Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty XNK với Lào(Vilexim)

Lời nói đầu Ngày nay hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng trong hoạt động thương mại đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tạo công ăn, việc làm cho người lao động. Hiện nay, hoạt động kinh doanh xuất khẩu đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, nội dung ngày càng phong phú. Hoạt động n

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty XNK với Lào(Vilexim), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày không dừng lại ở những hành vi mua bán riêng lẻ, mà là một hệ thống các quan hệ mua bán trong nền thương mại có tổ chức cả bên trong ra bên ngoài, nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân. Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa nền kinh tế thì Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Qua quá trình học tập và nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu với Lào(VILEXIM), em nhận thấy quy trình hoạt động xuất khẩu của Công ty có những thành công, song vẫn còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả kinh doanh chưa cao. Vì vậy, em chọn đề tài: Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại công ty xuất nhập khẩu với Lào(VILEXIM) để nghiên cứu. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài: Việc nghiên cứu đề tài sẽ đem lại một cơ sở lý luận khoa học tương đối đầy đủ về hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở lý luận, đề tài nghiên cứu, phân tích tình hình thực tế hoạt động kinh doanh xuất khẩu tại Công ty XNK với Lào, từ đó đưa ra những đánh giá về ưu, nhược điểm trong hoạt động xuất khẩu của Công ty. Đóng góp một số biện pháp thiết thực nhằm thúc đẩy xuất khẩu tại Công ty. Bố cục của bài viết ngoài Lời nói đầu và Kết luận, bao gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của công ty VILEXIM Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở công ty VILEXIM. Do khả năng và thời gian có hạn nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót trong bài viết. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc. Nội dung CHƯƠNG I: cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường I. Xuất khẩu hàng hoá và vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường 1.Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hoá Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia trên thế giới thông qua các quan hệ mua bán quốc tế. Hoạt đông thương mại quốc tế là biểu hiện cuả hình thức quan hệ xã hội ở phạm vi quốc tế và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt. Hoạt động xuất khẩu là một mặt quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế cuả một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán những hàng hoá cuả quốc gia đó cho một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới nhằm thu ngoại tệ. Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong nước đều là quá trình trao đổi hàng hoá, đó là quá trình thực hiện giá trị của hàng hoá của người sản xuất hay của người bán. Tuy nhiên, về hình thức và phạm vi thì hoạt động xuất khẩu có nhiều đặc đIểm khác biệt mà các nhà xuất khẩu cần nhận thấy để có thể vận dụng hợp lý, các đặc đIểm đó là: Thứ nhất, khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài. Do đó, khi muốn phục vụ họ, nhà xuất khẩu không thể áp dụng các biện pháp giống hoàn toàn như khi chinh phục khách hàng trong nước. Bởi vì, giữa hai loại khách hàng này có nhiều đIểm khác biệt về ngôn ngữ, lối sống, mức sống, phong tục tập quán và cách thức thoả mãn nhu cầu của khách hàng nước ngoàI để đưa ra những hàng hoá phù hợp. Thứ hai, thị trường trong kinh doanh xuất khẩu thường phức tạp và khó tiếp cận hơn thị trường kinh doanh trong nước. Bởi vì thị trường xuất khẩu vượt qua phạm vi biên giới quốc gia nên về mặt địa lý thì nó ở cách xa hơn, phức tạp hơn, có nhiều nhân tố ràng buộc hơn như kinh tế, văn hoá, chính trị... Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu thường là mua bán qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả. Quá trình trao đổi chủ yếu là dùng tiền tệ làm trung gian trong đó ít nhất là ngoại tệ đối với một nước, thông thường là các ngoại tệ mạnh như USD, GBP, JPY,... Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như thanh toán vận chuyển, ký hợp đồng… đều phức tạp và chứa đầy rủi ro. Nói tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng quan hệ buôn bán trong nước ra nước ngoàI, đIều này thể hiện sự phức tạp của nó. Hoạt động xuất khẩu có thể đem lại hiệu quả cao hơn hoạt động kinh doanh trong nước nhưng cũng chứa đựng nhiều yêú tố rủi ro hơn. 2. Vị trí, vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường 2.1 Vị trí Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không đơn giản là hành vi mua bán riêng lẻ giữa các cá thể riêng biệt mà là một hệ thống mua bán trong một nền thương mại có tổ chức thống nhất cả bên trong và bên ngoài. Xuất khẩu nằm trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Nên sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này. 2.2 Vai trò Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua doanh nghiệp ngoại thương. Do vậy, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp… Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp… Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia. 2.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên trong hoạt động thương maị quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Nó là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia: Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn lớn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. ở các nước phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoàI được coi là nguồn vốn chủ yếu của họ trong quá trình phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoàI và quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính để nước này có thể trả nợ được. Thứ hai, xuất khẩu đẩy mạnh quá trình đổi mới công nghệ Xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới với mức độ cạnh tranh của nó là hết sức khốc liệt, do đó hàng hóa tồn tại và đứng vững trên thị trường cần phải có chất lượng cao, giá cả hợp lý, được kiểm tra kiểm định hết sức chặt chẽ, không ngừng đổi mới chủng loại mẫu mã, nâng cao chất lượng. Do đó yêu cầu các doanh nghiệp phải không ngừng tìm tòi, cải tiến, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý phù hợp với yêu cầu kinh doanh quốc tế. Thứ ba, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đang thay đổi mạnh mẽ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Coi thị trường là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan đIểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là: + xuất khẩu tạo đIều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển + xuất khẩu tạo đIều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế nhờ quy mô. + xuất khẩu tạo đIều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng nhiều mặt hàng hơn, với số lượng lớn hơn nhiều lần so với khả năng sản xuất của quốc gia đó. + xuất khẩu là phương tiện quan trọng để thu hút vốn và công nghệ từ các quốc gia phát triển nhằm taọ đIều kiện hiện đại hoá nền kinh tế nội địa và tạo năng lực cho sản xuất mới. + xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phảI xuất khẩu các bộ phận sản xuất đó từ nước này sang nước khác để hoàn thiện sản phẩm này, người ta phảI xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất thiết phảI sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá mà mình cần, mà thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vàI loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần. Một cách nhìn khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu hàng hoá thừa trong tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản vẫn chưa đủ tiêu dung. Nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển. Thứ tư, xuất khẩu có tác động tích cực đến công ăn việc làm cảI thiện đời sống nhân dân Đối với việc giảI quyết công ăn việc làm: xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Mặt khác, xuất khẩu lao động tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá đáp ứng nhu cầu hàng ngày phong phú và đa dạng của nhân dân. Thứ năm, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế… phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tạo đIều kiện cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Thứ sáu, phát huy được lợi thế của đất nước. Xuất khẩu không chỉ thúc đẩy khai thác lợi thế của đất nước mà làm cho việc khai thác lợi thế có hiệu quả hơn. Thông qua đó mà hình thành các lợi thế then chốt đối với từng quốc gia để từ đó nhà nước có các chiến lược kế hoạch phát triển đúng đắn để phát huy tối đa lợi thế của nước mình. Đối với nước ta lợi thế đó là nguồn nhân lực rẻ, năng động, sáng tạo, khéo léo, tài nguyên phong phú với tiềm năng lớn, vị trí địa lý thuận tiện, tình hình chính trị ổn định, tốc độ phát triển kinh tế cao. 2.2.2. Đối với doanh nghiệp Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế. Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có đIều kiện tham gia vào các cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng…Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phảI hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường, phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ, bắt buộc họ phải luồn tìm tòi, không ngừng học hỏi để tồn tại được trên thương trường. Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động tạo thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng khác. Nó vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Sản xuất hàng xuất khẩu còn giúp doanh nghiệp phảI luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất không chỉ về chiều rộng mà cả về chiều sâu. Thứ ba, xuất khẩu tạo đIều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong và ngoàI nước, trên cơ sở hai bên đều có lợi. Vì vậy đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số và lợi nhuận đồng thời chia sẻ được rủi ro mất mát trong kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của công ty. Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh. Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích cực đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc gia. II. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Xuất khẩu là một hoạt động then chốt của nền kinh tế trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nó tạo ra sức bật mạnh mẽ cho nền kinh tế với những chiến lược phù hợp với nó. Tuy nhiên nếu không có bàn tay của Nhà nước điều tiết vĩ mô hoạt động này thì nền kinh tế đất nước sẽ bị lệch lạc, đi không đúng hướng, mất cân đối về cung và cầu, gây ra cú sốc lớn về kinh tế như khủng hoảng kinh tế... Do vậy, để khắc phục những hạn chế đó, Nhà nước phải luôn luôn quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu thông qua các công cụ chính sách của mình tạo điều kiện cho các tổ chức kinh doanh tham gia sâu vào sự phân công lao động quốc tế, mở rộng hoạt động xuất khẩu và bảo vệ thị trường trong nước nhằm đạt được các mục tiêu về kinh tế, chính trị, xã hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Tùy vào tình hình và định hướng phát triển kinh tế ở mỗi nước, trong mỗi giai đoạn mà chính sách ngoại thương được hiện ở những mức độ khác nhau. Những chính sách ngoại thương thường được sử dụng để điều tiết quản lý hoạt động xuất nhập khẩu đó là: 1. Thuế quan. Thuế xuất nhập khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt động xuất nhập khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia của mình, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, góp phần bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.Vì vậy, cũng như hạn chế khả năng xuất khẩu khi thực hiện các chính sách thuế phải xác định biểu thuế với từng mặt hàng cụ thể để đảm bảo sự hài hoà các mục tiêu do thuế quan tác động đến đem lại sự thuận lợi trong kinh doanh. 2. Hạn ngạch xuất khẩu. Là những qui định của chính phủ về số lượng và giá trị, địa điểm của một mặt hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định. Cũng như thuế quan, chính phủ sử dụng hạn ngạch để bảo vệ sản xuất trong nước, bảo vệ nguồn tài nguyên và thực hiện cán cân thanh toán quốc tế. Hạn ngạch xuất khẩu cũng tác động đến các hoạt động kinh tế nhưng có những điểm khác so với thuế quan. Hạn ngạch không đem lại các khoản thu ngân sách cho chính phủ nhưng việc phân bổ hạn ngạch rất quan trọng đòi hỏi các cơ quan quản lý phải nắm được tình hình xuất nhập khẩu của từng công ty mà phân bổ nó. 3. Trợ cấp xuất khẩu. Để tăng cường mức độ xuất khẩu hàng hoá tạo điều kiện cho sản phẩm có sức cạnh tranh về các mặt trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu làm tăng cường mức độ xuất khẩu hàng hoá tạo điều kiện cho sản phẩm có sức cạnh trạnh trên thị trường quốc tế. Trợ cấp xuất khẩu làm tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nước nhưng tăng được sản lượng và nước xuất khẩu. Ngoài ra còn sử dụng một loạt các chính sách khác như: hàng rào thuế quan, chính sách tỷ giá hối đoái vì vậy khi tham gia vào công tác xuất khẩu phải nắm được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước và những can thiệp của Nhà nước tác động vào quá trình sản xuất hàng hoá phù hợp với chính sách ngoại thương. 4. ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ của hàng xuất khẩu. Nhân tố này quyết định đến việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ dẫn đến những biến đổi lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chẳng hạn tỷ giá hối đoái của đồng tiền thuận lợi cho việc xuất khẩu thì lại bất lợi cho việc nhập khẩu và ngược lại. Có thể nói tỷ giá hối đoái được ví như một “chiếc gậy vô hình” điều khiển hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoài ra tỷ suất ngoại tệ thay đổi giữa các mặt hàng sẽ chuyển hướng mặt hàng cũng như phương án kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. 5. ảnh hưởng của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong và ngoài nước. Trong nền kinh tế thị trường thời mở cửa, một doanh nghiệp kinh doanh sẽ phải đương đầu cạnh tranh gay gắt với các đơn vị kinh tế khác thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Ngoài ra sự biến động của nền kinh tế các nước trên thế giới có ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp. Đây cũng là động lực thúc đẩy và hạn chế sự phát triển kinh tế trong nước. Do vậy cần phải xem xét các yếu tố chủ quan của doanh nghiêp như: - Vốn kinh doanh hạn hẹp. - Trình độ cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp. III. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu hiện nay Hoạt động xuất khẩu hàng hoá được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường tiến hành một số hình thức xuất khẩu sau: Hoạt động xuất khẩu trực tiếp: Hoạt động xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hoá mà trong đó các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước (có thể qua một số công đoạn gia công chế biến) hoặc tự sản xuất, sau đó bán các sản phẩm này cho khách hàng nước ngoài Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng hoá để xuất khẩu thì phảI có vốn để thu gom hàng hoá từ các cơ sở sản xuất. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hoá thuộc sở hữu của doanh nghiệp. xuất khẩu theo hình thức này thường có hiệu quả kinh doanh cao hơn các hình thức xuất khẩu khác. Bởi vì doanh nghiệp có thể mua được những hàng hoá có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả thấp. Tuy nhiên, đây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro cao, hàng hoá có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến ứ đọng vốn và đôI khi bị thất thoát hàng hoá. Khi tiến hành theo hình thức xuất khẩu trực tiếp, doanh nghiệp ngoại thương có thể căn cứ vào nguồn hàng, vào khách hàng, đó là: Doanh nghiệp có thể tiến hành thu gom hàng hoá trước, sau đó tiến hành ký kết các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng. Cách này chỉ nên áp dụng cho trường hợp nguồn hàng khó khăn và đầu ra chắc chắn. Doanh nghiệp có thể tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với các đơn vị chào hàng nước ngoàI trước, sau đó tiến hành thu gom hàng tại các đơn vị trong nước. Nói chung đây là cách các doanh nghiệp thường thực hiện vì đầu ra hiện nay khó khăn và khả năng tàI chính của các đơn vị còn hạn chế. Hoạt động xuất khẩu uỷ thác Hoạt động xuất khẩu uỷ thác là một hình thức dịch vụ thương mại theo đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị có hàng hoá uỷ thác. Trong hình thức này, hàng hoá trước khi kết thúc quá trình xuất khẩu vẫn thuộc sở hữu của các đơn vị uỷ thác. Doanh nghiệp ngoại thương chỉ có nghĩa vụ làm thủ tục về xuất khẩu hàng hoá, kể cả việc vận chuyển hàng hoá và được hưởng một khoản tiền gọi là phí uỷ thác mà đơn vị uỷ thác trả. Hình thức xuất khẩu này có ưu đIểm là dễ thực hiện, độ rủi ro thấp doanh nghiệp ngoại thương không phảI là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hoá và cũng không phảI tự bỏ vốn ra để mua hàng. Tuy nhiên phí uỷ thác mà doanh nghiệp nhận được thường nhỏ hơn nhưng được thanh toán nhanh. Doanh nghiệp ngoại thương có thể thực hiện hình thức xuất khẩu uỷ thác theo các bước sau: Ký hợp đồng uỷ thác xuất khẩu với các đơn vị trong nước có hàng hoá xuất khẩu. Ký kết hợp đồng xuất khẩu với khách hàng nước ngoài. Sau đó tiến hành giao hàng và thực hiện thanh toán tiền hàng. Nhận phí uỷ thác xuất khẩu từ đơn vị uỷ thác. Trong thực tế, doanh nghiệp ngoại thương cũng có thể tiến hành ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu hàng hoá với nước ngoàI, sau đó tiến hành ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu với các đơn vị có hàng trong nước. Hình thức xuất khẩu uỷ thác có thể áp dụng khi doanh nghiệp thiếu hàng cho khách hàng và các đơn vị cung cấp không muốn bán hàng cho doanh nghiệp mà họ chỉ muốn doanh nghiệp làm vai trò trung gian. 3. Hoạt động gia công xuất khẩu Gia công xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên(gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác(gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao(phí gia công). Như vậy trong hoạt động gia công hoạt động xuất nhập khẩu luôn gắn liền với hoạt động sản xuất. Hoạt động gia công xuất khẩu có đặc đIểm là doanh nghiệp ngoại thương không phảI bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu được hiệu quả cũng khá cao, rủi ro thấp vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp muốn thực hiện được theo hình thức này, doanh nghiệp phảI có mối quan hệ với các khách hàng đặt gia công có uy tín. Đây là một hình thức phức tạp nhất là trong quá trình thoả thuận với bên khách hàng gia công về số lượng , chất lượng, nguyên vật liệu và tỷ lệ thu hồi thành phẩm, giám sát quá trình gia công. Do đó, các cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp phảI am hiểu tường tận về các nghiệp vụ và quá trình gia công sản phẩm. Để thực hiện hoạt động gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp ngoại thương có thể thực hiện theo các bước sau: Ký kết hợp đồng gia công với các đơn vị gia công trong nước Ký kết hợp đồng gia công với nước ngoàI và nhập nguyên vật liệu, bán thành phẩm. Thu hồi thành phẩm và xuất thành phẩm cho khách hàng gia công. Thanh toán phí gia công cho các đơn vị nhận gia công và nhận thu lao do đã thực hiện dịch vụ này từ phía khách hàng đặt gia công. NgoàI ra tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể mà doanh nghiệp ngoại thương có thể tiến hành ký kết hợp đồng gia công với khách hàng nước ngoàI trước, sau đó mới ký hợp đồng gia công với các đơn vị nhận gia công. 4. Hoạt động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu Là một hình thức giao dịch trao đổi hàng hoá trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu. Người bán đồng thời là người mua lượng hàng giao đi tương xứng với lượng hàng nhận lại về giá trị, mục đích của hoạt động xuất khẩu không phảI nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là thu về một lượng hàng hoá tương đương với giá trị của lô hàng xuất khẩu, doanh nghiệp ngoại thương có thể sử dụng hình thức xuất khẩu này để nhập khẩu những loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba. Hình thức buôn bán đối lưu rất đa dạng tuy nhiên để thâm nhập thị trường quốc tế các công ty thường sử dụng các phương thức mua bán sau: Mua bán đối lưu thông thường: là phương thức hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hoá và dịch vụ có giá trị tương đương và các điều kiện mua bán tương đương Mua bán bồi hoàn là hình thức mua bán đối lưu mà một bên cam kết sẽ mua lại của bên kia những hàng hoá có giá trị tương đương trong tương lai(không cam kết mua hàng gì cụ thể mà là một số loại hàng có giá trị tương đương) Hình thức chuyển nợ: là hình thức mua bán đối lưu mà một bên cam kết mua lại hàng hoá của bên kia chuyển trách nhiệm mua lại cho bên thứ 3 từ chính thị trường xuất khẩu của mình Mua lại: là hình thức mua bán đối lưu gắn liền chuyển giao công nghệ và cam kết nhận lại sản phẩm được sản xuất ra từ chính thiết bị đó. 5.Một số loại hình xuất khẩu khác Theo nghị định số 33/CP của Chính phủ ngày 14/4/1994 về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu có quy định các hình thức dưới đây cũng được coi như là xuất khẩu hàng hoá: 5.1 Tạm nhập táI xuất Tạm nhập táI xuất được hiểu là việc mua hàng hoá của một nước để bán cho một nước khác (nước thứ ba) trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có làm thủ tục nhập khẩu rồi lại làm thủ tục xuất khẩu không qua gia công chế biến. Đối với những hàng hoá nhập khẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước nhưng một thời gian sau, vì một lí do nào đó mà nó không được sử dụng nữa mà được xuất khẩu ra nước ngoàI thì không được coi là hàng hoá kinh doanh theo hình thức tạm nhập táI xuất Thời gian hàng hoá kinh doanh theo hình thức này được lưu chuyển ở Việt Nam không quá 60 ngày. 5.2 Chuyển khẩu hàng hoá Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu ) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam cũng như thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam. 5.3 Qúa cảnh hàng hoá Hàng hoá của một nước được gửi đI tới một nước thứ ba qua lãnh thổ Việt Nam, có sự cho phép của Chính phủ Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam nếu có đủ đIều kiện như quy định của Nhà nước Việt Nam có thể được xem xét cho thực hiện dịch vụ này để tăng thêm thu nhập. Như vậy, có thể có rất nhiều các hình thức xuất khẩu khác nhau. Các doanh nghiệp ngoại thương nên lựa chọn thực hiện các hình thức xuất khẩu phù hợp với đIều kiện và khả năng của mình. Chủ trương là tận dụng tối đa khả năng sẵn có cũng như tăng khả năng đó để đa dạng hoá các loại hình xuất khẩu hàng hoá IV. Nội dung hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp Xuất khẩu là hoạt động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Hoạt động xuất khẩu phảI trảI qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau, đòi hỏi nhà kinh doanh phảI hết sức thận trọng, linh hoạt để nắm bắt được thời cơ, giảm rủi ro và thu được lợi nhuận cao nhất. Tuỳ theo các loại hình xuất khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như các cách thức tiến hành có những nét đặc trưng riêng, xong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá thì nội dung cơ bản có thể được thực hiện theo các bước sau: 1.Tổ chức nghiên cứu thị trường xuất khẩu Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất kỳ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo đIều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu hàng cung ứng, giá cả thị trường. Qua đó giúp các nhà kinh doanh giảI quyết được những vấn đề thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những thông tin số liệu đó để rút ra kết luận về xu hướng vận động của thị trường. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra được những nhận định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch marketing. Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường. Nhìn chung công việc của doanh nghiệp bao gồm: Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới: bao gồm việc nghiên cứu toàn bộ quá trình sản xuất của một ngành sản xuất cụ thể, tức là việc nghiên cứu toàn bộ quá trình sản xuất của một ngành sản xuất cụ thể, tức là việc nghiên cứu không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lưu thông hàng hoá, tiêu dùng, yêu cầu của công việc này là phải xác định được tổng cung, tổng cầu dự báo của thế giới, khu vực hay quốc gia, phải xác định được tình hình tiêu dùng mặt hàng đó như thế nào, chu kỳ sống của sản phẩm, tình hình cung ứng nguyên nhiên vật liệu sản xuất mặt hàng nào đó... Xác định các yếu tố ảnh hưởng: trên cơ sở phân tích các yếu tố về kinh tế, văn hoá, chính trị, thị hiếu tiêu dùng... của các quốc gia từ đó đưa ra các dự báo về sự biến động của thị trường và xác định được nhu cầu của hàng hoá không chỉ ở hiện tại mà còn ở tương lai. Lựa chọn đối tác buôn bán: mục đích của hoạt động này là lựa chọn bạn hàng có thể cộng tác được, đảm bảo an toàn và có lãi. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn đối tác bao gồm: Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó Lĩnh vực kinh doanh của họ Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ Uy tín và mối quan hệ kinh doanh Những người chịu trách nhiệm kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ... Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thế giới: đây là yêu cầu hết sức quan trọng đặc biệt đối với những nước có quy mô sản xuất bé và kinh doanh theo nguyên tắc chấp nhận giá. Định giá đúng đảm bảo cho các nhà kinh doanh tối đa hoá lợi nhuận của mình, giảm thiểu được các rủi ro, thua lỗ. Thông thường các nhà kinh doanh xuất khẩu định giá dựa trên bốn căn cứ: Gía thành và các chi phí khác Sức mua của người tiêu dùng Gía cả hàng hoá trên thị trường đối với sản phẩm đó Điều kiện cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường 2.Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu Nguồn hàng là toàn bộ khối lượng và cơ cấu hàng hoá thích hợp với nhu cầu khách hàng có khả năng huy động trong kỳ kế hoạch. Nó không phải là toàn bộ nguồn cung cấp hàng hoá cho xuất khẩu. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư sản xuất, kinh doanh cho đến các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển bảo quản, sơ chế, phân loại, nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Nó mang ý nghĩa chiến lược đối với uy tín, sự ổn định, tính linh động và chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có thể được chia thành hai loại hoạt động chính: Những hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu thì hoạt động này là cơ bản và quan trọng nhất. Loại những hoạt động nghiệp vụ công tác tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu, thường do các tổ chức ngoại thương làm chức năng trung gian cho xuất khẩu hàng hoá. Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nghiệp vụ được thể hiện qua các nội dung sau: Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: Muốn tạo nguồn hàng ổn định , doanh nghiệp ngoại thương phảI nghiên cứu nguồn hàng thông qua việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Một trong những bí quyết thành công của kinh doanh là nghiên cứu tìm hiểu cặn kẽ thị trường, tạo đIều kiện cho doanh nghiệp khai thác ổn định nguồn hàng trong khoảng thời gian hợp lý, làm cơ sở vững chắc cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu và đáp ứng được nhu cầu của thị trường nước ngoàI về những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật. Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu xác định được giá cả trong nước của hàng hoá và so sánh giá cả quốc tế của hàng hoá đó. Sau khi đã tính chi phí mua hàng, vận chuyển, ba._.o gói… thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu cho doanh nghiệp, chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó quyết định chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp ngoại thương. Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu. Xây dựng một hệ thống thu mua qua các đại lý và chi nhánh của mình, doanh nghiệp ngoại thương sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua. PhảI lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết hợp nhiều hình thức thu mua để tạo nguồn hàng ổn định và hạn chế những rủi ro trong thu mua hàng hoá xuất khẩu Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu: Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp thương mại với người sản xuất thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng gia công… do vậy, việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận và tự nguyện mà các bên ký kết hợp đồng, đây là cơ sở vững chắc đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra bình thường. Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu: Sau khi đã ký kết hợp đồng với các chủ hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương phảI lập được các kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phảI làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện theo kế hoạch. Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu. Giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu 3.1. Giao dịch đàm phán trong hợp đồng xuất khẩu Sau khi nghiên cứu kỹ thị trường hàng hoá thế giới và lựa chọn được khách hàng các doanh nghiệp phải tiến hành giao dịch và đàm phán để đi đến những thoả thuận chi tiết, đàm phán là việc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các thương nhân xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Đàm phán thường được diễn ra bằng các phương thức sau: + Đàm phán qua thư tín: là những cuộc tiếp xúc giữa các chủ thể buôn bán quốc tế thông qua phương tiện thư tín để giao dịch. Đây là phương thức được sử dụng phổ biến trong kinh doanh. Phương thức này là sự khởi đầu và giúp cho việc duy trì những giao dịch lâu dài. Đàm phán qua thư tín có nhiều ưu điểm như tiết kiệm chi phí, các quyết định đưa ra thường được cân nhắc kỹ càng và tranh thủ được nhiều ý kiến của tập thể, có thể giao dịch đồng thời với nhiều khách hàng, trong soạn thảo thư tín có điều kiện khéo léo dấu được ý đồ thật của mình. Khi soạn thảo thư tín cần chú ý đảm bảo tính lịch sự, chính xác, khẩn trương và kiên nhẫn với các quy định chuẩn mực. Tuy nhiên sử dụng hình thức này cũng có nhược điểm là chậm trễ, dễ bỏ lỡ cơ hội, khó biết được ý đồ thật của khách hàng và không ứng xử được linh hoạt. + Đàm phán qua điện thoại: Trong điều kiện kỹ thuật thông tin liên lạc phát triển như hiện nay, giao dịch qua điện thoại cũng là phương thức được sử dụng phổ biện. Trao đổi qua điện thoại đảm bảo tính khẩn trương, đúng thời điểm cần thiết. Tuy vậy, việc trao đổi qua điện thoại thường bị hạn chế do cước phí điện thoại khá cao nên không thể thảo luận chi tiết mọi vấn đề. Mặt khác, do không có gì làm chứng cho các thoả thuận qua điện thoại nên phương thức này thường chỉ được sử dụng trong những trường hợp cần thiết như sợ bị lỡ cơ hội kinh doanh hoặc chỉ chờ xác nhận một vaì chi tiết của hợp đồng. Bởi vậy, người ta còn sử dụng kết hợp việc giao dịch qua điện thoại với việc dùng telefax. + Đàm phán trực tiếp: là việc gặp gỡ trực tiếp giữa các bên để trao đổi mọi điều kiện về giao dịch, vấn đề liên quan đến ký kết hợp đồng mua bán. Hình thức đàm phán này thường được dùng khi hai bên có nhiều những hợp đồng lớn, phức tạp, nhiều điều kiện phải giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau. Phương thức này đẩy nhanh tốc độ giải quyết những bất đồng và nhiều khi là lối thoát duy nhất cho những cuộc đàm phán qua thư tín, điện thoại đã kéo dài không có kết quả. Tuy nhiên, đây cũng là phương thức đàm phán khó khăn và phức tạp nhất. Đàm phán trực tiếp thường tốn kém về các chi phí đi lại, đón tiếp. Nó đòi hỏi nhà đàm phán phải nắm vững nghiệp vụ, chuẩn bị đầy đủ các thông tin cần thiết, tự chủ, linh hoạt trong việc xử lý tình huống. Việc chuẩn bị đàm phán trực tiếp cần phải làm chi tiết, tỷ mỉ, chu đáo từ việc tổ chức đàm phán tránh gây tác động thiếu thiện cảm của đối tác cho đến việc chuẩn bị nội dung, mục đích, lực lượng tham gia, các tình huống có thể xảy ra và các biện pháp giải quyết của cuộc đàm phán. Ngoài ra còn có các hình thức biến tướng như qua telex, telefax... 3.2. Ký kết hợp đồng xuất khẩu Hợp đồng xuất khẩu là loại hợp đồng mua bán đặc biệt, trong đó người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu một loại hàng hoá nhất định với một khối lượng cụ thể cho người mua, còn người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền tương đương với giá trị lô hàng bằng một phương thức thanh toán quốc tế nào đó. Về thực chất, hợp đồng xuất khẩu là những thoả thuận về các đIều kiện mua bán hàng hoá như tên hàng, khối lượng hàng, chất lượng, giá cả, đIều kiện giao nhận, đIều kiện thanh toán… giữa doanh nghiệp ngoại thương và các khách hàng cụ thể. Những thoả thuận này được thể hiện thành các hình thức văn bản hợp đồng nhất định. Về mặt pháp lý, hợp đồng xuất khẩu là căn cứ pháp luật ràng buộc các bên thực hiện các nghĩa vụ của mình như được hưởng các quyền lợi nhất định. Chính vì vậy, khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phảI xem xét lại các khoản thoả thuận trước khi ký kết hợp đồng. Doanh nghiệp có thể ký kết hợp đồng xuất khẩu với khách hàng nước ngoàI theo các bước sau: Doanh nghiệp xác nhận là người mua đã đồng ý các đIều kiện của thư chào hàng. Hai bên ký vào một văn bản hợp đồng mua bán. Doanh nghiệp xác nhận đơn đặt hàng của khách hàng. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng, doanh nghiệp cần phảI xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phảI làm, cố gắng không để xảy ra những sai sót, những thiệt hại đáng tiếc. Thông thường trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau: Sơ đồ 1: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu Ký hợp đồng xuất khẩu Kiểm tra L/C Xin giấy phép XK Chuẩn bị hàng hoá Giao hàng lên tàu Làm thủ tục hảI quan Thuê tàu Kiểm nghiệm hàng hoá Mua bảo hiểm Làm thủ tục thanh toán GiảI quyết khiếu nại (nếu có) Đây là trình tự những công việc chung nhất cần tiến hành để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên trong hợp đồng có thể bỏ qua một vàI công đoạn. 4.1. Xin giấy phép xuất khẩu Muốn thực hiện các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, doanh nghiệp phảI có giấy phép xuất khẩu hàng hoá. Giấy phép xuất khẩu hàng hoá là một công cụ quản lý của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Trước đây, khi muốn xuất khẩu một lô hàng nào đó, các doanh nghiệp xuất khẩu phảI có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu và xin giấy phép xuất khẩu từng chuyến. Để giảm gánh nặng về thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, ngày 3/3/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 55/1998/QĐ/TTg, kể từ ngày 18/3/1998 tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được quyền xuất nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung đăng ký kinh doanh trong nước của doanh nghiệp, không cần phảI xin phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ thương mại nữa. Quy định này không áp dụng với một số mặt hàng đang được quản lý theo cơ chế riêng, cụ thể là những mặt hàng sau: gạo, sách, chất nổ, ngọc trai, đá quý, kim, loại, tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm và đồ cổ. 4.2. Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Người xuất khẩu phảI tiến hành chuẩn bị hàng hoá để xuất khẩu. Công việc chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu gồm 3 công đoạn sau: Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu: ở đây doanh nghiệp xuất khẩu tổ chức thu gom hàng bằng nhiều biện pháp khác nhau như mua nguyên vật liệu về gia công, sản xuất thành hàng xuất khẩu, mua đứt bán đoạn với đơn vị sản xuất hàng hóa, tổ chức đại lý hoặc xuất khẩu uỷ thác. - Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: Việc đóng gói bao bì là căn cứ theo yêu cầu trong hợp đồng đã ký kết, bên cạnh đó công việc này có ý nghĩa nhất định với quá trình kinh doanh, bởi vì bao bì vừa phải đảm bảo được phẩm chất của hàng hoá, vừa thuận tiện cho quá trình vận chuyển bốc xếp hàng hoá, tạo điều kiện cho việc nhận biết hàng hoá, gây ấn tượng và làm cho người mua có cảm tình với hàng hoá, với doanh nghiệp. - Kẻ ký mã hiệu hàng hoá xuất khẩu: Ký mã hiệu bằng số hay bằng chữ, hình vẽ ghi ở mặt ngoài bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho việc nhận biết, giao nhận, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. Khi kẻ ký mã hiệu hàng hoá, phải đảm bảo những nội dung bảo quản hàng hoá, đồng thời phải thoả mãn yêu cầu sáng sủa, rõ ràng, dễ hiểu không gây khó khăn cho việc nhận biết hàng hoá. 4.3. Kiểm nghiệm hàng hoá ( Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu) Kiểm tra hàng hoá xuất khẩu là công việc cần thiết và quan trọng, nhờ nó mà quyền lợi của khách hàng được đảm bảo, ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu, phân định trách nhiệm của các khâu trong sản xuất cũng như tạo nguồn hàng, đảm bảo uy tín của hàng xuất khẩu và nhà sản xuất trong quan hệ buôn bán. Trước khi tiến hành xuất khẩu một lô hàng nào đó, doanh nghiệp phải có trách nhiệm kiểm tra phẩm chất, khối lượng, bao bì...của hàng hoá xuất khẩu. Quá trình kiểm tra này gọi là kiểm nghiệm hàng hoá. Nếu hàng hoá là động vật thì phải kiểm tra khả năng lây lan bệnh tật (tức là kiểm dịch động vật, thực vật). Việc kiểm tra và kiểm dịch phải được tiến hành ở hai cấp: Kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS tiến hành ( có vai trò quyết định và triệt để nhất), kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng kiểm tra lại kết quả kiểm tra lần trước được thực hiện trước đó. 4.4. Thuê tàu lưu cước Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, việc thuê tàu chở hàng dựa vào các căn cứ sau: Những điều khoản của hợp đồng xuất khẩu hàng hoá Đặc điểm của hàng hoá xuất khẩu Điều kiện vận tải Thông thường trong nhiều trường hợp, đơn vị kinh doanh xuất khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu cho một công ty vận tải thuê tàu. 4.5 Mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì vậy, việc mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu là cách tốt nhất để đảm bảo hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Doanh nghiệp mua bảo hiểm cho hàng hoá thông qua hợp đồng bảo hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm bao ( Open policy) và hợp đồng bảo hiểm chuyến ( Voyage policy). Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm: - Điều kiện bảo hiểm A: Bảo hiểm mọi rủi ro. Điều kiện bảo hiểm B: Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng Điều kiện bảo hiểm C: Bảo hiểm không bồi thường tổn thất riêng Ngoài ra, còn có một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như: Bảo hiểm chiến tranh, đình công bạo động... 4.6. Làm thủ tục hải quan Hàng hoá muốn được vận chuyển qua biên giới quốc gia thì phải làm các thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là công cụ của Nhà nước về quản lý các hành vi buôn bán xuất khẩu theo pháp luật. Khi làm thủ tục hải quan doanh nghiệp cần tuân thủ theo các bước sau: Khai báo hải quan: Chủ hàng có trách nhiệm kê khai để cơ quan kiểm tra thuận tiện theo dõi. Nội dung tờ khai hải quan gồm có: Loại hàng, tên hàng, số lượng, giá trị hàng hoá, nước xuất khẩu...Tờ khai hải quan được xuất trình cùng với một số giấy tờ như hợp đồng xuất khẩu, giấy phép, hoá đơn đóng gói... Xuất trình hàng hoá và nộp thuế: Hàng hoá xuất nhập khẩu phải được sắp xếp một cách trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát... Thực hiện các quyết định của hải quan: Đây là công việc cuối cùng trong quá trình hoàn thành thủ tục hải quan. Đơn vị xuất khẩu có nghĩa vụ thực hiện một cách nghiêm túc nhất các quyết định của hải quan đối vơí lô hàng cho phép xuất khẩu hoặc không cho phép xuất khẩu. 4.7. Giao hàng lên tàu Thực hiện điều kiện giao nhận hàng trong hợp đồng xuất khẩu, đến thời gian giao hàng, doanh nghiệp phải làm các thủ tục giao nhận hàng. Hiện nay, phần lớn hàng xuất khẩu của nước ta là vận chuyển bằng đường biển và đường sắt. Nếu hàng hoá được vận chuyển bằng đường biển, doanh nghiệp phải tiến hành các công việc sau: Lập bảng đăng ký hàng chuyên chở căn cứ và các chi tiết hàng hoá xuất khẩu. Xuất trình bảng đăng ký chuyên chở cho người vận tải để nhận hồ sơ xếp hàng. Trao đổi với các cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ giao hàng. 4.8. Làm thủ tục thanh toán Thanh toán là khâu quan trọng và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh xuất khẩu. Hiện nay, thanh toán trong xuất khẩu phải chú ý đến các vấn đề sau: Tiền tệ trong thanh toán Tỷ giá hối đoái Thời hạn thanh toán Phương thức và hình thức thanh toán Điều kiện đảm bảo hối đoái Có nhiều phương thức thanh toán được sử dụng, nhưng hiện nay người ta thường sử dụng rộng rãi hai phương thức thanh toán sau: + Thanh toán bằng thư tín dụng- chứng từ ( Letter of credit L/C) Thư tín dụng (L/C) là một loại giấy tờ mà một ngân hàng xác định đảm bảo hoặc cam kết sẽ trả tiền cho bên xuất khẩu. Khi thanh toán theo L/C, doanh nghiệp phải thường xuyên đôn đốc khách hàng mở L/C đúng hạn và đúng nội dung như trong hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết. Sau khi nhận được L/C, doanh nghiệp phải kiểm tra tính chính xác của L/C, nếu thấy chỗ nào chưa phù hợp phải yêu cầu khách hàng sửa chữa bằng văn bản. Khi có L/C, doanh nghiệp phải tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Giao hàng xong, doanh nghiệp lập bộ chứng từ hoàn hảo phù hợp với nội dung ghi trên L/C và sau đó đi nhận tiền thanh toán ở ngân hàng. + Thanh toán bằng phương thức nhờ thu: Nếu trong hợp đồng xuất khẩu có quy định thanh toán theo phương thức nhờ thu thì ngay sau khi giao hàng thì doanh nghiệp phải hoàn thành việc lập bộ chứng từ và phải uỷ thác cho ngân hàng thu tiền hộ ( ở đây ngân hàng chỉ đóng vai trò là trung gian). Chứng từ thanh toán phải hợp lệ, chính xác và nhanh chóng giao cho Ngân hàng để thu tiền. 4.9. Khiếu nại với trọng tài (nếu có) Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nếu phía khách hàng vi phạm hợp đồng thì doanh nghiệp có thể khiếu nại với trọng tài về sự vi phạm đó trong trường hợp thật cần thiết. Việc khiếu nại phải thận trọng, kịp thời, tỷ mỉ...dựa trên các căn cứ của chứng từ kèm theo. Nhìn chung, doanh nghiệp hạn chế tới mức tối đa việc vi phạm hợp đồng của các khách hàng nước ngoài. Bởi vì đưa ra kiện ở trọng tài quốc tế thì các doanh nghiệp Việt Nam thường chịu nhiều thua thiệt do hạn chế về kinh phí và hạn chế về hiểu biết luật pháp quốc tế. Trên đây là 9 nội dung cơ bản của quá trình thực hiện một hợp đồng xuất khẩu hàng hoá. Doanh nghiệp với tư cách là nhà sản xuất thì cần phải thực hiện đầy đủ và tốt các công việc này, tránh xẩy ra tranh chấp với khách hàng để đảm bảo chữ tín với khách hàng nước ngoài. Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu. Hiệu quả kinh doanh được biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả sản xuất và chi phí sản xuất mới chỉ đặc trưng về mặt số lượng. Hiệu quả kinh doanh ở bất kì hoạt động nào đều phản ánh tính chất lượng. Tính chất lượng và hiệu quả là tiêu chuẩn của hiệu quả kinh doanh. Hơn nữa hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú cho nên khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp thì phải sử dụng nhiều các chỉ tiêu. Thông qua các chỉ tiêu này ta có thể đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. a. Chỉ tiêu lợi nhuận xuất khẩu. Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí Đây là chỉ tiêu tuyệt đối, nó phản ánh tổng lợi nhuận do kết quả hoạt động kinh doanh mang lại. Nhưng nó vẫn chưa thể hiện chính xác về chất lượng vì chỉ tiêu này không cho biết liệu doanh nghiệp có tiết kiệm được chi phí hay lãng phí lao động xã hội. Vì vậy để đánh giá được kết quả chính xác thì cần phải so sánh kết quả đầu ra với chi phí đầu vào và thông qua các chỉ tiêu kinh tế tương đối sau: + Tỷ suất lợi nhuận so với vốn kinh doanh: P1 = Lợi nhuận(P)/Vốn kinh doanh(V) + Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu P2 = lợi nhuận(P)/ doanh thu(DT) + Tỷ suất lợi nhuận so với chi phí P3 = lợi nhuận(P)/chi phí(V) + Chỉ tiêu P1 là tỷ suất lợi nhuận theo vốn, nó phản ánh cứ một đồng vốn bỏ ra kinh doanh, doanh nghiệp sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đây là chỉ tiêu phản ánh chính xác tính hiệu quả và để so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau. + Chỉ tiêu P2 là tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu. Nó cho biết với một đồng chi phí, doanh nghiệp có bao nhiêu đồng lợi nhuận. + Chỉ tiêu P3 là tỷ suất lợi nhuận theo chi phí. Nó cho biết với một đồng chi phí thì doanh nghiệp sẽ có được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh vì thế nguyên nhân để xác định hiệu quả kinh doanh cần xã hội hoá một số chỉ tiêu nhất định thì mới xác định được việc kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Hoạt động sản xuất kinh doanh thực chất là một hoạt động kiếm lời trên cơ sơ các tiềm lực sẵn có, chính vì thế mà hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là hiệu quả tổng hợp nhất của hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh sẽ thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh để từ đó vạch ra khả năng tiềm tàng, nâng cao hơn nữa kết quả sản xuất kinh doanh. b. Các chỉ tiêu biểu hiện cụ thể của các hoạt động xuất nhập khẩu: + Tỷ lệ thu nhập ngoại tệ xuất khẩu: Tỷ lệ thu nhập ngoại tệ xuất khẩu=(Thu nhập ngoại tệ xuất khẩu-Giá thành nguyên liệu ngoại tệ)/Giá thành xuất khẩu nội tệ. + Giá thành chuyển đổi xuất khẩu=Tổng giá thành nội tệ xuất khẩu(VNĐ)/thu nhập ngoại tệ xuất khẩu(USD). Chỉ tiêu này còn được gọi là chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu. Là số lượng bản tệ phải chi ra để thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất tính ra lớn hơn tỷ giá hối đoái thì không thể xuất khẩu được và ngược lại nếu tỷ suất này nhỏ hơn tỷ giá hối đoái thì doanh nghiệp nên xuất khẩu. Nếu đảo ngược tỷ số và mẫu số của chỉ tiêu này thì chỉ tiêu này sẽ là chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ của một đồng vốn xuất khẩu hiệu quả tương đối của xuất khẩu. + Tỷ lệ lỗ lãi xuất khẩu. Tỷ lệ lỗ lãi xuất khẩu= (Thu nhập nội tệ xuất khẩu – Giá thành xuất khẩu nội tệ)/Giá thành xuất khẩu nội tệ. chương ii: thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của công ty vilexim i. GiớI THIệU CHUNG Về CÔNG TY XUấT NHậP KHẩU VILEXIM 1. Qúa trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty xuất nhập khẩu với Lào (trước đây thuộc tổng công ty xuất nhập khẩu Việt Nam) được thành lập căn cứ vào quyết định số: 82/VNT-TCCB ngày 24/21978 của Bộ ngoại thương(nay là Bộ thương mại) Công ty được Bộ thương mại giao cho là tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu với nước CHDCND Lào. Nhưng từ năm 1993 đến nay theo xu hướng của cơ chế thị trường và sự đổi mới của đất nước Công ty không chỉ thực hiện kinh doanh với Lào mà công ty đã mở rộng kinh doanh XNK với nhiều nước như: Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản... và nhiều tổ chức. Công ty là đơn vị kinh tế quốc doanh, hoạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân, có tài khoản tiền Việt và ngoại tệ tại ngân hàng và có con dấu riêng, hoạt động theo luật pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công ty thông qua hoạt động kinh doanh XNK để đẩy mạnh phát triển quan hệ thương mại và các hoạt động khác có liên quan. + Tên gọi: - Tên Việt nam: Công ty Xuất nhập khẩu với Lào - Tên tiếng Anh: Viêt nam nationnal import- export corporation with laos Tên viết tắt : Vilexim Trụ sở chính của công ty: P4A-Đường Giải Phóng- Hà Nội Công ty có các chi nhánh và các văn phòng đại diện tại: TP Hồ Chí Minh 6/59 Bis đường Cao Thắng- Quận 3 Đông Hà- Quảng Trị Văn phòng đại diện tại Viên Chăn- CHND Lào 2. Giới thiệu chung về cơ cấu hoạt động và quản lý của công ty VILEXIM 2.1 Bộ máy quản lý của Công ty: Sơ đồ2: sơ đồ tổ chức của công ty Giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Phòng XNK I,II,III, IV Phòng dịch vụ và đầu tư Phòng kế hoạch tổng hợp Phòng kế toán tài vụ Phòng tổ chức hành chính Chi nhánh tại TP-HCM Chi nhánh tại Đông Hà- Quảng Trị * Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của công ty + chức năng của công ty - Công ty trực tiếp XNK theo giấy phép của Bộ thương mại với CHDCND Lào, các nước trong khu vực và trên thế giới. Xuất khẩu những sản phẩm do Công ty sản xuất hoặc do Công ty trực tiếp liên doanh sản xuất ra, nhập khẩu vật tư, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh của Công ty. - Công ty nhận uỷ thác xuất nhập khẩu và làm các dịch vụ thuộc phạm vi kinh doanh của Công ty theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. - Sản xuất gia công các mặt hàng xuất khẩu - Liên doanh liên kết hợp tác sản xuất với các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế ở trong và ngoài nước. + Nhiệm vụ của Công ty Thông qua hoạt động kinh doanh XNK để đẩy mạnh và phát triển quan hệ thương mại hợp tác đầu tư và các hoạt động khác có liên quan đến kinh tế đối ngoại với các tổ chức kinh tế Việt nam và nước ngoài. Đặc biệt là với Lào Công ty hoạt động theo pháp luật của nước CHXHCN Việt nam và những quy định riêng trong công ty. Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh của công ty theo quy chế hiện hành để thực hiện mục đích và nội dung hoạt động của công ty Tuân thủ các chính sách, chế độ, pháp luật của nhà nước và quản lý kinh tế tài chính, quản lý XNK và trong giao dịch đối ngoại thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế mà công ty đã ký. Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh doanh của Công ty. Nghiên cứu và thực hiện hiệu quả các biện pháp nâng cao chất lượng hàng hoá, nâng cao sức cạnh tranh và thị trường tiêu thụ. Góp phần tăng thu ngoại tệ + Các quyền hạn của công ty - Công ty được quyền chủ động giao dịch, đàm phán ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng kinh tế và các văn bản hợp tác, liên doanh với khách hàng trong nước và ngoài nước. Được vay vốn(kể cả ngoại tệ) ở trong nước và ngoài nước, được liên doanh hợp tác sản xuất với các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước phù hợp với quy chế của pháp luật hiện hành của nhà nước. Công ty được tham gia tổ chức hội chợ triển lãm quảng cáo hàng hoá, tham gia các hội nghị, hội thảo, chuyên đề liên quan đến hoạt động của công ty ở trong và ngoài nước. - Được cử các cán bộ của công ty đi công tác nước ngoài hoặc mời bên nước ngoài vào Việt nam để giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng và các vấn đề thuộc lĩnh vực kinh doanh của Công ty * Nhân lực của công ty: Tổng số cán bộ công nhân viên trong Công ty là 85 người. Lực lượng cán bộ công nhân viên này hầu hết tập trung ở các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, các văn phòng tại chi nhánh đều tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, giảm thiểu lực lượng lao động gián tiếp trong công ty. Trong tổng số 85 cán bộ công nhân viên thì có tới 70% là có trình độ đại học và trên đại học với trình độ chuyên môn vững vàng, dày dạn kinh nghiệm. Cụ thể như sau: -Phòng giám đốc: 1 cán bộ (trình độ đại học) - Phòng phó giám đốc kinh doanh: 1 cán bộ (trình độ đại học) - Phòng phó giám đốc chi nhánh 1 cán bộ (trình độ đai học) - Phòng tổ chức hành chính: 10 cán bộ (đều trình độ đại học) - Phòng kế hoạch tổng hợp: 4 cán bộ (đều trình độ đại học) - Phòng kế toán tài vụ: 1 kế toán trưởng và 9 kế toán viên(đều có trình độ đại học) - Phòng xuất nhập khẩu 1: 5 cán bộ (trình độ đại học) - Phòng xuất nhập khẩu 2: 4 cán bộ (trình độ đại học) - Phòng xuất nhập khẩu 3: 5 cán bộ (trình độ đại học) - Phòng xuất nhập khẩu 4: 5 cán bộ (trình độ đại học) - Phòng dịch vụ và đầu tư: 5 cán bộ (trình độ đại học) Trong những năm gần đây công ty đang tiến hành trẻ hoá đội ngũ cán bộ công nhân viên tạo nên một sự năng động, sáng tạo, đầy nhiệt huyết trong kinh doanh. 2.2 Chức năng hoạt động và hợp tácgiữa các bộ phận, các phòng ban Ban lãnh đạo là bộ phận đứng đầu của công ty. Trong đó ban giám đốc do Bộ trưởng Bộ thương mại bổ nhiệm trực tiếp điều hành công ty theo chế độ một thủ trưởng có toàn quyền quyết định mọi hoạt động kinh doanh sao cho có hiệu quả và là người chịu trách nhiệm toàn diện trước Bộ trưởng Bộ thương mại và tập thể cán bộ công nhân viên của công ty về quá trình quyết định hoạt động của mình. Giúp việc cho Giám đốc có hai Phó giám đốc. Các Phó giám đốc do Giám đốc đề nghị và được Bộ trưởng Bộ thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Phó giám đốc công ty được phân công phụ trách một hoặc một số lĩnh vực và chịu trách nhiệm trước Giám đốc những lĩnh vực mình đảm nhiệm. Trong các Phó giám đốc có một Phó giám đốc thứ nhất thay mặt điều hành công ty khi Giám đốc đi vắng. Dưới Giám đốc và Phó giám đốc là các phòng ban chức năng, các chi nhánh và văn phòng đại diện. Cụ thể: Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho giám đốc về tổ chức bộ máy quản lý công ty có hiệu quả trong từng thời kỳ, đánh giá chất lượng cán bộ, chỉ đạo xây dựng và xét duyệt định mức lao động tiền lương cho các thành viên. Tổ chức và quản lý các công tác hành chính, quản trị nhằm phục vụ và duy trì các hoạt động cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Thực hiện chế độ chính sách đối với nhân viên, tổ chức công tác hành chính văn thư lưu trữ, công tác quản trị công ty. Phòng kế toán tài vụ Có nhiệm vụ làm các công việc theo dõi nghiệp vụ liên quan đến công tác hạch toán kế toán, làm công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các chế độ quản lý kinh tế, lập báo cáo quyết toán phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh theo định kỳ. Chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động tài chính của công ty. Đề xuất các biện pháp điều hoà vốn, trích lập các quĩ lương. Trong đó kế toán trưởng có nhiệm vụ chỉ đạo nhân viên trong phòng kế toán hạch toán theo đúng chế độ nhà nước quy định. Phòng kế hoạch tổng hợp Có nhiệm vụ lập ra kế hoạch kinh doanh chung cho toàn Công ty và phân bố kế hoạch kinh doanh cho từng phòng kinh doanh cụ thể và báo cáo lên ban lãnh đạo tình hình hoạt động kinh doanh của công ty từng tháng, từng quý đồng thời đưa ra các biện pháp tháo gỡ những khó khăn trong công ty. Phòng đề xuất những phương án kinh doanh xây dựng chiến lược cho Công ty do vậy phòng này có vai trò rất quan trọng trong Công ty. Phòng dịch vụ và đầu tư Tổ chức thực hiện bán buôn, bán lẻ với khách hàng những lô hàng nhập khẩu của Công ty, cung cấp những thông tin về thị trường, giá cả nguồn hàng trong nước cho Công ty. Phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu 1 Được giao nhiệm vụ thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu với Lào và có thể kinh doanh xuất nhập khẩu với một số thị trường khác. Phòng xuất nhập khẩu 3 Có nhiệm vụ chuyên kinh doanh với thị trường Trung Quốc. Ngoài ra còn được uỷ thác nhập khẩu một số mặt hàng của công ty khác. Phòng nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu 2,4 Là các phòng kinh doanh đa ngành. Có nhiệm vụ tự tìm khách hàng và thị trường cho mình. Khi đã tìm khách hàng và thị trường cho mình thì các phòng này phải lập phương án kinh doanh trình lên giám đốc. Giám đốc sẽ duyệt và đứng ra làm đại diện để ký kết hợp đồng với khách hàng. Còn các nghiệp vụ cụ thể và giao dịch do các phòng giao dịch, vốn để kinh doanh công ty sẽ phân bổ cho từng phòng theo từng hợp đồng. Nhìn chung các phòng xuất nhập khẩu này được coi là trụ cột của Công ty, đảm trách thực hiện các khâu trong kinh doanh đối ngoại như kinh doanh hàng xuất nhập khẩu trực tiếp hay uỷ thác. Tổ chức thực hiên quá trình kinh doanh, vạch ra những kế hoạch xuất nhập tối ưu nhất, tự tìm kiếm khách hàng, nguồn hàng và mở rộng thị trường nhằm tạo cho việc kinh doanh có hiệu quả. Chi nhánh và văn phòng đại diện Hoạt động theo phương thức khoán. Trưởng chi nhánh và văn phòng đại diện có quyền quyết định và quản lý mọi hoạt động kinh doanh của chi nhánh đồng thời chịu trách nhiệm trước giám đốc, pháp luật, tập thể cán bộ công nhân viên chi nhánh. Văn phòng đại diện có quan hệ với các cơ quan chủ quản cấp trên, với các ngành, các đơn vị kinh doanh trong và ngoài nước 2.3 Tình hình tài chính và cơ sở vật chất - Tài chính: Số vốn có ban đầu: + vốn cố định: 1.266.991.000đ + vốn lưu động: 2.266.911.000đ Đến nay đã có: + vốn cố định: 3.990.808.207đ + vốn lưu động: 6.767.474.539đ Cơ sở vật chất kỹ thuật: + Công ty có một trụ sở chính tại P4A đường Giải Phóng + Một chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh và một đại diện tại Đông Hà- Quảng Trị + Công ty có hai kho lớn là kho Cổ Loa và kho Pháp Vân. Diện tích của hai kho khoảng 2000 mét vuông + Một dây chuyền chuyên lắp ráp xe loại tiêu chuẩn B. Công ty có cơ sở tại 139 đường Lò Đúc- Hà Nội với 17 văn phòng cho công ty bạn thuê. Ngoài ra công ty còn có 3 xe ô tô, xe máy phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty. Trong mỗi phòng ban được trang bị máy in, máy vi tính, máy điện thoại, fax...và một số vật dụng khác. Công ty đang ngày càng cố gắng mở rộng hoạt động kinh doanh sang thị trường nhiều nước và mở các văn phòng đại diện tại Singapo, Malaixia... II. Khái quát hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian gần đây Kể từ ngày thành lập đến nay, bằng mọi nỗ lực và cố gắng, Công ty đã không ngừng nâng cao tổng kim ngach XNK, từng bước xâm nhập, củng cố và mở rộng thị trường. Mặc dù trong những năm đầu mới thành lập công ty phải đương đầu với nhiều khó khăn. Bị hạn chế nhiều hoạt động trong chức năng kinh doanh, cơ sở vật chất yếu kém, chưa có kinh nghiệm thị trường... Những năm qua, tình hình kinh tế trong khu vực và trên thế giới có nhiều khó khăn, khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở Châu á tác động tiêu cực đến nền kinh tế khu vực. ở Việt Nam tốc độ tăng trưởng kinh tế ở cuối những năm 90 bị chậm lại, sức mua giảm sút. Những yếu tố đó tác động không nhỏ đến tình hình hoạt động của công ty. Điển hình như lượng khách của công ty bị giảm sút, thêm vào đó chính sách của nhà nước liên tục thay đổi gây không ít khó khăn cho công ty, chẳng hạn như năm 1999 nhà nước áp dụng luật thuế mới thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp, tuy có tiến bộ hơn so với thuế doanh thu và thuế lợi tức trước đây. Nhưng trong quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều vấn đề gây khó khăn cho công ty như việc làm thuế diễn ra chậm, doanh nghiệp phải vay vốn ngân hàng để nộp thuế làm cho công bị thiếu hụt vốn trong kinh doanh. Trong những năm gần đây, Công ty phải đối mặt với không ít những k._.ên gia về thị trường dự báo giá cả hàng nông sản thế giới sẽ biến động do tình hình chính trị thế giới có nhiều diễn biến phức tạp có thể sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế thế giới. 2. Định hướng phát triển cho Công ty Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để đứng vững và phát triển mỗi doanh nghiệp phải tìm được một hướng đi phát triển cho riêng mình, trên cơ sở phù hợp với những điều kiện thực tế của mỗi doanh nghiêp và của đất nước nói chung. Bước sang năm 2003 là năm thứ 3 trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 và được coi là năm bản lề của kế hoạch này, là năm có rất nhiều cơ hội và thách thức, năm phải có bước tiến nhanh chóng và toàn diện để đủ điều kiện cho việc thực hiện cam kết theo hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEP/APTA). Trên cơ sở kim ngạch xuất khẩu đã đạt được trong 2002 và tình hình kinh doanh thực tế của Công ty hiện nay cũng như trong tương lai gần Công ty dự kiến kế hoach xuất khẩu năm 2003 như sau: - Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 26 triệu USD + Kim ngạch xuất khẩu : 12,5 triệu USD + Kim ngạch nhập khẩu : 13,5 triệu USD - Tổng doanh thu : 300 tỷ VNĐ - Nộp ngân sách : 28,07 tỷ VNĐ - Lợi nhuận : 670 triệu VNĐ - Tổng quỹ lương : 1,847 tỷ VNĐ Để thực hiên được những chỉ tiêu trên Công ty cố gắng tập trung xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ lực như: lạc nhân, gạo, tinh bột sắn, sắn lát, cà phê, hạt tiêu, hoa hồi... bên cạnh việc xuất sang các thị trường truyền thống ở các nước châu á như Singapo, Philipin, Inđônêxia, Hồng Kông, ấn Độ... tìm cách mở rộng sang các thị trường khác như: Trung Quốc, Nam Phi, Mỹ, các nước Trung cận đông. Mục tiêu xuất khẩu hàng nông sản được Công ty đặt ra cho phấn đấu như sau: Bảng 6: dự kiến kế hoạch năm 2003 Mặt hàng xuất khẩu Số lượng (tấn) Trị giá (USD) Gạo các loại Lạc nhân Hạt tiêu Chè các loại 25.000 6.000 500 500 5.000.000 3.000.000 750.000 250.000 Nguồn: báo cáo tổng kết công ty 2002 Năm 2002, Công ty thực hiện doanh số được 330 tỷ đồng vì bán được một số lượng lớn hàng tồn kho, tuy nhiên kế hoạch năm 2003 Công ty chỉ để doanh số 300 tỷ đồng vì phải lường đến những khó khăn và thách thức. Bước sang năm 2003 và một số năm tới Công ty cần đẩy mạnh tập trung đẩy mạnh xuất khẩu lấy hình thức tự doanh là chính, chú trọng phát triển xuất khẩu các mặt hàng như: lạc nhân, gạo, cà phê, hạt tiêu... ngoài việc kinh doanh xuất nhập khẩu ngắn hạn Công ty phải chú trọng đến việc xây dựng mặt hàng ổn định, lâu dài, nhất là mặt hàng nông sản xuất khẩu, gắn với việc xuất khẩu nông sản dạng thô hay qua sơ chế với việc xuất khẩu nông sản đã qua chế biến để tạo thế đứng lâu dài cho Công ty trên thị trường quốc tế. Điều này rất quan trọng khi các đầu mối xuất khẩu được Nhà nước mở rộng, khai thác mọi khả năng để tìm các hình thức kinh doanh mới như hợp tác sản xuất, xây dựng cửa hàng, đại diện tại nước ngoài mà ở đó có trưng bầy hàng mẫu xuất khẩu... Động viên có biện pháp cụ thể nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, kiến thức chuyên môn của đội ngũ cán bộ, giải quyết tốt quan hệ tiền hàng cũng như xử lý trắc về nghiệp vụ xuất nhập khẩu là những vấn đề phải đặt lên hàng đầu để đảm bảo kinh doanh an toàn hiệu quả. II. một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty trong thời gian tới Xây dựng một số chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu Để xây dựng một chiến lược như vậy, công ty phải xác định được những điểm mạnh, điểm yếu của mình như: Điểm mạnh: + Là một đơn vị luôn đạt thành tích kinh doanh- sản xuất tốt, đạt và vượt các chỉ tiêu được giao. + Tình trạng tài chính lành mạnh, luôn đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, hầu như không tồn tại nợ khó đòi, luôn đảm bảo an toàn và phát triển vốn. + Đội ngũ cán bộ ngoại thương nhìn chung có năng lực và kinh nghiệm cao đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. + Có uy tín cao Điểm yếu: + Chi phí hạn hẹp cho công tác thị trường, trình độ còn hạn chế... + Hạn chế về vốn Từ việc phân tích trên, Công ty rut ra được những cơ hội và kho khăn cho công tác thị trường và trên cơ sở đó xây dựng một chiến lược phát triển thị trường cho riêng mình. Chiến lược đó được lập theo hướng sau: Xây dựng thị trường chủ lực cho Công ty. Giữ vững và mở rộng các thị trường bạn hàng truyền thống. Xúc tiến bán hàng vào các thị trường mới. 2.Nâng cao khả năng tiếp thị Do quen làm ăn trong cơ chế cũ, khi mọi hoạt động của công ty đều dựa trên chỉ tiêu, kế hoạch của Nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn rất khó khăn trong việc nâng cao ý thức về nghiệp vụ tiếp thị để có thể tăng khả năng kinh doanh của mình. Cũng như vậy, mặc dù thời gian qua đã có rất nhiều cố gắng như: đề ra phương hướng nhiệm vụ, tăng cường khả năng tài chính, nâng cấp nghiệp vụ...song hiệu quả tiếp thị của Công ty chưa mấy hiệu quả. Để hoạt đông tiếp thị có hiệu quả, Công ty cần phải: Xác định thị trường mục tiêu tiếp thị Có khả năng chiếm lĩnh và giữ vững thị trường Thành lập các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, đại lý bán hàng Tích cực tham gia triển lãm, hội chợ Ngoài ra, Công ty cần chú ý lựa chọn phương tiện và quy mô quảng cáo và khuyếch trương thích hợp với tình hình tài chính và yêu cầu của thị trường, tổ chức hội thảo, soạn thảo các tài liệu giới thiệu về Công ty và các lĩnh vực kinh doanh. 3. Đảm bảo nguồn hàng cung cấp ổn định Hiện nay công ty có quan hệ với các bạn hàng trong nước ổn định và có uy tín cao. Trong bối cảnh hiện nay, hầu hết cung lớn hơn cầu nên việc tìm hàng không mấy khó khăn. Tuy nhiên, để đảm bảo cho uy tín của công ty với các đối tác nước ngoài để duy trì và mở rộng xuất khẩu cần chú ý các vấn đề sau: + về chất lượng Nhìn chung, công ty luôn chủ trương coi trọng uy tín của mình, nên rất coi trọng vấn đề đảm bảo chất lượng xuất khẩu. Muốn đảm bảo một nguồn hàng có chất lượng tốt, cần phải: Đối với các mặt hàng thu mua, cần nghiên cứu kỹ để chọn được những nhà cung cấp hàng có chất lượng tốt, ổn định. Kiên quyết không mua những hàng không đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu, nếu đã mua thì để lại bán trong nước hoặc có biện pháp khắc phục nếu có thể. Phối hợp với nhà cung cấp kiểm tra chất lượng ngay từ khi sản xuất. + về số lượng Công ty cần có sẵn một danh mục các nhà cung cấp, thường xuyên trao đổi thông tin cập nhật để biết khả năng cung cấp hàng của họ. Trên cơ sở nghiên cứu kỹ nhu cầu(đặc biệt là các mặt hàng có tính thời vụ) và xu hướng biến động của thị trường, bạn hàng. Công ty nên chuẩn bị cho các vụ làm ăn sắp tới bằng cách đặt hàng trước hay nhập dự trữ. Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của các chi nhánh, xây dựng mạng lưới thu mua từ địa phương. Liên doanh liên kết với các nhà cung cấp, tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh nhằm giảm tối đa chi phí trung gian, kiểm soát được chất lượng, chủ động về số lượng và thời gian giao hàng 4. Tích cực tìm kiếm thông tin phục vụ kinh doanh Công tác này cho đến nay chưa mấy được chú ý. Việc nắm bắt thông tin theo kịp thị trường có thể nói là một trong những yếu tố quyết định cơ hôị làm ăn của doanh nghiệp Hiện các doanh nghiệp nhìn chung chỉ lấy thông tin từ các báo chí, từ các cơ quan nhà nước,các hiệp hội ngân hàng, và chủ yếu là từ phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên thực tế thì cơ quan này chưa mấy phát huy tác dụng trong việc cung cấp thông tin và tư vấn cho doanh nghiệp. Trong điều kiện ấy doanh nghiệp buộc phải tự tìm kiếm thông tin bằng các biện pháp riêng của mình. Biện pháp tìm kiếm thông tin nhanh chóng nhất và đa dạng nhất hiện nay có thể nói là mạng internet và thương mại điện tử 5. Nâng cao trình độ cán bộ theo kịp yêu cầu mới Nhìn chung công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên có đủ phẩm chất chính trị, nghiệp vụ nên hoạt động sản xuất kinh doanh khá hiệu quả. Tuy nhiên cơ chế mới có nhiều yêu cầu mới mà công ty buộc phải theo kịp. Đó là các yêu cầu về chuyên môn như quản lý công nghiệp để mở rộng sang lĩnh vực sản xuất, nghiệp vụ ngoại thương trong tình hình các quy tắc và tập quán cũng như phương thức có nhiều thay đổi. Còn có các yêu cầu về trình độ ngoại ngữ và tin học để có thể theo kịp và hoà nhập với trình độ phát triển chung của thế giới trong xu thế quốc tế hoá hiện nay. Đặc biệt công ty cần có kế hoạch đào tạo tuyển dụng các cán bộ có trình độ marketing đáp ứng các yêu cầu kinh doanh hiện đại. III. Một số kiến nghị đối với Nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty 1.Định hướng rõ ràng về chiến lược lựa chọn thị trường vĩ mô `Lựa chọn thị trường trong chính sách ngoại thương của một nước là hết sức quan trọng nhằm đạt hiệu qủa kinh tế tối đa. Để lựa chọn loại thị trường đúng đắn cho hoạt động ngoại thương của một nước đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan như môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường luật pháp, chính trị, văn hoá và nhất là phải xem xét, đánh giá cơ cấu tiêu dùng của một quốc gia xem có phải là thị trường tiềm năng hay không. Nằm trong khu vực kinh tế phát triển năng động và là nước đi sau, Việt Nam rất có điều kiện để xem xét các kinh nghiệm từ chiến lược lựa chọn thị trường nằm trong chiến lược ngoại thương chung của các nước như NICs và ASEAN để học tập. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, cũng như các nước này Việt Nam xác định lựa chọn thị trường của các nước phát triển có dung lượng thị trường lớn, có sức tiêu thụ cao, nhằm tranh thủ những lợi thế cạnh tranh về giá nguyên vật liệu và giá nhân công rẻ. Như hầu hết các nước ASEAN, Việt Nam thực hiện chính sách đa phương hoá mở rộng quan hệ, mở cửa thị trường. Tuy nhiên, nhằm hướng tới sự cân bằng tương đối giữa các khu vực thị trường, tránh tập trung quá mức vào một thị trường dẫn đến ảnh hưởng bất lợi đến thị trường ngoại thương mà cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực cách đây một vài năm là một minh chứng rõ ràng, theo một số chuyên gia thì từ nay đến năm 2010 chính sách chuyển dịch thị trường chuyển dịch theo tỷ lệ sau: Châu á- Thái Bình Dương: 50%. Trong đó Trung Quốc và một số lãnh thổ thuộc Trung Quốc như: Hông Kông, Đài Loanm, Ma Cao...giữ mức không quá 25%, còn lại là các thị trường Nhật Bản, NICs Đông á, ASEAN, OXTRALIA... Châu âu: 20%,gồm các thị trường các nước EU như: Đức, Pháp, Anh, Hà Lan. Tiếp đó là các nước Bắc Âu, các nước SNG (Nga là chính) các nước Đông Âu và Trung Đông. Châu Mỹ: 25%, ngoài Canada là bạn hàng quen thuộc ở Bắc Mỹ, cần đặc biệt lưu ý mở rộng thị trường Mỹ do Việt Nam vừa ký hiệp định thương mại với Mỹ xong, tiếp tục tìm kiếm thị trường các nước Mỹ la tinh. Các châu lục khác 5% Phát triển kinh tế xã hội, hạn chế những ảnh hưởng của các yếu tố khách quan Một điều thấy rằng trong thời gian qua tình hình thế giới biến động vô cùng phức tạp điều đó ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp khiến cho xuất khẩu của Việt Nam bị chững lại trong thời gian qua. Để giảm thiểu tác động đó, một số định hướng được đưa ra như sau: - Duy trì và xúc tiến cải cách kinh tế theo hướng đổi mới một cách thật toàn diện và nhanh chóng hơn trước hết về chính sách và pháp luật, lĩnh vực tài chính ngân hàng, thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài, trong quản lý khu vực doanh nghiệp...trên nguyên tắc quan trọng và phải đảm bảo sự minh bạch rõ ràng, và tạo ra sự bình đẳng trong mọi thành phần kinh tế. Thực tế đồng bộ các giải pháp cải cách cơ cấu, đó là cơ cấu xuất nhập khẩu tích luỹ tiêu dùng, công nghệ lao động, cơ cấu các doanh nghiệp, cơ cấu nợ vốn, cơ cấu tài chính. Tích luỹ và hội nhập hơn vào kinh tế khu vực và thế giới. Chính phủ cần ủng hộ mạnh mẽ tích cực về thể chế và nhiệm vụ cho việc tham gia WTO và cũng đẩy mạnh tiến trình AFTA và tham gia APEC trong tương lai gần. Tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài không thua kém trình độ trong khu vực. Từng bước tự do hoá khu vực tài chính. Đặc biệt lưu ý chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, thích nghi với thị trường. 3.Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng đơn giản, thông thoáng và phù hợp với cơ chế thị trường . Những quy định về xuất khẩu, các hàng rào thương mại trong nước là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của nhà nước cần được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Chẳng hạn: Đồng bộ hệ thống văn bản pháp lý. Hệ thống văn bản pháp lý phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các công ty chuyên doanh xuất khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đấy nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích sản xuất trực tiếp và khuyến khích đầu tư xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới quan tâm đến các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu và các công ty kinh doanh xuất khẩu chứ chưa quan tâm đến các công ty làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Chẳng hạn: Hiện nay nhà nước đã có những chính sách ưu tiên đối với người sản xuất và những đơn vị tham gia xuất khẩu hàng nông sản nhưng lại chưa quan tâm thích đáng tới các đơn vị cung cấp máy móc, thiết bị, phân bón phục vụ cho nông nghiệp. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần phải xem xét và có các chính sách ưu đãi đối với các đon vị này. Chính sách thuế VAT như hiện nay đang cản trở đến hợp đồng xuất khẩu của công ty. Để nạp thuế VAT, công ty phải đi vay tiền của ngân hàng với lãi xuất cao. Tuy nhiên, quá trình hoàn thuế VAT của nhà nước lại diễn ra quá chậm chạp. Điều này làm cho công ty đã thiếu vốn kinh doanh lại càng thiếu hơn. trong thời gian tới, nhà nước cần xem xét lại chính sách này nhằm tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu Đơn giản cơ chế quản lý xuất khẩu. Hiện nay công tác quản lý xuất khẩu của nhà nước còn nhiều bất cập. Thủ tục xuất khẩu rườm rà phức tạp, gây lãng phí thời gian và công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhiều khi tỏ ra quan liêu cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy trong thời gian tới nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cho phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra nhà nước cũng cần giám sát chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản để tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây tổn hại cho công ty cũng như cho nhà nước. Thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Đây là một chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác, tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. ở chính sách này, để tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu, các nhà hoạch định chính sách thường phá giá đồng bản tệ. Về mặt lý thuyết, việc phá giá tiền tệ làm giảm nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Khó khăn chủ yếu ở đây là phải xác định một tỷ giá vừa đủ nhưng cũng phải vừa ngắn để thu được một hiệu ứng có lợi cho ngoại thương và bảo toàn được đội ngũ bạn hàng. Thành công của chính sách này đòi hỏi một loạt các chính sách khác đi kèm để giữ cho nền kinh tế không “suy sụp“ trong điều kiện lạm phát. Từ quan điểm này việc chọn thời điểm phá giá tiền tệ là hết sức quan trọng. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Ngày 7/8/1998, ngân hàng nhà nước đã quyết định thu hẹp biên độ giao dịch ngoại tệ xuống ± 7%, đồng thời nâng tỷ giá chính thức 11.800VNĐ/USD lên 12.998 VNĐ/USD đã làm cho sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sau một năm tăng 75%, Cà phê tăng 49%, Chè tăng 20%... Ngoài ra, điều chỉnh tỷ giá còn giảm lỗ cho những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ, một số mặt hàng xuất khẩu đang bị lỗ đã chuyển thành lãi. Thực tiễn này cho thấy, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa ở các doanh nghiệp trong nước (nói chung) và ở công ty VILEXIM nói riêng, nhà nước nên thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu, chế độ tỷ giá này phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác của nhà nước. 4.Trợ giúp cho các công ty xuất khẩu hàng nông sản. Trợ giúp vốn. Hàng nông sản là mặt hàng mang tính thời vụ nên đòi hỏi các công ty phải có lượng vốn đủ lớn để thu mua hàng trong vụ thu hoạch và dự trữ cho xuất khẩu trong cả năm. Hiện nay hầu hết các công ty Việt Nam đều gặp khó khăn do thiếu vốn nên bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Thêm vào đấy, do thiếu vốn nên các công ty gặp khó khăn trong công tác đầu tư chế biến nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Chính vì vậy thời gian tới nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho vay vốn để công ty có thể nâng cao hoạt động chế biến và thu mua hàng xuất khẩu. Nhà nước nên thông qua các ngân hàng tạo điều kiện cho các công ty vay vốn với lãi suất thấp, thời gian hợp lý và đặc biệt thủ tục hành chính cần phải được cải tiến. Nhà nước cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Thông tin chiếm một vị trí quan trọng trong thành công hay thất bại đối với mỗi công ty. Thị trường hàng nông sản là một thị trường thường có sự biến động khá phức tạp. Các công ty xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam thường rất thiếu thông tin về tình hình cung cầu hàng nông sản, về sự biến động giá cả, về các đối thủ cạnh tranh....Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cũng như các Bộ nên chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo sự biến động của thị trường thế giới. Đồng thời nhà nước cần xây dựng một trung tâm cung cấp thông tin chuyên ngành về thị trường nông sản trong và ngoài nước cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Nhà nước cần lập qũy bảo hiểm xuất khẩu. Để chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài nhiều công ty thực hiện hình thức bán chịu hàng cho khách hoặc cho khách áp dụng hình thức mua trả chậm. Việc bán hàng theo cách này giúp công ty tiêu thụ được hàng hóa và lợi nhuận công ty thu được có thể cao hơn so với cách bán hàng trả tiền ngay. Tuy nhiên công ty cũng dễ gặp phải nhiều rủi ro, dễ bị mất vốn. Do vậy nhà nước cần lập nên một qũy bảo hiểm xuất khẩu để khuyến khích công ty xuất khẩu hàng hóa của mình đồng thời giúp công ty bảo toàn vốn khi gặp rủi ro. Nhà nước cần lập qũy bình ổn giá cả. Nhà nước cần xem xét bằng qũy bình ổn giá cả để bớt đi một phần gánh nặng lãi suất tín dụng cho các công ty xuất khẩu hàng nông sản trong trường hợp giá hàng nông sản trên thị trường thế giới xuống thấp hoặc giá thu mua hàng nông sản trong nước tăng cao gây thua lỗ cho các công ty. Nhà nước nên áp dụng thuế suất ưu đãi và mở rộng hơn nữa đối với số lượng mặt hàng được miễn giảm thuế. 5. Đẩy mạnh và tạo điều kiện cho hoạt động của các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu khác 5.1 Dịch vụ cung cấp thông tin Cung cấp thông tin cho doanh nghiệp một hệ thống thông tin đa dạng liên quan đến một thị trường mà doanh nghiệp quan tâm, tư vấn cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 5.2 Dịch vụ vận tải, giao nhận, kho vận Việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu do các công ty nước ngoài đảm nhiệm. Nguyên nhân là do đội tàu thuyền của Việt Nam hiện nay rất yếu, tàu không đủ an toàn và hiện đại, giá cước đắt hơn mức trung bình của quốc tế. Về giao nhận gồm có vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu thông thường, hàng hoá hội chợ, hàng tạm nhập tái xuất, hàng chuyển phát nhanh, làm đại lý giao nhận từ cửa đến cửa. Về kho vận gồm: bốc, xếp, bảo quản, đóng gói lưu giữ hàng hoá trong kho, làm dịch vụ khai báo hải quan thay chủ hàng, mua bảo hiểm và làm các thủ tục liên quan đến hàng hoá. 5.3 Dịch vụ kiểm nghiệm giám định hàng hoá xuất nhập khẩu 5.4 Dịch vụ quảng cáo, triển lãm 6. tăng cường công tác xúc tiến thương mại Bộ thương mại cần đẩy nhanh hoạt động xúc tiến thương mại trên cơ sở: Phối hợp chặt chẽ với cơ quan đại diện, các tham tán thương mại của ta ở nước ngoài nhằm sử dụng một cách có hiệu quả nhất các thông tin thu được về tình hình phát triển kinh tế xã hội, tình hình phát triển ngoại thương, các chính sách kinh tế đối ngoại và vĩ mô khác, các nhu cầu và biến động của thị trường, các phương thức và tập quán buôn bán, cũng như thói quen tiêu dùng. Trên cơ sở phân tích có hệ thống, phải đưa ra dự báo chiến lược và có định hướng rõ ràng, kịp thời đến từng doanh nghiệp. Xây dựng một “ Danh mục thương mại” đầy đủ các mặt hàng, thị trường và bạn hàng nước ngoài. Danh mục này phải đổi mới cập nhật với những thay đổi đa dạng của từng nước. Triển khai các biện pháp để nắm bắt và khai thác triệt để, đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp cách thu thập thông tin của tổ chức nước ngoài hiện có mặt tại Việt Nam như: AMCHAM (đại diện văn phòng thương mại Mỹ), KOTRA (cơ quan xúc tiến thương mại và đầu tư Hàn Quốc), TDC (hội đồng phát triển thương mại Hồng Kông)... Hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm ở các thị trường quan trọng như Mỹ, Nhật... thay vì việc chờ các doanh nghiệp cho người đi nghiên cứu thị trường rồi về báo cáo như trước kia, nay Bộ chủ động trong việc cử người đi tiếp cận thị trường, mở đường cho các doanh nghiệp. Đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin hiện đại để kịp thời phục vụ cho các doanh nghiệp. 7. Tổ chức các kênh phân phối ở nước ngoài. Hiện nay nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sản xuất được sản phẩm xuất khẩu nhưng số lượng không lớn. Mà với số lượng không lớn thì việc tổ chức để bán hàng ở nước ngoài không đem lại nhiều lợi nhuận, hoặc các nhà nhập khẩu nước ngoài không ký hợp đồng vì không đủ số lượng. Hơn nữa, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu kiến thức về marketing và không tự mình lập được mạng lưới marketing hoặc không thể xâm nhập được vào các thị trường đã được an bài. Lúc này sự giúp đỡ của Nhà nước là rất có giá trị. Các thương vụ ở các nước cần tìm hiểu xem bạn hàng cần gì, số lượng bao nhiêu, khi đó thông báo để hình thành một kênh phân phối với một đầu là các doanh nghiệp Việt Nam, một đầu là tổ chức thương vụ. Với chi phí từ ngân sách Nhà nước, hàng hoá được vận chuyển ra nước ngoài và giao cho nhà nhập khẩu. Chỉ có cách này mới giúp được các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít vốn hoặc cả các doanh nghiệp lớn nhiều vốn nhưng gặp khó khăn trong phân phối hàng ra nước ngoài. 8. Chú trọng biện pháp thưởng xuất khẩu Bộ thương mại đã có quy định những diện được thưởng như sau: Xuất khẩu mặt hàng mới Để khuyến khích các doanh nghiệp phát triển đa dạng hoá ngành hàng xuất khẩu, nhằm thu được nhiều lợi nhuận hơn và giảm rủi ro. Bộ thương mại cần phải có những biện pháp thưởng xứng đáng, nhanh chóng cho những doanh nghiệp nào chịu khó tìm ra mặt hàng mới để xuất khẩu. Mở thêm thị trường xuất khẩu Đối với những thị trường mà các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn hoặc chưa bao giời thâm nhập thì Bộ thương mại phải tạo nhiều điều kiện thuận lợi, trợ giúp cũng như thưởng cho doanh nghiệp nào mà thâm nhập vào được các thị trường đó nhằm giảm bớt chi phí cho doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường đó, từ đó khuyến khích được các doanh nghiệp khác năng động hơn trong việc tìm kiếm thị trường. Sản xuất mặt hàng xuất khẩu có chất lượng cao Sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt về chất lượng, giá cả. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn sở hữu rất nhiều công nghệ lạc hậu tạo ra các sản phẩm chất lượng không cao. Chính vì thế để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng như đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp Việt Nam. Bộ thương mại cần chú trọng hơn nữa đến biện pháp thưởng cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có chất lượng cao, để cho doanh nghiệp có điều kiện hơn đầu tư cải tiến công nghệ tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn nữa, giúp cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường quốc tế Hàng gia công chế biến chủ yếu bằng nguyên vật liệu trong nước, có kim ngạch xuất khẩu cao Việc gia công chế biến bằng nguyên vật liệu trong nước sẽ khuyến khích các ngành nghề phát triển, tạo ra được nhiều công ăn việc làm hơn và đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho doanh nghiệp. Chính vì vậy chính phủ phải có nhiều chính sách đãi ngộ về thuế và thưởng cho doanh nghiệp gia công chế biến bằng nguyên vật liệu trong nước để cho các ngành nghề phát triển mạnh hơn 9. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong quản lý xuất nhập khẩu trong thời gian gần đây Bộ thương mại đã cùng phối hợp với các cơ quan chức năng khác không ngừng đơn giản hoá và hoàn thiện các thủ tục hành chính trong quản lý xuất nhập khẩu. Cụ thể là: Một là công bố công khai quy trình và thời gian giải quyết công việc. Tại quyết định số 385/1998/QĐ-BTM, Bộ thương mại đã quy định chi tiết các hồ sơ và hạn định thời gian giải quyết các yêu cầu về xuất nhập khẩu, về đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài và văn phòng đại diện của tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam. Hai là thực hiện uỷ quyền, bỏ nấc. Bộ đã uỷ quyền cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và UBND tỉnh phê duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp có vốn FDI. Riêng đối với các mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành trước đây phải xin giấy phép XNK ở các cơ quan quản lý chuyên ngành rồi lên Bộ thương mại, nhưng nay không phải làm thủ tục này ở Bộ nữa. Tuy nhiên, thủ tục quản lý XNK vẫn còn tồn tại một số khúc mắc phải giải quyết tiếp. Một số mặt hàng vẫn còn sự quản lý chồng chéo của chuyên ngành và của Bộ thương mại, quy chế kiểm tra hàng tại cửa khẩu còn nhiều phức tạp, vấn đề ghi ngành hàng trong giấy chứng nhận kinh doanh chưa thống nhất nên không phù hợp với thực tế, gây khúc mắc trong khi áp thuế. Mặt khác Bộ thường xuyên tổ chức tiếp xúc với doanh nghiệp để phát hiện và xử lý kịp thời các vướng mắc của doanh nghiệp, hoặc để cung cấp một thông tin chi tiết trong chính sách mới vừa ban hành. Đồng thời không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ và đạo đức cho đội ngũ thi hành. Kết luận đề tài “ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở công ty VILEXIM” được nghiên cứu trên đây nhằm phân tích, đánh giá tình hình thực tế công tác tổ chức quá trình xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty VILEXIM. Trong thời gian thực tập tôi cố gắng tìm hiểu những hoạt động kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu với Lào (VILEXIM) trong đó chú trọng nhất đến hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty. Kết hợp giữa cơ sở lý luận chung đã trình bày ở chương I với việc nghiên cứu phân tích để tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu còn tồn tại trong quá trình xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty. Tuy nhiên do trình độ nhận thức và thời gian thực tập có hạn tôi chỉ đưa ra một số giải pháp và kiến nghị mang tính phương hướng để công ty vận dụng vào thực tế kinh doanh của mình. Với trình độ còn hạn chế, kinh nghiêm thực tế còn quá ít ỏi, chắc chắn tôi không tránh khỏi sai sót và thiếu chặt chẽ trong quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu. Nhưng tôi hy vọng rằng đề tài nghiên cứu này có thể khái quát được phần nào hoạt động kinh doanh của công ty và những định hướng có thể áp dụng vào thực tiễn góp phần nâng cao hoạt động kinh doanh của công ty. Cuối cùng cho phép tôi được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn Th.s Đàm Quang Vinh cùng các thầy cô giáo trong khoa: “ Kinh tế và kinh doanh quốc tế”, tập thể cán bộ nhân viên phòng xuất nhập khẩu II của công ty xuất nhập khẩu với Lào đã giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Hà nội, tháng 4 năm 2003 Sinh viên Tô Xuân Hải Mục lục Lời nói đầu Trang CHƯƠNG I: cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường I.Xuất khẩu hàng hoá và vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường... ............................................................................................................1 II. Các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu ở các doanh nghiệp............................6 III. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu hiện nay..................................................9 IV. Nội dung hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp...................................13 chương ii: thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của công ty vilexim .......................................................28 I.Khái quát về công ty VILEXIM.....................................................................28 II. Khái quát hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian gần đây........ 34 III.Tình hình xuất khẩu nông sản ở Việt Nam và hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của công ty xuất nhập khẩu VILEXIM hiện nay...............................42 IV.Những thuận lợi và khó khăn của công ty trong xuất nhập khẩu..................................................................................................................55 Chương III: MộT Số GIảI PHáP Và KIếN NGHị NHằM THúC ĐẩY HOạT động xuất khẩu nông sản ở công ty vilexim.............63 I. Tình hình thị trường hàng nông sản thế giới và định hướng phát triển kinh doanh của công ty trong thời gian tới...............................................................63 II. một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty trong thời gian tới..............................................................................................66 III. Một số kiến nghị đối với Nhà nước và Bộ thương mại nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty...............................................................69 Danh mục bảng số liệu Bảng1: Tình hình thực hiện chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu các năm 1991-2002 Bảng2: So sánh các chỉ tiêu kinh tế thực hiện của từng năm so với kế hoạch và so với cùng kỳ năm trước Bảng3: Tình hình thực hiện xuất khẩu nông sản ở nước ta qua các năm 1999-2002 Bảng4: Biểu hình về cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty Bảng5: Cơ cấu thị trường xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty 1999-2002 Bảng6: Dự kiến kế hoạch năm 2003 Danh mục tài liệu tham khảo Báo ngoại thương –2001,2002 Báo kinh tế và dự báo 2003 Quản trị Marketing- Philip Kotler Marketing quốc tế- trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Đàm phán vá ký kết hợp đồng kinh doanh quốc tế- ĐH Kinh Tế Quốc Dân Quản trị kinh doanh quốc tế- ĐH Kinh Tế Quốc Dân ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9502.doc
Tài liệu liên quan