Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh

Tài liệu Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh: ... Ebook Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o tr­êng ®¹I häc n«ng nghiÖp Hµ NéI ---------------------------- b¸O c¸O tiÕN §é luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THU HÚT ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH BẮC NINH Chuyªn ngµnh : kinh tÕ n«ng nghiÖp M· sè : 60.31.10 Ng­êi h­íng dÉn khoa häc : TS. chu thÞ kim loan Ng­êi thùc hiÖn : nguyÔn tiÕn quyÕt Hµ Néi - 2009 1. MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của để tài  Đại hội IX của đảng đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001- 2010 được gọi là “chiến lược đẩy mạnh CNH-HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Để đạt được mục tiêu CNH-HĐH trước tiên đảng và nhà nước phải coi trọng phát triển công nghiệp. Công nghiệp được coi là ngành chủ đạo của nền kinh tế. Bắc Ninh là một tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc của Việt Nam, Nhằm thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển công nghiệp, Bắc Ninh đã quy hoạch, xây dựng và phát triển các KCN tập trung; tỉnh đã có chủ trương, cơ chế chính sách thu hút đầu tư thông thoáng, cởi mở. Đặc biệt những năm gần đây tỉnh đã có những chính sách và cơ chế mạnh để hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư như hỗ trợ đền bù giải phóng và san lấp mặt bằng, hỗ trợ hạ tầng trong và ngoài hàng rào dự án, đào tạo lao động... đã có tác dụng rất lớn thu hút được nhiều nhà đầu tư trong nước, ngoài nước đầu tư vào các KCN, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, làm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của Tỉnh. Để sớm trở thành Tỉnh công nghiệp, cùng cả nước vững bước tiến lên trong thời kỳ CNH, HĐH và để đạt được mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVI, XVII đã đề ra phấn đấu đến năm 2015 Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp thì Bắc Ninh cần phải xem xét lại toàn bộ công tác xúc tiến và thu hút đầu tư vào các KCN trong thời gian qua, tìm ra những nguyên nhân yếu kém, trên cơ sở đó có những giải pháp phù hợp nhằm làm tốt hơn nữa công tác xúc tiến và thu hút đầu tư vào các KCN. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn ấy, tôi chọn đề tài "Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh " làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế. Hy vọng sẽ góp phần nhất định vào việc giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách trong việc xúc tiến và thu hút đầu tư vào các KCN ở tỉnh Bắc Ninh. 1.2 Mục đích nghiên cứu của đề tài Hệ thống hoá các vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn về phát triển KCN, thu hút đầu tư vào các KCN. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác xúc tiến và thu hút đầu tư vào các KCN, phân tích nguyên nhân của những tồn tại cũng như chỉ ra các vấn đề cần hoàn thiện của công tác thu hút đầu tư vào các KCN ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1998-2008. Đưa ra các quan điểm, phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện, phát triển và nâng cao khả năng thu hút đầu tư vào các KCN Bắc Ninh giai đoạn 2010-2020. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài. 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các KCN và công tác thu hút đầu tư vào các KCN ở tỉnh Bắc Ninh. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu - Không gian: Nghiên cứu các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, có tham chiếu, so sánh với một số địa phương điển hình trong nước. - Thời gian: Giai đoạn 1998 - 2008. - Nội dung: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thu hút đầu tư vào các KCN tỉnh Bắc Ninh thời gian qua và phương hướng thu hút đầu tư vào các KCN tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới gai đoạn 2010-2020. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1 Những vấn đề cơ bản về đầu tư và Khu công nghiệp 2.1.1 Khái niệm về đầu tư và Khu công nghiệp 2.1.1.1 Khái niệm về đầu tư và phân loại đầu tư a. Các khái niệm - Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Như vậy, thuật ngữ đầu tư (Investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, “sự hy sinh”. Từ đó, có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Tất cả những hành động bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm mục đích chung là thu được lợi ích nào đó (về tài chính, về cơ sở vật chất, về nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức) trong tương lai lớn hơn những chi phí đã bỏ ra. Và vì vậy, nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra thì các hoạt động này đều được gọi là đầu tư. Tuy nhiên nếu xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Những kết quả của đầu tư có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. - Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm: + Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp; + Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã; + Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi Luật này có hiệu lực; + Hộ kinh doanh, cá nhân; + Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam; + Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. - Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại. - Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư. - Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định. - Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp. - Vốn Nhà nước là vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước. - Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân sở hữu vốn hoặc người thay mặt chủ sở hữu hoặc người vay vốn và trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư. - Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư. - Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam. - Lĩnh vực đầu tư có điều kiện là lĩnh vực chỉ được thực hiện đầu tư với các điều kiện cụ thể do pháp luật quy định. Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đối với mỗi quốc gia hay một nền kinh tế thì hoạt động đầu tư phát triển luôn đóng một vai trò quyết định trong sự đi lên phát triển hay hưng thịnh của chính quốc gia đó. b. Phân loại đầu tư Dựa trên các tiêu chí khác nhau, có thể phân chia đầu tư thành các loại khác nhau. Có thể phân loại đầu tư theo những tiêu chí cơ bản sau: * Căn cứ vào mục đích đầu tư - Đầu tư phi lợi nhuận là việc sử dụng các nguồn lực để thực hiện các hoạt động không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Đây là các hoạt động đầu tư của nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. - Đầu tư kinh doanh: Là các hoạt động đầu tư sử dụng các nguồn lực để kinh doanh thu lợi nhuận. * Căn cứ vào nguồn vốn đầu tư - Đầu tư trong nước: Là hoạt động đầu tư mà nguồn lực đầu tư được huy động từ ngân sách Nhà nước và tổ chức, cá nhân trong nước. - Đầu tư nước ngoài: Là hoạt động đầu tư mà các nguồn lực đầu tư được huy động từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc người của nước nhận đầu tư định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Thực tiễn điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động đầu tư nước ngoài còn có sự phân biệt giữa đầu tư từ nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài. * Căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư - Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng các nguồn lực (vốn) đầu tư. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư. Đầu tư trực tiếp có thể phân chia là đầu tư trực tiếp trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài: + Đầu tư trực tiếp trong nước có nội dung là việc bỏ vốn của các tổ chức cá nhân trong nước để kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc trưng bởi sự di chuyển nguồn lực đầu tư (tư bản) trên phạm vi quốc tế với mục đích kinh doanh thu lợi. - Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Như vậy, khác với đầu tư trực tiếp, trong hoạt động đầu tư gián tiếp, người đầu tư vốn và người quản lý, sử dụng vốn là hai chủ thể khác nhau và có thẩm quyền chi phối khác nhau đối với nguồn lực đầu tư. Những hoạt động đầu tư mà nhà đầu tư không trực tiếp nắm quyền quản lý, kiểm soát và điều hành hoạt động kinh doanh đều có tính chất là đầu tư gián tiếp. c. Nguồn vốn đầu tư * Bản chất của nguồn vốn đầu tư Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế mở, nguồn vốn để đầu tư ngoài tiết kiệm trong nước còn có thể huy động vốn từ nước ngoài * Nguồn vốn đầu tư từ trong nước Nguồn vốn trong nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các nguồn lực được đưa vào vòng chu chuyển của nền kinh tế. Nó không chỉ bao gồm tiền vốn biểu hiện bằng tài sản hiện vật như máy móc, vật tư, lao động, đất đai, tài nguyên... mà nó còn bao gồm giá trị của những tài sản vô hình như vị trí địa lý, thành tựu khoa học công nghệ, bản quyền phát minh sáng chế. Các bộ phận cấu thành nguồn vốn trong nước đó là vốn tích luỹ từ ngân sách, vốn tích luỹ của các doanh nghiệp và vốn tiết kiệm dân cư. - Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách là nguồn vốn do Nhà nước sở hữu và điều hành. Đây không phải là nguồn vốn sử dụng vào các mục tiêu cá nhân nên nó mang tính xã hội rất lớn. Nguồn vốn này được hình thành từ thu thuế, phí và lệ phí, các khoản viện trợ hoặc các khoản thu khác. Về nguyên tắc vốn tích luỹ từ ngân sách được xác định bằng cách lấy tổng thu nhập trừ đi các khoản chi tiêu. Đối với Chính phủ đặc biệt là Chính phủ các nước đang phát triển chi cho đầu tư phát triển là một nhiệm vụ chi quan trọng. Các khoản chi của Chính phủ qua ngân sách Nhà nước bao gồm: Chi mua hàng hoá, dịch vụ, các khoản trợ cấp và chi trả lãi suất các khoản tiền vay. Các khoản thu của Chính phủ chủ yếu thu từ thuế, một phần là các khoản phí, lệ phí và thu khác. - Vốn tích luỹ các doanh nghiệp Đối với doanh nghiệp nhà nước vốn đầu tư được hình thành từ nguồn ngân sách đã cấp, các khoản trích khấu hao cùng lợi nhuận tích luỹ được. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nguồn vốn đầu tư bao gồm: Vốn tự có, vốn vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết với cá nhân tổ chức trong và ngoài nước. - Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư Đây là nguồn vốn nhỏ lẻ nằm phân tán trong dân chúng nhưng cũng chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng vốn toàn xã hội. Mức tiết kiệm của dân cư một mặt phụ thuộc vào mức thu nhập của họ mặt khác tuỳ thuộc vào mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm và chính sách ổn định tiền tệ của Nhà nước. * Nguồn vốn huy động từ nước ngoài - Vốn đầu tư gián tiếp: Là vốn của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau như viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA - viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng có hiệu quả và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay. Vốn đầu tư trực tiếp (FDI): Là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Vốn này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên với vốn đầu tư trực tiếp nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ, học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Đối với các nước đang phát triển một vấn đề nan giải là thiếu vốn và từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng...để tạo ra được “cú hích” đầu tiên cho sự phát triển, để có được tích luỹ ban đầu từ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế không thể không huy động vốn từ nước ngoài. Để thu hút nhanh nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đòi hỏi các nước cần phải tạo lập môi trường thuận lợi, thông thoáng, hấp dẫn cho nhà đầu tư như cung cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ, tạo lập đồng bộ cơ chế chính sách, luật pháp, lập các KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào. 2.1.1.2 Khái niệm, phân loại và mục tiêu hình thành các Khu công nghiệp a. Khái niệm về Khu công nghiệp KCN đã được hình thành và phát triển ở các nước tư bản phát triển vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. KCN đầu tiên được thành lập năm 1896 ở Manchester (Anh) và vùng công nghiệp Clearing Chicago (Mỹ). Năm 1940, Ý thành lập KCN ở Napoli... Ngày nay, ở nhiều quốc gia, các khu vực trên thế giới, KCN, KCX được phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở nước ta, KCN đầu tiên được thành lập năm 1991 (KCX Tân Thuận), cùng với quá trình 16 năm hình thành và phát triển cũng đã xuất hiện nhiều khái niệm khác nhau về KCN, KCX: - Theo Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định 36/CP của Chính phủ ngày 24/4/1997, thì: (1) KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất; (2) KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; (3) KCNC là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao bao gồm nghiên cứu, triển khai khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCNC có thể có doanh nghiệp chế xuất. - Tại Khoản 20 Điều 3 Luật đầu tư năm 2005 ghi rõ: KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. - Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định: KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này. KCX là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với KCN quy định tại Nghị định này. KCN, KCX được gọi chung là KCN, trừ trường hợp quy định cụ thể. Từ các khái niệm trên và thực tế quá trình phát triển các KCN ở Việt Nam, có thể hiểu một cách tổng quát về KCN như sau: “KCN là khu vực lãnh thổ có ranh giới địa lý xác định, có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật-xã hội đồng bộ đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà ở và các điều kiện sinh hoạt của người lao động và các tiêu chuẩn về môi trường; là nơi tập trung các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực: sản xuất công nghiệp (bao gồm cả sản xuất hàng công nghiệp với công nghệ cao và chuyên sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu), dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp (dịch vụ xuất nhập khẩu, hoạt động thương mại, tín dụng, ngân hàng, bưu chính viễn thông…); nằm trong danh mục quy hoạch tổng thể các KCN được Chính phủ phê duyệt, được cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư quyết định thành lập theo quy định của pháp luật về đầu tư và quy định về KCN, KCX của Chính phủ”. b. Phân loại các Khu công nghiệp Tuỳ theo góc độ tiếp cận, KCN có thể được phân loại bằng nhiều tiêu chí khác nhau như: theo tính chất ngành nghề, theo quy mô diện tích, theo điều kiện hình thành, theo đặc điểm quản lý hoặc theo cấp độ vệ sinh... - Theo tính chất ngành nghề: Theo tiêu chí này thì KCN được chia thành 3 loại sau: ● KCN chuyên ngành: Được hình thành từ các xí nghiệp công nghiệp cùng một ngành hoặc một số ít ngành công nghiệp khác nhau nhưng cùng sản xuất ra một số loại sản phẩm, chủ yếu hình thành từ các ngành chủ đạo như: hoá chất - hoá dầu, điện tử - tin học, vật liệu xây dựng, chế tạo và lắp ráp cơ khí. ● KCN đa ngành: Gồm nhiều xí nghiệp thuộc nhiều ngành công nghiệp khác nhau. KCN đa ngành cho phép thoả mãn được yêu cầu về lãnh thổ cho sản xuất công nghiệp, song trong quy hoạch xây dựng cần lưu ý vấn đề nhóm môi trường nhằm hạn chế tác động ảnh hưởng xấu giữa các xí nghiệp khác nhau, tiết kiệm đầu tư hạ tầng. ● KCN sinh thái: Là mô hình mang tính cộng sinh công nghiệp. Các ngành công nghiệp được lựa chọn sao cho các nhà máy có mối liên hệ với nhau, hỗ trợ và tương tác với nhau tạo nên môi trường sạch và bền vững. Với mô hình này thì phế liệu của nhà máy này có thể làm nguyên liệu cho nhà máy kia hoặc sản phẩm của nhà máy này sẽ là nguyên liệu, vật tư của nhà máy kia... - Theo quy mô diện tích: Phân loại theo tiêu chí này, phụ thuộc vào quan điểm của từng nước, chủ yếu để phục vụ cho việc xếp hạng KCN. Thông thường có 4 loại là: KCN nhỏ, trung bình, lớn và rất lớn. - Theo các điều kiện hình thành: Theo cách phân loại này có: các KCN thành lập mới, KCN nâng cấp mở rộng và KCN di dời tập trung. - Theo đặc điểm và cấp quản lý: Theo tiêu chí này có 3 loại: (1) KCN do Chính phủ quyết định thành lập; (2) KCN do UBND tỉnh, thành phố quyết định thành lập; (3) KCN do UBND huyện, thị quyết định thành lập. c. Mục tiêu, sư cần thiết hình thành các Khu công nghiệp Sự hình thành và phát triển KCN, KCX trên thế giới gắn liền với những mục tiêu của nhà đầu tư và mục tiêu của nước thành lập KCN, KCX. - Mục tiêu của nhà đầu tư vào KCN, KCX ● Giảm chi phí sản xuất bằng cách tận dụng nguồn lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên ở các nước đang phát triển để bù đắp những thiếu hụt nguồn tài nguyên và chi phí lao động cao ở trong nước; ● Đối với nhà đầu tư, mục tiêu cao nhất là thu được lợi nhuận tối đa, chi phí đầu tư thấp nhất. Do vậy, đầu tư vào KCN, KCX, nhà đầu tư được hưởng những ưu đãi khuyến khích đầu tư của nước chủ nhà đối với KCN, KCX và lợi ích từ các công trình hạ tầng kỹ thuật sẵn sàng thuận lợi cho thực hiện dự án; ● Thông qua việc đầu tư vào các KCN để nâng cao sức cạnh tranh quốc tế; ● Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài; ● Xây dựng KCN, KCX theo quy hoạch phát triển tổng thể về kinh tế xã hội tại những địa điểm thuận lợi vận chuyển hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm hoặc là những nơi quy hoạch phát triển thành đô thị, khu dân cư sau này. Do vậy, sẽ tạo môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư xây dựng chiến lược phát triển lâu dài, tăng cường khai thông mở rộng thị trường nước ngoài. - Mục tiêu của nước chủ nhà thành lập KCN, KCX Phân tích từ góc độ vĩ mô, có thể thấy mục tiêu thành lập KCN, KCX của các nước đang phát triển về cơ bản thống nhất ở những điểm sau: ● Thu hút nguồn vốn đầu tư để phát triển theo quy hoạch, cả nguồn vốn nước ngoài và nguồn vốn trong nước; Đây là mục tiêu quan trọng nhất của KCN, KCX. Với tính chất là “vùng lãnh thổ” hoạt động theo một quy chế riêng trong môi trường đầu tư chung của cả nước, KCN, KCX trở thành công cụ hữu hiệu thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, để mở mang hoạt động sản xuất kinh doanh tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển công nghiệp cần phải tuân thủ quy hoạch vùng, lãnh thổ để tránh đầu tư phân tán, lãng phí đất đai, khó kiểm soát được môi trường. ● Mở rộng hoạt động thương mại; Thông qua việc thành lập KCN, KCX, nước chủ nhà muốn đẩy mạnh hoạt động ngoại thương. Với những ưu đãi vượt trội, cơ chế quản lý thuận lợi, KCN, KCX có điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá. Tăng cường các mối quan hệ thương mại giữa các doanh nghiệp trong và ngoài KCN. ● Giải quyết mục tiêu xã hội về việc làm, về nâng cao trình độ văn hoá, nghề nghiệp, cải thiện môi trường xã hội; Mở mang KCN, KCX để tạo ra nhiều hơn chỗ làm việc là một trong những mục tiêu quan trọng của các nước đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, KCN, KCX là công cụ hữu hiệu thực hiện chiến lược lâu dài về đào tạo và sử dụng nguồn lực lao động ở các nước đó. ● Tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệp quản lý của các công ty tư bản nước ngoài; Để tránh bị tụt hậu về kinh tế, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới, các nước đang phát triển muốn nhanh chóng phát triển khoa học kỹ thuật của mình nâng cao trình độ quản lý kinh tế đất nước. Xây dựng KCN, KCX để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó tạo điều kiện nhập khẩu kỹ thuật, công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý kinh tế của các công ty tư bản nước ngoài. ● Làm cầu nối hội nhập kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước, phát huy tác dụng lan toả, dẫn dắt của KCN, KCX; Trước hết, hàng tiêu dùng từ các KCN cung cấp cho thị trường nội địa đủ sức cạnh tranh và ngăn chặn hàng nhập lậu từ nước ngoài, đồng thời góp phần tăng sản xuất hàng xuất khẩu. Còn KCX, với tính chất là khu vực sản phẩm sản xuất hàng xuất khẩu hướng ra thị trường thế giới được coi như là một cửa ngõ khai thông nền kinh tế trong nước với bên ngoài. ● Xây dựng KCN, KCX là động lực cho phát triển xã hội và bảo vệ môi trường; Sự tập trung các nhà máy sản xuất tạo ra năng lực sản xuất mới, thu hút lao động, tạo nên sự tập trung dân cư tác động đến việc phân bố lại dân cư, tại những vùng có KCN, KCX để hình thành các đô thị, thành phố công nghiệp. Mặt khác, chính sự tập trung các nhà máy sản xuất sẽ tạo điều kiện cho xử lý chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái-là điều kiện quan trọng cho phát triển bền vững. Ở Việt Nam, việc thành lập các KCN, KCX không chỉ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng nhanh xuất khẩu để có thu nhập ngoại tệ, mà còn tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong nước phát triển, góp phần tích cực thực hiện CNH-HĐH đất nước, tạo việc làm cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt động đầu tư. 2.1.2. Vai trò của Khu công nghiệp và thu hút đầu tư vào khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội Vai trò của KCN được thể hiện qua việc làm thoả mãn hài hoà các mục tiêu của các nhà đầu tư và của nước, địa phương có KCN. 2.1.2.1 Vai trò kinh tế: KCN, với việc tập trung đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và áp dụng mô hình quản lý đặc biệt, là một mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp hiện đại, có hiệu quả, tạo sự hấp dẫn trong thu hút đầu tư trong và ngoài nước và là một trong những giải pháp quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước. Phát triển KCN đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp, đẩy nhanh tốc độ, tạo ra những bước đột phá trong phát triển công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. KCN, với cơ sở hạ tầng sẵn có và với những ưu đãi của Nhà nước nên rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đóng vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn lực phát triển. Thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những chiến lược quan trọng của nước ta. Nhờ áp dụng nguyên lý tập trung theo chiều dọc trong xây dựng nhà máy ở KCN nên nguồn nguyên liệu tại chỗ được sử dụng tối đa và giá thành sản phẩm giảm đáng kể. Các KCN được trang bị đầy đủ cơ sở hạ tầng nên các nhà đầu tư khi đến các KCN sẽ giảm được rất nhiều chi phí ngoại doanh nghiệp như chi phí mua đất xây dựng nhà máy với giá cao, phí tự xây dựng nhà máy, đường giao thông, hệ thống điện. Nhờ có sẵn các doanh nghiệp cung cấp đầu vào và tạo đầu ra cho nhà máy do các nhà máy được tập trung vào một khu vực nên các doanh nghiệp giải quyết dễ dàng đầu ra, đầu vào với chi phí thấp nhất. Sự phát triển nhanh, có chất lượng của các KCN có tác động rất tích cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu của một tỉnh, một vùng và của cả nước. Góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm năng lực sản xuất mới, tạo nguồn hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tạo điều kiện phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất đai, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, tiết kiệm chi phí sản xuất. KCN là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá. Phát triển các KCN là nhân tố thúc đẩy tốc độ đô thị hoá và tác động lan toả tích cực trong việc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, KCN là ²hạt nhân” trong chuỗi quy hoạch đô thị sẽ được hình thành trong tương lai với hệ thống kết cấu hạ tầng ngoài KCN có chất lượng cao, gắn với sự hình thành các khu dân cư, khu thương mại, dịch vụ và các khu phù trợ khác. - KCN là nơi tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý các công ty tư bản nước ngoài. Để tránh bị tụt hậu về kinh tế, đặc biệt trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới. - Cơ chế quản lý ²một cửa, tại chỗ” trong KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến các thủ tục xuất, nhập khẩu vật tư, hàng hoá cho sản xuất, thủ tục hải quan, thuế, tuyển dụng lao động... Trong khi đó, các doanh nghiệp công nghiệp ở ngoài KCN rất vất vả khi phải giải quyết các vấn đề nêu trên. 2.1.2.2 Vai trò xã hội - Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động: Từ một nước nông nghiệp đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, nhu cầu việc làm rất lớn. Phát triển công nghiệp nói chung và các KCN nói riêng nhằm tạo ra nhiều việc làm, thu hút ngày càng nhiều lao động dư thừa ở khu vực nông nghiệp, góp phần nâng cao năng suất ở khu vực này. Người lao động ở các KCN có nhiều cơ hội để phát triển so với việc họ thường nghỉ dài trong mùa nông nhàn, không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập rất ít, bấp bênh. Họ được trực tiếp tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện đại, phương thức quản trị kinh doanh tiên tiến và được đào tạo kỹ năng chuyên môn để đáp ứng yêu cầu công việc. Nhờ vậy, trình độ tay nghề và sức sáng tạo của người lao động được nâng lên rõ rệt, đồng thời họ cũng rèn cho mình tác phong làm việc công nghiệp, có hiệu quả và năng suất cao, góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo nên một thị trường lao động với đầy đủ yếu tố cung cấp và cạnh trạnh. Qua đó thúc đẩy sự quan tâm của xã hội đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, làm chuyển đổi cơ cấu lao dộng và hình thành đội ngũ lao động lành nghề. Đối với Việt Nam, đào tạo nguồn nhân lực là một việc làm quan trọng vì lao động có chuyên môn và hàm lượng chất xám cao sẽ làm ra những sản phẩm có giá trị cao, đóng góp tích cực vào quá trình CNH, HĐH đất nước; đồng thời làm thay đổi cơ cấu lao động vốn chủ yếu là lao động nông nghiệp. Người lao động trong KCN, KCX thường xuyên có việc làm, thu nhập tăng và đời sống khá ổn định, giúp họ xoá đói giảm nghèo, giảm bớt các tệ nạn xã hội. Những năm gần đây người lao động ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi của Nhà nước, cũng như được đảm bảo các quyền lợi về lao động. Đối với phát triển kinh tế - xã hội vùng. Trên cơ sở lợi thế của vùng, phát triển KCN vừa khai thác lợi thế của vùng và vừa tránh được đầu tư phân tán, phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Phát triển KCN là phát triển công nghiệp theo quy hoạch nên tiết kiệm và phát huy hiệu quả sử dụng đất và các nguồn lực khác, hình thành các đô thị mới, thực hiện văn minh, tiến bộ xã hội, giảm khoảng cách giữa các vùng nông thôn và thành thị. Phát triển KCN là giải pháp quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng. 2.1.2.3 Bảo vệ môi trường Do tập trung các cơ sở sản xuất nên có điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội thành, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Phát triển KCN là phát triển công nghiệp theo quy hoạch, qua đó góp phần đẩy mạnh các hoạt động kinh tế xã hội theo định hướng bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; ngăn chặn tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường. 2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư vào các KCN - Hệ thống luật pháp: Hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN, các doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN, Ban quản lý các KCN đều phải tuân thủ quy định của pháp luật như: Quy chế KCN, KCX, KCNC, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật lao động, Luật đất đai, Luật môi trường... Do vậy nếu các luật này được ban hành với nội dung cụ thể, đồng bộ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHKT09086.doc
Tài liệu liên quan