Lý luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và quan điểm toàn diện với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

I . đặt vấn đề . 1. Thực trạng sản xuất , phát triển kinh tế Thế giới luôn luôn vận động và phát triển, các hình thái kinh tế xã hội cũng vậy nó luôn luôn gắn với hoạt động sản xuất vật chất đấy là nền tảng của đời sống xã hội, là tiền đề cho sự phát triển về kinh tế - xã hội. Qua đó ta thấy được tầm quan trọng to lớn của kinh tế trong sự tồn tại và phát triển của xã hội, với quy luật khách quan cho thấy nền kinh tế Việt Nam cũng là nền tảng cho sự phát triển của đất nước . Vốn là nước có đ

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2378 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lý luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và quan điểm toàn diện với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểm xuất phát thấp, trải qua chiến tranh bảo vệ tổ quốc lại chịu sự ảnh hưởng nặng nề và lâu dài của mô hình kinh tế cũ : “kinh tế tập trung” thực chất đấy là mô hình vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng. Do vậy từ thập kỷ 80, trở lại đây đã có những bước ngoặt lớn cho nước ta trong sự nghiệp đổi mới kinh tế, với việc lấy trình độ xã hội hoá sẩn xuất làm điểm xuất phát. Tháng 12-1986 đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI, đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế, đó là chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. 2 . Quan điểm toàn điểm triết học Mác-Lê nin. a . Nguyên tắc và cơ sở lý luận của triết học Mác -Lênin về nguyên lý mối liên hệ phổ biến. Mọi sự vật hiện tượng nằm trong mối liên hệ phổ biến, nghĩa là tuân theo sự tác động của nó, có sự tác động qua lại của các yếu tố trong nó và giữa các giai đoạn phát triển của sự vật đó, mà tổng hợp những tác động ấy gây nên sự biến đổi của sự vật. Đồng thời ta cũng biết, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định bển của sự vật phải biết mối quan hệ bên trong của sự vật, quy vận động phát triển của sự vật. Do vậy, muốn biết bản chất và sự vận động của sự vật ta phải biết được các mối quan hệ của sự vật . Từ khi triết học ra đời, được kế thừa và phát trỉển, trở thành cơ sở lý luận cho các môn khoa học khác và là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, xu hướng phát triển của xã hội, cùng với những quy luật mà triết học Mác-Lê Nin đã phát hiện, nó giúp con người nhận thức đúng đắn hơn về thế giới khách quan. Từ đó thúc đẩy tích cực lao động, cải tạo thế giới và phục vụ cho con người Thế giới luôn luôn vận động và phát triển, không thể vượt qua các quy luật khác quan của chủ nghĩa Mác. Quan điểm cuả Mác luôn luôn đúng thông qua hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động cải tạo xã hội của toàn bộ thế giới. Từ đó đi đến quan điểm toàn diện: “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm toàn diện khi nghiên cứu sự vật, tức là xem xét sự vật , hiện tượng và phải đặt trong mối quan hệ với sự vật khác, xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, cả các mặt khâu trung gian; thấy được từng vị trí cuả mối liên hệ trong tổng thể của nó, có như thế mới thực sự nắm được bản chất của sự vật. Vì vậy quan điểm toàn diện đã bao hàm trong bản thân nó quan điểm lịch sử cụ thể “ Muốn xem xét, đánh một vật nào đấy, chúng ta cần xem xét đánh gía một cách toàn diện mọi góc độ mọi phương diện, tuy chịu sự tác động của nhiều yếu tố, nhiều mặt nhưng không phải mọi tác động đó đều gây ảnh hưởng hoặc ít như nhau với sự vật. Do đó khi xem xét sự vật hiện tượng nào đó phải tìm một mối liên hệ nào là cơ bản, và không cơ bản. Không được đồng nhất và san bằng các mối liên hệ, các mặt của sự vật hiện tượng. Cần phản ánh đúng vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ, phải rút ra được mối liên hệ bản chất của sự hiện tượng tránh rơi vào tình trạng đánh giá phiến diện một chiều quan điểm toàn diện ở đây chính là phép duy vật biện chứng, do vậy nó đã góp phần khắc phục những khiếm khuyết, hạn chế trước đây trong cách nhìn nhận đánh giá sự vật và mở đường cho sự đánh giá đúng đắn từ khi nó ra đời, bởi vậy việc vận dụng vào thực tiễn, vào hoạt động sản xuất và các hoạt động kinh tế chính trị - văn hoá, nghiên cứa khoa học ... góp phần đẩy nhanh sự phát triển của đời sống xã hội, làm cho nhận thức của con người ngày càng sâu sắc về hiện thực khách quan . b. Nguyên tắc phân tích quan điểm của triết học Mác - lê nin trong việc giải quyết vấn đề trên mọi mặt, qua đó làm rõ vai trò của nó Các sự vật hiện tượng muôn hình muôn vẻ trong thế giới khách quan không cái nào tồn tại một cách cô lập, nó tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc nhau, qui định và chuyển hóa nhau. Mối liên hệ này không những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng trong xã hội, trong nhận thức mà còn biểu hiện ở các mặt khác trong quá trình phát triển của mỗi sự vật hiện tượng. Đấy chính là mối liên hệ khách quan, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới. c. Vai trò của nó với việc xây dựng kinh tế thị trường Cơ chế kinh tế hoạt động của nền kinh tế là phát huy và tận dụng hết mọi nguồn lực và ưu thế vốn có để có sự phân phối và lưu thông hàng hoá đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhưng theo quy luật chung cửa sự tồn tại thì lĩnh vực kinh tế cung biện chứng nó luôn làm cho các nhà hoạt động kinh tế phải tuân theo nguyên tắc toàn diện phát triển và lịch sử cụ thể trong vấn đề sản xuất và đưa ra vấn đề hiệu quả kinh tế. Bởi vậy khi xây dựng kinh tế điều quan tâm nhất là nguyên tắc toàn diện.Vì nó chỉ tồn tại và biểu hiện với tư cách trong mối quan hệ những sự kiện khác cho nên nguyên tắc toàn diện đã đưa ra : Một Là : khi ta nghiên cứa một sự kiện kinh tế nào để nhận thức bản chất sự việc cần phải xem xét nó trên tất các mặt, các mối quan hệ nếu có. Tính chân lý và xác thực của tri thức khoa học được rút ra phụ thuộc độ lớn của tổng thể các mối quan hệ có thể thu nhập được tuy nhiên vì số lượng các mối liên hệ có thể có là vô cùng người nghiên cứu không thể nào bao quát hết cho nên sai lầm vẫn có thể xảy ra. Chính vì vậy quản lý - sai lầm là hai mặt cùng tồn tại trong một tri thức . Hai là : trong khi hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước, phải tính đến tất cả các mối quan hệ trên các bình diện có thể, chẳng hạn : Tương quan giữa nền kinh tế dân tộc với kinh tế của các nước trong khu vực và thế để thấy, lợi thế so sánh. Tương quan giữa các nguồn lực hiện đang có nhu cầu về hàng hoá dịch vụ của dân cư, tương quan giữa đầu tư cho tương lai với tiêu dùng hiện tại Tương quan giữa tiêu dùng xã hội với tiêu dùng cá nhân .. Ba Là : Đối doanh nghiệp, việc quyết định một phương án sản xuất kinh doanh, sản xuất ra loại hàng hoá dịch vụ nào, bằng công nghệ kỹ thuật nào và bán cho ai, cũng cần phải tính đến mối liên hệ có thể có như : Các mối liên hệ pháp lý, mối liên hệ cung cầu của loại hàng hoá lựa chọn, tính thời vụ của nó . Mối liên hệ tỷ giá giữa loại hàng hoá này bởi loại hàng hoá đối thủ với hàng hoá bổ sung. Doanh nghiệp càng tính toán được nhiều mối liên hệ bao nhiêu, thất bại rủi ro càng ít bấy nhiêu, để khắc phục tình trạng bỏ sót cần phân loại các mối liên hệ thành từng nhóm các mối liên hệ theo phương pháp khác nhau. [ Giáo trình Triết học Mác lê nin, Nhà xuất bản chính trị quốc gia hà nội 1999 ] II . Giải Quyết vấn đề 1. Khái niệm kinh tế thị trường : “ Một nền kinh tế mà trong đó các vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường”. [ Giáo trình : Kinh tế chính trị Mác- Lê nin (tập hai) .]. Theo quan điểm kinh tế chính trị, thị trường là hợp phần bắt buộc của sản xuất hàng hoá. Sự ra đời và phát triển của thị trường gắn liền với sự ra đời và và phát triển hàng hoá và lưu thông hàng hoá.Vậy thì thị trường là địa điểm (hữu hình hay vô hình), nơi diễn ra sự chuyển nhượng, sự trao đổi, sự mua bán hàng hoá . ở đây thị trường không chỉ đơn thuần là lĩnh vực trao đổi, di chuyển hàng hoá, dịch vụ từ người sản xuất sang người tiêu dùng, bởi vì trao đổi có thể được tổ chức theo cách khác nhau, mà là trao đổi được tổ chức theo các quy luật lưu thông hàng hoá và lưa thông tiền tệ . Kinh tế thị trường là một hình thức xã hội của tổ chức và hoạt động trong kinh tế trong đó các mối quan hệ kinh tế trong đó có các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường mà trong đó các vần đề cơ bản của kinh tế thị trường là hàng loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó : như qui luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưa thông tiền tệ ...cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường . “Cơ chế thị trường được hiểu là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới tác động khách quan của các qui luật vốn có cuả nó, cơ chế đó giải quyết được ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là : cái gì, như thế nào, cho ai.” [Giáo trình Kinh tế chính trị, Tập II, Nhà xuất bản giáo dục,1998, trang191] 2 . Sự hình thành kinh tế thị trường định hướng xã hội ở nước ta . a. Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường . Nước ta chuyển sang kinh tế thị trường với điểm xuất phát thấp kém, chịu hưởng và hậu quả của mô hình kịnh tế chỉ huy tập trung quan liêu bao cấp kéo dài. Với những biểu hiện thu nhập quốc dân theo đầu người khoảng hơn 200 USD. Kết cấu hạ tầng sản xuất, xã hội còn lạc hậu, chưa đủ để phát triển kinh tế hàng hoá trong nước, chưa thể nói đến mở rộng nhanh chóng với nước ngoài. Đất nước vẫn đang trong tình trạng nghèo và kém phát triển xét về khía cạnh kinh tế kỹ thuật, sức mua của xã hội dân cư còn thấp, làm cho dung lượng thị trường trong nước và xuất khẩu tăng lên với quy mô và tốc độ chậm so với các nước trong khu vực.Tình trạng lạm phát tuy có giảm song chưa bản nên hiện tượng tái phát chưa thể chủ quan được. Tỷ lệ tăng dân số còn cao, tình trạng thiếu việc làm đang là sức ép Do vậy không thể chuyển nền kinh tế sản xuất nhỏ với thực trạng nói trên sang nền sản xuất lớn XHCN, nếu không chuyển nền kinh tế vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này phù hợp với thực tiễn nước ta vừa phù hợp lý luận . Ví dụ: V.I . Lênin sau cuộc thử nghiệm không thành công “Chính sách cộng sản thời chiến” Buộc phải trở về với “chính sách kinh tế mới “ (NEP), mà thực chất là việc chấn hưng kinh tế hàng hoá với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần và thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước . Bước chuyển sang KTTT: thành tựu và tồn tại : Quá trình đổi mới để chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta đánh dấu qua những thành tựu sau đây: Tập trung đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp bước đầu qua chỉ thị 100 nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn hàng hoá thực hiện quyền tự chủ sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước. Mở cửa nền kinh tế từng bước thực hiện quá trình xoá bỏ độc quyền Nhà nước về ngoại thương, để tập trung vào nhiệm vụ quản lý vi mô về ngoại thương. Thông qua những nấc thang đổi mới này, cho đến nay “nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - Xã Hội”, kết thúc chặng đường đầu tiên của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Mặc dù vậy, dưới góc nhìn của kinh tế thị trường, bên cạnh những thành tựu, sự phát triển của kinh tế hàng hoá, việc thực hiện cơ chế thị trường ở nước ta “đang giai đoạn sơ khai”. Tình trạng làm ăn trái pháp luật xảy ra khá phổ biến”. “Hiệu lực quản lý của nhà nước còn thấp, vừa chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của kinh tế thị trường, vừa chưa hạn chế được mặt tiêu cực của hạn chế đó. 3. Mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN : Phát triển trong sự kết hợp hài hoà giữa quy luật phát triển theo tuần tự với 3 quy luật phát triển nhẩy vọt. phát triển cùng một lục 3 trinh độ phát triển của hình thái kinh tế hàng hoá đó là: Kinh tế hàng hóa giản đơn KTTT tự do( cổ điển )và kinh tế thị trường hỗn hợp( hiện đại) phụ thuộc vào từng thời điểm và trình độ khác nhau. Phát triển trong sự kết hợp hài hoà giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, coi trọng việc kết hợp vai trò thúc đẩy sự ra đời các nhân tố của kinh tế thị trường và vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước XHCN trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường hiện đại. Ba đặc trưng nói trên có quan hệ trực tiếp với nhau, trong đó đặc trưng thứ 3 có ý nghĩa quyết định . 4. Chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu là xoá bỏ cơ chế tập chung quan liêu, bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cụ thể : Phát triển mạnh thị trường hàng hoá, dịch vụ. Tổ chức quản lý và hướng dẫn tốt việc thuê mướn và sử dụng lao động. Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản. Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành thị trường chứng khoán. Đổi mới và hoàn thiện các công cụ vĩ mô như: luật pháp về kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân và vì dân. Thực hiện có hiệu quả việc cải cách hành chính nhà nước về các mặt: pháp luật, tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, chức danh, chức trách, chế độ đãi ngộ.... Nâng cao năng lực lý luận và nghiệp vụ chuyên môn theo đúng chức danh cho các thành viên trong Chính phủ, thông qua đào tạo mới và đào tạo lại. Trên cơ sở khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và quan liêu, xây dựng phẩm chất đạo đức “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” mà Bác Hồ đã dạy. 5. Các loại thị trường là một yếu tố không thể thiếu của một nền kinh tế thị trường nó vừa là biểu hiện vừa là môi trường và điều kiện thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, ở Việt Nam nhìn chung thị trường chưa phát triển cả về số lượng, chất lượng và quy mô. Điều này gây nên hạn chế cho sự lưu thông hàng hoá và sự phát triển của nền kinh tế, sắp xếp điều chỉnh lại thị trường trong nước mang tính thống nhất, phát triển đồng đều trên tất cả các loại thị trường mới như : thị trường vốn, thị trường chứng khoán..... ngoài ra các thị trường truyền thống như thị trường công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, du lịch, thủ công nghiệp. Các ngành thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển như dệt, thổ cẩm.... Trong thương nghiệp thì nước ta đã mở rộng được các hình thức buôn bán trong nước mà còn mở rộng quan hệ kinh tế với các nước ngoài, đặc biệt với thị trường các nước trong khu vực Đông nam á.... 6, Việc vận dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin trong hoạt động kinh tế. Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng hiệu quả nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá để thoả mãn các nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Chính vì vậy, việc phân phối hàng hoá sản xuất ra phù hợp nhất, đáp ứng tốt nhất cho nhu cầu của xã hội. Theo quy luật chung của tồn tại thì lĩnh vực kinh tế cũng biện chứng đó là : kinh tế luôn đòi hỏi các nhà kinh tế phải tuân theo nguyên tắc toàn diện phát triển và lịch sử cụ thể trong sản xuất như sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Tức là hoạt động sao cho hiệu quả kinh tế là lớn nhất. Vậy làm thế nào để đáp ứng được yêu cầu đó. Lúc này các quy luật kinh tế lại trở thành yếu tố phục vụ con người. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và tổ chức quản lý kinh tế gồm một số nguyên lý cơ bản sau: Một là : Trong nền kinh tế không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời với các sự nghiệp khác. Chính vì vậy khi xem xét các sự vật ta phải tìm ra được các mối liên hệ vốn có của nó. Hai là : các thị trường hàng hoá cụ thể không tồn tại trong trạng thái cô lập tách rời nhau. Do đó ta cần phải biết phân loại, đánh giá các mối liên hệ để có điều chỉnh sao cho nền kinh tế đi đúng hướng. Ba là : bản thân nền kinh tế cũng không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị ngoại giao, kinh tế - chính trị - đạo đức - tư tưởng, kinh tế - chính trị - khoa học - công nghệ. Vậy mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại trong biểu hiện với tư cách là nó trong mối quan hệ với các sự kiện khác. Các nhà tư bản phương tây đã biết vận dụng các nguyên lý trên vào quản lý kinh tế. từ đó họ xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đưa ra hiệu quả kinh tế rất cao làm cho nền kinh tế của các nước tư bản phát triển vượt bậc. Tạo đà cho sự phát triển của thế giới. “Như vậy sự hình thành , phát triển kinh tế hàng hoá là tất yếu đối với sự phát triển của xã hội”. Đặc biệt là vai trò phát huy trong nền kinh tế thị trường. 7, Các yếu tố trong nền kinh tế thị trường có mối quan hệ, liên hệ chặt chẽ lẫn nhau Nền kinh tế bao gồm nhiều yếu tố, nhưng yếu tố cơ bản nhất của nền kinh tế là : các quy luật kinh tế , lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , các loại thị trường . a, Các qui luật kinh tế : cơ chế vận động của nền kinh tế thị trường là thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế, các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưa thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh không ngừng vận động, tác động lẫn nhau và tác động tới toàn bộ nền kinh tế. Ví dụ : Quy luật giá trị có vai trò điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá phân bố lại khối lượng hàng hoá từ những ngành, những vùng giá thấp đến vùng giá cao và thúc đẩy sản xuất phát triển. Giảm giá hàng hoá bằng cách tăng năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất. Đồng thời quy luật giá trị cũng tác động trực tiếp đến quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ.... Do đó gián tiếp tác động đến nền kinh tế. Cũng như mọi qui luật khác, các qui luật kinh tế đều mang tính khách quan. Con người không thể dùng mong muốn chủ quan của mình để thay đổi các qui luật đó. Để nắm bắt được sự vận động của nền kinh tế chúng ta phải hiểu và tuân theo các quy luật đó. Như vậy, không có nghĩa là cứ để các quy luật đó tự do vận động mà chúng ta có thể dùng các biện pháp để các quy luật vận động nhịp nhàng và đều đặn (ví dụ : chúng ta đã từng lạm dụng những biện pháp “kích cầu” trong thời gian gần đây) Tóm lại, trong xây dựng nền kinh tế thị trường chúng ta cần phải biết vận dụng các quy luật kinh tế, nghĩa là có nhận thức đúng đắn về các quy luật đó và biết điều chỉnh những hoạt động của mình cho phù hợp với chúng. Nền kinh tế của chúng ta gồm năm thành phần : quốc doanh, tập thể hợp tác xã, cá thể, tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước. Mỗi thành phần kinh tế có những nét đặc thù về bản chất kinh tế xã hội và trình độ phát triển, do đó mỗi thành phần kinh tế có cách sử dụng nguồn vốn, nguồn lao động và phương pháp lao động đặc trưng. Tuy nhiên giữa các thành phần kinh tế có sự thống nhất bởi tất cả đều hoạt động dưới sự quản lý và định hướng của Nhà nước. Như vậy, là các thành phần kinh tế là không tự do phát triển hay cạnh tranh mà hoạt động theo sự quản lý vĩ mô của Nhà nước vì sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, thành phần kinh tế quốc doanh luôn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế bởi đây sẽ là hình thức cơ bản, duy nhất của mô hình CNXH. Vai trò chủ đạo để thực hiện ở chỗ những ngành chủ chốt như : công nghiệp nặng, công nghiệp quốc phòng, điện, nước, thông tin liên lạc, xăng dầu.... chỉ có thành phần kinh tế quốc doanh là được phép kinh doanh. Do vậy kinh tế quốc doanh có vai trò quyết định đối với thành phần kinh tế khác. Ngoài ra nhà nước ta còn khuyến khích việc hợp tác đa ngành, đa thành phần kinh tế. Vì có sự liên hệ với nhau trong quá trình sản xuất hay lưu thông hàng hoá, các chủ thể kinh tế độc lập thuộc các ngành khác nhau trong một thành phần kinh tế hoặc thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có thể hợp tác với nhau thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc hợp tác này giúp tiết kiệm nguyên vật liệu, hợp lý hoá sản xuất. Ngoài ý nghĩa kinh tế, việc hợp tác còn góp phần củng cố liên minh Công nhân - Nông dân - trí thức. Như vậy xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là xây dựng mối quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất của chúng ta hiện nay. Nền kinh tế nhiều thành phần cho phép tận dụng mọi nguồn vốn sức lao động trong sản xuất, do đó nó góp phần giải quyết mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tính đa dạng của các thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan, nó sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. III . Kết thúc vấn đề. Qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối lãnh đạo theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc đổi mới phù hợp với thực tiễn, luôn hơn đổi mới một cách sáng tạo, không theo con đường sáo mòn tiếp tục tiến lê thoá khỏi khủng hoảng kinh tế Xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện kinh tế thị trường bên cạnh những thành tựu, sự phát triển kinh tế hàng hoá, việc thực hiện cơ chế thị trường của nước ta “đang ở giai đoanh sơ khai” với hiệu lực quản lý của Nhà nước còn chưa hoàn thiện. Để phát triển được nền kinh tế thị trường thì việc giữ vững và phát triển Chính trị, Xã hội là rất quan trọng tạo điều kiện mở cửa với các chinh sách kinh tế đối ngoại đa dạng hoá đa phương hoá. Là một kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên các nguyên tắc quy luật kinh tế thị trường vừa đặt trên nguyên tắc của CNXH trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá nhằm đưa nước ta lên sánh vai với các cường quốc năm châu. Qua nghiên cứu mặt lý luận về nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và quan điểm toàn diện và việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở định hướng và xác định phương pháp làm sáng tỏ tính đúng đắn ,chặt chẽ của vấn đề áp dụng vào nước ta. Quá trình xem xét, các mặt các yếu tố có liên quan, để thấy được mặt nào của yếu tố đó có vai trò quyết định với nền kinh tế, từ đó có những phương hướng biện pháp thích họp để tién tới một xã hội công bằng văn minh . Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình triết học Mác –Lênin, Chủ biên PGS. Trương Giang Long, Vũ Ngọc Pha, Nxb Giáo dục, 2001 2. Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1996. 3. Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng, tháng 7/2000 4. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin Tập 2, Nxb Giáo dục , 1998. 5. Tạp chí kinh tế phát triển, Số 36, 32/2000 6. Tạp chí cộng sản, Số 18/1998, Số 8/2000 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28259.doc
Tài liệu liên quan