Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Huy động, sử dụng vốn đầu tư nói chung và xây dựng cơ bản nói riêng nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế luôn là một vấn đề quan trọng và cần được giải quyết chặt chẽ mới mang lại hiệu quả cao nhất. Bất cứ một ngành, một lĩnh vực nào để đi vào hoạt động đều phải thực hiện đầu tư cơ sở vật chất, tài sản cố định, vì vậy đầu tư xây dựng cơ bản luôn là vấn đề đặc biệt được quan tâm. Trong những năm qua, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không nhỏ đối với tăng trưởng và phát triển nền kinh tế của nước ta. Rất nhiều công trình về các lĩnh vực như: năng lượng, công nghiệp khai thác, chế biến, cơ sở hạ tầng, nông, lâm nghiệp được đầu tư xây dựng làm tiền đề cho việc chấn hưng và phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, đặc biệt là hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản còn thấp; thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản còn nhiều và diễn ra ở tất cả các khâu như: Chủ trương đầu tư; lập dự án, thiết kế; thi công xây dựng; quản lý khai thác... Đây là một trong những vấn đề bức xúc của toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của bộ máy chính trị và toàn thể nhân dân cần phải đồng bộ thực hiện. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 (khoá IX) đã nhận định: Chất lượng của các chiến lược và quy hoạch xây dựng còn thấp, lại chậm được bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Còn thiếu sự phối hợp đồng bộ, hài hoà giữa chiến lược, quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng và địa phương. Còn để kéo dài tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, chưa tính toán kỹ hiệu quả, nhất là trong đầu tư bằng vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi của Nhà nước... [12, tr.34]. Nghị quyết phiên họp thường kỳ tháng 12 năm 2005 của Chính phủ cũng đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của năm 2006 là chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản... Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ X đã tiếp tục khẳng định: "Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước còn dàn trải, bị thất thoát nhiều. Một số công trình lớn, quan trọng của quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách Nhà nước và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng" [13, tr.62]. Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, quá trình thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Phú Thọ đã có những kết quả thành công nhất định, nhờ đó mà tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đã đạt được khá cao so với mức bình quân chung của cả nước trong nhiều năm. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,5%, dự kiến năm 2006 đạt 11,5%. Tuy vậy, hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản chưa đạt được mục tiêu đề ra; tồn tại, hạn chế còn xảy ra ở tất cả các khâu. Thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản chưa được khắc phục triệt để. Là cán bộ đang công tác tại tỉnh Phú Thọ, với những kiến thức đã được học và kinh nghiệm qua công tác thực tế, tôi lựa chọn đề tài: "Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế phát triển. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay đã có nhiều tác giả và nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản cũng như những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn nói chung và vốn đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng, đề xuất các giải pháp chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, trong đó có một số công trình khoa học tiêu biểu như: - Nguyễn Văn Lai, "Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam", Luận án PTS Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996. - Trần Hồ Lan, "Những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp ngành nhựa Việt Nam", Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2003. - Nguyễn Đẩu, "Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp", Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Thế Đạt - Minh Anh, Đầu tư và hiệu quả, Nxb Lao động, 1993. - Nguyễn Ngọc Mai, "Phân tích và quản lý các dự án đầu tư", Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 1995. - Nguyễn Hồng Minh, "Phân tích hiệu quả đầu tư", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1993. - Trương Quốc Cường, Một số vấn đề về xác định hiệu quả kinh tế của đầu tư, Tạp chí Ngân hàng, số 22 tháng 11/1998. - GS.TS Trần Văn Chử, "Thất thoát trong đầu tư phát triển: nguyên nhân và giải pháp khắc phục", Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2005. - Phan Tất Thứ, "Hoàn thiện phương pháp đánh giá hiệu quả dự án đầu tư công cộng tại Việt Nam", Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, năm 2005. - Trịnh Đình Dũng, "Những giải pháp chủ yếu khắc phục thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản", Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000. - Lưu Sỹ Quý, "Một số nguyên nhân nợ vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước", Tạp chí Tài chính, số 4/năm 2006. - TS. Trần Đình Khải, "Một số vấn đề về đổi mới quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu ở nước ta hiện nay", Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 12/năm 2005. - TS. Lê Hùng Sơn, "Biện pháp góp phần chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng", Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, số 3/năm 2006. Nhìn chung các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến tình hình quản lý, phát huy việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tại tỉnh Phú Thọ, cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: Luận văn khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay. * Nhiệm vụ: - Khái quát cơ sở lý luận và quy định quản lý hiện hành về vốn đầu tư xây dựng cơ bản. - Phân tích, đánh giá thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ đến năm 2010. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề liên quan đến việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Phú Thọ. * Phạm vi nghiên cứu: Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ từ năm 1997 cho đến nay (từ khi chia tách tỉnh Vĩnh Phú cũ). Vốn đầu tư xây dựng cơ bản được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên trong nội dung luận văn này chủ yếu tập trung nghiên cứu hiệu quả của đầu tư từ nguồn vốn NSNN. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển kinh tế. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu gồm: Điều tra khảo sát, so sánh phân tích, tổng hợp; kế thừa các công trình khoa học đã có về lý thuyết về kinh tế và thực tiễn; lượng hoá một số chỉ tiêu đánh giá. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Hệ thống hoá các lý thuyết về đầu tư nói chung, đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng và vai trò của nó đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Trình bày và phân tích một số chỉ tiêu đánh giá cụ thể về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ trên cơ sở điều kiện đặc thù riêng của địa phương. 7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức và các cá nhân trong quá trình thu hút các nguồn vốn và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận về hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.1. Khái niệm và vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.1.1. Khái niệm về vốn đầu tư xây dựng cơ bản Đầu tư theo nghĩa rộng là quá trình bỏ vốn bao gồm cả tiền, tài sản, để đạt được mục tiêu nhất định nào đó, trong đó có mục tiêu kinh tế. Trong hoạt động kinh tế, đầu tư có thể biểu hiện cụ thể hơn và mang bản chất kinh tế, đó là hoạt động đầu tư nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là một tiêu chuẩn cơ bản và chủ yếu của hoạt động đầu tư. ở đây hoàn toàn không có khái niệm đầu tư không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Vốn đầu tư phát triển là những chi phí bỏ ra làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư và là mặt bằng dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái trong một thời gian nhất định. Trong các khoản mục vốn đầu tư phát triển thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn nhất. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những chi phí bằng tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây lại và khôi phục tài sản cố định trong nền kinh tế. Dựa trên quan điểm của quá trình tái sản xuất mở rộng, khái niệm đầu tư có thể hiểu là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng lực sản xuất và các yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh. Đầu tư là hoạt động mang tính thường xuyên, của tất cả các quốc gia và là nền tảng của sự phát triển. Hoạt động đầu tư phải nhằm tạo ra năng lực sản xuất cao hơn, có thể được thực hiện thông qua nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó đặc biệt phải lưu ý là nguồn vốn tích luỹ trong nước của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, nhiều quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển đang đứng trước những thiếu hụt về vốn cho đầu tư phát triển, do chưa có tích luỹ hoặc mức độ tích luỹ thấp. Nước ta đang ở thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, nhu cầu vốn rất lớn, nhất là vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nhưng vốn trong nước còn hạn hẹp nên phải huy động và đa dạng hóa các nguồn vốn, đặt biệt là bổ sung nguồn vốn từ bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về đầu tư xây dựng cơ bản. Theo Trường Đại học Kiến trúc: "Đầu tư cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định đưa vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm thu được lợi ích dưới hình thức khác nhau. Hoạt động đầu tư cơ bản thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng mới các tài sản cố định được gọi là đầu tư xây dựng cơ bản" [34, tr.10]. Đầu tư cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định đưa vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế xã hội nhằm thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau. Hoạt động đầu tư xây dựng thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng các tài sản cố định được gọi là đầu tư xây dựng cơ bản. Xây dựng cơ bản chỉ là một khâu trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, là các hoạt động cụ thể để tạo ra tài sản cố định như: Khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt... [9, tr.4]. Đầu tư xây dựng cơ bản là hình thức đầu tư chủ yếu và phổ biến nhất. Người có vốn đầu tư xây dựng cơ bản gắn liền với hoạt động kinh tế của quá trình đầu tư nhằm góp phần và nâng cao năng lực sản xuất hiện có, tạo ra năng lực sản xuất mới cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm sinh lợi. Đầu tư xây dựng cơ bản, đó là việc bỏ vốn vào việc xây dựng, mua sắm tài sản cố định trong lĩnh vực sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc) và trong lĩnh ực không sản xuất vật chất (nhà ở, bệnh viện, trường học...) và trong lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng (cầu đường, bến cảng, sân bay). Đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm cả việc xây dựng các xí nghiệp, công trình sẵn có (không kể các chi phí sửa chữa, kể cả sửa chữa lớn tài sản cố định). Đầu tư xây dựng cơ bản là yếu tố quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất mở rộng, phát triển khoa học - kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống, vật chất tinh thần và văn hoá của nhân dân. Đầu tư vào các hoạt động kinh tế luôn phải tuân thủ tính hiệu quả theo những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Chính vì vậy, các hoạt động đầu tư trong lĩnh vực này phải vạch ra được các mục tiêu cụ thể trong khoảng thời gian, không gian trên cơ sở phân tích, tính toán một cách khoa học, chặt chẽ nhằm đảm bảo hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả ngày càng cao. Bởi vì đầu tư xây dựng cơ bản là một quá trình lâu dài, đòi hỏi nhiều vốn, thời gian và phụ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan và chủ quan khác nhau, do vậy việc tuân thủ theo đúng qui trình, trình tự là yếu tố bắt buộc. Thông thường trình tự đầu tư bao gồm ba giai đoạn cơ bản: Chuẩn bị đầu tư; thực hiện đầu tư, kết thúc xây dựng, nghiệm thu công trình và đưa vào sử dụng, khai thác. Vì vậy, việc thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản đầy đủ và nghiêm túc các trình tự xây dựng cơ bản có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản của việc thực hiện đầu tư. 1.1.2. Vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với phát triển kinh tế - xã hội Đầu tư xây dựng cơ bản có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nước ta đang trong thời kỳ CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, công tác đầu tư xây dựng cơ bản có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đã đề ra, nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các tài nguyên khoáng sản, lao động, đất đai, vốn và các nguồn lực khác trong xã hội, đồng thời phải bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái để tăng cường cơ sở vật chất cho sự phát triển bền vững. Hoạt động đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp từng thời kỳ phát triển, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế chung, tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân và phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư xây dựng cơ bản là một trong những nhân tố cơ bản tạo nên lực lượng sản xuất ngày càng có trình độ cao hơn. Tất cả các ngành kinh tế chỉ có thể tăng trưởng nhanh, nếu có đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới kỹ thuật và công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhờ có đầu tư xây dựng cơ bản mà ngày càng có nhiều các công trình văn hoá, giáo dục, y tế, nhà ở để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chỉ tính trong 5 năm (từ 2001 - 2005), tổng số vốn đầu tư được huy động và đưa vào nền kinh tế, tính theo giá năm 2000, đạt khoảng 976 nghìn tỷ đồng, gấp 1,76 lần so với năm năm 1996-2000. Vốn đầu tư nhà nước chiếm 54,1% trong tổng cơ cấu vốn đầu tư, vốn đầu tư của khu vực tư nhân chiếm 26,6%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 16,6% và vốn khác là 2,7% [5, tr.35]. Nhờ có các nguồn vốn đó (đặc biệt là nguồn vốn trong nước), mà quy mô đầu tư cho các ngành, lĩnh vực, các vùng, đặc biệt các vùng khó khăn đều được tăng. Nhiều công trình kết cấu hạ tầng đã được hoàn thành và đang triển khai như: nâng cấp đường quốc lộ 1, quốc lộ 2, quốc lộ18, quốc lộ 10, cầu Phả Lại, cầu Mỹ Thuận, hoàn thành việc nâng cấp và đưa vào sử dụng nhà ga T1 sân bay quốc tế Nội Bài, xây dựng nhà ga hành khách quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, mở rộng và xây dựng mới các cảng biển Hải Phòng, Cái Lân, Dung Quất... đang xây dựng các cầu lớn Thanh Trì, Cần Thơ, cầu Rạch Miễu. Năng lực sản xuất các ngành kinh tế được tăng lên đáng kể, công suất điện tăng 4.863 MW, sản lượng khai thác than sạch tăng 15,4 triệu tấn, trong lĩnh vực thủy lợi năng lực tưới tăng thêm 975 nghìn ha, đường giao thông nông thôn tăng 650.004 km. Nhờ có đầu tư mà tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 1990-2005 tăng hơn 3 lần. Tốc độ tăng GDP bình quân 7,5%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 24% năm 2004 (theo tiêu chí của Liên hiệp quốc) [5, tr.32, 35, 37]. Những con số đó để thấy vai trò của đầu tư to lớn như thế nào đối với việc phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời gian qua. Vai trò của đầu tư thông qua chính sách đầu tư đúng đắn có ý nghĩa quan trọng, không ngừng góp phần mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả mà còn khuyến khích đầu tư phát triển từ các thành phần kinh tế, từ đó làm cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả cao hơn. Với một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, vai trò của đầu tư càng có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường nhờ đó làm cho đầu tư ngày càng có hiệu quả hơn. Đối với nước ta hiện nay, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý điều hành của Nhà nước về đầu tư phải phù hợp với quy luật khách quan của cơ chế thị trường. Nhà nước thể hiện vai trò quản lý của mình bằng việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư phù hợp với từng giai đoạn phát triển và mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra, để mục tiêu xây dựng đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Trong xu thế của hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì sản phẩm của đầu tư xây dựng cơ bản cũng có vai trò lớn về mặt kiến trúc, khoa học, văn hoá dân tộc, nghệ thuật, an ninh và quốc phòng. 1.2. Những nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.2.1. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng cơ bản Sản phẩm xây dựng cơ bản mang tính đặc biệt và tổng hợp. Theo Đại từ điển kinh tế thị trường: "Xây dựng cơ bản là chỉ việc tái sản xuất tài sản cố định, bao gồm mở rộng tái sản xuất đơn giản sắp xếp lại hoàn toàn" [10, tr.260]. Đó là những công trình xây dựng như nhà máy, các công trình công cộng, nhà ở, trụ sở, cầu, cống, cảng, sân bay... Các sản phẩm này được sản xuất không theo một dây chuyền nhất định và hàng loạt, mà từng công trình đều có những kiểu riêng, nét riêng. Ngay trong một công trình cụ thể, tính chất kết cấu, kiểu dáng của từng khu vực cũng khác nhau. Do vậy, các sản phẩm của đầu tư xây dựng cơ bản thường không có tính chất liên tục trong quá trình sản xuất. Sản phẩm của đầu tư xây dựng cơ bản phải trải qua một thời gian dài mới có thể đưa vào sản xuất hoặc sử dụng. Bên cạnh đó, địa điểm xây dựng các công trình đồng thời cũng là nơi tiêu thụ các nguyên nhiên liệu, các vật liệu, bán thành phẩm, vì vậy nó thường hay bị thay đổi phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên hoặc giá cả của các loại đầu vào đó. Đó chưa kể đến nguyên nhân chủ quan của các chủ đầu tư là hay thay đổi thiết kế. Ví dụ mưa bão, tắc đường không vận chuyển vật liệu vào công trình, công nhân chờ việc, dẫn đến chi phí tăng. Sản phẩm xây dựng cơ bản gắn chặt với đất đai nơi sản xuất và sử dụng. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thường lớn, thời gian sử dụng cũng như thời gian từ khởi công cho đến khi hoàn thành thường rất dài. Do vậy, khi tiến hành xây dựng một công trình, đặc biệt là các công trình liên quan nhiều đến kinh tế - xã hội, môi trường cần phải hết sức cẩn thận, có luận chứng khoa học, có tính đến dài hạn, từ khi lập dự án tiền khả thi, khả thi, chọn địa điểm xây dựng, thiết kế công trình, tổ chức thi công, lựa chọn đội ngũ cán bộ, công nhân, tránh tình trạng sửa chữa, bổ sung thiết kế, phá đi, làm lại, di chuyển dự án, gây thiệt hại, lãng phí làm chậm tiến độ sử dụng các công trình, đó là độ trễ trong đầu tư. Sản phẩm xây dựng cơ bản không chỉ thuần tuý mang tính kinh tế - kỹ thuật, mà còn có ý nghĩa nhân văn, kiến trúc, mang màu sắc văn hoá, dân tộc nơi công trình đó được xây dựng. Do vậy, khi thiết kế, hoàn thành các sản phẩm này phải phản ánh trình độ phát triển khoa học - kỹ thuật, trình độ kinh tế và trình độ văn hoá kỹ thuật phù hợp với từng giai đoạn phát triển của một đất nước. Xây dựng cơ bản là quá trình thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản mang tính không ổn định do thiết kế thay đổi, địa điểm xây dựng công trình luôn thay đổi (xây dựng ở nhiều vị trí khác nhau ngay tại cùng một công trình). Sản phẩm xây dựng thường đứng im trong quá trình sản xuất, còn con người, máy móc, thiết bị lại luôn di chuyển, nguyên vật liệu nhiều, khối lượng lớn, nhu cầu vận chuyển nhiều dẫn đến chi phí cao, đặc biệt một số sản phẩm siêu trường, siêu trọng nên càng làm tăng khó khăn và chi phí. Chu kỳ sản xuất và chi phí xây dựng cơ bản cao. Nhiều công trình xây dựng cơ bản lớn thường có nhiều đơn vị tham gia, do vậy việc phối hợp chặt chẽ để đảm bảo tiến độ, chất lượng, thời gian luôn là một vấn đề không đơn giản. Do vậy, các nhà thầu phải hiểu và nắm chắc tổng dự toán, dự toán các hạng mục công trình và thường xuyên trong quá trình thi công. Trong xây dựng cơ bản, vấn đề không tính hết và đầy đủ, trong đó phải kể đến các nhà máy sản xuất, là ảnh hưởng của công trình đó đến môi trường, sản xuất và cư trú của dân cư. Khi xây dựng nhà máy, đã không tính đến ảnh hưởng của môi trường như nhà máy hoá chất, nhà máy sản xuất mỳ chính... Hoặc không tính đến độ vĩnh cửu của các công trình xây dựng, hoặc mỹ thuật, nên khi hoàn thành thì nhiều công trình còn gây cảm giác khó chịu, gây mất mỹ quan, thuần phong mỹ tục của đất nước, dân tộc. 1.2.2. Các nhân tố cơ bản tác động đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.2.2.1. Chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế của đất nước, ngành và địa phương Việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, ngành, địa phương phải dựa trên những điều kiện, lợi thế, tiềm năng và khả năng của đất nước, địa phương và từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Trong giai đoạn hiện nay, chiến lược đó lại phải phù hợp với thực tiễn của đất nước, vừa phải phù hợp với xu thế phát triển của cả thế giới và khu vực. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Đổi mới căn bản công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội [13, tr.78]. Nếu xác định tốt chiến lược, thực hiện có quy hoạch chiến lược đó thì đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia. Do vậy, việc xây dựng đồng bộ dài hạn chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là một yêu cầu bức thiết, tất yếu khách quan của quá trình phát triển đất nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, trong xu thế biến đổi rất nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, sự lớn mạnh và tăng cường của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, nhiều quốc gia đã đưa ra những chiến lược phát triển dài hạn theo những định hướng lớn, trong chiến lược dài hạn đó, có những chiến lược "mềm", linh hoạt được thay đổi theo sự thay đổi của tình hình thế giới và hoàn cảnh của đất nước. ở Việt Nam, đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, kế hoạch 5 năm 2001-2005, 2005-2010 và có định hướng phát triển đất nước đến năm 2020, hàng năm có những thay đổi nếu thấy cần thiết để phù hợp với tình hình của đất nước và thế giới. Để quản lý, thực hiện chiến lược phát triển đất nước, thì cần phải có nhiều công cụ và chính sách, trong đó có công cụ quy hoạch. Quy hoạch là cụ thể hoá mục tiêu, giải pháp và nhiệm vụ để thực hiện chiến lược đó. Do vậy, nếu quy hoạch sai thì sẽ dẫn đến những sai lầm mà đất nước phải gánh chịu, đặc biệt phải hạn chế tối đa những quy hoạch sai mà nhiều năm không khắc phục được hoặc khắc phục lại quá tốn kém. Nếu quy hoạch tốt, thì sẽ bố trí hợp lý, bền vững về các công trình, hiệu quả phù hợp với điều kiện của đất nước, vùng, địa phương và ngành. Ngược lại, nếu qui hoạch không tốt, thiếu sự thực hiện đồng bộ giữa qui hoạch ngành, qui hoạch phát triển địa phương, qui hoạch tổng thể cộng thêm sự phát triển cục bộ, thực hiện chồng chéo sẽ dẫn đến sự lãng phí rất lớn, không đem lại được hiệu quả của vốn đầu tư. Thực tế những năm qua, việc quyết định đầu tư cơ sở hạ tầng của cả xã hội là rất cần thiết và đã đem lại hiệu quả. Tuy nhiên, cũng không ít những trường hợp do chỉ suy tính đến phát triển của địa phương mà chưa tính đến qui hoạch chung nên hiệu quả chưa đạt được như mục tiêu đã đề ra. Vấn đề này, nhiều chuyên gia nước ngoài sau khi nghiên cứu đã không khỏi có những ngạc nhiên khi thấy rằng ở Việt Nam có gần 80% người dân, với mức thu nhập dưới 500 USD/người/năm; tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 30,0 tỷ USD/năm nhưng lại có tới 110 cảng biển, 61 cảng hàng không và sân bay, đáng chú ý trong đó có nhiều cảng biển, sân bay được qui hoạch xây dựng quá gần nhau nên vô hình chung đã tự hạn chế sự phát triển của nhau và lãng phí nguồn lực của đất nước. Ví dụ, Cảng Hòn La (Quảng Bình) chỉ cách cảng Vũng áng 25km, cảng Chân Mây (Thừa Thiên Huế) cách cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) 30km, cảng Dung Quất cách cảng Kỳ Hà 10km, khoảng cách giữa sân bay Quảng Bình và sân bay Phú Bài (Thừa Thiên Huế) rất nhỏ, thời gian đi bằng đường bộ chỉ khoảng 2 đến 3 giờ [29, tr.39]. Qua đây cho thấy, việc thực hiện có cơ sở khoa học, thực tiễn để đầu tư có ưu tiên, có trọng điểm các công trình xây dựng cơ bản, lượng vốn đầu tư, bố trí cụ thể, thích hợp từng dự án, từng công trình, tránh việc đầu tư dàn trải mới nghĩ đến được thu được hiệu quả nguồn lực đầu tư. 1.2.2.2. Nhóm nhân tố về các yếu tố của nguồn lực Khi nói đến các yếu tố của nguồn lực, người ta thường hay nói đến quy mô, số lượng, đặc biệt là chất lượng của các yếu tố đầu vào. Nếu ta gọi các biến số đầu vào là Xi, hàm số đầu ra là Y, thì mối quan hệ giữa đầu ra (GDP) với đầu vào như sau: Y = f (Xi) Trong đó: Xi là các yếu tố đầu vào cụ thể như sau: K : Vốn L : Lao động R : Tài nguyên thiên nhiên T : Khoa học và công nghệ [27, tr.28]. Các yếu tố này có quan hệ tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển. Song, tuỳ theo từng quốc gia cụ thể thì quy mô, cơ cấu và tỷ trọng của các yếu tố đầu vào là khác nhau. Ví dụ, các quốc gia phát triển, vốn nhiều, giá vốn thấp thì họ sử dụng nhiều vốn; quốc gia nào nhiều tài nguyên thiên nhiên thì họ sẽ sử dụng lợi thế của mình là tài nguyên thiên nhiên, quốc gia nào có quy mô dân số lớn, lao động nhiều, thì có lợi thế là quy mô lao động và nhân công giá rẻ. Tuy nhiên, điều quan trọng cơ bản là sử dụng các biến số này như thế nào cho có hiệu quả mới là quyết định. Ngày nay, trong xu thế của sự lớn mạnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, thì nguồn lực con người đặc biệt là nguồn lao động có chất lượng luôn là yếu tố quyết định. Bởi vì, con người lao động quyết định từ khâu ý tưởng ban đầu đến khâu cuối cùng là phải có sản phẩm cho xã hội, do vậy, họ phải có năng lực, sức khoẻ, phẩm chất. Nói cách khác, người lao động đồng thời là nguồn lực và chính người lao động mới có khả năng và đủ điều kiện để sử dụng các nguồn lực khác. Tuy vậy, nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có nước ta cần rất nhiều vốn để thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì yếu tố vốn cũng đóng vai trò rất quan trọng. Trong tình hình hiện nay, cũng cần phải nhắc lại lần nữa, các nguồn lực là quan trọng, không thể thiếu, nhưng quan trọng hơn là phải sử dụng chúng như thế nào cho có hiệu quả và hợp lý mới có tính quyết định. 1.2.2.3. Tác động của cơ chế và chính sách đến hiệu quả đầu tư Chính sách và cơ chế đầu tư là nhân tố chủ quan, nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đầu tư. Nếu có cơ chế và chính sách đúng thì sẽ huy động và khai thác tốt các điều kiện khả năng, lợi thế so sánh của các quốc gia, các doanh nghiệp và dân cư. Chính sách đầu tư với những ưu đãi thì tạo điều kiện không chỉ các nhà đầu tư nước ngoài mà cả các nhà đầu tư trong nước đến đầu tư, bên cạnh thu hút được nhiều vốn, mà còn thu hút cả kinh nghiệm quản lý, công nghệ và tạo điều kiện để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chính sách đầu tư bao gồm một hệ thống đồng bộ các công cụ, cơ chế khuyến khích đầu tư như: chính sách thuế, lãi suất, tín dụng, lao động, tiền lương, đất đai, chính sách khuyến khích đầu tư theo vùng, ngành. Đối với những vùng, miền ưu tiên thì cần phải có những chính sách cụ thể, nhất quán, mang tính ổn định và lâu dài. Bằng việc nhận dạng nguyên nhân gây ra sự khác biệt giữa việc định giá kinh tế và giá tài chính, nhà phân tích có thể nói được liệu sự khác biệt đó là do thị trường hay chính sách gây ra. Nếu là do chính sách gây ra, thì phải xem xét chi phí và lợi ích của sự thay đổi chính sách làm cho những đánh giá kinh tế và tài chính xích lại gần nhau hơn. Do vậy, cần phải cân nhắc kỹ khi đầu tư xây dựng một dự án, như địa điểm, qui mô vào thời gian nào, đã đúng lúc chưa, hay liệu có tốt hơn không nếu thuyết phục các cơ quan chức năng thay đổi chính sách [15, tr.20]. 1.2.2.4. Quy chế, quy định và quy trình quản lý sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản Đây là một nhân tố hết sức cơ bản, nếu không nói là có tính quyết định đối với hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản. Do vậy, Nhà nước cần phải xây dựng và ban hành quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, trước hết là Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, đặc biệt là các quy chế, quy định quản lý đầu tư và sử dụng nguồn vốn của Nhà nước cho cả ba quá trình từ chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và kết thúc đầu tư đưa vào khai thác sử dụng (vì sự lãng phí, thất thoát, tham nhũng chủ yếu xảy ra từ khâu đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước). Rất nhiều ví dụ qua các vụ án cho thấy, thường thất thoát lãng phí, tham nhũng là đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước.Vụ xây dựng khu vui chơi giải trí Thủy Cung Thăng Long, vụ án Lã Thị Kim Oanh tại Công ty tiếp thị và thương mại tổng hợp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các vụ án tại Tổng Công ty dầu khí Việt Nam, vụ lừa đảo đầu tư xây dựng của Nguyễn Đức Chi của Công ty Liên doanh Rusalka - Nha Trang và gần đây nhất là vụ án liên quan đến công trình giao thông sử dụng vốn ODa tại PMU 18 (Bộ Giao thông vận tải), 77% công trình xây dựng miền núi bị móc ruột, thanh tra 103 công trình xây dựng cơ bản ở miền núi trên địa bàn tỉnh và 6 dự án cho thấy tổng số tiền bị chiếm đoạt, thất thoát, lãng phí lên tới 9,66 tỷ đồng. Tình trạng "rút ruột" các công trình phô biến đến mức trong số 86 công trình thuộc Chương trình 135 và Trung tâm cụm xã thì có 82 công trình sai phạm với số tiền gần 35 tỷ đồng; 17 công trình thủy lợi thì 2 không phát huy hiệu quả, 5 mới đưa vào sử dụng đã hư hỏng, 11 hạng mục thi công thiếu hụt khối lượng; 6 dự án giao thông thì 5 dự án "ăn" đứt 5,9 tỷ đồng. Tính ra 77% công trình xây dựng miền núi sai phạm là một tỷ lệ khá lớn [29, tr.32]. Những quy định quy chế này phải bao gồm: - Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật trong đầu tư, nhất là các định mức thiết kế, thi công, hiệu quả cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình thực tế. - Nâng cao công tác thẩm định các dự án, từ giai đoạn tiền khả th._.i vì đây là khâu quyết định của mức đầu tư xây dựng cơ bản. - Xây dựng cơ chế đấu thầu, chọn thầu, tuyển thầu, chỉ định thầu, khoán gọn, hạn chế thấp nhất những khâu tiêu cực trong đấu thầu. - Quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư xây dựng cơ bản. - Quản lý các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. - Ban hành các thủ tục hành chính trong đầu tư, nhưng phải tuân thủ quy định của pháp luật, không gây phiền hà, nhũng nhiễu. Thực hiện tốt khâu hậu kiểm của đầu tư. - Quản lý chặt trẽ việc phát sinh trong quá trình thực hiện đầu tư và thẩm định các quyết toán của các dự án đã hoàn thành. 1.1.3. Các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản Các nguồn vốn huy động cho đầu tư nói chung, xây dựng cơ bản nói riêng rất đa dạng. ở nước ta, những nguồn vốn có thể huy động được là: phong phú và quy mô, tỷ trọng cũng rất khác nhau. - Vốn ngân sách nhà nước: Nguồn vốn này dùng để đầu tư cho các dự án xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh... Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước không tính toán ngay được trực tiếp hiệu quả kinh tế, ít có khả năng thu hồi vốn chậm hoặc thu hồi vốn thấp, được quản lý theo phân cấp về chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển. Ngoài ra, vốn ngân sách nhà nước còn dùng đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật. Trong 5 năm qua (2001-2005), đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các ngành nông lâm ngư nghiệp chiếm 22,2%, giao thông vận tải, bưu điện 27%, giáo dục đào tạo 8,9%, y tế - xã hội 6,9%, văn hóa, thể thao 4,3%, khoa học công nghệ 3,1% [5, tr.35]. - Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: "Vốn khấu hao cơ bản, vốn tích luỹ từ lợi nhuận để lại sau thuế, vốn doanh nghiệp tự huy động": Nguồn vốn này dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất - kinh doanh nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm cho các doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt nước ta là nước theo định hướng XHCN, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, do vậy cũng cần có một số doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải sử dụng theo đúng các chế độ quản lý vốn đầu tư do Chính phủ quy định. Trong 5 năm 2001-2005, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước là 178,2 tỷ đồng chiếm 18,3% cơ cấu vốn đầu tư xã hội [3, tr.36]. - Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước: Vốn tín dụng này để đầu tư các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các doanh nghiệp sản xuất nhằm giải quyết việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước trong từng thời kỳ. Hiện nay, nguồn vốn này dành cho các dự án khuyến khích đầu tư sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế, trồng cây công nghiệp lâu năm, chăn nuôi gia súc lớn, thuỷ sản, sản xuất muối và phát triển công nghiệp chế biến, một số ngành công nghiệp chủ lực như: Điện, than, xi măng, xây dựng cảng biển, sân bay... - Vốn thuộc các khoản vay nước ngoài của Chính phủ và các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Đây là nguồn vốn hết sức quan trọng, vì nguồn vốn vay lớn, lãi suất không cao, có một số ưu đãi, do vậy thường đầu tư vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn, văn hóa, giáo dục, đô thị là những lĩnh vực khả năng thu hồi vốn chậm, ít có khả năng sinh lời... Nguồn vốn này được quản lý thống nhất của Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước và theo hướng dẫn quản lý vốn nước ngoài của Chính phủ và các bộ, Ngân hàng nhà nước. Mặc dù tình hình kinh tế của thế giới còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ chính sách đối ngoại tốt, mà các nhà tài trợ nước ngoài vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam. Từ năm 2001 đến 2005, tổng giá trị các hiệp định đã ký kết đạt khoảng 14,7 tỷ USD, trong đó vốn viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15-20%. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, tỷ lệ giải ngân mới đạt khoảng 7,8 tỷ USD, đạt 87% so với kế hoạch. Nhiều công trình đầu tư từ nguồn vốn ODA đã góp phần tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân và tăng cường công bằng xã hội [3, tr.32]. - Vốn tín dụng thương mại: Nguồn vốn này, các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước dùng để đầu tư xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, đổi mới kỹ thuật và công nghệ các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ có hiệu quả kinh tế, có khả năng thu hồi vốn và tất nhiên các doanh nghiệp này có đủ điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành. Nhà nước có thể hỗ trợ về mặt pháp lý nếu cần thiết thấy vốn tín dụng thương mại được áp dụng theo cơ chế tự vay, tự trả và thực hiện đầy đủ các thủ tục đầu tư và điều kiện vay trả vốn theo quy định của Việt Nam và thông lệ quốc tế. Các doanh nghiệp nhà nước được phép góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp của nước ngoài bằng quyền sử dụng đất, hoặc tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển, nhà xưởng thiết bị và các công trình khác thuộc vốn Nhà nước, nhưng phải được cấp có thẩm quyền cho phép có trách nhiệm hoàn trả vốn cho Nhà nước theo đúng quy định pháp luật. - Vốn của các tổ chức, cá nhân: Nguồn vốn này dùng để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định của từng cấp có thẩm quyền đối với từng loại công trình. Vốn đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn trên nguyên tắc tự nguyện. Các nguồn vốn huy động và sử dụng phải được công khai, có kiểm tra, kiểm soát và đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật. - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Là vốn của các tư nhân nước ngoài trực tiếp đầu tư vào hoạt động kinh doanh tại nước ta dưới các hình thức kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Đầu tư (có hiệu lực từ 1-7-2006). Đây là một nguồn vốn hết sức quan trọng trong việc mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường. Chúng ta đã có những bước tiến bộ trong việc cải thiện môi trường đầu tư, mặc dù trên thế giới còn gặp nhiều khó khăn nhưng luồng luân chuyển vốn bị hạn chế và phân tán bởi sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Do vậy, trong 5 năm từ 2001 đến 2005, ở nước ta tổng số vốn FDI đăng ký đạt 18,1 tỷ USD, vượt 21% mục tiêu đề ra (mục tiêu là 15 tỷ USD). Tổng số vốn thực hiện đạt 13,6 tỷ USD [5, tr.33]. Bảng 1.1: Huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển của nước ta thời kỳ 2001 -2005 [3, tr.183] STT Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 2004 Ước thực hiện 2005 Tổng số ngh.tỷ.đ 170,5 199,1 231,6 275 320 % GDP % 35,4 37,2 37,8 38,4 38,2 1 Vốn đầu tư thuộc NSNN ngh.tỷ.đ 45,6 49,6 55,5 69,1 74,0 So với tổng số % 26,5 24,9 24,0 25,1 23,1 2 Vốn tín dụng đầu tư ngh.tỷ.đ 28,7 31,9 29 30 30 So với tổng số % 16,8 16,0 12,5 10,9 9,4 3 Vốn đầu tư của tư DNNN ngh.tỷ.đ 27,7 31 31,6 39,7 50,0 So với tổng số % 16,2 16,5 13,6 14,4 15,6 4 Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư ngh.tỷ.đ 38,5 52,1 68,7 82 105,0 So với tổng số % 22,6 26,2 29,7 29,8 32,8 5 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngh.tỷ.đ 30 34,5 37,8 44,2 47,0 So với tổng số % 17,6 17,3 16,3 16,1 14,7 6 Vốn huy động khác ngh.tỷ.đ - - 9 10,0 14,0 So với tổng số % - - 3,9 3,6 4,4 1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.3.1. Một số khái niệm 1.3.1.1. Hiệu quả Có nhiều cách nhìn và tiếp cận khác nhau về hiệu quả kinh tế và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Theo Đại từ điển kinh tế thị trường thì hiệu quả và tỷ suất hiệu quả được hiểu như sau: "Hiệu quả là thù lao mà nhà đầu tư thu được sau một thời gian nhất định, như lợi thức, lãi cổ phần, lợi nhuận. Tỷ suất hiệu quả là tỷ lệ giữa mức hiệu quả và mức đầu tư, tức mỗi đồng hiệu quả thì thu được của đầu tư" [10]. "Hệ số hiệu quả đầu tư: là tên gọi của hệ số hiệu quả đầu tư. Là tỷ lệ giá trị của mức tăng thu nhập quốc dân trong một thời kỳ nhất định và đầu tư tài sản cố định toàn xã hội dẫn đến sự tăng trưởng năm" [10, tr.619-620]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì: Hiệu quả kinh tế của đầu tư cơ bản là chỉ tiêu hiệu quả quốc dân do vốn đầu tư cơ bản mang lại, biểu hiện ở lượng tăng thu nhập quốc dân (hay tăng sản lượng, hoặc lượng tăng giá trị tài sản cố định (hay tăng công suất thiết bị) so với lượng vốn đầu tư cơ bản đã được thực hiện là chỉ tiêu tổng quát phải phản ánh hiệu quả của nền kinh tế, xét trên quy mô của nền kinh tế quốc dân một ngành hay một xí nghiệp; nhìn chung nó là tỷ lệ giữa giá trị tăng thêm so với lượng đầu tư cơ bản [33, tr.290T1]. Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Đánh giá hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một nội dung rất quan trọng, nhưng rất phức tạp khó khăn, tuy vậy nó là rất cần thiết và kết quả tổng hợp của quá trình công tác đầu tư xây dựng cơ bản. Khi xem xét một lợi ích kinh tế - xã hội do dự án đem lại đều phải xác định vị trí của dự án trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Theo GS,TS Nguyễn Văn Chọn, hiệu quả của dự án đầu tư là toàn bộ mục tiêu đề ra của dự án, được đặc trưng bằng các chỉ tiêu định tính (thể hiện ở các loại hiệu quả đạt được) và bằng các chỉ tiêu định lượng (thể hiện giữa chi phí đã bỏ ra của dự án và các kết quả đạt được theo mục tiêu của dự án) [7, tr.25]. Với quan niệm đó là đúng đắn, tuy nhiên trong đầu tư xây dựng cơ bản, các chỉ tiêu hiệu quả thường mang tính tổng hợp, nhiều dự án có tính xã hội rất cao, nên cần phải đánh giá một cách tổng quát hơn. Do vậy, chúng tôi chỉ dừng ở cách phân loại thành hai nhóm chỉ tiêu: chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp và các chỉ tiêu cụ thể lượng hoá khác. 1.3.1.2. Hiệu quả tổng hợp Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp là hiệu quả chung nhất phản ánh kết quả thực hiện mọi mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí để có được những kết quả đó. Theo tác giả Dương Văn Long [19, tr.9-11], nếu chúng ta lấy ký hiệu K là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác nhau: tiền, công trình, quy mô, số lượng. C là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau. H là hiệu quả chung, thì sẽ có công thức đơn giản về hiệu quả tổng hợp chung nhất: H = K - C (1) Hiệu quả tuyệt đối H = K/C (2) Hiệu quả tương đối Như vậy, được hiểu một cách chung nhất là kết quả (H) mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu. Sau đó xem xét mức độ đóng góp cụ thể của từng công trình đầu tư xây dựng cơ bản vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước thông qua các chỉ tiêu định hướng như mức đóng góp cho ngân sách, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, công suất của các nhà máy, mức tiết kiệm ngoại tệ cho nền kinh tế, số lao động có việc làm khi công trình được thực hiện hoặc sau khi hoàn thành. Tóm lại, hiệu quả tổng hợp là sự so sánh giữa kết quả đầu tư mang lại và chi phí của đầu tư. Có nhiều cách để phân loại, đánh giá hiệu quả đầu tư. Có thể có hiệu quả trực tiếp hay hiệu quả gián tiếp. Hiệu quả trực tiếp là lợi ích mang lại (sinh và lợi nhuận cao) sau một thời gian bỏ vốn ra đầu tư và thu hồi lại. Hiệu quả gián tiếp là lợi ích mang lại chung cho nền kinh tế, một địa phương. Ví dụ hiệu quả sau khi xây dựng một con đường, một cây cầu, một công trình thủy lợi, một nhà máy khi đi vào sản xuất... 1.3.1.3. Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh trình độ sử dụng và năng lực quản lý các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh đạt kết quả cao với chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu biểu hiện kết quả sản xuất, nói rộng ra là của hoạt động kinh tế, kinh doanh, phản ánh tương quan giữ kết quả đạt được so với hao phí lao động, vật tư, tài chính, là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố của sản xuất - kinh doanh, nhằm đạt được kết quả kinh tế tối đa, với chi phí tối thiểu. Tuỳ theo mục đích đánh giá, có thể đánh giá hiệu quả kinh tế bằng những chỉ tiêu khác nhau như năng suất lao động, hiệu suất sử dụng vốn, hàm lượng vật tư của sản phẩm, lợi nhuận so với vốn, thời gian thu hồi vốn. Chỉ tiêu tổng hợp thường dùng nhất là doanh lợi thu được so với tổng số vốn bỏ ra [33, tr.290]. Tuy nhiên, cần lưu ý “Hiệu quả kinh tế thường được nghiên cứu ở góc độ vĩ mô và phải chú ý rằng không phải bao giờ hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh là vận động cùng chiều” [18, tr.13]. Hiệu quả kinh tế còn được gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay kết quả kinh tế xét trong phạm vi cụ thể. Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của những nhà đầu tư và các doanh nghiệp. Với cách tính hiệu quả tương đối (H = K/C) là cách đánh giá phản ánh hiệu quả của việc sử dụng một số vốn đã bỏ ra để thu được kết quả cao hơn, tức là xuất hiện giá trị gia tăng (điều kiện để đảm bảo cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển thì H phải lớn hơn 1. (H>1). H càng lớn thì chứng tỏ quá trình kinh doanh càng đạt hiệu quả. Các nhà sản xuất luôn quan tâm đến kết quả lợi nhuận thu được của dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Hiệu quả kinh tế ở tầm vĩ mô đó là lợi ích kinh tế - xã hội do dự án mang lại gắn liền với việc tăng trưởng GDP với tốc độ cao; hiệu quả phải gắn với tính bền vững, với tiến bộ và công nghệ bằng xã hội, với bảo đảm an ninh quốc phòng..v.v. Trong xây dựng cơ bản, đặc biệt trong điều kiện ở nước ta hiện nay, khi mà các nguồn vốn huy động còn khan hiếm, trong lúc phải thực hiện CNH, HĐH cần phải đầu tư ở các lĩnh vực kinh tế - xã hội, thì việc tính toán hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản là một vấn đề hết sức quan trọng. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước không thể không nói tới đầu tư xây dựng cơ bản. Đầu tư xây dựng cơ bản sẽ góp phần quyết định sự thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, tiến trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. 1.3.1.4. Hiệu quả kinh tế - xã hội Hiệu quả kinh tế - xã hội còn được gọi là hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả tổng hợp được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Để đánh giá tổng quát hiệu quả kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ người ta đã dùng một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế - xã hội tổng hợp trong đó tốc độ tăng GDP, GDP tính theo đầu người, tuổi thọ bình quân, trình độ văn hoá, y tế, thể thao, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao phúc lợi xã hội. Chủ thể được hưởng hiệu quả kinh tế - xã hội là toàn bộ xã hội mà lực lượng chủ yếu là nhân dân, vì vậy những hiệu quả (lợi ích) và chi phí được xem xét trong hiệu quả kinh tế - xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả kinh tế xét theo quan điểm toàn bộ của nền kinh tế và thường được giải quyết ở cấp vĩ mô. 1.3.1.5. Quan hệ giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội Trong đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả kinh tế trước hết là lợi nhuận luôn là mối quan tâm của doanh nghiệp hoặc của những nhà đầu tư. Hiệu quả kinh tế - xã hội là mối quan tâm của toàn xã hội mà đại diện là Nhà nước. Hiệu quả sản xuất kinh doanh (hiệu quả kinh tế) được xem xét theo quan điểm của doanh nghiệp, lợi nhuận là mục tiêu và động lực trước hết của doanh nghiệp, họ bỏ vốn ra và thu được lợi nhuận là bao nhiêu? còn hiệu quả kinh tế - xã hội được xem xét theo quan điểm của toàn xã hội. Hiệu quả sản xuất kinh doanh xét theo quan điểm bộ phận của một nhóm người, nhà đầu tư, hay của một doanh nghiệp, lợi nhuận là chủ yếu, còn hiệu quả kinh tế - xã hội xét theo quan điểm toàn thể, đồng bộ và có tính dài hạn. Quan hệ giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội là quan hệ giữa lợi ích bộ phận và lợi ích tổng thể, giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Đó là mối quan hệ vừa có tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn. Do vậy, để đảm bảo hài hòa lợi ích (hiệuquả) thì phải có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ, không phải vì lợi ích cục bộ trước mắt mà hại đến lợi ích lâu dài của đất nước, quốc gia, xã hội. Tuy nhiên, nếu không vì lợi ích kinh tế (lợi nhuận) thì sẽ triệt tiêu động lực phát triển. 1.3.2. Các nguyên tắc xác định và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xây dựng cơ bản 1.3.2.1. Các nguyên tắc xác định hiệu quả xây dựng cơ bản * Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả: Theo nguyên tắc này, tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục tiêu. Mục tiêu khác nhau, thì tiêu chuẩn hiệu quả khác nhau. Nếu xây dựng một nhà máy thì phải tính đến công suất sử dụng nguyên nhiên liệu, số lao động được việc làm, thu nhập, lợi nhuận là bao nhiêu? Còn nếu làm một con đường thì ai người được thụ hưởng, nó góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bình đẳng thế nào? thu phí bao nhiêu và khi nào thì hoàn vốn. Rõ ràng mục tiêu xây dựng của một nhà máy sẽ khác nhiều so với việc xây dựng một con đường, một trường học hoặc một công trình thủy lợi..v.v. Nếu thay đổi mục tiêu thì tiêu chuẩn hiệu quả cũng phải thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả phải được xem như là thước đo cơ bản để thực hiện các mục tiêu. Phân tích hiệu quả của một dự án đầu tư xây dựng cơ bản nào đó luôn luôn dựa trên phân tích mục tiêu. Phương án có hiệu quả cao nhất khi nó có đóng góp nhiều nhất và việc thực hiện các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất. * Nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích: Một phương án được xem là có hiệu quả khi nó kết hợp hài hoà các loại lợi ích. Những lợi ích đó bao gồm lợi ích của chủ doanh nghiệp (đầu tư) và lợi ích của xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường... Về lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của xã hội được xem xét trong phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. Theo nguyên tắc "lợi ích", hiệu quả sản xuất kinh doanh không thể thay thế cho hiệu quả kinh tế - xã hội và ngược lại trong việc quyết định cho ra đời một phương án kinh doanh của doanh nghiệp hoặc một nhà đầu tư. Về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài cũng không thể hy sinh lợi ích lâu dài để lấy lợi ích trước mắt. Nhưng cũng không thể vì lợi ích trước mắt mà hy sinh lợi ích lâu dài. Do vậy, phải kết hợp đúng đắn giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Trong quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích lâu dài là cơ bản nhất. Nên kết hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, cũng như lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Đừng vì lợi ích này mà bỏ lợi ích khác. Việc phân tích hiệu quả kinh tế các phương án cần đặt trong mối quan hệ với phân tích các lợi ích khác mà phương án mang lại. Bất kỳ một đầu tư nào mà hy sinh lợi ích đều giảm hiệu quả chung của phương án đó. Trong đại bộ phận các trường hợp, lợi ích xã hội đóng vai trò quyết định, lợi ích kinh tế là hết sức quan trọng, cần thiết. * Đảm bảo tính chính xác, tính khoa học và lượng hoá tối đa các chỉ tiêu: Để đánh giá hiệu quả các phương án đầu tư xây dựng cơ bản cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu có thể lượng hoá được và không lượng hoá được, tức là phải kết hợp phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Không thể thay thế phân tích định lượng bằng phân tích định tính. Tuy nhiên, định lượng chưa đủ bảo đảm tính chính xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm, nhưng không vì vậy mà bỏ qua, hoặc nhấn mạnh chung chung định tính. Nhưng nếu phân tích chính xác, có định lượng, thì từ những căn cứ tính toán đó, hiệu quả phải được xác định chính xác, tránh chủ quan tuỳ tiện, duy ý chí, chung chung. * Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế: Theo nguyên tắc này, những phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế phải được dựa trên cơ sở các số liệu thông tin thực tế, đơn giản và dễ hiểu. Tránh tình trạng sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy đủ các thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo độ chính xác làm giảm tính thuyết phục hoặc không hiệu quả trong đầu tư xây dựng cơ bản. * Một số chỉ tiêu đánh giá chủ yếu: Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế đầu tư xây dựng cơ bản của một dự án, tuy nhiên có thể biểu hiện ở một số chỉ tiêu cơ bản sau đây: - Phản ánh chi phí: Tổng số vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư (xây lắp, thiết bị, kiến thiết cơ bản khác). - Phản ánh kết quả: Kết quả xây dựng đo đếm được: m2 xây dựng, năng lực phục vụ, công suất máy móc thiết bị. - Kết quả sử dụng: Doanh thu năm, lợi nhuận năm, sản phẩm năm... - Số lao động thu nhận được sau khi công trình hoàn thành. Có thể tính theo công thức sau: Tổng số chỗ làm việc mới: Zc = Trong đó: Zc : Tổng số chỗ làm việc được tạo ra cho lao động lành nghề và không lành nghề. : Chỗ làm việc cho lao động lành nghề được tạo ra cho dự án. : Chỗ làm việc cho lao động lành nghề được tạo ra trong các dự án liên quan. : Chỗ làm việc cho lao động không lành nghề được tạo ra trong các dự án có liên quan. - Số chỗ làm việc được tạo ra trên một đơn vị vốn đầu tư (gồm cả lao động lành nghề và lao động không lành nghề). Trong đó: : Số chỗ làm việc trên một đơn vị vốn đầu tư. I : Tổng vốn đầu tư. - Số chỗ làm việc cho lao động không lành nghề (hoặc lành nghề) trên đơn vị vốn đầu tư. hoặc [15, tr.30-31]. - Phản ánh hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản: Hệ số sử dụng vốn đầu tư: HS = Giá trị tài sản cố định mới đưa vào sử dụng Tổng số vốn đầu tư Hệ số sử dụng công suất: Hcs = Công suất thực tế Công suất thiết kế (hoặc công suất xây dựng) Lợi nhuận vốn: Ln = Lợi nhuận trước thuế Doanh thu hàng năm - Chỉ tiêu thời hạn đầu tư - chỉ tiêu thời hạn đầu tư còn được coi là một trong những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản. Chỉ tiêu này được biểu hiện bằng công thức sau: x 100 Trong đó: E: Là hiệu quả đầu tư. Dt: Thời hạn đầu tư được rút ngắn so với thời gian dự kiến. T: Thời hạn thu hồi vốn đầu tư. Ví dụ: Một dự án đầu tư thực hiện trong 36 tháng, nhưng nhà đầu tư đã áp dụng nhiều biện pháp và rút ngắn được 06 tháng và nếu dự án có thời hạn thu hồi vốn là 10 năm (120 tháng) thì hiệu quả đầu tư do rút ngắn thời gian là: E = (6/120) x 100 = 5%). Nghĩa là thời gian rút ngắn được 5% so với dự kiến [27]. Thường khi tính toán về hiệu quả thời gian, người ta thường hay nói đến khái niệm “ độ trễ đầu tư” tức là công trình không hoàn thành đúng tiến độ, kéo dài, chậm thanh toán khối lượng hoàn thành. Tình trạng này đang diễn ra phổ biến đối với việc đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ở nước ta hiện nay, việc thực hiện vẫn phân tán, dàn trải, không cân đối đủ nguồn vốn cho dự án dẫn đến nợ đọng vốn xây dựng cơ bản, công trình chậm đưa vào sử dụng, giảm hiệu quả sử dụng khai thác. Theo số liệu thống kê năm 2005, hiện có khoảng 960 dự án nhóm B và C thực hiện quá thời hạn qui định, trong đó 230 dự án đã quá thời gian thực hiện 4 năm và 730 dự án nhóm C đã quá thời hạn thực hiện 2 năm. Đáng lưu ý có một số ngành, địa phương bố trí vốn dành cho nhóm C chỉ khoảng 1 tỷ đồng [20]. - Thời gian thu hồi vốn của dự án: Tt = Tổng vốn đầu tư Lợi nhuận trước thuế Điểm hoà vốn: là giá trị chỉ tiêu đặc trưng cho việc khai thác dự án, với giá trị đó thì chi phí bằng thu nhập. Cần nghiên cứu hai chỉ tiêu sau: - Chỉ tiêu doanh thu hoà vốn: Dhv = Chi phí cố định 1- Chi phí biến đổi Tổng doanh thu [26, tr.19] Chi phí biến đổi bao gồm tất cả các chi phí có liên quan. Chi phí biến đổi tỷ lệ thuận với mức sản xuất. Chi phí biến đổi tăng thì tổng sản lượng tăng. Chi phí cố định: không thay đổi (như lãi ngân hàng, theo lãi suất năm, quý...). Đây là những chỉ tiêu để tính toán lượng hoá và đánh giá hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tuy vậy cũng phải xem xét đến những tác động không lượng hoá hoặc lượng hoá khó, ít, khác của dự án như: - Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng: Sự gia tăng năng lực phục vụ của kết cấu hạ tầng sẵn có, bổ sung năng lực phục vụ mới của kết cấu hạ tầng mới. Như khi xây dựng xong một cây cầu thì dung lượng xe và lượng hàng hoá lưu thông sẽ tăng lên. - Tác động đến môi trường: Có tác động tích cực, tác động tiêu cực. Nếu có tác động tiêu cực phải có giải pháp khắc phục. Ví dụ, khi xây dựng một nhà máy thuỷ điện, một bến phà, một nhà máy hoá chất, một bệnh viện... Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất, trình độ nghề nghiệp của người lao động, trình độ quản lý của các nhà quản lý, nâng cao năng suất lao động và thu nhập của người lao động. Khi một nhà máy có công nghệ hiện đại được đưa vào sử dụng, lao động có trình độ tăng cao, lao động giản đơn giảm và những tác động về xã hội, chính trị và kinh tế khác: Tận dụng khai thác tài nguyên, chuyển giao công nghệ mới, tác động đến các ngành khác và các vùng kinh tế, mở rộng thị trường mới, kinh tế địa phương yếu kém được phát triển lên, xây dựng kinh tế vùng sâu, vùng xa... 1.3.2.2. Một số mô hình đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư * Mô hình Harrod - Domar: Mô hình tăng trưởng kinh tế đơn giản nhất và rất nổi tiếng được sử dụng khá phổ biến trên thế giới để phân tích sự phát triển kinh tế. Mô hình này được hai nhà kinh tế học: ông Roy Harrod người Anh và ông Evsey Domar ởngười Mỹ nêu ra từ những năm 1940 của thế kỷ XX - đã chỉ ra mối quan hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR) và tỷ lệ đầu tư như sau: Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP) s: Tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế (GDP, GNI) (Hai ông này ngầm đã giả định toàn bộ số tiền tiết kiệm chỉ dành cho đầu tư). k: Hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR) (Icremetal Capital Output Ratio). Hệ số ICOR chỉ ra rằng: Để làm ra 1 đồng sản lượng đầu ra thì cần bao nhiêu đồng đầu vào. Như vậy, theo quan niệm của mô hình Harrod - Domar ở phương trình trên thi: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR. Điều đó có nghĩa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài của nền kinh tế cần phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư và khống chế ở mức chấp nhận được đối với hệ số gia tăng vốn. Ví dụ, đối với nước ta, để giữ được tốc độ tăng trưởng trong năm năm tới (2006 - 2010) của nền kinh tế là 8% với hệ số ICOR là 4 thì tỷ lệ đầu tư phải đạt ở mức 32% trong GDP (hoặc GNI). Hệ số ICOR thường gắn chặt với hiệu quả đầu tư, nếu hiệu quả đầu tư thấp, hay nói cách khác là sử dụng các nguồn vốn đã được huy động không có hiệu quả, sẽ làm cho ICOR tăng theo chiều hướng tiêu cực và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao, không bền vững dẫn đến gánh nặng nợ nần không những cho ngày hôm nay mà cho cả thế hệ tương lai. Tuy nhiên, như trên đã nói trong công thức này, Hai ông đã giả định rằng nền kinh tế chỉ phụ thuộc vào một yếu tố cố định là đầu tư, trên thực tế tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, đặc biệt là chất lượng tăng trưởng còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Tuy vậy, công thức này cũng phần nào phản ánh được hiệu quả của vốn đầu tư bằng định lượng. Mô hình Harrod - Domar được ứng dụng trong việc lập kế hoạch phát triển không chỉ cho nền kinh tế mà có thể cho tất cả các ngành, các lĩnh vực (tính theo hệ số ICOR). Với hệ số ICOR ước lượng được và với mục tiêu tăng trưởng cho trước thì từ mô hình sẽ tính được tỷ lệ tiết kiệm cần thiết cho tăng trưởng. Tuy nhiên mô hình đơn giản này bỏ qua yếu tố lao động và tiến bộ công nghệ nên không phản ánh đầy đủ và chính xác của sự phát triển. Đòi hỏi phải xét đến các mô hình tăng trưởng kinh tế với hàm sản xuất nhiều biến hơn. * Hàm sản xuất Cobb - Douglas: Hàm sản xuất Cobb - Douglas được dùng khá phổ biến để đo lường nguồn gốc sự đóng góp (hiệu quả) của vốn, lao động và tiến bộ công nghệ vào tăng trưởng. Vào cuối những năm 1920, nhà toán học Charlé Cobb và nhà kinh tế học Paul Douglas đã biểu diễn hàm này dưới dạng: Với: Y là kết quả sản xuất, K và L là vốn và lao động; A là tham số về hiệu quả sản xuất (còn gọi là năng suất nhân tố tổng hợp TFP - Total Factor productivity); các tham số a và b đo lường tỷ lệ đóng góp của vốn K và lao động L vào kết quả sản xuất Y và thoả mãn điều kiện 0<a<1, 0<b<1 Thông thường người ta biến đổi hàm Cobb - Douglas [theo thời gian (t)] về dạng đơn giản hơn để dễ tính toán. Do vậy phương trình trên sẽ có dạng: g = a + ak + bl Với: g: tốc độ tăng GDP (GNI); a: nhịp tăng năng suất nhân tố tổng hợp (còn gọi là DTFP/TFP); k : tốc độ tăng của vốn K; l: tốc độ tăng của lao động L. Với phương trình trên thì: Tham số a là độ co giãn của sản lượng theo vốn (tỷ lệ đóng góp của vốn vào kết quả sản xuất). Tham số b là độ co giãn của sản lượng theo lao động (tỷ lệ đóng góp của lao động vào kết quả sản xuất Y). Phương trình trên phản ánh đầy đủ sự đóng góp của ba nhân tố vốn, lao động và tiến bộ công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Sự đóng góp của vốn K và lao động L xảy ra theo 3 trường hợp sau: - Nếu a + b = l là trường hợp sản xuất có lợi suất không đổi khi mở rộng quy mô; tức khi gia tăng đầu vào một tỷ lệ thì sản lượng sẽ tăng lên theo tỷ lệ đó. - Nếu a + b > 1 là trường hợp lợi suất tăng khi mở rộng quy mô sản xuất; khi gia tăng một tỷ lệ đầu vào thì sản lượng tăng lên theo tỷ lệ cao hơn, nghĩa là nền kinh tế có hiệu quả hơn. - Nếu a + b < l là trường hợp lợi suất giảm khi mở rộng quy mô sản xuất; khi gia tăng một tỷ lệ đầu vào thì sản lượng cũng có thể tăng lên nhưng với tỷ lệ nhỏ hơn, tức là nền kinh tế kém hiệu quả hơn. Sự đóng góp của tiến bộ công nghệ A (năng suất các nhân tố tổng hợp TFP): theo hướng gia tăng năng suất của TFP (DTFP/ TFP) chính là làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn và dẫn đến sự gia tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Sự gia tăng năng suất của tổng nhân tố DTFP/TFP có thể giải thích bằng nhiều nguyên nhân. Trước tiên, do đổi mới công nghệ, do các kiến thức mới giúp thay đổi phương pháp sản xuất. Ngoài ra, các nguyên nhân khác như giáo dục, đào tạo, quản lý nhà nước,... cũng ảnh hưởng lên DTFP/TFP. Kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố dẫn đến thay đổi chất lượng công nhân, chất lượng vốn và khả năng quản lý các hoạt động sản xuất và dẫn đến gia tăng TFP (DTFP/TFP). Tương tự như hệ số ICOR, người ta cũng sử dụng hàm sản xuất Cobb - Douglas để tính DTFP/TFP cho từng ngành nhằm đánh giá sự tiến bộ và mức đóng góp của ngành đó vào sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Qua phương trình trên ch._.ết hợp trong việc sử dụng nguồn vốn này. 3.2.3. Tăng cường biện pháp chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản Thực tế nhiều năm qua cho thấy, thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản thường diễn ra do cơ chế quản lý đầu tư thiếu đồng bộ, không chặt chẽ, khép kín trong nội bộ một ngành, một Bộ, một địa phương. Trong đầu tư, xây dựng cơ bản, tham nhũng xảy ra ở tất cả các khâu, từ nghiên cứu đến lập dự án, lập quyết toán, thiết kế công trình, giải quyết vốn đến đấu thầu, giải phóng mặt bằng, xây dựng nghiệm thu, thanh quyết toán. Chỉ tính riêng năm 1999, thanh tra 6.708 công trình xây dựng tại 61 tỉnh, thành phố, đã phát hiện 2.087 công trình quyết toán khống khối lượng, sai đơn giá để chiếm đoạt 35 tỷ đồng [40, tr.64]. Như Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX) đã nhận định: Chất lượng của các chiến lược và quy hoạch được xây dựng còn thấp, lại chậm được bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Còn thiếu sự phối hợp đồng bộ, hài hoà giữa chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, với quy hoạch phát triển vùng và địa phương. Quy hoạch, kế hoạch còn nặng về chỉ định các dự án, công trình cho khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa có tác dụng tích cực trong việc định hướng và thu hút các thành phần kinh tế khác đầu tư. Quản lý quy hoạch còn lỏng lẻo, yếu kém dẫn đến cơ cấu còn trùng lắp, dập khuôn tại các vùng. Còn để kéo dài tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, chưa tính toán đến hiệu quả nhất là trong đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Lãng phí và thất thoát lớn trong đầu tư từ nguồn vốn ngân sách và trong tài chính doanh nghiệp nhà nước vẫn là vấn đề nhức nhối trong rất nhiều năm, chưa có biện pháp kiên quyết khắc phục. Nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách rất lớn. Tổng số nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước khoảng 11.000 tỷ đồng, chiếm 18% tổng vốn đầu tư từ ngân sách và 37% vốn xây dựng cơ bản tập trung [12, tr.33-34]. ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành không cao trong việc chấp hành các chỉ thị, nghị quyết, các cơ chế chính sách về đầu tư xây dựng cơ bản, phẩm chất đạo đức, năng lực của một số cán bộ làm công tác quản lý thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản chưa cao; chất lượng công tác quy hoạch, công tác tư vấn đầu tư và xây dựng, công tác giám sát, đánh giá, thanh tra kiểm tra, thanh tra, năng lực các nhà thầu xây dựng chưa được cải thiện... Đặc biệt, phải nâng cao hiệu quả đầu tư bằng vốn ngân sách. Cần phải xác định đầy đủ gắn trách nhiệm cụ thể rõ ràng đối với cá nhân người có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, vai trò của chủ đầu tư. Thực hiện kiên quyết, đầy đủ và chỉ đạo sát sao nghiêm ngặt quy chế đầu tư và xây dựng cơ bản, coi trọng nhất là việc thực hiện quy chế đấu thầu, quy chế giám sát đấu thầu. Chấm dứt hẳn tình trạng đơn vị thi công và tổ chức giám sát thi công đều thuộc một cơ quan quản lý. Trong giai đoạn tới, các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước phải được công bố rộng rãi để nhân dân biết và tham gia giám sát thực hiện. Tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử làm tốt chức năng giám sát việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở trong việc đầu tư. Phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng. Do vậy, để chống thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản, tỉnh Phú Thọ trước hết đã dựa trên những cơ chế chính sách của Nnhà nước, Bộ xây dựng, đã ban hành 19 quyết định, 6 chỉ thị, 10 thông tư tập trung vào những vấn đề bức xúc, cấp thiết như chống lãng phí thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Bộ Tài chính cũng đã xây dựng những quy chế, chế tài về tăng cường quản lý tài sản công, nhất là quản lý việc cấp phát, thanh toán vốn đầu tư, đấu thầu mua sắm tài sản công. Tuy vậy, tỉnh cũng cần phải rà soát, soạn thảo và bổ sung một số cơ chế, chính sách phù hợp với hoàn cảnh của địa phương. Quy định trách nhiệm và xử lý trách nhiệm cá nhân trong từng khâu của quá trình đầu tư. Những sai phạm trong quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản cần phải được đánh giá công bằng, khách quan qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Đặc biệt là thất thoát do sai lầm trong quyết định đầu tư. Về công tác quy hoạch, trước hết Chính phủ cần sớm ban hành các văn bản pháp lý về công tác quy hoạch. Trước hết là Nghị định về công tác quy hoạch. Đổi mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch rà soát quy hoạch, chấn chỉnh công tác lập phê duyệt quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp, các địa phương. Quy hoạch ngành chưa được hướng dẫn thống nhất về nội dung, phương pháp, trình tự và phê duyệt. Đồng thời còn thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan, trong quá trình lập các quy hoạch nên thường xuyên xảy ra tình trạng chồng chéo, không ăn khớp giữa quy hoạch ngành và quy hoạch tỉnh; công tác qui hoạch hiện nay theo đánh giá còn rất nhiều hạn chế (đặc biệt trong khâu dự báo) và là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Phân định nội dung cũng như phạm vi kết hợp giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng còn nhiều điều chưa rõ, khó vận dụng trong quá trình triển khai. Hoặc nhận thức về quy hoạch trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế chưa được làm rõ. Tính liên kết giữa quy hoạch và kế hoạch chưa cao. Kinh phí cho công tác điều tra cơ bản để nghiên cứu và triển khai quy hoạch còn ít, thiếu [7]. Công tác quy hoạch hiện vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Chất lượng các dự án quy hoạch còn hạn chế. Đối với không ít dự án quy hoạch, tuy hướng dài hạn cho phát triển đã được xác định nhưng các căn cứ chưa đủ và chưa vững chắc, nhất là các vấn đề về dự báo (đặc biệt là dự báo của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp). Nhiều ý kiến cho rằng, yếu kém nhất của công tác quy hoạch hiện nay là sự yếu kém của công tác quản lý nhà nước về quy hoạch mà biểu hiện rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng, thiếu một khung pháp lý đầu tư cho việc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liên quan đến công tác quy hoạch trong phạm vi cả nước, thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch trong các kế hoạch trung và dài hạn [1, tr.67]. Do vậy bên cạnh nâng cao tính dân chủ bàn bạc thống nhất trong công tác lập quy hoạch quyết định đầu tư xây dựng cơ bản cần phải đề cao tính trách nhiệm cá nhân của người quyết định đầu tư. Cơ chế trách nhiệm các nhân cần phải đánh giá khách quan, có thưởng xứng đáng và phạt nghiêm minh bằng các biện pháp khác nhau, từ thấp đến cao. Nâng cao hiệu quả và hiệu lực của quản lý nhà nước. Nghị quyết Đại hội X tiếp tục chỉ rõ "Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy định về quản lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công, ngân sách nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viện trợ... Bảo đảm công khai minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính" [13, tr.22]. Trước đó tại Hội nghị Trung ương 6 lần 2, khoá VIII đã chỉ rõ: “Trong đầu tư xây dựng cơ bản phải chống lãng phí và triệt để tiết kiệm ngay từ khi phê duyệt chủ trương đầu tư, hạn chế các tiêu cực trong các khâu thẩm định dự án, đấu thầu, bố trí kế hoạch vốn và thi công các công trình xây dựng cơ bản”. Tăng cường các biện pháp hành chính – kinh tế đồng bộ từ khâu lập chủ trương kinh tế kỹ thuật, thiết kế, đến tổ chức thi công công trình để thực hiện tiết kiệm nghiêm ngặt trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, làm rõ trách nhiệm của các cấp có thẩm quyền chịu trách nhiệm đối với từng công trình và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với cứ tổ chức, cá nhân nào có vi phạm. Để khắc phục những hạn chế trong công tác tư vấn xây dựng và thi công xây lắp cần phải nâng cao công tác tư vấn xây dựng, chất lượng đấu thầu nâng cao chất lượng thi công xây lắp công trình, thời hạn bảo hành... Bởi vì Bảo hành xây lắp công trình là sự yêu cầu bắt buộc theo pháp luật đối với nhà thầu xây lắp trong một thời gian tối thiểu nhất định (gọi là thời hạn bảo hành). Về chất lượng của sản phẩm đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Nhà thầu xây lắp có nghĩa vụ thực hiện sửa chữa các hư hỏng do mình gây ra trong thời hạn bảo hành [6, tr.3]. Bởi vì chất lượng là nội dung, kết quả của công trình xây dựng cơ bản. "Chất lượng công trình xây dựng là những yêu cầu tổng hợp đối với đặc tính về an toàn, bền vững, kỹ thuật, mỹ thuật của công trình phù hợp với quy chuẩn. Xây dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với hợp đồng kinh tế và pháp luật hiện hành của Nhà nước" [6, tr.1]. Tóm lại, để chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản thì trước hết cần phải quán triệt và thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quản lý qui hoạch và đầu tư xây dựng cơ bản. Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả của bộ máy quản lý về đầu tư xây dựng cơ bản, năng lực trách nhiệm của chủ đầu tư, ban quản lý dự án. Nâng cao chất lượng tất cả các khâu trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản: từ chất lượng quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, chất lượng tư vấn, chất lượng đấu thầu, quản lý chất lượng thi công, chất lượng công tác giám sát đầu tư, công tác thanh toán và kiểm tra đầu tư xây dựng cơ bản. Tỉnh cần tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách và chỉ đạo cụ thể của Đảng, Chính phủ một cách công khai, nghiêm minh và triệt để đối với công tác quản lý đầu tư xây dựng (trong đó cụ thể gồm: Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/2/2005 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 về quản lý chất lượng công trình xây dựng, Nghị định số 08/2005/NĐ-CP về quản lý qui hoạch xây dựng, Chỉ thị số 29/2003/CT-TTg về chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản). Chấn chỉnh và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án, bố trí vốn và giải ngân đúng tiến độ, tránh đầu tư dàn trải trong xây dựng cơ bản, dẫn đến thường xuyên bổ sung, gây thất thoát, lãng phí. Sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trong quá trình quản lý đầu tư xây dựng. 3.2.4. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản "Quản lý chất lượng công trình xây dựng là tập hợp những hoạt động của cơ quan có chức năng quản lý thông qua các biện pháp tổ chức và tiến độ tổ chức thực hiện quản lý chất lượng công trình" [6, tr.1]. Do vậy, chất lượng công trình là nội dung cốt lõi của hiệu quả công trình nói riêng và hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản nói chung. Để quản lý chất lượng công trình, không ai khác đó chính là bộ máy tổ chức và từng con người cụ thể của bộ máy đó. Có thể nói, cán bộ quản lý là nhân tố quyết định rất lớn trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản, nếu cán bộ quản lý các cấp: Không tính hết yếu tố đầu vào, đầu ra, không chuẩn xác về thời điểm, địa điểm, sản phẩm, công nghệ, thị trường, không dự tính, dự báo được kế hoạch và đặc biệt là không ý thức được trách nhiệm và làm một người cán bộ công tâm thì khi quyết định sai lầm sẽ dẫn đến hậu quả thiệt hại rất lớn mà không thể dễ dàng khắc phục, theo các chuyên gia kinh tế thì thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản ở tại khâu quyết định chủ trương đầu tư chiếm 70% [31, tr.12]. Do vậy, từ khi tách tỉnh 1997 đến nay, ở tỉnh Phú Thọ đã hình thành bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư và xây dựng cơ bản. Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh đã quan tâm chỉ đạo, củng cố, tăng cường bộ máy quản lý từ cấp tỉnh đến cấp huyện, thành phố, thị xã. Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI đã nhận định "tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc sắp xếp, thành lập mới, kiện toàn bộ máy tổ chức và cán bộ chủ chốt các cơ quan trong tỉnh"... ban hành nghị quyết và chỉ đạo thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở cả về văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là người dân tộc thiểu số; có chính sách thu hút cán bộ có trình độ cao về tỉnh làm việc [14, tr.41, 43]. Trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nói chung và thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng, tỉnh Phú Thọ cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý xây dựng cơ bản "vừa hồng vừa chuyên", do đó trong thời gian tới cần phải: Tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, mỗi cán bộ đảng viên phải nâng cao ý thức rèn luyện, phấn đấu thực sự là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng, thật sự tiên phong đi đầu trong mọi công việc... [14]. Đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu quả công tác của UBND các cấp, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, xác định rõ quyền và nghĩa vụ cho từng cơ quan, đơn vị và cá nhân trong việc thực hiện sự chỉ đạo điều hành. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, tận tuỵ và thạo việc. Thực hiện khen thưởng, kỷ luật công khai, minh bạch kịp thời nghiêm túc. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện tốt những nội dung sau: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về xây dựng cơ bản. Đây là những cán bộ có bản lĩnh, phẩm chất cách mạng, có chuyên môn cao, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng quy hoạch cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối với các đồng chí là đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo trong công tác quản lý và đầu tư xây dựng cơ bản cần phải thật sự tiên phong gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị, phải biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của quần chúng, khắc phục những biểu hiện cá nhân độc đoán, chuyên quyền. Tiến hành xây dựng kế hoạch cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cho từng chức danh theo quy hoạch. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ đặc biệt là cán bộ có trình dộ đại học về công tác quản lý lý nhà nước về xây dựng, các cán bộ chuyên môn về quy hoạch, lập dự án, thẩm định, kiểm tra, giám sát các công trình xây dựng cơ bản. Như Garry Becker - nhà khoa học được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992 đã khẳng định: "không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi như đầu tư và nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục [30]. Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta cũng đã từng nói "vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người". "Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Do vậy, chăm lo đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn xây dựng cơ bản là một việc làm rất cần thiết và cấp bách trước xu thế hội nhập quốc tế và khu vực, Phú Thọ càng phải nỗ lực hơn trong việc đào tạo và sử dụng tốt cán bộ làm công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Cần nhận diện và chủ động trong việc tìm kiếm sử dụng người giỏi, có chính sách hợp lý trong việc sử dụng nguồn nhân lực tốt, áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế và khu vực rõ ràng đối với việc sử dụng nguồn nhân lực, rõ ràng chính sách phát triển và thưởng phạt đối với việc sử dụng cán bộ. Khi phân cấp quản lý đầu tư xây dựng cơ bản cần phải xem xét đến năng lực thực tế, khả năng phát triển nhằm tăng tính chủ động cho các ngành, các huyện, thành phố Việt Trì và thị xã Phú Thọ, hạn chế tối đa tính áp đặt, thiếu khách quan, khoa học và tính địa phương cho các cấp đó. + Sở Kế hoạch - Đầu tư chủ trì xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho toàn tỉnh theo từng giai đoạn 2006-2010 và có dự báo đến năm 2010, trong đó có chiến lược đầu tư xây dựng cơ bản những hạng mục ưu tiên, trọng điểm và trình Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua và Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Sở có nhiệm vụ là chủ đạo hướng dẫn các chủ đầu tư lập dự án đầu tư. Thẩm định các dự án đầu tư trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt hoặc trình thoả thuận với các bộ, ngành theo phân cấp. Sở thẩm định kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, kết quả đấu thầu theo phân cấp của Uỷ ban nhân dân. + Sở Xây dựng cấp chứng chỉ hành nghề thiết kế, chứng chỉ quy hoạch, cấp giấy phép xây dựng. Dưới góc độ phân cấp, Sở ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của Nhà nước về đầu tư và xây dựng. Chịu trách nhiệm về quản lý định mức đơn giá XDCB, quản lý thiết kế, tổng dự toán công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, cây xanh, cấp thoát nước, chiếu sáng đô thị. Sở có quyền phê duyệt một số quy hoạch chi tiết của Uỷ ban nhân dân tỉnh phân cấp, chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, các Sở, Uỷ ban nhân dân huyện, thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, các ban, ngành để hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng của Luật Xây dựng và các Nghị định của Chính phủ về đầu tư, đấu thầu, quản lý xây dựng. + Sở Tài chính - Vật giá: cùng với Sở Kế hoạch đầu tư cân đối phân bổ vốn đầu tư trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Thẩm định giá vật tư, thiết bị, hồ sơ mời thầu, kết quả đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị. Thẩm tra quyết toán vốn xây dựng cơ bản trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt hướng dẫn, tổ chức thực hiện các chính sách quản lý đầu tư xây dựng cơ bản có liên quan đến chuyên ngành. + Các sở, ban, ngành khác chịu trách nhiệm về quản lý nhà nước xây dựng thiết kế, tổng dự toán và chất lượng công trình theo chuyên ngành mà mình quản lý. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với các vùng nông nghiệp, thủy lợi, Sở Giao thông vận tải: các công trình giao thông vận tải; Sở Giáo dục - Đào tạo: các cơ sở trường học; Sở Công nghiệp đối với công trình dẫn tải điện và trạm biến thế. + Uỷ ban nhân dân thành phố Việt Trì và thị xã Phú Thọ, các huyện có trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn được Uỷ ban nhân dân tỉnh uỷ quyền quyết định đầu tư, phê duyệt theo thiết kế, tổng dự toán, phê duyệt quyết toán và cấp giấy phép xây dựng theo phân cấp. Song song với việc rà soát lại một cách cơ bản đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng cơ bản, trên cơ sở đó, định hướng sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ cho thích hợp, có chế độ khuyến khích tìm kiếm, tuyển chọn các cán bộ làm công tác đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh, bồi dưỡng, giúp đỡ để họ hoàn thành tốt công việc. Đồng thời, có chính sách thu hút những chuyên gia giỏi, cán bộ từ Trung ương và các tỉnh bạn về công tác tại quê hương. Lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản thường hay gắn với một số hiện tượng không tốt như thất thoát, lãng phí, tham nhũng. Do vậy, cần phải nâng cao công tác giáo dục tư tưởng, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, nâng cao tính gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện cần kiệm liêm chiníh, chí công vô tư trong xây dựng cơ bản. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời, công khai người tham nhũng trong đầu tư, bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu; tịch thu, sung công quĩ các tài sản có nguồn gốc tham nhũng từ khâu duyệt dự án, đấu thầu, thi công các công trình xây dựng cơ bản. Đồng thời xử lý nghiêm những người bao che đối với các hiện tượng tiêu cực trong xây dựng cơ bản. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Nâng cao tính sáng tạo, chủ động, tự quyết của cán bộ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Khơi dậy truyền thống của quê hương là đất Tổ, mẹ Âu Cơ, Vua Hùng để những người con của Phú Thọ gắn bó với quê hương, hết lòng phục vụ tỉnh để phát triển kinh tế bằng năng lực, khả năng và lòng yêu quê hương của mình. 3.2.5. Đảm bảo hợp lý hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản cần phải tính đến hiệu quả. Đây là tiêu chí hết sức cơ bản, đặc biệt đối với nước ta nói chung và của tỉnh Phú Thọ nói riêng. Như đã phân tích ở trên. Đối với nhà nước, đầu tư xây dựng cơ bản phải vừa mang tính hiệu quả kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh cụ thể thì phải tính đến hiệu quả kinh tế, mà cụ thể là lợi nhuận họ thu được bao nhiêu. Vì vậy, đạt được hiệu quả thì các chủ thể đều có các phương tiện, công cụ và mục đích khác nhau. Tuy vậy, các hiệu quả kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường văn hoá đều có quan hệ mật thiết với nhau. Tuy rằng từng hiệu quả có nét riêng, đặc thù của mình. Nếu chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà không quan tâm đến môi trường, đến các yếu tố xã hội thì sẽ không phát triển bền vững, ngược lại nếu chỉ chăm lo đến hiệu quả xã hội mà không tính đến hiệu quả kinh tế, đặc biệt là lợi nhuận của doanh nghiệp, thu nhập của người lao động thì sẽ không tạo ra động lực. Do vậy, xét ở góc độ nào đó, đầu tư xây dựng cơ bản vẫn mang tính hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp, đặc biệt trong đầu tư xây dựng cơ bản các công trình kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội vùng khó khăn, văn hoá - xã hội... Nên trong từng dự án, chương trình phải tính toán cụ thể, hợp lý, đúng đắn, thậm chí chi tiết hiệu quả kinh tế bao nhiêu, xã hội là bao nhiêu trong tổng thể hiệu quả kinh tế - xã hội. Tất nhiên tính toán chi ly, chi tiết là rất khó, nhưng không thể không làm được. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên chúng tôi đề xuất giải pháp này để khi quy hoạch, lập dự án cụ thể phải tính toán đến hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường của ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân. Thực tế nhiều dự án, nhiều công trình từ vốn xây dựng cơ bản không tính toán đầy đủ hết lợi ích, hiệu quả mà dẫn đến chi phí lớn, hiệu quả lại không cao. Đối với những dự án chương trình phát triển thì phần tính toán các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội như: - Vốn xây dựng cơ bản đối với tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu? - Hệ số ICOR với tốc độ tăng trưởng kinh tế. - Tỷ lệ đầu tư so trong GDP; vốn xây dựng cơ bản so với tổng vốn đầu tư. - Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước so với tổng vốn đầu tư, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các vùng, các địa phương... Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp trong đầu tư xây dựng cơ bản, đặc biệt là các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Với một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản sau: tỷ suất lợi nhuận trên vốn, tỷ suất hàng hóa xuất khẩu, khả năng cạnh tranh... Phân biệt rõ các chỉ tiêu kinh tế và chỉ tiêu pháp lệnh các nhiệm vụ công ích (đối với doanh nghiệp nhà nước). Kết luận chương 3 Trên cơ sở những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, mục tiêu về phát triển kinh tế – xã hội mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ phải phấn đấu đạt được, nội dung của chương III đã đề xuất 5 giải pháp chủ yếu nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Để các biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản được thực thi, cần có sự hỗ trợ và giúp đỡ của Nhà nước bằng pháp luật, chủ trương, chính sách, đặc biệt là đối với Phú Thọ, một tỉnh nghèo, ngoài sự vươn lên, nỗ lực, tự lực, thì còn cần có sự giúp đỡ của Trung ương và các tỉnh bạn. kết luận Hiệu quả kinh tế - xã hội và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nói chung và vốn xây dựng cơ bản nói riêng luôn là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. ở nước ta việc nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản luôn là vấn đề cấp thiết và quan trọng, vì vốn luôn luôn khan hiếm và nếu sử dụng không có hiệu quả thì không thể có tăng trưởng và phát triển kinh tế được, lại càng không đảm bảo được định hướng XHCN. Đối với một địa phương như tỉnh Phú Thọ, lại càng có ý nghĩa cấp bách và cần thiết hơn lúc nào hết. Với mong muốn đó, luận văn với nội dung “nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Phú Thọ” đã cố gắng tập trung trình bày vàoc một số nội dung cơ bản sau: - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về vốn, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, trình bày ba mô hình và các phương pháp, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của vốn đầu tư xây dựng cơ bản. - Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Phú Thọ, gồm: Hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh tế, đánh giá hiệu quả qua một số chỉ tiêu định tính, định lượng, có minh chứng tình hình và các số hiệu qua các thời kỳ, dựa trên những lợi thế, điều kiện và khả năng thu hút đầu tư qua tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. - Quán triệt và vận dụng các quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội, đặc biệt là nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X; luật pháp; các nghị quyết của Chính phủ; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVI về việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản. - Luận văn đã đề xuất 5 giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ đến năm 2010. Các giải pháp đó là: + Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. + Đẩy nhanh việc huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản. + Tăng cường biện pháp chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản. + Nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác quản lý và thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản. + Đảm bảo hợp lý hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Những kết quả trên đây, hy vọng sẽ góp phần nhỏ trong việc hệ thống và làm rõ thêm một số vấn đề nhỏ về lý luận về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản và một số cách tiếp cận trong đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả. Tuy nhiên, kết quả này mới là bước đầu cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn. danh mục tài liệu tham khảo Nguyễn Bá Ân và Lê Thị Kim Dung (2005), "Những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả qui hoạch phát triển kinh tế xã hội hiện nay", Tạp chí kinh tế và dự báo, (12). Báo Lao động, thứ 4 (7-6-2006). Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo thực hiện kế hoạch công tác quy hoạch năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo thực hiện nghị quyết của Quốc hội về công tác đầu tư xây dựng năm 2005 và 5 năm (2001-2005), định hướng giai đoạn 2006-2010 và kế hoạch xây dựng cơ bản 2006. Bộ Kế hoạch đầu tư (2005), Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010. Bộ Xây dựng (2000), Quy định quản lý chất lượng công trình xây dựng số17/2000/QĐ-BXD ngày 2/8/2000. Nguyễn Văn Chọn (1995), Kinh tế đầu tư xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội. Trần Văn Chử (2005), Kinh tế học phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Trịnh Đình Dũng (2000), Những giải pháp chủ yếu khắc phục thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đại từ điển kinh tế thị trường (1998), Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ IX (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ X. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVI. Nguyễn Đẩu (1999), Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Võ Văn Đức (2005), Mô hình tăng trưởng kinh tế của R. Sô low và khả năng áp dụng vào đánh giá tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trần Đình Khiển (2005), "Một số vấn đề về đổi mới quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu ở nước ta hiện nay", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (12). Trần Hồ Lan (2003), Những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp ngành nhựa Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Dương Văn Long (2005), Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty 189, Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Bách khoa, Hà Nội. Trần Văn Hùng (2006), "Nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước", Tạp chí Tài chính, (4). E.W Naapziger (1998), Kinh tế học của các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội. Ngân hàng thế giới (2002), Phân tích các hoạt động đầu tư. Phân tích và ứng dụng thực tế, Nxb Thông tin, Hà Nội. Niên giám thống kê (2004), Nxb Thống kê, Hà Nội. Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ (2006). Nguyễn Văn Quý (1998), Mô hình kinh tế (Economic Models), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Đặng Ngọc Quỳnh (2001), Một số vấn đề về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay ở tỉnh Hưng Yên, Luận văn cử nhân chính trị. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Vũ Bá Thể, Vốn trong quá trình tăng trưởng kinh tế cao ở Nhật Bản. Đỗ Hoàng Toàn (chủ biên), (1998), Giáo trình các phương pháp lượng trong quản lý dự án nhà nước, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. Nguyễn Văn Thường (chủ biên) 2005, Tăng trưởng kinh tế Việt Nam, những rào cản cần phải vượt qua, Nxb Lý luận Chính trị. Trần Văn Tùng (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia. Lê Hùng Sơn (2006), "Biện pháp góp phần chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng", Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (3). Nguyễn Bá Thân (2006), "Tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (5). Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội. Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội (1995), Kinh tế xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2005), Báo cáo công tác đấu thầu, công tác giám sát đánh giá tổng thể đầu tư năm 2005 của tỉnh Phú Thọ. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2005), Báo cáo hiện trạng, mục tiêu và giải pháp phát triển trên kinh tế - xã hội các vùng khó khăn đến năm 2010 của tỉnh Phú Thọ. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2005), Báo cáo công tác giám sát đánh giá đầu tư và tình hình thực hiện các dự án đầu tư 6 tháng đầu năm 2005. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 của tỉnh Phú Thọ. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2006), Qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ thời kì 2005-2010. Viện Thông tin khoa học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Thông tin tư liệu chuyên đề Tham nhũng và chống tham nhũng một số nước trên thế giới, số 1-2006 (lưu hành nội bộ). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2669.doc
Tài liệu liên quan