Quá trình tìm hiểu nhân vật này trong truyền thuyết và tục thờ một lần nữa giúp chúng tôi khẳng định thêm mối quan hệ gắn bó tất yếu giữa hai thành tố này, đồng thời cũng hiểu sâu hơn về một nhân vật đặc biệt đang được thờ phụng trong dân gian. 1.3.3. Vấn đề truyền thuyết và văn bản hóa truyền thuyết V.Ia.Prop đã khẳng định rằng folklore là lĩnh vực của “những sáng tạo tinh thần, hơn nữa chỉ là những sáng tạo ngôn từ”. Việc nghiên cứu folklore tất yếu sẽ phải dựa vào chất liệu ngôn từ ấy. Folklore nói chung, truyền thuyết nói riêng được lưu truyền và tiếp nhận theo hai hướng: truyền khẩu và văn bản hóa. Truyền khẩu là dạng thức tồn tại đích thực của truyền thuyết, lưu giữ tác phẩm bằng trí nhớ của dân gian, còn văn bản hóa là “việc ghi chép lại truyện lưu hành trong dân gian theo cách của từng tác giả chứ không hư cấu thêm” [1, tr. 203], nghĩa là lấy cốt truyện và các motif để tổ chức, sắp xếp thành truyện. Cho đến nay, vấn đề văn bản hóa truyền thuyết vẫn được duy trì và đã góp phần tích cực vào việc bảo tồn thể loại này, thậm chí nó còn được chú trọng nhằm góp phần quảng bá hình ảnh của một địa phương hoặc vùng đất từ góc độ văn hóa, đặc biệt là văn hóa tâm linh. Qua các nguồn thư tịch, ta biết rằng truyền thuyết đã xuất hiện trong chính sử thời phong kiến (Đại Việt sử kí toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục...) bởi nó thể hiện được vai trò đắc địa của mình trong việc bổ khuyết những khoảng trống của chính sử. Khi được văn bản hóa, truyền thuyết dân gian đã thoát khỏi tình trạng “truyền khẩu nôm na” và được chú trọng hơn, dù việc ghi chép ấy cũng không tránh khỏi cái nhìn đầy hồ nghi về các chi tiết hoang đường trong truyền thuyết khi tái hiện lịch sử: “Chuyện rùa vàng đáng tin chăng? (...) Đến như chuyện Mỵ Châu rắc lông ngỗng chỉ đường, thì chưa chắc đã có. Nếu có thì chỉ một lần là phải, thế mà sau này con gái Triệu Việt Vương lại bắt chước mà cũng nói như thế, là làm sao? Có lẽ người chép sử cho rằng nhà Thục và nhà Triệu mất nước đều do con rể, cho nên nhân một việc mà nói hai lần chăng? Thế thì việc ma quỷ làm đổ thành cũng đáng tin sao?” [55, tr. 126]. Chính nhờ đặc điểm lấy lịch sử làm sự kiện trung tâm nên truyền thuyết đã trở thành đối tượng được quan tâm và được văn bản hóa. Tất nhiên, việc văn bản hóa này không phải vì bản thân nó - với tư cách là một thể loại của văn học dân gian - mà chỉ đơn thuần vì chức năng lưu giữ lịch sử của nó mà thôi. Quá trình lưu truyền truyền thuyết trở nên dễ dàng và bền vững hơn khi được cố định hóa bằng văn bản, song cũng bị “cắt gọt”, chỉnh sửa cho phù hợp với tư tưởng, quan niệm của thời đại hoặc của người ghi chép. Ví dụ, việc ghi chép những truyền thuyết về thời kì đầu của lịch sử nước ta trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục so với Đại Việt sử kí toàn thư đã có sự thay đổi (truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ không còn chi tiết bọc trăm trứng mà thay vào đó là 100 con trai, An Dương Vương không phải cầm sừng tê bảy tấc xuống biển mà là nhảy xuống biển chết...). Các nhà biên soạn bộ sử này đã giải thích việc chỉnh sửa như sau: “Sử cũ nước ta chép về đời Hồng Bàng thị, có danh hiệu Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân nhưng lúc ấy là thời đại thượng cổ, hãy còn hỗn độn lờ mờ, tác giả chỉ dựa vào chỗ bâng quơ mà biên soạn ra, rồi e rằng không có gì làm căn cứ để cho người ta tin” [70, tr. 22]. Tương tự như vậy, các điềm báo sự ra đời kì lạ, đặc điểm kì lạ của Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn... được lưu giữ trong chính sử phong kiến cũng chỉ nhằm thần thánh hóa xuất thân của các bậc đế vương này. Như vậy, việc chỉnh sửa như trên nhằm đưa truyền thuyết về gần với đời sống thực, khiến người đọc có thể tin tưởng hơn vào những điều đã được ghi chép trong chính sử. Dù chuyện cắt bỏ yếu tố hoang đường là điều cần thiết và chính đáng xét từ góc độ sử liệu truyền miệng nhưng nó đã làm mất đi rất nhiều nét hấp dẫn của thể loại truyền thuyết. Đây là điều mà E.B. Tylor đã lên tiếng cảnh báo: “Sự lẫn lộn các sự kiện với các ngụ ngôn trong những truyền thuyết về những con người vĩ đại cho thấy rằng những truyền thuyết mang những hư cấu kì quái vẫn có thể có cơ sở ở những sự kiện lịch sử. Nhưng chính vì thế mà các nhà huyền thoại học đã sử dụng nhiều phương pháp nhằm biến truyền thuyết thành lịch sử. Làm như vậy, họ đã làm mất đi ý nghĩa của những huyền thoại mà họ muốn giải thích và đã bóp méo lịch sử mà họ muốn làm cho nó phong phú hơn. Họ coi những điều kì lạ trong truyền thuyết như những sự kiện có thực, chỉ bị che giấu bằng ẩn dụ. Theo chúng tôi, chỉ cần nêu ra những kết quả của cách tiếp cận này cũng là một sự phê phán nghiêm khắc với nó rồi” [111, tr. 380]. Bên cạnh đó, tác giả của Văn hóa nguyên thủy cũng khẳng định rằng dù những lối giải thích cũ ấy có thông thái và sắc sảo thì chắc chắn phần lớn những giải thích của chúng không cần phải được chú ý, không phải vì chúng không đúng với sự thật mà vì ngày nay điều “giống như thật ấy hoàn toàn không được coi là một ưu điểm trong việc giải thích các huyền thoại” [111, tr. 381]. Vì bị chỉnh sửa theo chủ ý của người biên soạn nên khi rời môi trường diễn xướng của mình, một vài yếu tố trong nội dung truyền thuyết đã có những biến đổi trong một giới hạn nhất định. Nếu như dân gian kể rằng Gióng là con của bà lão nghèo với một vị thần có dấu chân “vừa tày năm gang” thì trong Lĩnh Nam chích quái, Gióng lại xuất thân trong một gia đình phú hộ. Truyện cổ tích cũng có chung đặc điểm này, ví dụ: một số bản kể Tấm Cám được cố định hóa bằng văn bản đã bị cắt bớt phần kết truyện (đoạn Tấm trả thù mẹ con Cám). Sự biến đổi như vậy kéo theo những thay đổi ở cả nội dung và nghệ thuật của truyền thuyết, “tước đi nhiều vẻ đẹp hồn nhiên, phong phú của truyền thuyết dân gian” [1, tr. 141]. Dù tồn tại ở môi trường diễn xướng (truyền khẩu) hay đã được cố định hóa bằng văn bản, truyền thuyết luôn tích hợp trong nó hai “chủ thể thông tin” - người sáng tạo ra nguồn tư liệu - là tác giả dân gian và người sưu tầm, biên soạn. Ở vai trò nào thì “chủ thể thông tin” cũng hết sức quan trọng bởi “nó phản ánh đối tượng một cách gián tiếp bằng ý thức của chủ thể”. Cả hai chủ thể này đều thể hiện tính chủ quan trong quá trình sáng tạo và sáng tạo lại truyền thuyết: có thể thêm bớt sự kiện, thông tin nào đó theo cảm quan của họ. Sự tương đồng, mối quan tâm chung của họ là cùng hướng tới một đối tượng thông tin (đối tượng được phản ánh trong văn bản), dù ngôn ngữ kể trong hai môi trường tồn tại của truyền thuyết có những khác biệt: khi được truyền khẩu, ngôn ngữ kể kết hợp với các yếu tố khác như giọng điệu, động tác, biểu cảm... của người kể và hoàn cảnh diễn xướng (lễ hội, nghi thức thờ cúng) đã đưa người tiếp nhận tác phẩm (qua kênh nghe/ xem hoặc cả hai) vào không gian cộng cảm của tập thể, hướng tới cõi thiêng bằng niềm tin; còn khi được văn bản hóa, ngôn từ là yếu tố duy nhất và quan trọng nhất để người đọc có thể thẩm thấu được nội dung và ý nghĩa của tác phẩm, trong khi đó, những yếu tố khác liên quan đến diễn xướng không còn hiện diện. Bên cạnh xu hướng được cố định hóa bằng văn bản, truyền thuyết còn được “văn học hóa”, đó là việc lấy một yếu tố như cốt truyện, motif, đề tài, nhân vật để sáng tạo nên một truyện kể hoàn toàn mới. Đây là hiện tượng “vay mượn” truyện dân gian của văn học viết. Xu hướng này xuất hiện và tồn tại khá phổ biến trong văn học viết. Ví dụ: Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Câu sấm vĩ về ngàn lau tím (Ngô Văn Phú), Danh nhân lịch sử - Dương Vân Nga, hoàng hậu hai triều (Hoàng Công Khanh)... Xu hướng này “mượn chất liệu văn học dân gian (cụ thể là truyền thuyết dân gian) để thể hiện những vấn đề của đời sống đương đại với một khuynh hướng cảm hứng khác hẳn” [1, tr. 205] nên không thuộc phạm vi nghiên cứu của văn học dân gian. Tuy vậy, nó phản ánh một thực tế rằng văn học dân gian vẫn luôn là ngọn nguồn nuôi dưỡng văn học viết. Ngoài ra, cũng cần đề cập đến hiện tượng truyền thuyết được chuyển thể thành các loại hình khác của văn học nghệ thuật. Trong bài viết The vanishing “urban legend” (Sự biến mất của truyền thuyết đô thị), Jan Harold Brunvand [123] đã nhắc đến những câu chuyện truyền miệng được chuyển sang các hình thức khác như: phim truyền hình và điện ảnh, chuyển thể văn học, một câu chuyện hài hước trong một truyện tranh nổi tiếng... Ở Việt Nam, hiện tượng này cũng khá phổ biến. Nhiều nhân vật truyền thuyết đã trở thành nhân vật của phim kịch, chèo, cải lương, phim hoạt hình... Ví dụ: Hai Bà Trưng trong vở cải lương Tiếng trống Mê Linh, Ỷ Lan trong vở chèo Bài ca giữ nước, Lê Lợi trong Truyền thuyết hồ Gươm (phim hoạt hình)...   Tóm lại, trong quá trình lưu truyền, văn bản hóa truyền thuyết là một hiện tượng mang tính tất yếu. Thực tế này giúp truyền thuyết tồn tại bền vững hơn, đặc biệt trong tình hình mà thời hoàng kim của văn học dân gian nói chung, thể loại truyền thuyết nói riêng đến nay chỉ còn vang bóng. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ điểm bất cập là một số bản kể đã có sự chỉnh sửa, “cải tiến” thành những “chuẩn mực mĩ học của một lớp khán giả đọc”, khiến chúng có phần sai khác với nguyên bản của dân gian. Đó là chưa kể hiện tượng văn học hóa truyền thuyết cũng có những tác động nhất định đến truyền thuyết dân gian... Hiện tượng này đòi hỏi người nghiên cứu phải thận trọng, tránh đánh đồng truyền thuyết đã được cố định hóa bằng văn bản với truyền thuyết tồn tại trong môi trường diễn xướng đích thực của nó. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ trở lại trong chương 4 của luận án. Một số lí thuyết khác Trong quá trình nghiên cứu đề tài, bên cạnh những lí thuyết chủ yếu đã nêu ở trên, chúng tôi còn vận dụng một số lí thuyết khác khi xử lí nội dung từng phần hoặc từng mục của luận án như lí thuyết về type và motif, lí thuyết về biểu tượng, lí thuyết ti... kể của cụ Sót (80 tuổi) và ông Đinh Trọng Chính (xã Gia Thủy, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) Thuở nhỏ, Dương Vân Nga và các bạn cùng trang lứa chọn một vùng rộng lớn ở Nga Mi để thả trâu. Tuy nhiên, Đinh Bộ Lĩnh thường kéo đám bạn chăn trâu theo dòng Hoàng Long lên Nga Mi chiếm bãi chăn của Vân Nga. Vân Nga bèn cùng đám bạn mình đan tre nứa thành những chiếc thuyền thúng lớn đánh lại đội của Bộ Lĩnh, khiến quân của Bộ Lĩnh thua to. Bị đánh bại, quân của Bộ Lĩnh bèn đan những chiếc thuyền nhỏ hình lá tre, cho vài chiếc ra khiêu chiến, vờ rút chạy rồi cho cả đội thuyền bất ngờ xông ra, nhằm thuyền thúng mà chọc thủng. Hai đội quân cứ đánh qua lại mãi nhưng đội quân thuyền thúng chẳng mấy khi ngăn được đội thuyền tre. Bởi vậy, dân gian mới có câu “Thuyền tre đè thuyền thúng”. Truyền thuyết hoa quỳnh - Theo lời kể của cụ Nguyễn Thị Chức, 81 tuổi (thôn Trung Yên Thượng, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) Sau khi trở thành hoàng hậu, Dương Vân Nga trở về quê nhà, truyền lệnh mở dạ tiệc để ban thưởng cho dân làng và yêu cầu các thôn nữ từ 16 tuổi nếu muốn dự tiệc phải trùm khăn che mặt để không ai xinh đẹp hơn bà. Thế nhưng, trong đêm hội đó, hương thơm ngào ngạt của hoa quỳnh đang nở rộ đã khiến mọi người quên mất việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bà. Dương Vân Nga tức giận liền lệnh cho quân lính nhổ hết loài cây hoa đó và đem bỏ vào vùng rừng núi hoang vu. Từ đó người dân Gia Thủy, Gia Hưng đều có tục kiêng trồng hoa quỳnh và các loài hoa nở vào ban đêm. Mối tình thuở thiếu thời (Sưu tầm ở xã Thiệu Long, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa) Nghe tin ở làng Giàng (Thiệu Long, Thanh Hóa ngày nay), họ Dương mở lò võ tuyển mộ nhân tài, Lê Hoàn bèn khăn gói đến xin học. Thời gian rèn luyện ở đây, chàng gặp gỡ và có cảm tình với người con gái út của Dương Tam Kha là Dương Vân Nga tuổi độ trăng tròn. Nàng mến mộ Lê Hoàn vì văn võ toàn tài, cần cù chịu khó. Lê Hoàn cũng cảm mến người con gái xinh đẹp ấy. Tuy nhiên, vì gia cảnh nghèo hèn nên Lê Hoàn không thể nên duyên cùng Dương Vân Nga. Sau này, họ gặp lại nhau khi một người đã trở thành hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng, còn một người là Thập đạo tướng quân dưới triều Đinh. Tộc Dương đổi họ - Theo lời kể của chị Đỗ Thị Loan (thuyết minh viên của Ban quản lí di tích lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư - Ninh Bình) Nhận được tin giặc Tống sắp kéo sang xâm lược Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga ban lệnh: ai dẹp yên được giặc thì ngôi thiên tử sẽ thuộc về người đó. Các đại thần biết tin vào triều can gián nhưng Thái hậu một mực không thay đổi. Nội tộc của Dương Vân Nga, gốc ở Vân Lung cũng kéo vào nội điện tỏ ý không đồng tình với bà. Khi tướng quân Phạm Cự Lượng cùng các tướng đồng lòng nhất trí tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi thiên tử thì bà đã lấy áo long cổn trao cho Lê Hoàn. Sau khi Lê Hoàn đánh thắng quân Tống trở về, bà đã đi thuyền rồng ra cửa Hải Đài nghênh đón và cùng Lê Hoàn nghỉ lại trên sông. Tương truyền lúc Lê Hoàn bước lên thuyền rồng thì có một đám mây che kín thuyền nên con sông từ đó có tên là Vân Sàng. Sau ngày Lê Hoàn lên ngôi vua, Dương Vân Nga trở thành hoàng hậu, Đinh Toàn bị giáng làm Vệ Vương, hầu hết nội tộc họ Dương rời kinh đô Hoa Lư về Vân Lung và quyết đổi họ Dương thành họ Giang để không công nhận Vân Nga còn thuộc họ tộc nữa. Khi sống bà mang họ Dương nhưng khi chết thì được khấn cô hồn là Giang Vân Nga, dân gian gọi là sinh Dương, tử Giang. Sự tích đền Đồng Bến - Theo lời kể của cụ Đinh Văn Tính, (thủ đền Đồng Bến) 81 tuổi, tổ dân phố 6, đường Đông Phương Hồng, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình Quân Tống nhân sự kiện cha con vua Đinh bị sát hại đã chuẩn bị lực lượng kéo sang xâm lược nước ta. Trước tình cảnh đất nước lâm nguy, Thái hậu Dương Vân Nga cùng với tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua. Trước ngày Lê Hoàn lên đường cầm quân đánh giặc, Dương Thái hậu đã trao áo long cổn cho Lê Hoàn ở điện Vân Sàng, nay là khu vực đền Đồng Bến. Phía trước đền có một cây lộc vừng lớn, tương truyền đó chính là nơi bà Dương Vân Nga trao áo cho Lê Hoàn. Sự tích sông Vân Sàng - Theo lời kể của cụ Đinh Văn Tính, (thủ đền Đồng Bến) 81 tuổi, tổ dân phố 6, đường Đông Phương Hồng, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình Sau khi trao ngôi cho Lê Hoàn, Dương Vân Nga hẹn rằng nếu ông đánh thắng giặc Tống thì bà sẽ đích thân ra bến sông nghênh đón. Khi Lê Hoàn thắng giặc trở về, y hẹn, bà đã đi thuyền rồng ra đón và đặt giường ngủ trên sông để rước vua đến nghỉ. Khi vua đến, giường của hai người có đám mây ngũ sắc bao quanh nên con sông ấy được gọi là sông Vân Sàng. Tượng bị đánh và đổ mồ hôi - Theo ông Hoàng Xuân Úy, 75 tuổi - thôn Cổ Loan Thượng, xã Ninh Tiến, Ninh Bình Trước kia, tượng bà Dương Vân Nga ở đền vua Đinh. Về sau một ông quan nói rằng “xuất giá tòng phu” (lấy chồng phải theo chồng), dân làng Trường Yên mới rước bà sang đền vua Lê. Khi rước ra ngoài sân thì tượng bà toát mồ hôi. Theo tục xưa, mỗi khi đến ngày giỗ vua Đinh là dân làng lại làm lễ rước tượng bà từ đền thờ vua Lê sang đền vua Đinh một ngày, cúng xong lại trả “bà” về. Tuy nhiên, trước khi rước tượng lên kiệu thì họ phải lật tượng lên đánh mười roi. Truyện phơi triều phục tiết thanh minh - Theo lời kể của ông Trần Văn Tảo, thủ đình Mỹ Hạ (thôn Cây Xa, xã Gia Thủy, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) Mỹ Hạ (miền đất đẹp dưới trần gian) tương truyền là nơi Đinh Bộ Lĩnh chào đời. Đình Mỹ Hạ thờ vua Đinh và hoàng hậu Dương Vân Nga. Hiện trong hậu cung của đình còn lưu giữ hai bộ triều phục của vua Đinh và bà Dương hậu. Hàng năm, vào đúng Ngọ ngày thanh minh, dân làng Mỹ Hạ làm lễ và phơi hai bộ triều phục này. Vào ngày này, nếu trời có mưa thì đến đúng Ngọ sẽ hửng nắng (người dân gọi là “hào quang”). Ngôi đình này đã hai lần bị cháy bởi bom napan của thực dân Pháp, nhưng cả hai lần, lửa chỉ cháy đến chính điện long cung rồi tắt, nhờ thế mà đến nay còn lại hai cỗ ngai thờ, hai vương miện, một hộp đựng các sắc phong và hai bộ triều phục, trong đó, hai bộ triều phục là thứ quý nhất của ngôi đình, vì theo tương truyền, chúng là lễ phục của vua Đinh và hoàng hậu Dương Vân Nga khi hai ngài thực hành các nghi thức lễ nghi tại quê nhà. Dương Vân Nga và con cháu ở đền Bạch Mã Tương truyền Dương Vân Nga và Lê Hoàn có một người con gái tên là Lê Thị Phất Ngân. Đến tuổi trưởng thành, công chúa Phất Ngân được vua cha gả cho tướng quân Lý Công Uẩn. Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn đã lập Phất Ngân làm hoàng hậu, sau bà trở thành hoàng thái hậu (mẹ của vua Lý Thái Tông). Bà còn có một người con khác là Lý Nhật Quang. Lý Nhật Quang được anh và cũng là vua Lý Thái Tông cắt cử trị nhậm vùng đất Nghệ An. Thời gian sống ở vùng đất này, ông đã cho dựng đền Bạch Mã (xã Liên Thành, huyện Yên Thành ngày nay) để thờ vọng cha mẹ cùng bà ngoại Dương Vân Nga và sau là anh trai (vua Lý Thái Tông) của mình. Truyện về bà Dương Vân Nga - theo lời kể của bà Phạm Thị Mai (73 tuổi, thôn Trung, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) Tương truyền Dương Vân Nga khi vừa chào đời đã khóc ra rả không ai dỗ được. Một hôm, có một ông đạo sĩ đi qua nhà, thấy vậy, bèn dỗ rằng: “Nín đi thôi, nín đi thôi! Một vai gánh vác cả đôi sơn hà”. Khi chào đời, bà rất xinh đẹp nên cha mẹ đã lấy tên hai quê nội ngoại Vân Long và Nga Mi để đặt tên cho bà là Vân Nga, có nghĩa là cô gái mắt phượng mày ngài, xinh đẹp mềm mại như mây. Xuất thân là con một nhà nghèo ở Mỹ Hạ, bà phải làm thuê cấy mướn cho nhà giàu để sinh sống. Một lần, Đinh Bộ Lĩnh đi qua làng Mỹ Hạ, nghe thấy tiếng hát rằng: “Tay cầm bán nguyệt xênh xang/ Hàng trăm ngọn cỏ lai hàng tay ta” bèn dừng lại lắng nghe. Thấy cô gái xinh đẹp lại có lời hát đầy khẩu khí: tay cầm liềm mà ví như đang cầm một vành trăng non, những ngọn cỏ bị cắt giống như đội quân đang quy hàng, ông bèn đưa về cung làm hoàng hậu. Nhà vua cho xây một cái hồ bán nguyệt ở trong cung để hàng ngày bà ngắm dung nhan và cũng để ghi nhớ câu chuyện lần đầu hai người gặp gỡ (cái liềm cắt cỏ của bà như vầng trăng non và hồ bán nguyệt cũng giống vầng trăng non). Vì thế, chỉ đền Đinh mới có hồ bán nguyệt, còn đền Lê thì không. Sau đó, bà đã sinh hạ một hoàng tử tên là Đinh Toàn. Sau khi Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng bị sát hại, nhà Tống biết triều đình nhà Đinh đang yếu thế, Đinh Toàn còn quá nhỏ, chưa thể cầm quân bèn có ý đồ xâm lược Đại Cồ Việt. Trong lúc Dương Vân Nga đang băn khoăn vì chưa tìm được người tài đi đánh giặc thì Lê Hoàn, một vị tướng giỏi nhất triều Đinh lên tiếng xin đi dẹp giặc. Bà bèn làm lễ trao áo long bào và thanh gươm báu cho Lê Hoàn. Khi Lê Hoàn thắng trận trở về đến núi Non Nước giữa lòng thành phố Ninh Bình (ngày nay), bà đã đi thuyền rồng (vì ngày ấy chưa có đường bộ) đến chân núi Non Nước đón Lê Hoàn và cùng ông nghỉ lại trên sông. Tương truyền khi Lê Hoàn vừa bước lên thuyền thì có một đám mây ngũ sắc bao phủ lấy con thuyền. Từ đó, con sông nơi bà đón Lê Hoàn có tên là Vân Sàng. Sau khi lên làm vua, Lê Hoàn đã lập bà làm hoàng hậu. Sau khi mất, tượng bà được đặt ở đền vua Đinh, cùng thờ với hai vua nhưng sau đó, một ông quan cho rằng bà đã xuất giá nên không được phép ở cùng chồng cũ. Tượng bà được chuyển sang đền vua Lê. Vì chuyện chuyển tượng này mà ông quan đó bị đứt ruột chết. Tượng bà ở đền vua Lê luôn hướng về đền vua Đinh, bởi lẽ tình cảm của bà với người chồng đầu tiên còn rất sâu đậm. Mỗi khi cúng vua Đinh, dân làng lại rước tượng bà về để gặp lại chồng cũ. Khi rước trở lại đền vua Lê, tượng rất nặng và ướt như người tắm. Đó là do bà khóc vì không muốn về với người chồng thứ hai. Dương Vân Nga và tục cầu con - theo lời kể của bà Phạm Thị Mai (73 tuổi, thôn Trung, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) Trong lễ hội Trường Yên có tục rước nước từ sông Hoàng Long về đền Thượng (đền vua Đinh). Các trinh nữ rước chiếc lục bình lớn trong đền lên kiệu ra bến sông rồi cho xuống thuyền. Một cụ già nhất làng chèo thuyền ra giữa sông lấy nước đem về đền. Trong tục rước nước, bên cạnh chiếc kiệu còn có một cái võng đào, chiếc võng ấy dành cho bà Dương Vân Nga. Những người hiếm con hoặc nuôi con khó khăn thì chui qua võng ba lần hoặc ném tiền vào võng để cầu con hoặc cầu sức khỏe cho đứa trẻ, thường rất ứng nghiệm. Thành hoàng làng Bách Cốc - Theo lời kể của các ông Nguyễn Đình Hùng - 78 tuổi, Nguyễn Tài Tuân - 74 tuổi (xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) Năm 980, giặc Tống đem quân sang xâm lược nước ta. Đất nước cần người tài giỏi để lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống ngoại xâm. Khi thấy tướng sĩ muốn tôn lập Lê Hoàn lên làm vua, Thái hậu Dương Vân Nga đã đồng tình và tự tay khoác áo long cổn và mời ông lên ngôi để đem quân đánh giặc Tống. Để chuẩn bị cho kháng chiến, Thái hậu đã đảm trách công việc huy động lương thảo cung cấp cho binh sĩ và địa bàn vận động chính là vùng đất Nam Định ngày nay. Tương truyền có lần thuyền rồng của bà đã đến vùng Thiên Bản là nơi tập trung quân lương của Đô Hiệu lương thảo sứ Phạm Phòng Át. Bến Ngự là dấu tích bà dừng thuyền, động viên nhân dân làng Bách Cốc chở lương ra trận. Để ghi nhớ việc này, làng đã lập đền thờ Thái hậu (gọi là vua Bà). II. Các bản kể thành văn Sắc đẹp mê hoặc của Dương Thiệu Nga - theo Hoàn Vương ca tích Dương Thiệu Nga là con của một người tiều mục, mười tám tuổi, nàng lọt vào mắt xanh của Đinh Bộ Lĩnh và trở thành người vợ yêu nhất của ông vì sắc đẹp mê hoặc: môi son đỏ rực, mặt hoa da phấn, mắt sáng như sao, tóc mềm mại như mây. Nhan sắc của nàng làm rực rỡ cả cung vua. Chàng tướng trẻ Lê Hoàn lần đầu gặp mặt đã say mê nàng đến nỗi ngay tối hôm ấy mộng thấy chim thần mang thả chàng vào phòng Thiệu Nga. Chàng sợ hãi toan tìm đường chạy trốn thì nàng đã kéo áo chàng lại... Từ đó, sợ lỗi đạo quân thần với Đinh Đế, chàng phải lánh mặt Thiệu Nga. Còn vua Đinh vì say đắm vẻ đẹp của nàng mà trễ nải cả chuyện chính sự khiến Đinh Điền, công thần trong triều và cũng là chú của nhà vua vô cùng tức giận. Truyện ở vùng núi Bảng - theo Nguyễn Văn Trò (2008), Di tích lịch sử văn hóa về hai triều Đinh - Tiền Lê ở Ninh Bình, Nxb Văn hóa dân tộc Tương truyền sau khi lên làm vua, Đinh Bộ Lĩnh vẫn thường đi ngao du đây đó. Một hôm, nhà vua đến vùng đất Gia Lạc, thấy sông núi hữu tình, bèn cho dựng cung điện Tây Ưng ở núi Bảng để ông và hoàng hậu Dương Vân Nga đến thưởng ngoạn. Vì bà hoàng hậu họ Dương đã tắm ở con sông gần núi Bảng nên sau này dân gian đã lấy họ của bà mà đặt tên cho núi nhưng vì kiêng húy nên gọi chệch thành núi Giang. Còn nơi nhà vua dừng thuyền thì gọi là bến Ngự. Hàng năm, vào ngày rằm tháng bảy âm lịch, người dân nơi đây mở hội và có tục táng thuyền rồng để tưởng nhớ những lần thuyền rồng của nhà vua đã từng đến ngự. Cuộc tình gốc cây - theo Hoàn Vương ca tích Ngay khi vua Đinh đang tại vị thì Dương hậu đã tư thông với Lê Hoàn. Dù sống cạnh vua Đinh nhưng nàng đã “khi vào lúng liếng, khi ra chạm mình” với Lê Hoàn. Không những thế, họ còn gặp gỡ riêng tư ở chốn rừng sâu trong cảnh “mây trải”, “gió bay”. Thúc phụ của Đinh Tiên Hoàng và cũng là vị tướng triều đình là Đinh Điền cải trang thành ông lão tiều phu theo sát họ, định bắt quả tang thì lạ lùng thay nước từ tám quả đồi xung quanh phun lên thành một bức màn trắng xóa quây kín lấy họ khiến Đinh Điền không nhìn thấy gì nữa. Đinh Điền đành hậm hực ra về. Sau cuộc tình gốc cây ấy, Dương hậu sinh ra Đinh Toàn. Dương Thái hậu lâm nạn - theo Hoàn Vương ca tích Khi Phó vương ra quan ải dẹp loạn, ở triều đình đã xảy ra loạn Đinh Điểu, một danh họa vì mê đắm sắc đẹp của Dương Thái hậu mà nảy tà ý rắp tâm trước mua chuộc dụ dỗ bà rồi sau đoạt lấy sơn hà. Kế đó là Đinh Phàn, một viên quan coi việc triều nghi cũng nhân dịp có loạn mà rắp tâm làm liều. Thái hậu đã cho chém Đinh Phàn theo “pháp quy y trị”. Chính điều này đã tạo ra sự chia rẽ, phân chia tông tộc hai nhà Đinh - Lê. Đinh Điền sai người bắt Thiệu Nga, lột bỏ mũ mão, đóng gông, lôi ra pháp trường cho voi giày ngựa xé. Trong cơn Thái hậu gặp nguy khốn, nàng Cơ vốn là cung nữ của vua Đinh từng chịu ơn bà, đã nguyện đóng giả làm Thái hậu hứng chịu cái chết thảm để bà trốn thoát. Sự tích chùa Độc Cước - theo Hoàn Vương ca tích Khi đi lánh nạn, Dương Thiệu Nga cùng với hai cung nhân thay xiêm áo, đổi ngoại hình giả làm người hái thuốc nay đây mai đó, cuối cùng đến ngôi chùa Đề Cước (ở Sầm Sơn, Thanh Hóa ngày nay). Nàng gặp vị thượng tọa chùa đang làm lễ chiêu vong giải oan cho chính nàng bởi thương nàng vì mắc vào vương nghiệp mà họa đến thân. Nàng thấy thế xúc động nghĩ rằng thiên hạ vẫn còn nặng lòng với dòng họ Đinh và tự trách mình ngu tối, sống trong chốn hậu cung chẳng biết ai là bạn, ai là thù. Để báo đáp tấm thịnh tình, nàng nguyện ở lại làm việc cung văn giấy sớ cho nhà chùa. Một đêm, nàng ra con suối gần chùa tắm trong khung cảnh hết sức hữu tình. Vẻ đẹp của nàng khiến cho thiên nhiên cũng bị mê hoặc: nước duềnh lên, sóng mân mê, gió loanh quanh bên nàng... Cảnh tượng ấy khiến cho ông Phỗng trên sân chùa không cầm lòng được, đã bật lên tiếng cười thích thú làm lay chuyển cả chùa chiền, núi non. Nhà chùa hoảng sợ, dùng đủ mọi cách để bắt ông ngừng cười nhưng vô hiệu. Cuối cùng, họ đành dùng rìu chặt vào chân ông, ông đau quá mới ngậm miệng. Từ đó, chùa Đề Cước chuyển thành Độc Cước (nghĩa là một chân). Nhật nhật triều nghi - theo Hoàn Vương ca tích Sau khi đi lánh nạn trở về triều, Dương Thái hậu họp triều đình để thống nhất ý chí và phân công công việc. Bà buông rèm nhiếp chính thay con nhỏ Đinh Toàn. Ngoài những lúc lâm triều, bà buồn bã nghĩ đến cảnh chăn đơn gối chiếc. Ngày ngày bà thiết triều để gặp Lê Hoàn cho thỏa nỗi niềm trong lòng. Bà e ngại thế gian mỉa mai chuyện chồng chết lại tục huyền, hơn nữa trong lòng vẫn còn ân tình sâu nặng với Tiên Đế. Một hôm, bà nằm mộng gặp Tiên Đế, kể “nỗi dương trần”: dân loạn li, triều thần điên đảo. Tiên Đế liền nổi giận sai mang cũi hổ, vạc dầu trị tội “trăm loài dơ ố”. Bà cũng thú tội mình có tư tình với Lê Hoàn nhưng Tiên Đế không giận mà lau nước mắt cho bà. Từ đó trở đi, bà vẫn giữ nếp “nhật nhật triều nghi” (ngày ngày thiết triều để gặp Lê Hoàn). Không những thế, xong việc công ở triều trung, bà còn mời Phụ chính vào thâm cung. Bên ngoài bà cho Phạm Cự Lượng canh giữ, bên trong có tám người túc vệ trẻ bảo vệ. Thái hậu khuyên giải vua ta và sứ Tống - theo Hoàn Vương ca tích Sau khi bị Lê Hoàn đánh bại, vua Tống rất căm giận nhưng lại lo sợ nếu tiếp tục dùng vũ lực chưa chắc đã thắng bèn xoay sang đòn ngoại giao trước là san nỗi bất bình bại trận, sau là bắt vua Nam cống nạp theo phận chư hầu. Vua Tống sai sứ đoàn và một đội quân hùng mạnh xuống phục ở vùng Vân Đông rồi sai một sứ thần mang chiếu chỉ đến kinh đô thăm dò, nếu Đại Hành không tuân lệnh thì lập tức dùng vũ lực. Đại Hành xem xong chiếu chỉ, nổi giận xé ngay trước mặt sứ thần, mắng vua Tống gian tham và thét quân lôi sứ thần ra trói dưới chân thành, đợi lệnh hành quyết. Bách quan văn võ hả hê với thái độ cứng rắn của Đại Hành hoàng đế, chỉ có Dương hậu Thiệu Nga là hết lời can ngăn nhà vua: “Theo thần thiếp, tốt nhất là dùng cách trong yên trị, ngoài dung hòa, tránh gây chiến tranh loạn lạc. Hãy thả sứ thần về nước rồi cử người sang tỏ tình hòa hiếu. Bề ngoài tỏ ra lĩnh thần, phụng chỉ cũng là cách hay”. Đại Hành thấy có lí bèn thuận ý nghe theo. Biến cố dưới triều Đinh - theo Thiên Nam ngữ lục Đỗ Thích người làng Đại Đề, được vua Đinh tin dùng, sớm hôm cho hầu hạ bên mình. Một đêm nằm ngoài sân, bỗng có một ngôi sao sa vào miệng, cho là điềm đế vương, hắn chờ cơ hội giết vua để cướp ngôi. Nhân một hôm, biết vua và thái tử quá chén nghỉ ngoài sân cung, Đỗ Thích đã trèo tường vào dùng dao đâm chết cả hai cha con vua Đinh. Căm giận kẻ phản nghịch, Nguyễn Bặc, Đinh Điền liền đem binh tróc tìm Đỗ Thích, giết hắn cùng toàn bộ tông tộc của hắn. Riêng Lê Hoàn khi biết tin cha con vua Đinh bị sát hại thì mừng thầm trong bụng, coi như Đỗ Thích đã giúp mình. Đinh Vệ, con trai thứ của vua Đinh được triều thần tôn phù lên làm vua. Tuy con thơ nhỏ dại nối ngôi nhưng Dương hậu không đoái hoài mà chỉ chăm chút dồi phấn điểm trang, quần là áo lượt lả lơi rồi thông dâm với Lê Hoàn. Lê Hoàn được Thái hậu yêu nên lộng quyền, tự do ra vào cung cấm. Nhà Tống nhân nội biến triều Đinh mà liên minh với Chiêm Thành để cùng đánh chiếm nước ta. Khi có tin cấp báo, Thái hậu bèn phong Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, sai đi đánh Tống. Binh tướng, ngoại trừ tứ trụ triều Đinh, đã đồng lòng tôn Thập đạo lên làm vua. Dương hậu thấy vậy đành nghe theo, chuẩn bị áo hoàng bào và tỉ phù trao cho Lê Hoàn. Lê Hoàn lên ngôi, lập cung điện trên đất Bảo Thái Sơn (huyện Thanh Liêm, Hà Nam ngày nay). Truyện nhà Đinh - theo Đại Nam quốc sử diễn ca Sau khi lên ngôi hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng lập năm hoàng hậu. Nhà vua có phần chìm đắm trong tửu sắc mà xem nhẹ việc triều chính, thiếu đề phòng kẻ xấu dẫn đến họa Đỗ Thích. Sau họa biến nhà vua và con trưởng bị sát hại, triều đình tôn Đinh Toàn lên làm vua. Lê Hoàn tự xưng là Phó vương, tự do ra vào cung cấm, gian díu với Dương Thái hậu để thực hiện mưu toan lấy ngôi nhà Đinh. Đinh Điền, Nguyễn Bặc vì nước liều mình đem quân đánh lại Lê Hoàn nhưng thất bại. Khi quân Tống khởi binh xâm lược Đại Cồ Việt, Phạm Cự Lượng liền cùng các quan suy tôn Lê Hoàn lên làm vua. Dương Thái hậu cho người mang áo hoàng bào trong cung ra khoác lên người Lê Hoàn, tỏ ý đồng tình với các tướng sĩ. Sau đó, Dương Thái hậu đã trở thành hoàng hậu của Lê Hoàn. Sự tích cái tên Vân Nga - Nguyễn Văn Trò (1998), Cố đô Hoa Lư, Nxb Văn hóa dân tộc Vợ chồng Dương Thái Huyền là người hiếm con. Khi đã luống tuổi, bà Phạm Thị Thường, vợ ông mới sinh được một gái. Đứa bé mắt phượng mày ngài, vợ chồng Dương Thái Huyền mừng lắm, bàn cách đặt tên con thế nào cho xứng. Ông nói: - Tôi quê ở làng Vân Long (nay là Vân Lung, Gia Vân), nghĩa là rồng mây, bà quê ở làng Nga My (nay là Mỹ Hạ, Gia Thủy), nghĩa là mày ngài. Vì vậy đặt tên cho con là Vân Nga, nghĩa là người con gái yểu điệu như mây, vừa gắn với tên làng, vừa nói được ước nguyện của vợ chồng ta. Bà đồng ý với ông. Thế là cái tên Vân Nga ra đời từ đó. Từ cô gái cắt cỏ đến bà hoàng hậu - Nguyễn Văn Trò (1998), Cố đô Hoa Lư, Nxb Văn hóa dân tộc Lưu Phúc là bạn tâm giao của Đinh Công Trứ, thân phụ của Đinh Bộ Lĩnh. Khi sắp qua đời, Đinh Công Trứ nhờ Lưu Phúc giúp đỡ Đinh Bộ Lĩnh. Khi Đinh Bộ Lĩnh lên làm trại trưởng trại Đào Úc, Lưu Phúc có ý định tìm cho Đinh Bộ Lĩnh một người vợ đảm đang. Ông tìm mãi mà chưa thấy đám nào vừa ý. Một hôm ông đến vườn Rồng (Long viên) thôn Mỹ Hạ, thấy một cô gái có mây ngũ sắc che vừa cắt cỏ vừa hát: Anh đi tán tía tàn vàng Để em cắt cỏ bên đàng sao đang Tay cầm bán nguyệt xênh xang Hàng trăm ngọn cỏ lai hàng tay ta Ông thấy cô gái hát có khẩu khí, tay cầm liềm mà cô gái ví như cầm mặt trăng (bán nguyệt). Hàng trăm ngọn cỏ được cô ví như hàng trăm quân lính lai hàng trước tay mình. Ông định đến gần hỏi, thì thấy cô gái thoăn thoắt gánh cỏ về. Cô đi mất hút. Tuổi già theo không kịp, Lưu Phúc đành vào thăm bạn cũ là Dương Thái Huyền ở gần đó. Dương Thái Huyền gọi con gái ra tiếp nước. Lưu Phúc nhận ra đây chính là cô gái đã cắt cỏ ven sông. Hỏi ra Lưu Phúc mới biết tên cô là Dương Vân Nga. Ông liền hỏi cô về làm vợ cho Đinh Bộ Lĩnh. Thế là từ cô gái cắt cỏ ven sông, Dương Vân Nga đã trở thành vợ của trại trưởng tại Đào Úc và về sau trở thành hoàng hậu của vua Đinh. Một vai gánh cả đôi sơn hà - Nguyễn Văn Trò (1998), Cố đô Hoa Lư, Nxb Văn hóa dân tộc Dương Vân Nga lấy Đinh Bộ Lĩnh lúc còn trẻ. Khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế đã phong cho Dương Vân Nga làm chính cung hoàng hậu, gánh vác việc nội trợ của cả triều đình. Đinh Tiên Hoàng mất, con nhỏ nối ngôi. Nhân cơ hội đó, giặc Tống lăm le xâm lược nước ta. Đất nước ở trong tình trạng “nghìn cân treo sợi tóc”. Thái hậu Dương Vân Nga nói: “Ai có tài đánh giặc Tống, ta sẽ nhường ngôi con ta cho người đó”. Phạm Cự Lượng và quân sĩ đã suy tôn Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế. Trước ý nguyện ba quân, Thái hậu Dương Vân Nga đã lấy áo long cổn của vua Đinh trao cho ông. Không phụ lòng tin của Dương Vân Nga và quân sĩ, Lê Hoàn đã chiến thắng oanh liệt quân xâm lược Tống. Cảm động trước tấm lòng của Dương Vân Nga, đợi nàng đoạn tang chồng, Lê Hoàn lập Dương Vân Nga làm Đại Thắng Minh hoàng hậu. Nhưng vì tái giá, Dương Vân Nga chỉ là hoàng hậu thứ năm. Biết Dương Vân Nga là người có tài, Lê Hoàn cho mời bốn bà hoàng hậu lại và hỏi: - Nhờ ai mà các bà có ngày nay? Mọi người chưa nói gì, thì vua đã hướng về phía Dương Vân Nga. Các bà hoàng hậu đều đồng ý, Lê Hoàn yên lòng lập bà làm chính cung hoàng hậu, gánh vác việc nội cung của triều đình nhà Lê. Như vậy, Dương Vân Nga là hoàng hậu của cả vua Đinh và vua Lê. Người ta lưu truyền rằng khi Dương Vân Nga mới chào đời, đã khóc “dạ đề” ba tháng, dỗ mãi không khỏi. Về sau một ông đạo sĩ đã ru rằng: Nín đi nín đi thôi Một vai gánh vác cả đôi sơn hà thì nín ngay. Điều đó báo trước Dương Vân Nga sẽ gánh vác giang sơn của hai triều đại Đinh và Tiền Lê. Hoàng hậu thời ấu thơ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2004), Tổng tập Văn học dân gian người Việt (tập 4), Nxb Khoa học xã hội Khi mới đẻ, Dương Vân Nga cứ khóc ròng rã như xé vải suốt ngày đêm, đã ba tháng liền, vẫn chưa lặng. Bố mẹ rất lo buồn, chẳng hiểu vì sao. Đây là điềm lành hay điềm gở. Cô bé Nga đã được uống rất nhiều thuốc mà vẫn chưa khỏi khóc. Bao nhiêu danh y trong vùng đều được mời đến nhưng chẳng có ai chữa được cho Dương Vân Nga khỏi khóc. Bỗng một hôm có ông lão, đầu râu tóc bạc, diện mạo khác thường tay xách bị, tay chống gậy dừng chân trước cổng nhà cô bé Nga để xin ăn. Bà mẹ Vân Nga là người hiền lành, tốt bụng hay giúp đỡ kẻ nghèo khó lúc cơ nhỡ. Nên khi thấy người nhà xua đuổi ông lão thì bà ngăn lại và đem gạo ra bố thí cho ông lão. Ông lão đưa bị ra nhận gạo và rất cảm động về lòng tốt của bà chủ nhà. Khi nghe thấy tiếng trẻ khóc ra rả ở nhà trong, ông lão liền hỏi mẹ Vân Nga vì sao cháu khóc quá vậy. Bà mẹ Vân Nga lại được dịp kể lể than vãn về số phận hẩm hiu của con gái mình với ông lão và hỏi ông xem ở đâu có người chữa được? Nghe xong ông lão liền lấy ở trong bị ra một tờ giấy bản và một chiếc bút lông. Đoạn ông lão viết thoăn thoắt lên giấy hai câu: Nín đi thôi Một thân gánh vác cả đôi sơn hà Viết xong ông lão đưa cho mẹ Vân Nga và bảo bà cứ đốt tờ giấy này cho cháu nó uống sẽ khỏi. Nói xong ông lão vội vã bước đi. Quả nhiên, sau khi uống hết than tờ giấy có hai câu thơ của ông lão, Vân Nga lặng ngay, không khóc một tiếng nào nữa. Từ đấy trở đi Vân Nga ăn ngủ ngoan và lớn rất nhanh. Thời gian trôi qua. Vân Nga càng lớn càng xinh đẹp. Chẳng bao lâu Dương Vân Nga đã trở thành một thiếu nữ nổi tiếng xinh đẹp nhất vùng. Không những xinh đẹp, mà cô còn rất hiền dịu, nết na, chăm chỉ. Nhiều chàng trai trong vùng nhăm nhe đánh mối nhưng cô chưa nhận trầu của ai. Lại nói về Đinh Bộ Lĩnh, sau khi cha chết, đã đến ở với ông chú và theo học võ. Đinh Bộ Lĩnh có sức khỏe, lại có chí nên chẳng bao lâu đã học hết các ngón võ của chú truyền cho và được chú tin yêu hết lòng. Thấy cháu đã lớn, nhiều lần ông chú muốn nói đến chuyện hỏi vợ cho Đinh Bộ Lĩnh. Nhưng Đinh Bộ Lĩnh chỉ vâng dạ cho qua rồi lấy cớ là còn bận học để thoái thác chuyện vợ con. Nhưng thực ra những cô gái trong làng mà ông chú định dạm hỏi, Đinh Bộ Lĩnh chưa ưng ai cả. Thế rồi một buổi sớm kia ông chú đi thăm một người bạn cũ lâu chưa gặp mặt. Nhân tiện cho cả Đinh Bộ Lĩnh đi cùng. Đường xa, trời đã về chiều thì hai chú cháu đến một cánh đồng ngô lúa xanh tốt, bên đường gặp một cô gái đang mải mê cắt cỏ. Cô gái có dáng người thon thả, gương mặt xinh đẹp, thông minh, phúc hậu. Cô vừa cắt cỏ vừa hát: Tay cầm bán nguyệt xênh xang Muôn nghìn ngọn cỏ lai hàng tay ta Hai người thấy vậy liền đến làm quen và hỏi xem hai câu thơ ấy của ai làm vậy. Cô gái bèn ngừng tay cắt cỏ lễ phép thưa rằng: “Cháu cắt cỏ mệt thì nghĩ ra vậy để hát cho vui”. Hai người thầm khen tài làm thơ của cô gái và trong lòng có ý kính nể. Mãi tối mịt hai chú cháu mới tới nhà người bạn. Lâu ngày mới gặp nhau, chủ nhà tay bắt mặt mừng ra đón khách, rồi thân chinh xuống bếp cắt đặt người nhà làm cơm thết bạn. Sau mấy tuần trà, cơm đã làm xong, chủ nhà gọi con gái bưng cơm lên mời khách. Thật bất ngờ, con gái ông bạn lại chính là cô gái xinh đẹp cắt cỏ lúc chiều. Ông chú Đinh Bộ Lĩnh không kìm nổi vui mừng liền thốt lên rằng: “Trăm năm duyên phận đây rồi!”. Sau đó ông chú Đinh Bộ Lĩnh nói rõ với bạn ý định của mình muốn hỏi Dương Vân Nga cho cháu. Ông bố Dương Vân Nga vui vẻ nhận lời và nói: “Tưởng ai xa lạ chứ Đinh Bộ Lĩnh, tuy nay mới gặp người, nhưng tôi đã nghe tiếng đồn đại từ lâu. Khắp cả vùng ai mà chẳng mến chàng trai giỏi võ này”. B. Phụ lục ảnh Ảnh 1: Tượng Dương Vân Nga ở đền vua Lê (khu cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) - nguồn ảnh: internet Ảnh 2: Tượng Dương Vân Nga ở đình Trung Trữ (xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2014) Ảnh 3: Tượng Dương Vân Nga ở đền vua Lê (khu cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2017 Ảnh 4: Tượng Dương Vân Nga ở đền vua Lê (xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2017 Ảnh 5: Đình Trung Trữ (xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình), nơi phối tự tượng hai vua và Dương hậu - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2015 Ảnh 6: Kiệu rước của đình Mỹ Hạ (thuộc xã Gia Thủy, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) trong lễ hội Hoa Lư năm 2017 - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2017 Ảnh 7: Đình Mỹ Hạ (xã Gia Thủy, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) thờ vua Đinh và Dương hậu - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2019 Ảnh 8: Một số sắc phong của vua Đinh và Dương hậu được phơi trong tiết thanh minh ở đình Mỹ Hạ (xã Gia Thủy, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2019 Ảnh 9: Hộp đựng sắc phong ở đình Mỹ Hạ (xã Gia Thủy, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2019 Ảnh 10: Triều phục của vua Đinh và hoàng hậu Dương Vân Nga được phơi trong tiết thanh minh tại đình Mỹ Hạ (xã Gia Thủy, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2019 Ảnh 11: Đình Trai/ đình Viến (xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) thờ vua Đinh và Dương hậu - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2019 Ảnh 12: Đền Thượng Ngọc Lâm (xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) thờ vua Lê và Dương hậu - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2015 Ảnh 13: Đền Đồng Bến (phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình) thờ vua Lê và Dương hậu - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2019 Ảnh 14: Cây lộc vừng trước cửa đền Đồng Bến (phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình), tương truyền là nơi Dương Thái hậu trao long cổn cho Lê Hoàn - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2019 Ảnh 15: Sông Vân Sàng (đoạn gần đền Đồng Bến, phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình), con sông gắn liền với tích “giường mây” trong truyền thuyết Dương Vân Nga - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2019 Ảnh 16: Đền thờ Dương Tam Kha tại thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định) - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2017 Ảnh 17: Bia đá đền Dương Tam Kha (thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định) ghi tiểu sử Dương Tam Kha, trên bia có dòng chú thích: “Tương truyền Dương Vân Nga là con của Dương Tam Kha” - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2017 Ảnh 18: Bảng ghi lịch sử đền làng Bách Cốc (xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2015 Ảnh 19: Đường vào đền Lê Hoàn (xã Trung Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), nơi phối thờ Dương Vân Nga - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2017 Ảnh 20: Đền Bạch Mã (xã Liên Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An), nơi phối thờ Dương Vân Nga - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2015 Ảnh 21: Đền Bạch Mã (xã Liên Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An), nơi phối thờ Dương Vân Nga - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2015 Ảnh 22: Bà Phạm Thị Mai, người kể chuyện tài hoa (71 tuổi, thôn Trung, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2019 Ảnh 23: Buổi diễn thuyết của diễn giả Trần Trọng Dương với chủ đề “Việt Nam thế kỉ X - lịch sử nhìn từ phận đàn bà” (tháng 5/ 2019 tại Hà Nội) - ảnh do tác giả luận án chụp năm 2019 Ảnh 24: Hình tượng Dương Vân Nga qua diễn xuất của một số diễn viên cải lương miền Nam – nguồn ảnh: internet

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_nhan_vat_duong_van_nga_lich_su_va_truyen_thuyet.doc
  • docxTÓM TẮT TIẾNG ANH LA HOÀNG THẮM.docx
  • docxTÓM TẮT TIẾNG VIỆT LA HOÀNG THẮM.docx
Tài liệu liên quan