Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của các Doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO

Lời mở đầu Tính cấp thiết của đề tài Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang như một “guồng xoáy” cuốn các nền kinh tế của các quốc gia vào một trật tự kinh tế trong đó việc tìm ra các lợi thế và giải bài toán so sánh để xác lập vị thế trên trường quốc tế luôn là vấn đề đặt ra đối với từng quốc gia. Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới, Việt Nam đang từng bước thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu. Như nhiều quốc gia khác, v

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của các Doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào những giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may Việt Nam từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh việc cung cấp hàng hoá đáp ứng các nhu cầu cho thị trường trong nước, ngành dệt may còn tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế. Đồng thời, vừa là nguồn thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm, vừa tạo nguồn hàng xuất khẩu có giá trị cao, ngành dệt may sẽ là nguồn thu hút ngoại tệ góp phần tạo đà cho nền kinh tế cất cánh. Với tiềm năng của một quốc gia có lợi thế về xuất khẩu hàng dệt may, vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam là sẽ phải ứng phó như thế nào với những biến động trên thị trường dệt may thế giới, nhất là cuộc Đại hồng thuỷ đối với ngành dệt may sau năm 2004. Ngày 1/1/2005 Quota hàng dệt may hoàn toàn bị bãi bỏ theo hiệp định ATC (Agreement on textiles and clothing) cho các nước nhập khẩu thành viên WTO. Như vậy chỉ còn chưa đến 365 ngày nữa Hiệp định ATC có hiệu lực. Đây vừa là bước ngoặt lớn mở ra vận hội mới cho các nhà đầu tư, sản xuất và kinh doanh mặt hàng dệt may trong và ngoài nước, vừa là áp lực hết sức nặng nề đối với ngành dệt may Việt Nam vào năm 2005, cũng là thời điểm dự kiến Việt Nam gia nhập WTO. Do đó, thời điểm hiện nay cũng không phải là sớm, cũng không phải là quá muộn để các doanh nghiệp tự nhìn nhận lại thế mạnh, điểm yếu, khó khăn và thách thức đối với doanh nghiệp mình. Từ đó có những biện pháp kịp thời để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên trường quốc tế. Chính vì lý do đó, em đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO” làm đề án kinh tế thương mại của mình. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu làm 3 chương Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO. Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO. Qua đề tài này, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới GS.TS. Đặng Đình Đào và thầy giáo Nguyễn Thanh Phong đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I Lý LUậN CHUNG Về HOạT ĐộNG XUấT KHẩU hàng hoá I. Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá 1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu Ngay từ đại hội VII (1991), chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, đánh dấu bước đầu tiến trình hội nhập . Báo cáo của BCHTW Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng một lần nữa chỉ rõ “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực , nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế , đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN”. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế (TMQT) là một lĩnh vực cực kì quan trọng. Có thể nói TMQT là một trong những sợi dây níu kéo các quốc gia trên thế giới lại với nhau. Nói đến TMQT không thể không nói đến kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ , trong kinh doanh xuất nhập khẩu thì xuất khẩu giữ vai trò là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho nhập khẩu. Muốn mở rộng xuất nhập khẩu thì ta phải tiến hành thúc đẩy xuất khẩu. Vậy xuất khẩu là gì? Tại sao lại có xuất khẩu? “Xuất khẩu là hoạt động cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho người nước ngoài nhằm thu ngoại tệ cho đất nước.” 2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động phức tạp và khó khăn. Nó là một quá trình thống nhất giữa các bước công việc. Một doanh nghiệp muốn thành công đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ và tốt nhất có thể các bước công việc sau: 2.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường để nhận biết sản phẩm dịch vụ mà thị trường có nhu cầu Nhận biết hàng hóa xuất khẩu cần tìm hiểu giá trị thương phẩm của hàng hóa, tình hình sản xuất mặt hàng, chu kỳ sống mà sản phẩm đang trải qua, tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng kinh doanh. Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu là số tiền Việt Nam phải chi ra để thu được một đơn vị ngoại tệ. Trên cơ sở so sánh tỷ suất này với tỷ giá hối đoái hiện hành, với mức doanh lợi thu được từ thị trường trong nước để quyết định có xuất khẩu hàng hóa hay không? Đây là bước quan trọng thể hiện tư tưởng chỉ bán cái mà thị trường đang cần chứ không phải bán cái mà doanh nghiệp đang có. 2.2 Nghiên cứu thị trường nước ngoài và chọn đối tác kinh doanh Doanh nghiệp phải hiểu rõ điều kiện chính trị, thương mại, luật pháp, vận tải, tiền tệ, tập quán, thị hiếu, ước tính được dung lượng thị trường và sự biến động giá cả của mặt hàng xuất khẩu ở thị trường nước ngoài. Kết quả xuất khẩu phụ thuộc vào thương nhân cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn, vì vậy phải làm rõ thái độ chính trị, triết lý kinh doanh, khả năng tài chính và uy tín của họ trên thị trường. Kết quả bước này phải lập được phương án kinh doanh xuất khẩu. Nội dung của phương án kinh doanh thường bao gồm: Những đánh giá khái quát về thị trường và thương nhân Chọn mặt hàng, thời cơ và phương thức xuất khẩu Mục tiêu và biện pháp thực hiện Ước tính sơ bộ hiệu quả xuất khẩu: Xác định các chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu, tỷ suất doanh lợi, điểm hòa vốn và thời gian hòa vốn Phương án kinh doanh hàng xuất khẩu là cơ sở để đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu với bạn hàng nước ngoài. 2.3. Tìm hình thức và biện pháp giao dịch, đàm phán để ký kết hợp đồng xuất khẩu Trong nội dung cơ bản của hợp đồng xuất khẩu hai bên phải thoả thuận các vấn đề: Nội dung công việc xuất khẩu Bao bì đóng gói, ký mã hiệu hàng hóa Thời gian, phương tiện và địa điểm giao hàng, quyền sở hữu hàng hóa Giám định hàng hóa Sát trùng hàng hóa (nếu bên mua yêu cầu) Điều kiện xếp dỡ hàng hóa và thưởng phạt Những chứng từ cần thiết cho lô hàng xuất khẩu Đồng tiền thanh toán, phương thức, hình thức và thời hạn thanh toán Các trường hợp bất khả kháng Trách nhiệm của các bên do vi phạm hợp đồng Thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng Các điều kiện khác Hiệu lực của hợp đồng 2.4. Thực hiện hợp đồng Bao gồm những công đoạn sau, tuỳ thuộc vào thoả thuận trong hợp đồng mà đơn vị xuất khẩu phải hay không phải thực hiện. Kiểm tra thư tín dụng do bên mua mở Xin cấp giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Kiểm định hàng hoá Thuê phương tiện vận chuyển, mua bảo hiểm Làm thủ tục hải quan Giao hàng lên tàu Làm thủ tục thanh toán, giải quyết tranh chấp (nếu có) 2.5. Đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu và tiếp tục quá trình buôn bán Các chỉ tiêu thường được dùng để so sánh, đánh giá hoạt động là: Số lượng thực hiện xuất khẩu so với đơn hàng Chủng loại mặt hàng thực hiện so với kế hoạch Tiến độ xuất hàng so với hợp đồng đã ký Doanh số mua và bán hàng hóa Chi phí kinh doanh Lợi nhuận đạt được so với kế hoạch và cùng kỳ năm trước Phân tích kết quả từng mặt hàng, theo từng thị trường xuất khẩu, từng khách hàng cụ thể để có biện pháp điều chỉnh hoạt động kịp thời. 3. Các hình thức của hoạt động xuất khẩu 3.1. Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước, xuất khẩu ra nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Ưu điểm của hình thức này là lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp thường là cao hơn các hình thức khác, có thể nâng cao uy tín của mình thông qua quy cách và phẩm chất hàng hoá, có thể tiếp cận trực tiếp thị trường, nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Bên cạnh đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng trước một lượng vốn lớn để sản xuất hoặc thu mua, phải chịu bất lợi về chi phí vận chuyển, thuế xuất nhập khẩu và chi phí để duy trì cửa hàng, văn phòng đại diện ở nước ngoài và rủi ro kinh doanh là rất lớn. 3.2. Xuất khẩu gia công uỷ thác Xuất khẩu gia công uỷ thác là hình thức các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất khẩu cho bên nước ngoài. Doanh nghiệp này sẽ được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các doanh nghiệp trực tiếp chế biến. Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, ít rủi ro, việc thanh toán được bảo đảm vì đầu ra chắc chắn. Bên cạch đó nó đòi hỏi nhiều thủ tục xuất và nhập khẩu do đó cần phải có những cán bộ kinh doanh có kinh nghiệm và thông thạo nghiệp vụ xuất nhập khẩu. 3.3. Xuất khẩu uỷ thác Xuất khẩu uỷ thác là hình thức mà các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra đóng vai trò trung gian xuất khẩu làm thay cho các đơn vị sản xuất những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã được thoả thuận. Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, ít trách nhiệm, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt là không cần bỏ vốn ra để mua hàng, nhận tiền nhanh, ít thủ tục và tương đối tin cậy. 3.4. Buôn bán đối lưu Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương với giá trị của lô hàng đã xuất. Các loại hình buôn bán đối lưu bao gồm: hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu, chuyển giao nghĩa vụ, mua lại sản phẩm. 3.5. Xuất khẩu theo nghị định thư Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu hàng hoá được ký kết theo nghị định thư giữa hai Chính phủ. Ưu điểm của hình thức này là tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, đảm bảo được thanh toán. 3.6. Xuất khẩu tại chỗ Xuất khẩu tại chỗ là hình thức mà hàng và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó cũng giống như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế v.v... Ưu điểm của hình thức này có thể đạt hiệu quả kinh tế cao do giảm bớt chi phí bao bì, đóng gói, bảo quản chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh. 3.7. Gia công quốc tế Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh trong đó một bên nhập nguồn nguyên liệu bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên đặt gia công để chế biến thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được phí gia công. Ưu điểm của hình thức này là giúp bên nhận gia công tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. Hình thức này được áp dụng khá phổ biến ở các nước đang phát triển có nguồn nhân công dồi dào với giá rẻ, nguồn nguyên liệu sẵn có của các nước nhận gia công. 3.8. Tạm nhập, tái xuất Tạm nhập, tái xuất là hình thức xuất khẩu đi những hàng hoá đã nhập khẩu trước đây và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn số bỏ ra ban đầu, không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng, máy móc thiết bị, khả năng thu hồi vốn cao. II. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 1.1. Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, giải quyết những khó khăn trong cán cân thanh toán Đối với một nước nghèo và chậm phát triển như ở nước ta thì việc chọn bước đi công nghiệp hoá là con đường thích hợp nhất. Để thực hiện công nghiệp hoá đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Nhập khẩu cũng như vốn đầu tư của một nước thường dựa vào các nguồn chủ yếu: viện trợ, vay nợ, đầu tư nước ngoài,... Tất cả các nguồn đó đều phải hoàn trả lại dưới các hình thức khác nhau, còn phát triển xuất khẩu là sự bảo đảm, quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 1.2. Tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế , thúc đẩy nền sản xuất trong nước Đây là yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đồng thời sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo và chế biến hàng xuất khẩu được áp dụng kỹ thuật tiên tiến, sản xuất ra hàng hoá có tính cạnh tranh cao trên thị trường thế giới, giúp ta có nguồn lực công nghiệp mới, tăng sản xuất cả về số lượng và chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí lao động xã hội. Bên cạnh đó tạo khả năng mở rộng thị trường, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào, góp phần cho sản xuất, phát triển kinh tế ổn định. 1.3. Góp phần giải quyết vấn đề lao động, việc làm Sự phát triển của các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu sẽ thu hút rất nhiều lao động vào làm việc, với mức sống ổn định. Ngoài ra xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của con người. 1.4. Là nền tảng trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại Xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao vai trò của Nhà nước ta trên trường quốc tế. Nhờ có những hàng xuất khẩu mà đã có nhiều nước đã, đang và sẽ thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư với nước ta. 1.5. Đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước Việc đưa các nguồn tài nguyên thiên nhiên tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, thông qua việc phát triển các ngành chế biến, xuất khẩu đã góp phần nâng cao giá trị hàng hoá, giảm bớt những thiên tai do điều kiện thiên nhiên ngày càng trở nên bất lợi cho hàng hoá và nguyên liệu cho xuất khẩu. 2. Tính tất yếu của việc gia nhập WTO 2.1. Vai trò của hội nhập Hội nhập kinh tế là cần thiết để phát triển: Thứ nhất: Hội nhập kinh tế đã góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam. Quan hệ bạn bè được mở rộng việc được hưởng những ưu đãi về thuế quan và xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác như tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Thứ hai: Góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài viện trợ của Chính phủ và góp phần giải quyết vấn đề nợ quốc tế. Thứ ba: Giải quyết vấn đề nợ Việt Nam Thứ tư: Hội nhập kinh tế là cần thiết để phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành yêu cầu bức xúc với các nước. Thể hiện qua sự gia tăng đáng kể trong những năm gần đây của sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ... giữa các nước trên thế giới và sự hình thành của thể chế hợp tác khu vưc và quốc tế. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu đối với sự nghiệp CNH_HĐH của Việt Nam Quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình điều chỉnh chính sách kinh tế, xây dựng một nền kinh tế thị trường mạnh để thực hiện tự do hoá trên các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, hợp tác tài chính - tiền tệ, đồng thời sẵn sàng tận dụng các ưu đãi của các thành viên khác đem lại cho mình để phát triển sản xuất, mở rộng thị trường hàng hoá và đầu tư ra nước ngoài. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đang là một đòi hỏi cấp thiết đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là một nước đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường như Việt Nam. Trước hết: Xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá trên cơ sở lợi ích kinh tế của các bên tham gia đã trở thành nhân tố góp phần gìn giữ hoà bình, ổn định trong khu vực, tạo điều kiện tiên quyết để các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài quyết định đầu tư ở quốc gia này hay quốc gia khác của thế giới. Điều đó sẽ giúp Việt Nam và các nước trong khu vực sẽ thu hút được nguồn nhân lực, vật chất, tài chính và tiến bộ khoa học công nghệ của các nước khác trên thế giới phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng nhanh nền kinh tế quốc dân của mình. Thứ hai: Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra những mối quan hệ kinh tế - tài chính đa dạng, đan xen, phụ thuộc lẫn nhau, một môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế rộng lớn, tự do và bình đẳng, ngày càng giảm dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, các phân biệt đối xử chính thức và phi chính thức, kinh tế và phi kinh tế sẽ tạo cơ hội không chỉ cho các công ty lớn, các nền kinh tế lớn mà còn cho cả các công ty nhỏ, các nền kinh tế còn đang trên đà của sự phát triển. Thứ ba: Có thể học hỏi rút kinh nghiệm trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế của các nước đi trước, tránh được những sai sót, tìm các biện pháp rút ngắn được thời gian cần thiết để thực hiện CNH - HĐH đất nước. Tạo điều kiện để Việt Nam dần điều chỉnh các chính sách và chế độ kinh tế theo các chuẩn mực của các tổ chức và các định chế kinh tế quốc tế. Thứ tư: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là một nhân tố quan trọng buộc các doanh nghiệp Việt Nam chấn chỉnh tổ chức quản lý sản xuất, đổi mới công nghệ, nắm bất thông tin, tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá để đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt, tạo điều kiện mở rộng thị trường thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư do được hưởng những ưu đãi cho các nước chậm phát triển hoặc đang phát triển, quy chế tối huệ quốc (MFN), đãi ngộ quốc gia (NT) và mức thuế quan thấp của các nước đối tác. 2.2. Một số đặc điểm về WTO 2.2.1. Sự ra đời của WTO 1/1/1995, WTO được thiết lập tại Marrakash, đây là lần cải cách thể chế thương mại quốc tế lớn nhất sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Đến trước 1994, thể chế thương mại vẫn theo GATT (tổ chức hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch). GATT đã thiết lập một thể chế thương mại đa biên thành công lớn mạnh, thông qua nhiều vòng đàm phán thương mại, thể chế này ngày một tự do. Nhưng đến thập niên 80 của thế kỷ XX, thể chế này cũng phải tiến hành kiểm tra triệt để một lần. Thế là đã phát động vòng đàm phán Urugoay, và cuối cùng WTO ra đời. Đến 15/4/2003, WTO có 146 thành viên chính thức, 31 quan sát viên Chính phủ và 7 quan sát viên tổ chức quốc tế (như: UN, IMF, FAO,UNCTAD, WB, WIPO, OECD). Mọi thông tin về WTO xin truy cập vào Web của WTO. ( 2.2.2. Mục đích của thể chế WTO Mục đích lớn nhất của thể chế WTO là giúp thương mại có thể lưu thông tự do, không chịu ảnh hưởng của các tác dụng phụ tiêu cực. Điều này có nghĩa là loại trừ chướng ngại, còn có nghĩa là bảo đảm cá nhân, công ty, Chính phủ hiểu rõ về quy tắc “chơi” của WTO là gì, khiến họ tin rằng chính sách sẽ không thay đổi đột ngột. Nói cách khác, những quy tắc này cần phải có tính minh bạch và có thể dự kiến được. Những hiệp định này được mọi thành viên cũng khởi thảo và ký kết, sau khi đã tranh cãi và tranh luận rất nhiều lần do vậy, một trong những chức năng lớn nhất của WTO là trở thành một diễn đàn đàm phán thương mại. Một vai trò quan trọng khác của WTO là giải quyết tranh chấp. Trong quan hệ thường nảy sinh những tranh chấp về lợi ích. Điều ước và hiệp định thường phải giải thích, bao gồm cả những điều ước và hiệp định mất nhiều công sức đàm phán, thường xuyên giải thích. Biện pháp hài hoà nhất là thông qua thủ tục trung lập dựa trên cơ sở pháp luật đồng ý thống nhất. Đây chính là mục đích đằng sau việc tố tụng giải quyết tranh chấp được viết trong hiệp định WTO. 2.3. Tính tất yếu của việc gia nhập WTO Ngày nay đối với Việt Nam, quá trình từ Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) đến tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã không còn là một vấn đề chỉ thuộc phạm vi nghiên cứu của ngành thương mại. Trong những năm đổi mới, với cách tiếp cận hiện thực đối với các quan hệ kinh tế đối ngoại, chúng ta đến với các thể chế kinh tế đa phương trong đó có WTO một cách thực tế hơn. Nếu xuất phát từ giác độ kinh tế chính trị thì đứng trước thế giới, Việt Nam chỉ là một người sản xuất hàng hoá còn thế giới là thị trường. Trên thị trường thế giới chúng ta phải tìm cách bán cho được những hàng hoá của mình và mua về những thứ mình cần với giá cả có lợi nhất. Đi trước chúng ta nhiều năm, hầu hết các nước trên thế giới đã bắt đầu bằng quan niệm như thế và cũng vì thế nên giữa các nước phải có những “luật chơi chung” được xây dựng trên cơ sở có sự đồng thuận nhất định. Quá trình từ GATT đến WTO ra đời và phát triển cũng chính là như vậy. Xét theo ý nghĩ này thì đó không phải là sản phẩm riêng của nền kinh tế Tư bản Chủ nghĩa mà nó là một nấc thang phát triển của nền thương mại thế giới - một bộ phận không thể tách rời của văn minh nhân loại. Chủ nghĩa Tư bản cần đến GATT - WTO để tồn tại vì không thể duy trì được chế độ thuộc địa, cũng như có cần đến sở hữu cổ phần vì không thể nắm giữ 100% cổ phần như trước. Lẽ đương nhiên, trên thị trường thế giới cho dù có thể có những nỗ lực đa phương đến đâu chăng nữa thì cũng không thể có được sự công bằng giữa những cường quốc với những nước nhỏ yếu, chậm phát triển. WTO dù đề cao nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các thành viên cũng không thể đặt ngang bằng vị thế của hạt gạo Nhật Bản với hạt gạo của Thái Lan hay Việt Nam, thịt bò của EU với thịt bò các nước Châu Phi,…Hãy còn xa tổ chức này mới làm được cái việc mà các “cuộc thi đấu quyền anh vẫn làm là lấy trọng lượng cơ thể làm tiêu chuẩn trước khi thượng đài đấm bốc”. Tuy nhiên trong thương mại thế giới ngày nay không có một thể chế toàn cầu nào thay thế được WTO. Các quốc gia dù lớn hay nhỏ cũng không thể có sự lựa chọn nào tốt hơn là gia nhập tổ chức này. Số lượng thành viên liên tục gia tăng của nó đủ để nói lên điều đó. Đối với Việt Nam, từ việc hiểu được vai trò của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế nói chung và lĩnh vực thương mại nói riêng, tháng 1/1995 Chính phủ Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập WTO. 2.4. Tác động có lợi và bất lợi của việc tham gia WTO Các nhà nghiên cứu và ngay cả doanh nghiệp đã chỉ ra lợi ích lớn nhất của việc gia nhập WTO là thị trường xuất khẩu cho Việt Nam rộng mở. Hàng hoá Việt Nam xuất đi nước ngoài sẽ được cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ khác, không còn vướng nhiều rào cản về thuế, hạn ngạch… như hiện nay nữa. Việt Nam có quyền thương lượng với các bên đối tác và có quyền khiếu nại khi thương lượng không đem lại kết quả mong muốn. Việt Nam có nhiều cơ hội trao đổi đa phương hoặc song phương về những vấn đề chủ chốt trên thương trường quốc tế, cũng như sẽ nhận được những cơ hội trợ giúp kỹ thuật và tư vấn từ hội đồng phát triển và thương mại về các vấn đề thống kê mậu dịch, chính sách mậu dịch, nhận được sự giúp đỡ về đào tạo cán bộ và trao đổi thông tin giữa các nước thành viên. Điều các doanh nghiệp lo ngại nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO phải xoá bỏ bảo hộ và họ sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh hơn từ bên ngoài. Tuy nhiên, theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, chính áp lực cạnh tranh lại là lợi ích mà Việt Nam sẽ được thụ hưởng. Cạnh tranh sẽ sàng lọc những doanh nghiệp kém hiệu quả, hiện đang là gánh nặng cho nền kinh tế, và buộc các doanh nghiệp khác phải tự hoàn thiện mình để vươn lên. Đồng thời, nó còn tạo cơ hội cho doanh nghiệp và người tiêu dùng sử dụng hàng hoá, dịch vụ với giá rẻ, qua đó kích thích nhu cầu tiêu thụ trong nước, làm cho kinh tế phát triển. Đánh thuế nhập khẩu cao để bảo hộ cũng là một cách gián tiếp đánh thuế vào xuất khẩu, làm cho năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam bị giảm. “Một đồng thuế đánh vào hàng nhập khẩu cũng là một đồng thuế gián tiếp đánh vào xuất khẩu”. Thuế nhập khẩu cao làm cho hàng hoá trong nước đắt, buộc doanh nghiệp phải tăng tiền lương cho công nhân để đảm bảo mức sống tối thiểu cho họ. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải tăng chi phí đầu tư ban đầu do phải mua xi măng, thép, ô tô… với giá cao để xây nhà xưởng và tạo tài sản cố định. Ngoài ra, gia nhập WTO sẽ tạo động lực thúc đẩy Việt Nam cải cách mạnh hơn các luật lệ cho phù hợp với thông lệ chung của quốc tế. Qua đó tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng và thông thoáng cho mọi thành phần kinh tế. Kinh nghiệm đàm phán và gia nhập WTO của Trung Quốc cũng cho thấy điều này. “Gia nhập WTO không chỉ là vấn đề về kinh tế mà còn là chính trị. Đây là sức ép để cải cách bên trong đất nước”. Một trong những điểm bất lợi với Việt Nam là việc cắt giảm thuế sẽ làm giảm nguồn thu cho ngân sách từ thuế nhập khẩu. Thuế nhập khẩu có thể giảm nhưng tổng thu ngân sách của Nhà nước thì chưa hẳn sẽ ít hơn. Một số công trình nghiên cứu tác động về thu ngân sách khi Việt Nam giảm thuế để gia nhập khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) cho thấy thu thuế nhập khẩu sẽ giảm 15%. Nhưng bù lại, nhờ giá hàng hoá giảm nhu cầu tiêu thụ sẽ tăng lên, sản xuất phát triển, nên Nhà nước sẽ thu được nhiều thuế trong nước hơn. Do đó, phần giảm thu ngân sách thực tế chỉ còn khoảng 1,9%. Đó là chưa kể những lợi ích về gia tăng việc làm cho xã hội. Trong thực tế, dù nhiều ngành công nghiệp đang được bảo hộ bằng thuế, nhưng những doanh nghiệp vẫn phải chịu áp lực cạnh tranh rất mạnh từ hàng nhập lậu và gian lận thương mại. Những ngành được bảo hộ càng mạnh, như mía đường, kính xây dựng, xi măng… thì hàng lậu càng nhiều. Do đó, khi bãi bỏ hàng rào bảo hộ để hội nhập, áp lực cạnh tranh sẽ không thay đổi nhiều. Cùng lúc đó, các nước cũng bãi bỏ hàng rào thuế quan đối với hàng nhập từ Việt Nam, giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu được nhiều hơn. Còn Nhà nước thì thu lại được những khoản thuế mà bấy lâu nay không thu được từ hàng lậu. Riêng đối với lĩnh vực dịch vụ, việc Việt Nam gia nhập WTO trước mắt sẽ gây cho khu vực này nhiều khó khăn. Theo các chuyên gia kinh tế, mức độ sẵn sàng để hội nhập của khu vực dịch vụ là kém nhất. Đây là khu vực được Nhà nước bảo hộ kỹ nhất. Cho đến nay, việc mở cửa cho nước ngoài đầu tư vào dịch vụ không đáng kể. Quả là năng lực cạnh tranh và chất lượng của các ngành dịch vụ, như tài chính ngân hàng, viễn thông và các dịch vụ phát triển kinh doanh khác kém, còn giá thì cao. Sự yếu kém của ngành dịch vụ đang trở thành gánh nặng cho cả nền kinh tế. Muốn khắc phục được điều này, việt nam phải bãi bỏ độc quyền trong các ngành dịch vụ, mở cửa cho nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư và kinh doanh để gây áp lực, buộc các doanh nghiệp dịch vụ phải cải cách, cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng và hạ giá dịch vụ. Các lợi ích cũng như bất lợi của Việt Nam trong việc gia nhập WTO là tương đối rõ. “Việt Nam không thể tự bảo vệ mình trước sự bảo hộ của các nước khác khi nằm ngoài WTO. Các ví dụ về vụ kiện bán phá giá cá da trơn và hạn chế về hàng dệt may là minh chứng cho việc này”. 2.5. Quan hệ Việt Nam- WTO Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan đối với thương mại Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005”. Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực thương mại, ngày 4/1/1995, Chính phủ Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập WTO và ngày 31/1/1995, đã thành lập nhóm công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam. Ngày 24/9/1995, Việt Nam đã đệ trình bản ghi nhớ về cơ chế ngoại thương của Việt Nam lên WTO. Cho đến nay, Việt Nam đã tiến hành nhiều phiên họp và đã trả lời hàng nghìn câu hỏi về bản ghi nhớ về chính sách ngoại thương của Việt Nam, đã tiến hành được 7 vòng đàm phán đa phương và song phương với các nước thành viên hữu quan của WTO về các vấn đề thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ và đầu tư. Vòng đàm phán gia nhập WTO đầu tiên của Việt Nam diễn ra vào ngày 30-31/7/1998, tiếp đó là phiên đàm phán thứ hai vào ngày 3/12/1998, phiên đàm phán thứ ba ngày 22-23/7/1999, phiên đàm phán thứ tư ngày 30/11/2000, phiên đàm phán thứ năm ngày 10/4/2002, phiên đàm phán thứ sáu ngày 12/5/2003 và trong 2 ngày 10-11/12/2003, vòng đàm phán thứ 7 của Việt Nam đàm phán gia nhập WTO đã diễn ra thắng lợi tại trụ sở của WTO tại Giơnevơ - Thụy Sỹ. Mục tiêu của Chính phủ Việt Nam là tích cực đẩy nhanh tiến trình đàm phán để có thể sớm chính thức gia nhập vào WTO vào năm 2005. 3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO 3.1. Xu thế chuyển dịch hàng dệt may trên thế giới Ngành công nghiệp dệt may gắn liền với nhu cầu không thể thiếu được của mỗi con người. Vì vậy từ rất lâu trên thế giới, ngành công nghiệp này được hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của Chủ nghĩa Tư bản. Bên cạnh đó, ngành dệt may là ngành thu hút nhiều lao động với yêu cầu kỹ thuật không cao, vốn đầu tư không lớn và có điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế. Do đó trong giai đoạn đầu quá trình công nghiệp hoá Tư bản, từ các nước phát triển như Nhật, Mỹ, Anh, Pháp cho đến các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo ngành công nghiệp dệt may thường phát triển mạnh và có hiệu quả trong quá trình công nghiệp hoá của họ. Khi một nước đã có công nghiệp phát triển, có trình độ công nghệ cao, giá lao động cao thì sức cạnh tranh trong sản xuất hàng dệt may giảm, lúc đó chuyển sang ngành công nghiệp khác có hàm lượng kỹ thuật cao hơn, sử dụng lao động ít hơn mang lại nhiều lợi nhuận cao. Lịch sử phát triển ngành công nghiệp thế giới cũng là sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực khác kém phát triển hơn do tác động của lợi thế so sánh. Sự chuyển dịch này được gọi là hiệu ứng chảy tràn hay làn sóng cơ cấu. Có thể nói ngành công nghiệp dệt may đã tạo nên một làn sóng, sóng lan tới đâu thì nước đó phát triển kinh tế vượt bậc. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở các nước phát triển mà thực tế ngành này đã tiến tới giai đoạn cao hơn, sản xuất các giá trị gia tăng cao. Sự dịch chuyển thứ nhất vào những năm 1840 từ nước Anh, cha đẻ của ngành công nghiệp dệt may sang các nước Châu âu, khi ngành công nghiệp dệt may đã trở thành động lực chính cho sự phát triển thị trường sang các khu vực mới khai thác ở Bắc và Nam Mỹ. Sự dịch chuyển thứ hai từ Châu âu sang Nhật Bản vào những năm 1950, trong thời kỳ hậu chiến thứ hai. Từ những năm 1950 khi chi phí sản xuất ở Nhật tăng cao và thiếu nguồn lao động thì công nghiệp dệt may lại được chuyển dịch sang các nước mới công nghiệp hoá (NICs) như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc. Quá trình chuyển dịch được thúc đẩy mạnh bởi nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhằm khai thác lợi thế về nguyên liệu tại chỗ và giá nhân công thấp. Cho đến nay công nghiệp dệt may không giữ vững vai trò thống trị trong nề._.n kinh tế quốc dân những đóng góp rất lớn về nguồn thu ngoại tệ thông qua xuất khẩu của nước này. Vào những năm 1980, khi các nước Đông á dần chuyển sang sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có công nghệ cao và kỹ thuật cao hơn như hàng điện tử, ô tô thì lợi thế so sánh của ngành dệt may sẽ bị mất đi ở các nước này. Các nước NICS buộc phải chuyển những ngành này sang các nước ASEAN, Trung Quốc và tiếp tục sự chuyển đổi này sang các nước Nam á. Vào cuối những năm 1990 và đầu những năm đầu của thế kỷ XX, tất cả các nước ASEAN đều đạt mức độ cao về xuất khẩu sản phẩm dệt may, vị trí các nước này trong mậu dịch thế giới tăng đáng kể so với trước đây. Cùng trong xu hướng dịch chuyển này dệt may Việt Nam đang hoà nhập với lộ trình dệt may thế giới. Là nước đi sau, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc kế thừa thành tựu các nước công nghiệp phát triển. Tận dụng được xu thế dịch chuyển như vậy đã tạo cho ngành dệt may Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển. Việt Nam cần thực hiện các chính sách “đi tắt đón đầu”, một mặt tiếp nhận nhanh chóng quá trình chuyển dịch từ các nước khác, mặt khác tiếp tục đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, đầu tư khoa học công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, sản phẩm có giá trị gia tăng cao đóng góp vào GDP lớn bắt kịp công nghiệp dệt may các nước phát triển. 3.2. Đặc điểm ngành công nghiệp dệt may Công nghiệp dệt may là một phần của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Nó có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu may mặc, một trong hai nhu cầu thiết yếu của con người. Trong lịch sử, sự tồn tại và phát triển của công nghiệp dệt may luôn gắn liền với sự phát triển toàn xã hội loài người. Xã hội ngày càng phát triển, khoa học công nghệ đủ khả năng giải quyết các vấn đề bức xúc của sản xuất thì công nghiệp dệt may nhờ đó cũng hoàn thiện hơn, để từ đó quay trở lại phục vụ đới sống con người tốt hơn. Công nghiệp dệt may thực chất là tổ hợp của 2 ngành chuyên môn hoá hẹp là công nghiệp dệt và công nghiệp may. Mặc dù là 2 ngành chuyên môn hoá nhưng chúng có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời. Công nghiệp dệt nếu thiếu công nghiệp may thì sản phẩm của nó không đạt mục tiêu cuối cùng là đáp ứng nhu cầu mặc cho con người. Ngược lại công nghiệp may đã sử dụng công nghiệp dệt như một nguồn cung cấp nguyên liệu duy nhất, không thể thay thế được cho hoạt động của mình. Công nghiệp dệt phát triển với nhiều chủng loại sản phẩm sẽ là cơ hội tốt cho công nghiệp may lựa chọn các dạng nguyên liệu đầu vào. Trong khi đó công nghiệp may phát triển nhiều mẫu mốt sẽ kích thích tiêu dùng và sẽ tạo cơ hội đầu ra tốt cho công nghiệp dệt. Cũng như mỗi ngành công nghiệp độc lập, công nghiệp dệt may có những đặc trưng cơ bản của nó: Thứ nhất: Công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp mà sản phẩm của nó là không thể thay thế được. Sản phẩm của hầu hết các ngành công nghiệp là thay thế được. Ví dụ như sản phẩm điện dân dụng, thay vì phải dùng quạt nan người ta dùng quạt điện, hay sản phẩm điện tử thay thế việc sử dụng tivi người ta có thể chỉ dùng radio. Ngược lại, đối với công nghiệp dệt may sản phẩm của nó không có gì thay thế được. Tức là người ta chỉ có thể thay thế việc mặc loại vải này bằng một loại vải khác chứ không thể mặc gì. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của ngành công nghiệp dệt may. Chính nhờ đặc trưng này mà sản phẩm dệt may trở thành một trong những sản phẩm thiết yếu đối với đời sống con người. Đặc trưng này cũng chi phối toàn bộ hoạt động của ngành công nghiệp dệt may, từ đó xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành là ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của con người. Thứ hai: Công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp mà sản phẩm của nó có vòng đời ngắn Trong số các sản phẩm tiêu dùng thì sản phẩm của ngành công nghiệp dệt may thường có vòng đới ngắn, khác hẳn với những sản phẩm chế biến của ngành thực phẩm, gu ăn uống thường được xác định ổn định trong một thời gian dài. Sở dĩ như vậy là vì sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao. Con người ta sử dụng sản phẩm dệt may ngoài công dụng là vật che thân sản phẩm dệt may còn góp phần tôn lên vẻ đẹp sang trọng, lịch sự của người sử dụng nó. Tâm lý của con người là thích đổi mới sáng tạo thậm chí độc đáo gây ấn tượng. Do vậy, sản phẩm dệt may cũng phải luôn thay đổi đáp ứng nhu cầu này. Ngoài ra, sản phẩm của ngành công nghiệp dệt may còn bị chi phối nhiều yếu tố khác như văn hoá, tập quán, tôn giáo, khí hậu, giới tính, tuổi tác. Vì vậy sản phẩm của công nghiệp dệt may rất phong phú, đa dạng. Việt Nam là quốc gia có nền văn hoá đa dạng, phong phú, người Việt rất nhạy cảm, tinh tế trong việc ăn mặc. Khi sản phẩm dệt may chuyển sang sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao và có chứa đựng yếu tố văn hoá thì đây chính là lợi thế không kém phần quan trọng cho các doanh nghiệp dệt may khai thác thị trường trong nước, nâng cao tỷ trọng hàng xuất khẩu mang nhãn mác Việt Nam. Thứ ba: Công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp không đòi hỏi công nghệ quá phức tạp, có suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, phù hợp với tổ chức sản xuất quy mô nhỏ. Công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp xuất hiện khá sớm trong lịch sử phát triển nhân loại, một phần là do công nghệ của ngành này không quá phức tạp. So với các ngành công nghiệp khác, đặc biệt các ngành công nghiệp nặng thì công nghiệp dệt may có suất đầu tư thấp hơn nhiều lần chỉ bằng 1/15 so với ngành cơ khí, 1/20 so với ngành luyện kim. Ngay trong nhóm ngành sản xuất hàng tiêu dùng để tạo ra một chỗ làm việc mới, công nghiệp dệt (từ khâu sợi, dệt đến nhuộm, hoàn tất) chỉ đầu tư khoảng 1500 USD, công nghiệp may cần đầu tư khoảng 1000 USD, trong khi suất đầu tư của ngành giấy là gần 3000 USD. Thời gian thu hồi vốn của công nghiệp dệt may cũng thấp hơn nhiều so với ngành khác. Thời gian thu hồi vốn của ngành dệt là 10 - 12 năm, ngành may là 5 - 7 năm. Do công nghệ sản xuất không quá phức tạp, lao động của ngành dệt may lại dễ đào tạo nên tổ chức sản xuất nhiều khâu có thể phân tán ở nhiều hộ gia đình. Chính vì vậy, công nghiệp dệt may đã tồn tại phát triển ở hầu hết các nước đang phát triển và thu hút nhiều lực lượng lao động của các nước này. Cũng do đặc thù về công nghệ nên dù có được hiện đại hoá thì trước mắt và lâu dài công nghiệp dệt may vẫn tồn tại những công đoạn cần lao động thủ công. Do vậy cùng với sự lớn mạnh của công nghiệp dệt may thì số lượng lao động được thu hút vào ngành công nghiệp này ngày càng đông chưa kể lực lượng lao động trong các ngành liên quan đến sự phát triển công nghiệp dệt may như công nghiệp cơ khí, chế tạo, hóa chất, và đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp để tạo ra các nguyên liệu cho ngành công nghiệp dệt may. Đối với Việt Nam, một quốc gia có dân số đông và trẻ so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tính đến nay, dân số cả nước xấp xỉ 82 triệu người, trong số đó người trong độ tuổi lao động khoảng trên 44 triệu người. Hàng năm có khoảng 1,5 đến 1,7 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động, tạo thành đội ngũ dự bị hùng hậu bổ sung liên tục vào lực lượng lao động vốn đã đông đảo. Với một lực lượng lao động dồi dào như vậy nếu được đào tạo sử dụng hợp lý, hiệu quả thì dệt may Việt Nam rất có điều kiện phát triển. Đồng thời đó cũng là một thị trường tiêu thụ hàng dệt may tiềm năng. Tuy nhiên, là một ngành thu hút nhiều lao động có nghĩa là chịu gánh nặng xã hội và nhiều áp lực từ phía Chính phủ về việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Thứ tư: Công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp đã diễn ra nhiều lần chuyển dịch sản xuất giữa các nước, các khu vực trên thế giới và trong nội bộ từng nước. Công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp sớm tham gia vào thị trường hàng hoá quốc tế và nó cũng trải qua nhiều lần chuyển dịch giữa các nước trên thế giới. Nghiên cứu lịch sử công nghiệp dệt may trên thế giới ta thấy nó xuất hiện và phát triển sớm ở nước Anh từ cuối thế kỷ XVIII và sau đó chuyển sang các nước Châu âu khác vào giữa thế kỷ XIV. Nhật Bản đã tiếp nhận và phát triển mạnh ngành dệt may vào những năm 30 của thế kỷ XX. Hiện nay, công nghiệp dệt may đang chuyển dịch sang các nước kém phát triển hơn như: Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Inđônêsia, Philipin… Trong tương lai, khi các nước này mất đi lợi thế so sánh đặc biệt về giá nhân công thì khả năng nó tiếp tục dịch chuyển sang các nước kém phát triển hơn. Trong nội bộ từng nước, công nghiệp dệt may cũng được chuyển dịch từ vùng này sang vùng khác. Ban đầu, công nghiệp dệt may thường phát triển ở các trung tâm đô thị nhờ lợi thế về hạ tầng, trình độ lao động… Sau đó mất dần lợi thế về giá nhân công, để tiếp tục giữ được lợi thế so sánh buộc phải chuyển dịch về các vùng đô thị kém phát triển hơn, thậm chí các vùng nông thôn nhằm tìm kiếm một chi phí nhỏ nhất. Sự dịch chuyển này diễn ra một cách tự nhiên. Đây là một đặc trưng quan trọng của công nghiệp dệt may mà các nhà sản xuất hàng dệt may Việt Nam phải quan tâm nếu không sẽ mất dần đi những lợi thế vốn có và sớm bị loại khỏi cuộc cạnh tranh này. Thứ năm: Công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp nhạy cảm, sản phẩm của nó thường được bảo hộ cao. Trước khi có Hiệp định thương mại về hàng dệt may, kết quả quan trọng của vòng đàm phán Urugoay, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm dệt may được điều chỉnh theo thể thức thương mại đặc biệt, mà nhờ đó phần lớn các nước nhập khẩu đều thiết lập hạn chế về số lượng hàng dệt may nhập khẩu. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may thường cao hơn so với hàng hoá thông thường khác. Bên cạnh đó từng nước còn đề ra những điều kiện riêng đối với dệt may nhập khẩu. Tất cả những rào cản đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán các nước trên thế giới. Trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai công nghiệp dệt may đã và sẽ luôn là một ngành công nghiệp nhạy cảm, các sản phẩm của nó thường được bảo hộ ở mức cao. Sự bảo hộ này không chỉ xuất phát từ những quốc gia tham gia xuất khẩu hàng dệt may, thường bảo hộ trong nước như người ta vẫn thường thấy, mà các rào cản còn xuất hiện ở ngay những cường quốc, mà tại đó công nghiệp dệt may không phát triển hoặc đã phát triển nay đã chuyển dịch sang các nước, khu vực khác trên thế giới, như Mỹ và các nước EU. Điều này không được lý giải bởi nguyên nhân là họ sử dụng các chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, mà thực chất là các nước lớn muốn khống chế các nước đang phát triển thì một trong những biện pháp của nó là hạn chế các lợi thế so sánh của các nước này. Các hạn chế được tạo ra dưới hạn ngạch nhập khẩu, hay các nguyên tắc về xuất xứ… ở đây chúng ta nhận thấy rằng, bóc lột Tư bản đã phát triển một cách tinh vi hơn, tức là đã chuyển từ Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền sang phương thức bắt các nước nhỏ phụ thuộc vào các nước lớn. Đây là một trong những đặc trưng hết sức quan trọng mà các nước muốn tham gia vào thị trường xuất khẩu hàng dệt may phải quan tâm để có những chính sách phù hợp. Với Hiệp định hàng dệt may, Việt Nam vừa có nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng phải chịu nhiều quy định chặt chẽ, những yêu cầu cao hơn khi xuất khẩu hàng dệt may. Do đó, muốn thành công trong việc xuất khẩu hàng dệt may ra thị trường nước ngoài, cần phải có sự hiểu biết rõ về những chính sách bảo hộ ưu đãi của từng quốc gia và từng khu vực với ngành dệt may. Có như vậy thì kết quả thu được mới đạt hiệu quả cao, tránh lãng phí, sai lầm không đáng có. Trên đây là những đặc trưng cơ bản nhất của ngành dệt may. Nó chi phối quá trình tổ chức sản xuất và trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp dệt may. Việc nghiên cứu làm rõ chúng có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển và đề xuất các giải pháp thích ứng. 3.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam nói chung Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, thực tế ghi nhận là dệt may thường đóng một vai trò rất quan trọng tại hầu hết các nước đang phát triển với nguồn lực có hạn và trình độ kỹ thuật còn hạn chế. Công nghiệp dệt may cũng là bước khởi đầu cho các nước này để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế. Công nghệ của ngành dệt may thường được chuyển giao và áp dụng lại từ các nước phát triển đi trước. Chính vì vậy, công nghệ này có thể tiếp cận rộng rãi và thu hút nhiều lao động. Việt Nam cũng nằm trong xu thế dịch chuyển của công nghệ dệt may đã và đang diễn ra. Dệt may được coi là một trong những ngành có lợi thế nhất của Việt Nam, ngành công nghiệp dệt may ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người mà còn là ngành giải quyết nhiều việc làm cho lao động xã hội, có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước. Công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm, vượt lên đứng vị trí thứ hai trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Với sự phát triển mạnh mẽ như vậy, ngành dệt may đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nước ta. Ngành dệt may tham gia tạo vốn tích luỹ cho quá trình công nghiệp hoá: đây là ngành không đòi hỏi nhiều vốn, đồng thời có thể thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đó, xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn để mua máy móc thiết bị hiện đại, góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá trong sản xuất, làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh. Tăng cường mối quan hệ giữa nước và các nước khác: là ngành xuất khẩu mũi nhọn tại hơn 50 nước trên thế giới, ngành dệt may không chỉ giữ vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá đất nước mà với chiến lược kinh tế mở cửa, hội nhập khu vực và quốc tế, ngành dệt may cũng đi đầu, mở đường cho mối liên kết ngày càng sâu sắc giữa kinh tế nước ta và các nước khác trên thế giới. Hiện nay, các tổ chức thương mại quốc tế đều có ưu đãi cho ngành dệt may, đặc biệt ngành dệt may ở các nước đang phát triển, hàng rào mậu dịch đối với sản phẩm thuộc ngành này được dỡ bỏ hay nới lỏng rất nhiều. Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động: dệt may là ngành thu hút nhiều lao động, tạo công ăn việc làm, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp của nền kinh tế. ở Việt Nam, toàn ngành công nghiệp dệt may đã thu hút trên 2 triệu lao động xã hội, đặc biệt là lao động nữ. Ngành dệt may không chỉ phát triển thêm công ăn việc làm trong ngành mà cả trong các ngành liên quan và phụ trợ khác như bao bì, bảo quản, cơ khí, vận tải, kho, cảng…, nhờ đó thu nhập người lao động đã được cải thực hiện, tăng sức mua, mở rộng thị trường trong nước. Cụ thể năm 2000 ngành dệt may đã thu hút 1.374.000 lao động, con số này năm 2001 là 1.650.000 người, năm 2002 là 1.830.000 người, năm 2003 là 2 triệu lao động. Công nghiệp dệt may phát triển kéo theo và thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp khác: sự phát triển của ngành dệt may sẽ tạo điều kiện cho rất nhiều ngành khác phát triển, trong đó có các ngành cung cấp nguyên vật liệu và ngành sử dụng sản phẩm của ngành dệt may. Hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn qua phát triển sản phẩm bông, đay, tơ, tằm, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế công nghiệp. Đóng góp vào việc cải thực hiện cán cân thương mại: Với nỗ lực khắc phục điểm yếu kém để vươn lên, ngành công nghiệp dệt may không chỉ giữ vững vai trò trọng yếu trong xuất khẩu mà còn đóng góp đáng kể vào việc cải thực hiện cán cân thương mại của nước ta và tăng nhanh đầu tư nước ngoài. Tầm quan trọng này còn được thể hiện càng rõ nét ở tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của hàng dệt may Việt Nam. 3.4. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO Từ năm 1993, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam bắt đầu khởi sắc. Nếu như những năm đầu của thập kỷ 90, xuất khẩu hàng dệt may mới ở vị trí cuối của những mặt hàng xuất khẩu thì đến năm 1996, 1997 đã vươn lên vị trí số 1 trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Và đến năm 1998 đã lùi xuống vị trí thứ hai, nhường chỗ cho mặt hàng dầu thô. Xuất khẩu dệt may có ý nghĩa rất quan trọng là giải quyết được nhiều việc làm và phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy có thể lựa chọn hàng dệt may để đưa mặt hàng này vào danh mục những mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Việt Nam trong những năm tới. Hiện nay mặt hàng dệt may chiếm tỷ trọng từ 20 - 25% trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nói chung. Năm 2001, xuất khẩu dệt may đạt kim ngạch 2,15 tỷ USD; năm 2002 đạt xấp xỉ 2,75 tỷ USD; năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD. Như vậy, trong cơ cấu xuất khẩu chung, hàng dệt may luôn luôn chiếm tỷ trọng từ 20-25%. Trong chiến lược xuất khẩu dự kiến nhóm hàng công nghiệp ( điện tử, dệt may, giày dép) sẽ phải nâng tỷ trọng lên đạt trên 40% vào năm 2010 trong cơ cấu xuất khẩu chung. Những thành tựu đạt được của ngành dệt may không chỉ đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu mà nó còn thu hút được vốn đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, tạo mối quan hệ tốt đẹp với các nước chúng ta hợp tác. Đặc biệt là chiến lược tăng tốc của Chính phủ đưa ra cho ngành dệt may đã tạo ra những bước nhảy vọt đăng ký trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp như tạo một môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn, để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia, giảm độc quyền trong các lĩnh vực then chốt của đất nước,… từ đó tạo ra môi trường thông thoáng để thay đổi cách nhìn cũng như đánh giá của bạn bè quốc tế về Việt Nam, góp phần đẩy nhanh tiến trình đàm phán gia nhập WTO. Chương II thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO I. Đặc điểm thị trường của các nước thành viên WTO 1. Hiệp định về hàng dệt may của WTO Từ những năm đầu của thập niên 60, các sản phẩm thương mại của ngành dệt và may mặc được giải quyết tại GATT như là một trường hợp ngoại lệ và tuỳ thuộc vào các quy định thương lượng đặc biệt, đã thừa nhận những khó khăn mà ngành này gặp phải ở các nước phát triển do cạnh tranh của các hàng hoá nhập khẩu với giá thấp. Từ năm 1974, thương mại ngành dệt và may mặc phần lớn đã được điều chỉnh thông qua hiệp định đa sợi (MFA). MFA cung cấp cơ sở theo đó nhiều quốc gia công nghiệp, thông qua các hiệp định song phương hoặc các hành động đơn phương, thiết lập các hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng dệt và may mặc từ các nước cạnh tranh đang phát triển. Việc hoà nhập trở lại của lĩnh vực này vào các nguyên tắc của WTO (GATT - 1994) đã được đàm phán tại Vòng đàm phàn Uruguay và đang được thực thi theo nhiều giai đoạn trong vòng 10 năm. Các hạn chế của MFA (các hạn chế đã được giải quyết vào ngày 31/12/1994), đã được chuyển tiếp vào hiệp định mới và có thể được duy trì cho tới khi chúng bị loại bỏ thông qua việc kết hợp vào GATT - 1994 các sản phẩm dệt và may mặc liên quan trở thành đối tượng của các nguyên tắc và quy định giống như các hàng hoá công nghiệp khác. Chương trình hoà nhập được chia thành bốn giai đoạn: Ngày 1/1/1995, mỗi bên sẽ hoà nhập số lượng hàng hoá chiếm không dưới 16% tổng khối lượng hàng dệt và may mặc nhập khẩu của mình trong năm 1990 từ bản danh sách hàng hoá đặc biệt của Hiệp định. Ngày 1/1/1998, số lượng hàng hóa chiếm không dưới 17% tiếp theo của số lượng hàng hoá nhập khẩu năm 1990 sẽ được hoà nhập. Ngày 1/1/2002, số lượng hàng hoá chiếm không dưới 18% tiếp theo của số lượng hàng hoá nhập khẩu năm 1990 sẽ được hoà nhập. Ngày 1/1/2005, tất cả hàng hoá còn lại sẽ được hoà nhập. Mỗi giai đoạn trong ba giai đoạn đầu, các hàng hoá phải được lựa chọn từ một trong các loại sau: sợi, vải, sản phẩm dệt và may mặc. Các sản phẩm còn lại không được đặt dưới bất kỳ một hạn chế nào, hiệp định còn đưa ra một công thức để ra tăng tốc độ tỷ lệ tăng trưởng hiện tại. Do vậy, trong giai đoạn 1 (từ năm 1995 đến năm 1997), đối với mỗi hạn chế của Hiệp định MFA song phương có hiệu lực từ năm 1994, tốc độ hòa nhập hàng năm phải không được dưới 16%, là mức cao hơn so với mức tăng trưởng được thiết lập cho hạn chế MFA trước đó. Đối với giai đoạn 2 (từ 1998 đến 2001), tốc độ tăng trưởng hàng năm phải là 25%, cao hơn mức tăng trưởng giai đoạn 1. Đối với giai đoạn 3 (từ 2002 đến 2004), tốc độ tăng trưởng hàng năm phải là 26%, cao hơn mức tăng trưởng giai đoạn 2. Các hạn chế không phải của MFA được duy trì đối với bất cứ thành viên nào của WTO và không được điều chỉnh theo GATT, phải được đưa vào để phù hợp GATT trong năm 1996 hoặc bị loại bỏ luỹ tiến trong một thời nhất định nhưng không vượt quá thời hạn của hiệp định, tức là vào năm 2005. Việc chấm dứt hiệp định về hàng dệt cũng như bỏ những hàng rào ngăn cản nhập khẩu ngoài quy định của GATT (chủ yếu là các hiệp định ký kết giữa EU với các nước Châu Phi - Caribê - Thái Bình Dương và các nước Địa Trung Hải hoặc sẽ đưa vào khuôn khổ GATT hoặc sẽ được bãi bỏ) sẽ tạo điều kiện gia tăng dòng lưu thông buôn bán các sản phẩm dệt trên thế giới, đặc biệt là nó đem lại lợi ích cho các nước tham gia vào thị trường này. Theo dự đoán của hiệp hội tiêu dùng Châu Âu (European consumer association), các nước đang phát triển có thể tăng khối lượng các sản phẩm dệt từ 40 tỷ USD tới 50 tỷ USD, đồng thời người tiêu dùng ở các nước công nghiệp có thể mua được hàng hoá với giá cả giảm 5%. Công nghiệp dệt và may mặc vốn là ngành có dung lượng lao động cao, kỹ thuật không quá phức tạp. Do vậy những điều khoản nhằm tự do hoá thương mại hàng dệt là bước tiến tích cực có lợi cho tất cả các nước đang phát triển xuất khẩu hàng dệt và may mặc trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá ở nhiều nước chậm phát triển, nơi có sẵn lực lượng lao động dồi dào với giá rẻ. Hiện nay, sản phẩm dệt và may mặc của Trung Quốc đã tràn ngập thị trường các nước Châu á và Hoa Kỳ. Đây là thách thức lớn đối với nhiều nhà xuất khẩu khác trong vùng. Những cọ sát về giá cả cũng như chất lượng sản phẩm bắt buộc các nhà sản xuất và xuất khẩu phải nỗ lực để chứng tỏ sức cạnh tranh trên thị trường dệt và may mặc trên thế giới. Trong số này không loại trừ các nhà thiết kế mẫu, sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình tự do hoá sản xuất và xuất khẩu sản phẩm này có thể vẫn gặp phải những ràng buộc do bên đối tác áp dụng những nguyên tắc trong hiệp định bảo vệ. Đặc biệt, việc áp dụng nguyên tắc ngừng hoặc rút lui tạm thời hoặc sửa đổi nghĩa vụ thương mại song phương và đa phương nếu họ thấy rõ ràng việc tiếp tục tuân thủ các nguyên tắc về tự do thương mại hàng dệt và may mặc có thể gây tổn thất cho ngành công nghiệp trong nước cũng như gây tác hại cho thị trường nội địa. Thời hạn ngừng nhập khẩu tạm thời là 4 năm. Những quy định tự do hoá tồn tại bên cạnh những quy định có tính ràng buộc, trên thực tế, không mâu thuẫn nhau mà nhằm duy trì nhịp độ thương mại bình thường, tránh quá nóng gây tổn thất cho các bên cũng như tránh trì trệ có thể gây ra sự chênh lệch lớn giữa cung và cầu trên thị trường quốc tế. Đây là một trong những biểu hiện về vai trò điều tiết nền thương mại toàn cầu của GATT trước đây và WTO sau này. Hiệp định cũng bao gồm các điều khoản để đối phó với khả năng có thể phá vỡ các cam kết thông qua vận tải, thay đổi tuyến, khai báo gian lận về nước hay nơi xuất xứ và giả mạo các chứng từ. Hiệp định cũng có biện pháp xử lý đặc biệt đối với một số loại nước nhất định, ví dụ những nước không phải là thành viên MFA từ năm 1986, những nước mới tham gia thị trường, các nhà cung cấp nhỏ và các nước kém phát triển. Hiệp định tham chiếu đến các điều kiện thâm nhập thị trường đã được cải thực hiện cho các sản phẩm dệt và may mặc. Uỷ ban giám sát ngành dệt (TMB), bao gồm chủ nhiệm và 10 thành viên thừa hành có khả năng độc lập, giám sát sự thực hiện chi tiết các cam kết và chuẩn bị các báo cáo cho hội đồng thương mại hàng hóa, cơ quan chịu trách nhiệm đánh giá hoạt động của hiệp định trước khi kết thúc từng giai đoạn của quá trình hoà nhập. Hơn nữa, tranh chấp có thể đệ trình lên Uỷ ban giải quyết tranh chấp nếu vấn đề vẫn không được giải quyết sau khi TMB đã cho ý kiến. 2. Lộ trình cắt giảm thuế quan với một số mặt hàng Dệt May Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO 2.1. Hiệp định ưu đãi thuế quan phổ cập CEFT trong hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). CEFT là một thoả thuận giữa các nước thành viên ASEAN trong việc giảm thuế quan thương mại giữa các nước thành viên ASEAN xuống còn từ 0 - 5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các rào cản phi thuế quan khác trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành ngày 1/1/2003. Mặt hàng dệt may bắt đầu thực hiện CEFT từ năm 1998. Cụ thể như sau: Thứ nhất: Đối với vải sợi Các loại tơ sợi, vải dệt có lớp phủ tráng được đưa vào thực hiện CEFT năm 1997 và bắt đầu thực hiện từ năm 1998. Trong số các mặt hàng này chỉ có khoảng 1/3 số mặt hàng là những mặt hàng có thuế suất 0 - 5%. Năm được thực hiện CEFT 1997, những mặt hàng có thuế suất t=20% Các loại sơ sợi tổng hợp hoặc sợi pha, lưới, vải các loại, lịch trình cắt giảm được chia thành 3 bước: Bước 1: Đưa vào thực hiện CEFT từ năm 1999, chủ yếu là các mặt hàng sợi đơn đã có thuế suất 5% nên thực tế ta không phải giảm thuế. Bước 2: Thực hiện CEFT từ năm 2000, chủ yếu là các mặt hàng sợi xoắn có thuế suất 10%, một số mặt hàng sản xuất trong nước có khả năng phát triển nên tuy thuế suất là 5% nhưng cũng lùi lại bước này để tránh khả năng tăng thuế lên trên 5% trước khi giảm. Năm đưa vào thực hiện CEFT 2000 những mặt hàng có thuế suất 10%. Bước 3: Đưa vào thực hiện CEFT từ năm 2002 (trừ một số vải dệt, bông thì lùi tới cuối năm cuối cùng để bảo hộ tối đa) gồm những mặt hàng có thuế từ 30% trở lên. Năm đưa vào thực hiện CEFT 2002 những mặt hàng có thuế từ 30 - 40%. Bảng 2.1: Bước giảm từ năm 2000 - 2006: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 t=20% 15 10 10 5 t=10% 10 10 10 10 10 5 5 t=30%-40% 40 30 20 10 5 30 20 20 10 5 (Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư) Thứ hai: Đối với hàng may Được đưa vào thực hiện CEFT từ năm 1998 những mặt hàng có thuế từ 50%. Bảng 2.2: Bước giảm từ năm 1998 - 2006: Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 t(%) 40 30 20 20 20 15 15 10 5 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) 2.2. Hiệp định hàng dệt may ký kết giữa VN với EU giai đoạn 2000-2005: Đối với thị trường EU thì hiện Việt Nam đang được hưởng thuế MFN nhưng phải chịu hạn ngạch. Từ cuối năm nay, EU vẫn duy trì hạn ngạch hàng dệt may đối với các nước là thành viên của WTO, nên việc Việt Nam chưa ra nhập WTO không ảnh hưởng gì đến xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Từ 1/1/2005 trở đi, khi EU bải bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may cho các nước thành viên của WTO mà vẫn giữ hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam thì sẽ rất bất lợi cho Việt Nam. Do vậy hiệp định hàng dệt may ký kết giữa Việt Nam và EU giai đoạn 2000 - 2005 về lịch trình giảm thuế EU là rất quan trọng. Cụ thể như sau: Bảng 2.3: Biểu thuế EU dành cho ngành dệt may giai đoạn 2000 – 2006 Mặt hàng Thuế (%) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 1. Sợi bông 20 18- 10 17- 10 16 - 5 15 - 5 12-5 5 2. Vải 40 38 34 30 24 20 5 3. May mặc 50 46- 20 42- 20 38- 20 34- 15 30- 10 5 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) 2.3. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Hàng dệt may Việt Nam bị Mỹ áp dụng hạn ngạch kể từ ngày 1/5/2003, nhưng lại được hưởng thuế suất MFN. Theo quy định của Mỹ, các sản phẩm dệt may được chia thành 167 mã hàng riêng lẻ, trong đó riêng hàng may mặc có tới 106 mã hàng. Trong số 38 mã hàng dệt may Việt Nam bị khống chế hạn ngạch có tổng cộng 35 mã hàng may mặc (chiếm 33% tổng số mã hàng may mặc vào thị trường Mỹ) và chỉ có 3 mã hàng dệt (chiếm 4,9% tổng các mã hàng dệt). Tính chung, tổng số các mã hàng bị khống chế của Việt Nam chỉ chiếm 22,7%. Như vậy vẫn còn tới 129 mã hàng Việt Nam vẫn có thể xuất tự do vào thị trường Mỹ mà các doanh nghiệp có thể tận dụng. Tuy nhiên, đặc điểm của các không bị khống chế hạn ngạch là các cat thuộc nhóm nguội, cạnh tranh cao về chất lượng và giá cả. Bảng 2.4: Biểu thuế Mỹ dành cho ngành dệt may khi có MFN và khi không có MFN Tên hàng Thuế tối hụê quốc (MFN) Thuế không MFN Vải dệt 7 - 20% 45 - 113,5% Hàng may mặc, dệt kim 3,6 - 20% 45 - 90% (Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư) 3. Đặc điểm thị trường của các nước thành viên WTO 3.1. Thị trường Châu Âu EU là một thị trường lớn với 15 quốc gia và 376 triệu người tiêu dùng, nhu cầu tiêu dùng bình quân là khá cao. EU lã thị trường thống nhất cho phép lưu thông tự do về lao động, vốn, hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thành viên. Thị trường EU là thị trường có tính cạnh tranh rất cao, mức độ tiêu dùng rất lớn nhưng tính chọn lọc cũng rất khắt khe, đặc biệt là đối với hàng dệt may. Ngành dệt may của Châu Âu đang có xu hướng chuyển dần sang các nước khác có giá nhân công rẻ (các nước đang phát triển) nên thị trường này có xu hướng nhập khẩu ngày càng nhiều hàng dệt và may mặc. Thị thường EU có hệ thống tiêu chuẩn kiểm định hiện đại và thống nhất nhằm bảo đảm cho người tiêu dùng có điều kiện kiểm tra sản phẩm ngay từ nơi sản xuất, hay đại lý phân phối. Hiện nay ở Châu Âu có 2 tiêu chuẩn định chuẩn là Uỷ ban Châu Âu về định chuẩn điện tử; Viện định chuẩn viễn thông Châu Âu. Tất cả các sản phẩm để có thể bán ở thị trường này đều phải đảm bảo thực hiện tiêu chuẩn chung EU. EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền. Nhu cầu tiêu dùng là tìm kiếm những thị trường có mặt hàng rẻ, đẹp song cũng đảm bảo chất lượng họ yêu cầu. 3.2. Thị trường Châu Mỹ Với dân số khoảng 279 triệu người, tỷ lệ dân sống trong thành thị cao (trên 75%), thu nhập quốc dân tính trên đầu người trên 30.000 USD/người/năm, Hoa Kỳ trở thành một trong những quốc gia nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Mức tiêu thụ hàng dệt may ở Hoa Kỳ trong giai đoạn vừa qua luôn luôn tăng, năm sau luôn cao hơn năm trước từ 10 - 15%. Năm 2003, Mỹ nhập khẩu 71 tỷ USD hàng dệt may để phục vụ tiêu dùng trong nước trong đó kim ngạch từ Châu á chiếm khoảng 55%, Bắc Mỹ 17%, Mỹ La Tinh: 10%, Tây âu: 7%, Trung Đông: 2,5%, Châu Phi: 2,5%. Về thị trường dệt may, người tiêu dùng Hoa Kỳ coi trọng vấn đề nhãn mác, giới trẻ đặc biệt sính dùng “đồ hiệu”, song họ vẫn không đi chệch khỏi quỹ đạo đ._.ực tiếp sang thị trường EU, Đài Loan,… nhà máy Dệt kim Đông Xuân với các sản phẩm dệt kim (cat 83) xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Nhật,… Nghiên cứu và lựa chọn thị trường mục tiêu: tuỳ thuộc vào sản phẩm chiến lược và những quy định về hạn ngạch, biểu thuế và những rào cản phi thuế quan khác của các thị trường để lựa chọn thị trường phù hợp. Lựa chọn hình thức phân phối: nếu khả năng tài chính của các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có thể mở các văn phòng đại diện, đại lý, cửa hàng bán lẻ trực tiếp tại các thị trường. Nếu như khả năng tài chính và quy mô chưa đủ lớn để thiết lập hệ thống phân phối trực tiếp, doanh nghiệp có thể thông qua hệ thống phân phối của các công ty lớn ở nước ngoài, những nhà thương mại trong ngành dệt may. Tuy nhiên, phải nói lên ưu điểm của hệ thống phân phối trực tiếp là doanh nghiệp có thể kiểm soát và nắm chắc được hoạt động kinh doanh, có cơ may đứng chân vững chắc ở thị trường nước ngoài. 1.4. Giảm chi phí đầu vào, chi phí quản lý, tỷ lệ phế phẩm Để giảm được chi phí đầu vào, các doanh nghiệp cần lựa chọn nhà cung ứng ổn định, đảm bảo chất lượng, thời gian, giá cả, mẫu mã của nguyên phụ liệu. Hiện tại có thể tìm kiếm các nhà cung ứng nước ngoài sau có thể đến các nhà cung ứng có uy tín và chất lượng trong nước khi ngành dệt và ngành sản xuất nguyên phụ liệu trong nước phát triển hơn. Doanh nghiệp có thể giảm chi phí quản lý bằng cách cổ phần hoá, thiết lập hình thức công ty mẹ con, cơ cấu lại tổ chức bộ máy theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả, giảm bớt bộ phận trung gian, áp dụng các mô hình quản lý tiên tiên theo tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, SA 8000. Chính từ việc đổi mới cơ chế quản lý sẽ giảm được chi phí do bộ máy tinh giản, tỷ lệ phế phẩm từ đó cũng được giảm xuống tạo cho đối tác uy tín tốt về các doanh nghiệp. 1.5. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp 1.5.1. Xây dựng và quảng bá thương hiệu Đối với ngành dệt may Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, mỗi doanh nghiệp xuất khẩu cần quyết định việc xây dựng thương hiệu phù hợp cho sản phẩm hay cho doanh nghiệp? Đối với thị trường nước ngoài thì do người tiêu dùng tại các thị trường này hiện chỉ quen với các thương hiệu đã nổi tiếng của các nhà thiết kế và sản xuất hàng thời trang nước ngoài nên các thương hiệu thời trang Việt Nam rất khó xâm nhập. Do vậy, hiện tại chưa nên đầu tư xây dựng thương hiệu sản phẩm tại thị trường nước ngoài, mà cần tập trung nguồn lực để xây dựng thương hiệu doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu có tín nhiệm về quản lý chất lượng sản phẩm, giao hàng đúng hạn, có khả năng giao hàng nhanh và có trách nhiệm cao với cộng đồng xã hội. Mục tiêu là tạo dựng và quảng bá thương hiệu doanh nghiệp sản xuất có uy tín nhằm thu hút đơn đặt hàng của các nhà nhập khẩu nước ngoài có nhãn hiệu và đẳng cấp cao với đơn hàng lớn, ổn định và giá cả phù hợp. Đó là con đường mà rất nhiều nhà sản xuất hàng dệt may Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái lan… đã và đang làm rất thành công và đã giúp cho ngành công nghiệp dệt may của các nước trên phát triển từ hàng chục năm nay. Một điều rất đáng mừng là nhiều công ty Việt Nam cũng đã đầu tư và bước đầu thành công trong việc xây dựng thương hiệu của mình. Các công ty may Việt Tiến, Nhà Bè, May 10, Phương Đông, Đức Giang, Thăng Long, Lemamex, Hữu nghị, May 28, Scavi, Garmex,… với uy tín thương hiệu doanh nghiệp của mình, lúc nào cũng nhận được đơn hàng ổn định và giá cao từ các nhà nhập khẩu có đẳng cấp của nước ngoài. Chính nhờ vào uy tín doanh nghiệp mà áo sơ mi cotton xuất khẩu giá FOB của dệt Việt Thắng, May Việt tiến, May 28 có thể bán với giá từ 5 - 6 USD/chiếc cho các nhà nhập khẩu có đẳng cấp so với giá trung bình của các xí nghiệp khác chỉ từ 3 - 4 USD/chiếc cho các nhà nhập khẩu có đẳng cấp thấp hơn. Cũng tương tự, may Nhà bè, May 10 có thể nhận gia công áo sơ mi với giá từ 1 - 1,2 USD/chiếc so với các xí nghiệp khác chỉ nhận được với giá 0,6 - 0,7 USD/chiếc. Xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm tại thị trường nội địa và thương hiệu doanh nghiệp tại thị trường nước ngoài có lẽ là bước đi phù hợp nhất trong hoàn cảnh của các doanh nghiệp và may Việt Nam hiện nay. Các doanh nghiệp có thể sử dụng một số biện pháp quảng bá thương hiệu như: tham gia các hội chợ triển lãm vừa để giới thiệu sản phẩm vừa để tìm hiểu nhu cầu khách hàng ở các thị trường, hoặc thông qua mạng Internet, thông qua chương trình xúc tiến thương mại của ngành, của các đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài. Chiến lược xây dựng và quảng bá thương hiệu đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng một cách có hệ thống, đầu tư tiền của và công sức lớn. 1.5.2. Kết hợp với các nhà thiết kế Tại sao các công ty may mặc Việt Nam còn thờ ơ với các nhà thiết kế? Thậm chí còn từ chối các lời đề nghị tài trợ cho những bộ sưu tập mà các nhà thiết kế sẽ đưa ra trong các tuần lễ thời trang. Lý do chính, theo lý giải của các công ty may mặc lớn, là đa số các công ty dệt may hiện nay đang tập trung toàn lực cho việc gia công cho các thị trường ngoài nước. Các đơn đặt hàng xuất khẩu luôn đi kèm với những mẫu thiết kế do các đối tác nước ngoài làm sẵn và các công ty may chỉ việc làm đúng theo đơn đặt hàng. Tiêu thụ trong nước chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, chưa tới 10%, trong tổng sản lượng của các công ty dệt may trong nước hiện nay. Tuy nhiên, xuất khẩu trực tiếp là mục tiêu chiến lược của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Do đó, doanh nghiệp phải chủ động tìm đến các nhà thiết kế để tạo ra các sản phẩm mang phong cách “Việt”, chất liệu “Việt” để tạo cho hàng dệt may của ta những nét riêng biệt để thu hút khách hàng. Doanh nghiệp có thể hợp tác với những trường danh tiếng ở Hà Nội như: trường Mỹ thuật Công nghiệp, Viện Đại học Mở, Cao đẳng kỹ thuật May… ở TP.HCM như: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thủ Đức, Cao đẳng Kỹ thuật May và Thời trang 2… để cùng đào tạo và tìm kiếm các nhà thiết kế tài năng. Các doanh nghiệp cũng có thể hợp tác với các viện mốt, các nhà thiết kế nổi tiếng như Minh Hạnh, Công Trí, Minh Khoa, Ngô Thái Uyên, Sỹ Hoàng… để thiết kế sản phẩm. 1.6. Xây dựng chiến lược thị trường thích hợp Để chủ động giành được thành công trong cạnh tranh, mỗi doanh nghiệp cần nhạy bén, sáng tạo, xây dựng cho mình chiến lược thị trường thích hợp. Các doanh nghiệp cần đa dạng hoá thị trường. Phải chủ động khai thác và phát triển quan hệ với các khách hàng đối tác kinh doanh thay vì thụ động trong phương thức tiếp thị như trong giai đoạn có hạn ngạch hiện nay, thực hiện chương trình hợp tác dài hạn với khách để ổn định sản xuất. Tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp để đảm bảo lợi ích chung cạnh tranh lành mạnh, chống khuynh hướng giành giật khách hàng bằng mọi giá. Tăng cường và đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường không bị áp đặt hạn ngạch để dễ dàng thích ứng vào thời điểm sau 2004. Đối với thị trường Mỹ: Thị trường xuất khẩu lớn nhất hiện nay cần tăng giá trị các mặt hàng xuất khẩu có hạn ngạch, đồng thời tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chưa bị khống chế hạn ngạch. Theo quy định của Mỹ, các sản phẩm dệt may được chia thành 167 mã hàng riêng lẻ, trong đó riêng hàng may mặc có tới 106 mã hàng. Trong số 38 mã hàng dệt may Việt Nam bị khống chế hạn ngạch có tổng cộng 35 mã hàng may mặc (chiếm 33% tổng số mã hàng may mặc vào thị trường Mỹ) và chỉ có 3 mã hàng dệt (chiếm 4,9% tổng các mã hàng dệt). Tính chung, tổng số các mã hàng bị khống chế của Việt Nam chỉ chiếm 22,7%. Như vậy vẫn còn tới 129 mã hàng Việt Nam vẫn có thể xuất tự do vào thị trường Mỹ mà các doanh nghiệp có thể tận dụng. Tuy nhiên, đặc điểm của các không bị khống chế hạn ngạch là các cat thuộc nhóm nguội, cạnh tranh cao về chất lượng và giá cả. Thực tế sau khi thực hiện hiệp định dệt may của Trung Quốc và Campuchia với Mỹ cho thấy: có tới 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của 2 nước này vào thị trường Mỹ nằm ở các mã không bị khống chế hạn ngạch. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hoàn toàn có thể làm được điều nay qua sự chuyển đổi mã hàng sản xuất phù hợp. Đúng vậy, để làm được điều này, các doanh nghiệp cần thiết phải nghiên cứu kỹ quy chế xác định chủng loại mã hàng để tận dụng tối đa các cơ hội. Chẳng hạn, cat 345 (áo len cotton), cat 645/646 (áo len sợi tổng hợp) chịu khống chế hạn ngạch chặt chẽ. Tuy nhiên, nếu thương lượng được với khách hàng để sử dụng cotton pha len hoặc acrilic pha len với tỷ lệ len từ 17% trở lên thì mặt hàng đó lại được xếp vào nhóm cat 445/446 (áo len nam, nữ chất len) không bị hạn ngạch. Cat 342/642 (váy ngắn cotton và vải tổng hợp) bị khống chế hạn ngạch nhưng các loại váy dài thuộc cat 336/636 và cat 350/650 lại không bị hạn ngạch. áo vest nam chất cotton (cat 33) có hạn ngạch 36.000 tá nhưng áo vest nam (cat 433) chất liệu len với tỷ lệ từ 17% trở lên lại không chịu hạn ngạch. Đồ ngủ chất vải bông và vải tổng hợp (cat 351/651) có hạn ngạch 482.000 tá nếu có chỉ số sợi pha liten/ cotton hoặc liten/PE lớn hơn 50% hoặc pha tơ tằm thì được xuất khẩu tự do… tương tự còn rất nhiều chủng loại hàng khác bị áp đặt hạn ngạch, các doanh nghiệp có thể đàm phán và thương lượng với khách hàng để chuyển sang mã hàng không bị áp đặt hạn ngạch. Về chính sách phân phối để thu được lợi nhuận cao các doanh nghiệp cần tìm kiếm các hợp đồng để trở thành nhà thầu cung cấp thay vì làm hàng gia công. Ký hợp đồng thầu cung cấp cho các công ty bán lẻ sẽ là phương án tối ưu đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, vì làm như vậy sẽ giảm được chi phí phân phối do loại bớt khâu trung gian. Với thị trường EU: Các doanh nghiệp cần tăng cường phát huy tính chuyên môn hoá trong sản xuất nhất là mặt hàng có sức cạnh tranh khá lớn như: các loại gối, vỏ chăn và đồ jean, các doanh nghiệp phải xem EU như là thị trường không hạn ngạch. Trong điều kiện Việt Nam hầu hết là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì làm thế nào để chủ động tìm khách hàng mà không phải xách cặp đi nước ngoài liên tục. Do vậy, các doanh nghiệp phải tăng cường sử dụng thương mại điện tử để quảng bá, giới thiệu. Phải tìm cách sử dụng được một cách tối đa lực lượng người Việt Nam ở EU để họ làm đầu mối cho mình. Hiện nay, tại EU có khoảng chừng 70.000 người làm thương mại tại đây. Đến tháng 5/2004 sẽ có thêm 10 nước gia nhập vào khối EU. Đây sẽ là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Làm thế nào đưa hàng Việt Nam vào các chợ đầu mối, các hệ thống bán lẻ của người Việt Nam tại Nga, Tiệp, Đức… thay vì từ trước tới nay chợ của người Việt Nam lại lấy hàng từ Trung Quốc về bán. Đồng thời, phải liên kết giữa các công ty ở Việt Nam với các công ty khai thác thị trường của nước ngoài để tạo được sự hợp tác hai bên cùng có lợi. Với thị trường Nhật Bản: Các mặt hàng dệt kim, khăn bông, các loại quần kaki và áo sơ mi là những mặt hàng có sức cạnh tranh khá lớn. Do vậy, nếu như áp dụng công thức: Nguyên liệu + công nghệ của Nhật Bản + lao động của Việt Nam bằng cách phối hợp với các tập đoàn lớn của Nhật Bản thực hiện thì chắc chắn chúng ta sẽ thành công. Các doanh nghiệp cần phải chủ động thay đổi cách tiếp cận để mở rộng thêm nguồn khách hàng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tổ chức hệ thống thông tin phản ánh kịp thời sự thay đổi nhu cầu và phát hiện nhu cầu mới trên thị trường mục tiêu. Để xây dựng được hệ thống thông tin này, việc quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có sự liên kết. Hỗ trợ thông tin của các công ty bán lẻ trên thị trường. Đó là kênh cung cấp thông tin phản ánh chính xác và nhanh nhất. 1.7. Nâng cao hiểu biết toàn diện về WTO Các doanh nghiệp phải tự tìm hiểu để nâng cao hiểu biết của mình về WTO thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, các cơ quan quản lý Nhà nước, Bộ thương mại, Tổng công ty dệt may, Internet… đối với các doanh nghiệp tư nhân thì truyền miệng là phương tiện hiệu quả nhất. Các doanh nghiệp phải nâng cao hiểu biết về các quy tắc của WTO, những miễn trừ “tối huệ quốc”, luật chống bán phá giá, hiệp định trợ cấp và các biện pháp bù trừ, sự bảo vệ khẩn cấp chống hàng nhập khẩu, các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật, giấy phép nhập khẩu, quy định về giá hàng hoá của hải quan, thủ tục giám định hàng hóa, các quy tắc xuất xứ… 2. Kiến nghị đối với Nhà nước Những kết quả đạt được của ngành dệt may trong những năm qua cho thấy sự phát triển và những tác động của ngành đã phản ánh trực tiếp kết quả của việc đổi mới mộ số chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Tuy nhiên, căn cứ vào năng lực sản xuất và xuất khẩu của ngành dệt may, mục tiêu định hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010, căn cứ vào triển vọng của các thị trường nhập khẩu hàng dệt may như Mỹ, EU, Nhật Bản… cũng như đòi hỏi của các thị trường này, Nhà nước cần phải có những đổi mới và có những bước tiến tích cực hơn nữa nhằm giúp cho ngành công nghiệp dệt may Việt Nam cất cánh nhanh chóng hội nhập vào thị trường thế giới. 2.1. Hoàn thiện chính sách đầu tư phát triển Thứ nhất: Các mục tiêu đầu tư mang tính cấp thiết trước mắt là phát triển và hiện đại hoá ngành sợi dệt, đồng bộ hoá trình độ công nghệ của ngành may. Mục tiêu có tính chất trung hạn và dài hạn là sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt (gồm cả trồng bông, trồng dâu nuôI tằm, sản xuất sợi hoá học, thuốc nhuộm), sản xuất các phụ liệu cho ngành may, cơ khí dệt may. Thứ hai: Đối với ngành dệt may xuất khẩu, cần ưu tiên cho việc thành lập các liên doanh may xuất khẩu. Thứ ba: Có sự phân công hợp lý giữa đầu tư Nhà nước và đầu tư nước ngoài. Đầu tư của Nhà nước trực tiếp vào ngành dệt may chủ yếu hướng vào xây dựng mới một số cơ sở hiện đại, đặc biệt là ngành dệt và các cơ sở sản xuất tơ sợi hoá học, hoá chất, thuốc nhuộm, đầu tư đổi mới công nghệ, hiện đại hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Việc đa dạng hoá hình thức sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành dệt may cần được coi là hướng tất yếu. Thứ tư: Chính phủ Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào phát triển công nghiệp dệt may nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng lạc hậu của ngành dệt may. Định hướng này cần được trợ giúp bằng những khuyến khích mạnh mẽ hơn qua ưu đãi về thuế đất, về thuế, về thuế tiêu thụ sản phẩm, đồng thời đơn giản hoá các thủ tục. Thứ năm: Đổi mới chính sách tín dụng cho đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Trước mắt tập trung vào những nội dung sau: mở rộng tín dụng đầu tư dài hạn, phân phối nguồn tài trợ ODA với những điều kiện ưu đãi, áp dụng hình thức thuê mua tài chính cho các doanh nghiệp may xuất khẩu. 2.2. Chính sách về nguyên phụ liệu Vấn đề nguyên liệu cho ngành may hiện đang là vấn đề lớn của ngành dệt may nước ta. Bên cạnh đó, công nghiệp phụ liệu chưa được quan tâm đúng mức càng làm cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may đạt hiệu quả kinh tế thấp. Để khắc phục tình trạng này, cần có quy hoạch và các chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng phát triển vùng nguyên liệu, đồng thời phải có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may mặc. Trước mắt cần sớm thực hiện những vấn đề sau đây: Quy hoạch vùng trồng bông trên cơ sở bố trí lại cơ cấu cây trồng thích hợp để tăng nhanh diện tích trồng bông. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như thuỷ lợi, giao thông cho các vùng trồng bông để tăng nhanh diện tích trồng bông. Hỗ trợ vốn cho công ty bông Việt Nam trong công tác quy hoạch vùng trồng bông, nghiên cứu khoa học, khuyến nông, sản xuất hạt giống, chế biến bông để đủ khả năng giữ vai trò chủ đạo của ngành sản xuất bông. Bên cạnh chương trình phát triển cây bông vải, cần thực hiện đồng bộ cả việc phát triển các cơ sở chế biến. Ngay sau khi thu hoạch, các cơ sở chế biến phải sẵn sàng tiếp nhận để chế biến, tránh trường hợp không có đầu ra cho cây bông. Đối với các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may mặc, Nhà nước nên có nhiều biện pháp ưu tiên để thúc đẩy việc sản xuất mặt hàng này. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước. Dành một tỷ lệ thích đáng quỹ thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp may xuất khẩu sử dụng nguyên phụ liệu trong nước và ưu tiên hạn ngạch cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu được sản xuất trong nước với tỷ lệ cao là một biện pháp tốt nhất cho vấn đề này. 2.3. Chính sách về khoa học công nghệ Thực hiện chính sách “hai tầng công nghệ”: công nghệ cao, đòi hỏi nhiều vốn nhằm sản xuất các mặt hàng cao cấp rút ngắn khoảng cách về trình độ công nghệ dệt may với các nước tiên tiến kết hợp với công nghệ ít vốn, sử dụng nhiều lao động và giải quyết việc làm, thích hợp với những cơ sở sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ, tạo sản phẩm với giá thành hạ, có tính tranh cao. Ưu tiên cho công nghệ may vi tính nhằm nâng cao năng lực sáng tạo mẫu mã. Có chính sách khuyến khích đầu tư với các dự án sản xuất sản phẩm mới theo hệ thống quản lý chất lượng TQM, ISO 14000, ISO 9000. Triển khai và tăng cường hiệu quả của hợp tác công nghệ ASEAN (AICO) nhằm thu hút công nghệ mới trong khu vực và hợp tác phát triển sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá, phát huy thế mạnh mỗi nước trong hợp tác kinh tế. Công tác đào tạo cán bộ khoa học dệt may cần phải được Chính phủ quan tâm. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có các biện pháp: Hỗ trợ kinh phí để củng cố, nâng cấp các viện nghiên cứu; cung cấp, trang bị các thiết bị cần thiết cho các phòng thí nghiệm, các trường đào tạo… để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nghiên cứu và thực hành, là tác nhân thúc đẩy công nghệ của ngành dệt may phát triển. Tăng cường đầu tư nghiên cứu và triển khai các dự án có tính khả thi, luôn đi trước đón những công nghệ tiên tiến để áp dụng vào sản xuất mang lại hiệu quả cao. Có cơ chế đãi ngộ thoả đáng đối với cán bộ nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, Nhà nước cần khuyến khích việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ về nguyên liệu mới thông qua quỹ hỗ trợ phát triển công nghệ 2.4. Chính sách về lao động và phát triển nguồn nhân lực Văn hoá thấp, tay nghề thấp - hiểu biết về pháp luật, kỹ thuật - khó nâng cao tay nghề-năng suất thấp - làm việc nhiều giờ - không có thời gian học tập và hệ quả là văn hoá, tay nghề tiếp tục thấp. Đó là thực trạng nguồn nhân lực dệt may Việt Nam hiện nay. Do vậy, việc đầu tư cho đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý là hết sức cần thiết và không thể chậm trễ. Cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích và thu hút các học sinh có khả năng theo học ngành công nghiệp dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư dệt may trầm trọng đã xuất hiện và có thể kéo dài trong một vài năm tới. Nhà nước cần có chỉ đạo các Bộ ngành liên quan như Bộ Giáo dục, Bộ Khoa học và Công nghệ lập chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế. Về đào tạo đại học: chú trọng tới loại hình kỹ sư công nghệ, kỹ sư thực hành, cử nhân quản trị kinh doanh. Ngoài ra, cần thiết đào tạo một đội ngũ cán bộ có trình độ trên đại học làm nòng cốt cho công tác nghiên cứu khoa học của ngành. Đặc biệt phải ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế thời trang và marketing khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trường, từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kịp thời, đảm bảo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động, khắc phục tình trạng thiếu lao động do các kỹ sư công nghệ và công nhân có tay nghề bị “hút” sang các công ty liên doanh đang ngày càng trầm trọng hơn trong ngành dệt may. 2.5. Chính sách về tổ chức quản lý Những bất cập trong công tác quản lý xuất nhập khẩu, các chính sách tài chính, thuế, ưu đãi đầu tư…, những thủ tục hành chính rườm rà đang gây nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư Việt Nam cũng như các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước. Cần phải khắc phục những bất cập này nhằm tạo một môi trường thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, tạo thế mạnh trong thu hút đầu tư vào Việt Nam thông qua hệ thống chính sách hợp lý và thông thoáng. Trước mắt, Chính phủ cần đẩy nhanh tiến trình đàm phán để ra nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đến thời điểm 1-1-2005, hạn ngạch sẽ được loại bỏ hoàn toàn giữa các nền kinh tế thành viên tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này có nghĩa là những nước đang được hưởng hạn ngạch như Việt Nam, nếu chưa gia nhập WTO vào năm 2005, sẽ mất đi lợi thế cạnh tranh của mình. Đồng thời, đẩy nhanh Chương trình tăng tốc của ngành theo QĐ 55 của thủ tướng Chính phủ (Chương trình này được xây dựng và triển khai từ năm 2000) và cần được các Bộ ngành ủng hộ một cách tích cực, nhanh chóng và thiết thực. Tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt may với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu. Cụ thể là: Gắn vùng công nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác nhằm tận dụng lao động, mối quan hệ liên ngành Gắn công trình chế biến, kéo sợi dệt tơ tằm với vùng nguyên liệu dâu tằm Gắn công nghiệp dệt may (là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động) vào các trung tâm dân cư để vừa tận dụng lao động tại chỗ, vừa tận dụng điều kiện hạ tầng giao thông, dịch vụ, văn hóa, thông tin, vận chuyển. Gắn công nghiệp dệt may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu, sợi, dệt, nhuộm, may dịch vụ…giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm, nâng cao một bước công nghiệp hoá và có điều kiện gọi vốn nước ngoài. Trên nguyên tắc trên, dự kiến quy hoạch dệt may thành 2 vùng chính: Vùng quy hoạch chiến lược I: Gồm Thành phố HCM là trọng tâm và các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa, Long An, Cần Thơ… Đây chính là vùng có năng lực dệt may lớn, dân cư đông, cơ sở hạ tầng, ngành nghề truyền thống mạnh. Vùng này chiếm 25-30% năng lực sản xuất của cả nước. Vùng quy hoạch chiến lược II: Gồm Thành phố Hà Nội là trọng tâm và một số tỉnh trọng điểm thuộc Đồng bằng sông Hồng như Nam Định, Hải Hưng, Vĩnh Phú, Hải Phòng, Thái Bình… và một số tỉnh thuộc khu 4 cũ: Nghệ An, Thanh Hoá. Đây là vùng có mật độ dân cư cao nhất, nhiều làng xã có làng nghề truyền thống. Dự kiến vùng này sẽ chiếm 15 - 20% năng lực sản xuất của cả nước. Bên cạnh đó, để nâng cao sức mạnh Nhà nước cần xây dựng các tập đoàn lớn, có sức cạnh tranh cao trên thương trường hoặc công ty mẹ con để vừa tập trung đơn hàng lớn vừa chuyên môn hoá sản xuất, nâng cao năng suất lao động. 2.6. Chính sách thuế quan Nhà nước cần đổi mới chính sách thuế quan theo hướng: Ưu đãi đối với doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan đến xuất khẩu hàng hoá, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, tận dụng nguyên liệu trong nước, xuất khẩu sang thị trường mới. Giảm mức độ bảo hộ nhằm tăng cường tính sáng tạo, thúc đẩy, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. áp dụng thuế suất 0% đối với nguyên liệu chính nhập khẩu như bông, vải sợi và áp dụng thuế suất ưu đãi cho các nguyên liệu khác. Việc hoàn thuế tạm nhập tái xuất cần phải tiến hành nhanh hơn, tránh tình trạng nhà sản xuất bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài. Nhà nước cũng nên miễn thuế nhập khẩu các loại hoá chất, thuốc nhuộm, thuốc trợ nhuộm trong nước chưa sản xuất được, cho giảm thuế VAT vải sợi xuống 5% và tăng thời gian khấu hao cơ bản các loại máy sợi, dệt từ 10 đến 15 năm nhằm tạo điều kiện giảm giá thành vải cung cấp trong nước, thúc đẩy việc sử dụng vải sợi để may hàng xuất khẩu. Đối với luật thuế GTGT mới áp dụng cần giảm mức thuế suất 10% đối với các doanh nghiệp kéo sợi và may mặc xuống 5%. Mức thuế xuất 10% là quá cao so với mức thuế suất doanh thu 10% trước đây (2% và 4%). Với thuế suất VAT 10%, doanh nghiệp sẽ phải nộp thuế nhiều hơn trước 45 - 70%, điều đó không phù hợp với một ngành đang rất cần đẩy mạnh xuất khẩu. 2.7. Chính sách thị trường Trong điều kiện xu thế hội nhập đang phát triển mạnh mẽ, nhiều tổ chức thương mại đã được hình thành, và hoạt động khá rộng rãi, trong đó phải kể đến tổ chức thương mại thế giới WTO thì thị trường đã trở thành vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Hiện nay, các nhà xuất khẩu dệt may Việt Nam chưa có điều kiện để tìm kiếm, tiếp xúc và thâm nhập thị trường rộng lớn của các nước thành viên WTO như EU, Nhật, Mỹ.... Vì vậy, việc tổ chức các cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia, có chi nhánh tại các trung tâm thương mại lớn tại EU, Mỹ, Nhật Bản, để quản lý và định hướng cho hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đồng thời tăng cường xúc tiến thương mại, đặt trọng tâm vào các thị trường không Quota như Nhật Bản, Nga, một số nước ASEAN và các mặt hàng không áp dụng Quota tại thị trường Mỹ, EU. Bộ xúc tiến thương mại chịu trách nhiệm đảm bảo cung cấp cho các nhà xuất khẩu những thông tin về thị trường và điều kiện pháp lý khi xâm nhập các thị trường này. Các doanh nghiệp có thể được tư vấn miễn phí tại các đại sứ quán, lãnh sự quán và đại diện dệt may ở nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước nên tài trợ cho các chuyến công tác, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm. Đồng thời thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về thị trường dệt may nhằm nâng cao trình độ hiểu biết và kinh nghiệm của nhà xuất khẩu Việt Nam khi tiếp cận các thị trường này. Mặt khác, tiếp tục mở rộng thị trường có Quota trong giai đoạn hiện nay thông qua đàm phán cụ thể là triển khai thoả thuận tăng Quota của EU cũng như đàm phán điều chỉnh hạn mức khi EU kết nạp thêm 10 thành viên mới và đàm phán sớm với Mỹ gia hạn hiệp định dệt may đã ký để vận dụng điều khoản linh hoạt giúp các doanh nghiệp có chỗ đứng tại 2 thị trường này trước khi Quota được loại bỏ. Để có thể từng bước giảm tỷ lệ buôn bán qua trung gian, tăng cường xuất khẩu trực tiếp. Nhà nước cần hỗ trợ ngành dệt may thành lập trung tâm thông tin. Trung tâm này sẽ thực hiện các chức năng chủ yếu như thu thập, phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp thành viên. Đồng thời qua trung tâm doanh nghiệp có thể tự giới thương hiệu mình với các bạn hàng với mức chi phí thấp nhất. “Trung tâm thông tin ngành dệt may” có thể là một giải pháp tốt cho các doanh nghiệp dệt may trong việc giải quyết một phần những khó khăn về tài chính trong Marketing xuất khẩu. 2.8. Chính sách tỷ giá hối đoái Đối với ngành dệt may, cần khuyến khích xuất khẩu sản phẩm và nhập máy móc, công nghệ hiện đại, nguyên liệu phục vụ sản xuất. Vì vậy, việc duy trì một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý như hiện nay và tối ưu. Việc áp dụng chính sách nhiều tỷ giá là rất quan trọng vì mong muốn xuất khẩu nhiều và nhập khẩu cũng lớn, nên áp dụng một tỷ giá cao cho xuất khẩu và thấp cho nhập khẩu. 2.9. Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước, đồng thời cho phép hiệp hội dệt may thành lập Quỹ bảo hiểm riêng của ngành nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp khi giá cả thị trường thế giới có biến động cũng như khi gặp rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Thành lập quỹ thưởng xuất khẩu để có nguồn vốn thưởng cho các doanh nghiệp có thành tích trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may. Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua công cụ lãi suất. Một điều hết sức quan trọng là Nhà nước cần cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các dự án phát triển vùng trồng bông để trong tương lai, Việt Nam có thể tự túc nguyên liệu ngành dệt. Kết luận Thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và mở rộng sự hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế đã, đang và sẽ là mục tiêu phấn đấu của ngành, các cấp cũng như mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Với vị thế của một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế nước nhà, ngành dệt may Việt Nam đang không ngừng đẩy mạnh xuất khẩu, tích cực tham gia vào quá trình tạo và tích luỹ vốn cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để làm được điều này, các doanh nghiệp Việt Nam phải phấn đấu rất nhiều, từ việc đổi mới công nghệ, trang thiết bị, quản lý, nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm cho đến phương thức tiếp cận thị trường. Đặc biệt là khi thời điểm 1/1/2005 sắp đến gần, dù Việt Nam có gia nhập hay chưa gia nhập WTO thì cạnh tranh vẫn còn, đó là do năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh chính nỗ lực của bản thân doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam, ngành dệt may rất cần có sự khuyến khích, hỗ trợ của nhà nước của Chính phủ trên các mặt, các lĩnh vực mà không một doanh nghiệp nào có thể làm được. Trong bài viết của này, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như kiến nghị để hoàn thiện hệ thống các chính sách nhằm hỗ trợ cho việc thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO. Mặc dù đã rất cố gắng, song do hạn chế về thời gian và nguồn tài liệu cộng với sự hiểu biết chưa được toàn diện, bên cạnh đó Việt Nam đang trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO nên khó có thể giải quyết triệt để mọi vấn đề nên bài viết của em chắc chắn không tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo và các bạn để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của GS.TS Đặng Đình Đào và thầy giáo Nguyễn Thanh Phong để em có thể hoàn thành đề án này. TàI liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế thương mại. pgs.Ts.đặng đình đào. nxb thống kê. 2001. 2. Giáo trình thương mại quốc tế. Pgs.ts.nguyễn duy bột. Nxb thống kê. 1997. 3. wto những nguyên tắc cơ bản. người dịch trịnh hồng hạnh. Nxb khxh. 2003. 4. thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập ktqt. Gs.ts. nguyễn thị mơ. nxb thống kê. 2003. 5. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kt nước ta trong quá trình hội nhập ktqt. Gs.ts.chu văn cấp. Nxb chính trị quốc gia. 2003. 6. Hỏi đáp về tác động của wto đối với các dn vừa và nhỏ. Viện nghiên cứu thương mại. Nxb chính trị quốc gia. 2003. 7. Các khối kt và mậu dịch trên thế giới. Ts võ đại lược. Nxb chính trị quốc gia. 1996. 8. tạp chí thương mại số 8/03, 1+2/04, 3+4+5/04, 48/03, 32/04, 41/03, 7/03 9. ngoại thượng số 29/03, 20/03 10. tạp chí công nghiệp Việt Nam số1+2+3/03, 5/03, số tết giáp thân, 4/03 11. Lao động và xã hội số 1/04 12. Kinh tế và dự báo số 2/04 13. Kinh tế và phát triển số 41/03, 47/03, 52/03, 7/03 14. Thương mại thị trường Việt Nam số 10/03 15. Nghiên cứu kinh tế số 270/03 16. kinh tế đối ngoại số 6/03 17. thời báo kinh tế Việt Nam số 10-15/04, 201/03, 7/99, 95/99, 130/2000, 96/01, 24/02, 143/02, 67/02, 14/03 18. thời báo kinh tế sàI gòn số 31.8.2000, 3.4.2003, 29.5.2003, 12.6.2003, 16.10.2003 19. 20. 21. Com 22. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33774.doc
Tài liệu liên quan