Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty XNK và Xây dựng Nông lâm nghiệp

lời mở đầu Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận cao, do đó câu hỏi đặt ra là phải làm gì để thực hiện được mục tiêu đó? Một câu trả lời chung nhất đó là các doanh nghiệp phải không ngừng tự hoàn thiện mình bằng cách phát huy những mặt mạnh và khắc phục những điểm yếu. Để phát hiện ra được những mặt mạnh, yếu của mình, các doanh nghiệp phải tìm hiểu, phân tích hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp và những yếu tố của môi tr

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty XNK và Xây dựng Nông lâm nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường bên ngoài có tác động đến doanh nghiệp. Đối với Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp ngoài những mặt mạnh, Công ty đang ở trong tình trạng sử dụng vốn lưu động hiệu quả chưa cao, trong khi hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Vì vậy, cần thiết phải có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng này. Qua thời gian hơn 4 tháng thực tập tại Công ty, tôi chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài: - Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty. - Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng vốn lưu động, tìm ra các yếu kém và nguyên nhân của việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả chưa cao. - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục những yếu kém, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty trong thời gian tới. Kết cấu của luận văn: Chương 1: Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp Chương 2: Thực trạng quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp trong thời gian qua Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp trong thời gian tới Chương 1 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp 1.1.Những nét khái quát về Công ty 1.1.1. Quá trình hình thành Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp (tên giao dịch quốc tế: Agriculture and foresty import - export Corntuction company), có trụ sở: 1004 - Đường Láng - Đống Đa - Hà Nội, là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Tiền thân Công ty là Xí nghiệp giống, thiết kế trồng rừng được thành lập tháng 12 năm 1983. Kể từ ngày thành lập, Công ty đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều tên gọi khác nhau: Xí nghiệp giống, thiết kế trồng rừng (năm 1983), Công ty Dịch vụ lâm nghiệp (năm 1985), Công ty Xuất nhập khẩu Lâm nông nghiệp (năm 1989). Những năm này Công ty chỉ mới hoạt động trong nước và gia công hàng xuất khẩu, uỷ thác xuất khẩu qua Tổng Công ty, quy mô còn nhỏ. Năm 1992 đổi tên thành Công ty chế biến kinh doanh nông lâm sản xuất khẩu và được trọng tài kinh tế cấp giấy phép kinh doanh số 1058564/ 11/1992. Ngày 13/9/1997 Công ty sáp nhập thêm 2 đơn vị thành viên trong ngành là Công ty dịch vụ lâm nghiệp và Ban quản lý trồng rừng Hà Nội theo Quyết định số 3663/QĐ - UB của UBND thành phố Hà Nội. Sau khi sáp nhập đổi tên thành Công ty kinh doanh Nông sản xuất khẩu Hà Nội. Và đến năm 2002 Công ty được đổi tên thành Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp theo quyết định số 4006/QĐ - UB ngày 15/8/2002 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Là một doanh nghiệp chế biến và xuất nhập khẩu hàng nông lâm sản, Công ty được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cấp giấy phép chế biến gỗ và lâm sản (quyết định số 2358/CĐCNP ngày 22/11/1994) và được Bộ Thương mại cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp (số 2051019 ngày 7/1/1993). Như vậy Công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua 20 năm phát triển và trưởng thành Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp Hà Nội đã từng bước xây dựng cho mình những tiền đề vững chắc về cơ sở vật chất – kỹ thuật, nhân sự, uy tín và vị thế trước các đối tác kinh doanh trong và ngoài nước. 1.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý: Cơ cấu tổ chức của Công ty được tổ chức theo trực tuyến chức năng. Đó là mô hình quản lý mang tính chất kết hợp dựa trên nguyên tắc quản lý trực tiếp, các phòng ban tham mưu cho ban giám đốc theo từng chức năng nhiệm vụ của mình, giúp ban giám đốc điều hành và ra những quyết định đúng đắn, kịp thời, có lợi cho Công ty. Bộ máy Công ty có 6 phòng chức năng: Phòng tổ chức hành chính Phòng Tài chính - Kế toán Phòng kinh doanh Phòng Xuất nhập khẩu Phòng Kỹ thuật lâm sản Phòng Vật tư tổng hợp Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty Ban Giám đốc Phòng tổ chức hành chính Phòng kinh doanh Phòng XNK Phòng tài chính kế toán Phòng kỹ thuật lâm sinh Phòng Vật tư tổng hợp Xí nghiệp chế biến lâm sản Xí nghiệp chế biến nông sản Xí nghiệp dịch vụ lâm nghiệp Xí nghiệp đồ mộc bao bì Xí nghiệp giống cây trồng Phủ Lỗ Xí nghiệp giống cây trồng nông lâm Xí nghiệp xâydựng và phát triển nông thôn 1.1.3. Nhiệm vụ hiện nay: - Xây dựng các kế hoạch xuất, nhập khẩu các loại vật tư hàng hoá phục vụ yêu cầu phát triển sản xuất hàng năm và dài hạn căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông lâm nghiệp và sự hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. - Tổ chức thực hiện kế hoạch xuất khẩu sau khi Bộ Nông nghịêp và phát triển nông thôn phê duyệt. - Nghiên cứu tình hình thị trường, đề xuất chủ trương chính sách phát triển sản xuất, thường xuyên nắm bắt nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng và giá cả trên thế giới để không ngừng đẩy mạnh xuất nhập khẩu, tăng kim ngạch xuất nhập nhẩu. - Quản lí có hiệu quả vật tư, tài sản tiền vốn, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật của Công ty. Nhiệm vụ này cho thấy việc quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng đã được đề cập bởi nó là một trong những tác nhân quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. - Quản lí sử dụng lực lượng cán bộ công nhân viên theo đúng chế độ chính sách của Nhà nước, luôn chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất của cán bộ công nhân viên. - Giữ vững uy tín trong kinh doanh, tuân thủ các qui định về chế độ quản lí kinh tế của Nhà nước. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ của Công ty. - Xây dựng các công trình nông, lâm, thuỷ sản; các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, du lịch và dịch vụ. - Kinh doanh nhà. 1.1.4. Truyền thống, uy tín của Công ty: Truyền thống của Công ty là giữ vững sự đoàn kết nhất trí từ trong nội bộ Đảng đến toàn thể cán bộ công nhân viên. Nội dung chủ trương của lãnh đạo Công ty đều phải hài hoà giữa 3 lợi ích: lợi ích nhà nước, lợi ích của tập thể và lợi ích của người lao động, trong đó lấy chăm lo quyền lợi chính đáng của người lao động là động lực chủ yếu. Lãnh đạo Công ty nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu thị trường. Từ công tác dự báo, khảo sát đến tổ chức thực hiện các hoạt động kinh tế đều được thực hiện trong những điều kiện thuận lợi nhất (đều được sự quan tâm và chuẩn bị kĩ càng). Một điều đáng tôn trọng và tự hào của Công ty là đến thời điểm này, Công ty đã có được một đội ngũ cán bộ chủ chốt giỏi, dày dạn kinh nghiệm trong cơ chế thị trường, đã đoạn tuyệt với cơ chế bao cấp “xin, cho”. Chính đội ngũ này đã làm nên thành tích vẻ vang của Công ty và quyết định vận mệnh ổn định bền vững và phát triển của Công ty trong tương lai. Sản xuất và kinh doanh trong cơ chế thị trường cạnh tranh quyết liệt nhưng Công ty từ người lãnh đạo tới người lao động đều nhất quán hoạt động sản xuất kinh doanh của mình là phải tuân thủ đúng pháp luật, khắc phục khó khăn vì sự phát triển của Công ty và không ngừng nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên. Đây là sự phấn đấu và cố gắng lớn của Công ty, do đó Công ty đã có được uy tín khá lớn không chỉ đối với khách hàng trong nước, nước ngoài mà cả với các cơ quan quản lý của nhà nước. 1.1.5. Một số kết quả kinh doanh : Bảng 1: Kết quả kinh doanh Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm2001 Năm 2002 1. Doanh thu Đồng 100.313.427.500 105.234.688.000 114.167.000.000 141.263.131.000 2. Lơi nhuận sau thuế Đồng 381.965.715 441.210.425 500.784.000 565.218.312 3. Số công nhân Người 270 250 262 280 4. Thu nhập bình quân Đồng 750.000 850.000 950.000 950.000 5. Nộp ngân sách nhà nước Đồng 2.000.000.000 2.476.000.000 2.866.000.000 3.100.000.000 (Nguồn: Báo cáo tổng kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh thời gian qua) Thông qua các số liệu trên ta có nhận xét sau: doanh thu và lợi nhuận của công ty không ngừng tăng, điều này chứng tỏ công ty đang ở trên đà phát triển, năm 1999 doanh thu của công ty chỉ là 100 tỷ thì đến năm 2000 đã đạt được con số là 141 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế từ xấp xỉ 382 triệu đồng năm 1999, năm 2002 đạt 565 triệu đồng, năm 2002 nộp ngân sách nhà nước đạt 3,1 tỷ đồng, đây là một con số khá lớn và đáng ghi nhận. Thu nhập bình quân của người lao động trong Công ty không ngừng được tăng lên, năm 2002 đạt 950.000 đồng/1người/1tháng, là tương đối cao so với các doanh nghiệp nhà nước khác. Tuy nhiên Công ty cũng nhận thức được rằng mức sống chung của người dân đã tăng lên rất nhiều, nhu cầu cuộc sống ngày càng cao, do đó Công ty cần thiết phải tăng cường hơn nữa qui mô cũng như hiệu quả của hoạt động sản xuất – kinh doanh, để tiếp tục nâng cao thu nhập cho người lao động và tạo thêm nhiều việc làm, góp phần giải quyết một vấn đề bức xúc của xã hội là thiếu việc làm, đồng thời có thể đóng góp nhiều hơn cho ngân sách quốc gia. Bảng 2: Kết quả xuất nhập khẩu của Công ty Đơn vị: 1000 USD Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Kim ngạch xuất khẩu 2.025,1 3.699,0 4.554,6 5.760,7 2. Kim ngạch nhập khẩu 981,0 1.624,7 1.952,3 2.136,3 3. Cán cân xuất nhập khẩu 1.044,1 2.074,3 2.602,3 3.624,4 Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Đơn vị: 1000USD Qua các số liệu trên ta có thể thấy được những dấu hiệu đáng mừng trong hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng trong thời qua, năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 2.025,1 nghìn USD và năm 2002 là 5.760,7 nghìn USD. Cán cân xuất nhập khẩu của Công ty có giá trị dương, tức là Công ty xuất siêu, năm 1999 Công ty xuất siêu được 2.074,3 nghìn USD và năm 2002 được 3.624,4 nghìn USD, điều này chứng tỏ, Công ty đang ngày càng khẳng định được vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Mặc dù trong những năm qua tình hình thế giới có nhiều biến động Công ty vẫn thực hiện khá tốt hoạt động xuất nhập khẩu của mình, đóng góp không nhỏ làm tăng lượng ngoại tệ trong nước, điều này có thể được coi là thành công lớn nhất của Công ty trong thời gian qua, hy vọng Công ty sẽ có những bước phát triển mới vượt bậc trong tương lai. 1.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Công ty 1.2.1. Mặt hàng kinh doanh - Hàng lâm sản: Chế biến các loại (kể cả hàng thủ công mỹ nghệ) cho người tiêu dùng và làm nguyên liệu cho các đơn vị sản xuất khác với chất liệu chủ yếu là gỗ PơMu để tiêu dùng trong nội địa và xuất khẩu. Sản xuất các loại cây giống phục vụ mục đích phủ xanh đất trống, đồi núi trọc và cải tạo cảnh quan môi trường. - Hàng nông sản: Chế biến các loại sản phẩm như: trám, lạc, vừng, tỏi ...để kinh doanh trong nội địa và xuất khẩu. Chế biến và xuất khẩu gạo - Quy hoạch thiết kế trồng cây bóng mát, cây ăn quả, cây cảnh, vườn hoa, lập dự án xây dựng các vườn thực vật, các lâm viên ... - Xây dựng các công trình nông, lâm, thuỷ sản, thi công các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, nhà hàng, khách sạn, du lịch, dịch vụ và kinh doanh nhà (kinh doanh nhà là lĩnh vực mới được bổ sung theo qui định số 1934/QĐ- UB ngày 26/3/2002 của UBND thành phố Hà Nội). Do đặc điểm về mặt hàng sản xuất - kinh doanh của Công ty như trên nên hoạt động của Công ty có những thuận lợi là nguồn nguyên liệu sẵn có tương đối lớn, lại được nhà nước tạo điều kiện phát triển sản xuất nông lâm nghiệp. Song bên cạnh đó công ty cũng gặp phải những khó khăn cũng chính từ lĩnh vực kinh doanh của mình như các chính sách về đóng cửa rừng, cấm khai thác và xuất khẩu các loại gỗ quí hiếm, các mặt hàng nông sản thì chịu ảnh hưởng nhiều của thời tiết, mùa màng. Cũng do đặc điểm về mặt hàng nên Công ty có nhiều Xí nghiệp, chi nhánh ở các tỉnh như: tỉnh Hải Dương, Sơn La, Lạng Sơn ... để nhằm tận dụng các nguồn lực về nguyên vật liệu tại chỗ với chi phí thấp, tiết kiệm được chi phí nguyên vật liệu, ngoài ra đặc điểm này sẽ làm cho Công ty có thể sử dụng được đội ngũ nhân công với giá thấp. Có thể kết luận, đặc điểm về mặt hàng sản xuất - kinh doanh của Công ty hạn chế được lượng dự trữ nguyên vật liệu, mua được nguyên vật liệu với giá gốc, giảm được chi phí vận chuyển và bảo quản nguyên vật liệu dẫn đến nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn lưu động, tuy nhiên cũng không thể không đề cập đến tác động tiêu cực do mặt hàng sản xuất - kinh doanh của Công ty còn chịu ảnh nhiều của thời tiết, khó bảo quản đặc biệt là đối với hàng nông sản, điều này lại làm tăng chi phí nguyên vật liệu, mặt khác việc phân bố không tập trung dẫn đến tình trạng khó quản lý về vật tư, hàng hoá dẫn đến những thất thoát cũng như lãng phí trong sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. 1.2.2. Chiến lược và kế hoạch kinh doanh Để làm cho Công ty ngày càng lớn mạnh và có vị thế trên thị trường, Công ty không ngừng chú trọng đến việc hoạch định các chiến lược và kế hoạch phát triển của Công ty trong mọi mặt cả trong dài hạn và ngắn hạn. Những điểm chính trong chiến lược cũng như kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty là: Sản xuất - kinh doanh tổng hợp đa ngành, đa nghề nhằm phát huy khả năng nội lực trong sản xuất - kinh doanh. Tập trung phát triển một số lĩnh vực, ngành nghề truyền thống của công ty làm mặt hàng chủ đạo. Đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, sản xuất phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm. Đào tạo đội ngũ cán bộ và công nhân lành nghề để làm việc có hiệu quả, có năng suất cao hơn. Chủ động xây dựng kế hoạch huy động, sử dụng vốn kinh doanh trong đó có vốn lưu động. Các căn cứ, thông tin sử dụng cho việc xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh: Việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch này được phân công cho phòng kế hoạch kĩ thuật thực hiện. Phòng này căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh của các năm trước để xác định tốc độ phát triển, xác định những khó khăn thuận lợi có thể gặp trong thời gian tới để từ đó đề ra những chiến lược, kế hoạch cụ thể phù hợp với yêu cầu đặt ra cho sự phát triển của Công ty. Căn cứ quan trọng nữa là chỉ tiêu của kế hoạch dài hạn, mục tiêu của chiến lược và nhu cầu của thị trường. Khả năng liên doanh liên kết và hướng đầu tư đổi mới kĩ thuật công nghệ của Công ty cũng được lấy làm căn cứ cho việc xây dựng các kế hoạch kinh doanh này. Việc xây dựng chiến lược, kế hoạch được thảo luận công khai dân chủ tại đại hội liên tịch gồm ban giám đốc, ban chấp hành đảng uỷ, ban thường vụ liên đoàn và toàn thể cán bộ chủ chốt trong Công ty. Ban giám đốc phải tiến hành làm việc với từng đơn vị thành viên để thông đạt các chiến lược và kế hoạch một cách kịp thời và chính xác. Việc xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh đúng đắn có ảnh hưởng quyết định đến phương hướng hoạt động của Công ty, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động vì qua đây các kế hoạch về huy động và sử dụng vốn lưu động được đưa ra. 1.1.3 Qui trình sản xuất kinh doanh * Công nghệ sản xuất: Với đặc điểm sản phẩm của công ty chủ yếu là chế biến từ gỗ PơMu với quá trình sản xuất được tóm tắt như sau: Sơ đồ 2: Tóm tắt quá trình sản xuất Nguyên liệu Cửa vòng đứng tạo phôi sản Cửa đĩa cắt ngang Mộc thủ công Kho thành phẩm Bào cuốn Công ty sản xuất, chế biến nhiều loại sản phẩm, với nhiều quy trình công nghệ sản xuất đặc thù. Dưới đây là quy trình công nghệ sản xuất một loại sản phẩm chủ yếu của Công ty đó là sản phẩm cánh cửa được chế biến từ gỗ Pơ Mu. Sơ đồ 3: Quy trình công nghệ sản xuất cánh cửa chế biến từ gỗ pơmu Kho vật tư Tổ sơ chế Tổ mộc Tổ hoàn thiện Kho thành phẩm Khi nhận được kế hoạch sản xuất của phòng kinh doanh, phòng vật tư lập phiếu, kho vật tư giao gỗ PơMu cho tổ sơ chế, tổ sơ chế sẻ gỗ và tạo các chi tiết sản phẩm. Tổ mộc ghép các chi tiết tạo thành hình cánh cửa, rồi chuyển xuống tổ hoàn thiện, tổ hoàn thiện đánh ráp, sơn dầu, hoàn thiện sản phẩm giao cho kho thành phẩm. Như vậy ta thấy, trong một quy trình công nghệ sản xuất việc phân công nhiệm vụ cho từng tổ là khá rõ ràng, dẫn đến có thể tổ chức được quá trình sản xuất chuyên môn hoá cao, đảm bảo chất lượng và thời gian hoàn thành sản phẩm, đồng thời sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm được nguyên vật liệu, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. * Qui trình kinh doanh xuất nhập khẩu Là một Công ty được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, qui trình kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty diễn ra như sau: Sơ đồ 4: Qui trình kinh doanh xuất nhập khẩu Xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến Sản xuất, chế biến Nhập khẩu nguyên vật liệu Với qui trình kinh doanh xuất nhập khẩu như vậy và lại được phép xuất nhập khẩu trực tiếp nên quá trình này diễn ra khá nhanh, do dó tổng doanh thu trong một năm của Công ty là khá lớn và vốn lưu động được luân chuyển nhiều lần. Tuy nhiên do còn có những hạn chế nhất định về thị trường, về khả năng cạnh tranh của nên hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty chưa phát huy hết tiềm năng. 1.3. Thị trường và đối thủ cạnh tranh Hiện tại Công ty đang tiến hành hoạt động kinh doanh của mình ở cả thị trường trong nước và nước ngoài. Đối với thị trường trong nước: Công ty có mặt trên khắp mọi miền, với nhiều chi nhánh và xí nghiệp như: chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, chi nhánh ở Hải Dương, Sơn La, Lạng Sơn, chi nhánh Phủ Lỗ ... hoạt động tương đối có hiệu quả. Công ty đã thiết lập được nhiều mối quan hệ với các bạn trong cả nước, từ thành phố đến các tỉnh đồng bằng, miền núi, điều này tạo thuận lợi cho công ty trong việc mua nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm cũng như có thể tiến hành các chính sách tín dụng thương mại vì đã có sự hiểu biết nhất định về các bạn hàng. Hiện nay Công ty đang chịu sự canh tranh gay gắt từ phía các đơn vị xuất nhập khẩu trong nước như Công ty Xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội, các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty lâm sản Việt Nam, thậm chí cả các cơ sở sản xuất tư nhân ở vùng Đông Kỵ - Bắc Ninh ... song Công ty vẫn duy trì và phát triển được thị phần của mình. Với mạng lưới tiêu thụ rộng khắp, với nhiều chính sách về tiêu thụ hợp lý và hấp dẫn, điều này sẽ đem lại cho công ty những thuận lợi to lớn trong công tác tiêu thụ của mình. Đối với thị trường nước ngoài: Từ năm 1993, được Bộ Thương mại cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, lúc này hoạt động xuất nhập khẩu khẩu của Công ty mới được thực hiện theo đúng nghĩa của nó và đã thu được những kết quả đáng kể, năm 2002 kim ngạch xuất khẩu của Công ty đạt 5.760,7 USD và kim ngạch nhập khẩu là 2.136,3 USD, Công ty đã xuất siêu được 3.624,4 USD. Sau thời kì bị ảnh hưởng của khủng hoảng toàn diện của hầu hết các nước trên thế giới, công ty đã đứng vững, phát triển và định hướng đường đi của mình. Đến nay Công ty đã xuất khẩu và mở rộng mối quan hệ với các bạn hàng thuộc phạm vi toàn cầu, ngoài các thị trường truyền thống chủ yếu nằm ở khu vực Châu á như Đài Loan, Singapo, IRắc ... Công ty đã bắt đầu thâm nhập được vào thị trường Châu Âu, Mỹ. Nói chung khi thâm nhập vào thị trường quốc tế, Công ty sẽ phải chịu những áp lực cạnh tranh mạnh hơn, đòi hỏi Công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo thời gian, tìm cách giảm giá thành,để hiệu quả sử dụng vốn lưu động được nâng cao. 1.4. Chính sách quản lý vĩ mô. Là một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, Công ty cũng chịu ảnh hưởng nhiều của chính sách quản lí vĩ mô: Với đặc điểm về mặt hàng kinh doanh của Công ty đã nêu ở trên nên hoạt động của Công ty có thuận lợi là được Nhà nước tạo điều kiện phát triển sản xuất nông lâm nghiệp. Nhưng Công ty lại gặp khó khăn với các chính sách đóng cửa rừng, cấm khai thác và xuất khẩu các loại gỗ quý hiếm vv... Chính sách vĩ mô có tác động đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động, như cơ chế giao vốn và sự thay đổi trong các chính sách về thuế ( thuế TNDN, VAT, thuế xuất nhập khẩu...) làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tốc độ luân chuyển của vốn lưu động. Chương 2 Thực trạng quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp 2.1. Quản lý vốn lưu động của Công ty 2.1.1. Qui mô và vấn đề bảo toàn vốn lưu động Để biết được qui mô của vốn lưu động qua các năm, ta phải căn cứ vào bảng tổng hợp dưới đây: Bảng 3: Một số chỉ tiêu tài chính căn bản Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 A.Tổng tài sản 16.626.357.405 16.808.569.440 21.961.637.695 26.328.832.548 I. Tài sản lưu động 11.080.686.775 11.502.165.018 16.454.195.959 20.471.119.803 1. Vốn bằng tiền 156.199.386 231.456.948 853.133.146 687.050.968 2. Đầu tư tài chính ngắn hạn 0 0 0 0 3. Các khoản phải thu 3.634.677.947 2.478.802.631 8.509.805.066 13.838.199.999 4. Hàng tồn kho 3.431.074.727 4.361.779.079 2.237.023.1663 2.579.813.209 5. Tài sản lưu động khác 3.858.734.715 4.430.066.380 4.854.234.581 3.366.145.627 II. Tài sản cố định 5.545.670.630 5.306.404.402 5.507.441.736 5.857.712.745 B. Tổng nguồn vốn 16.626.357.405 16.808.569.440 21.961.637.695 26.328.832.548 I. Nợ phải trả 10.520.194.067 10.664.748.975 15.087.440.762 17.724.821.886 - Nợ ngắn hạn 10.139.807.631 10.317.863.539 14.790.440.762 16.724.821.886 II. Vốn chủ sở hữu 6.106.163.338 6.143.820.465 6.874.196.933 8.604.010.662 Bảng 4: Qui mô vốn lưu động Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Kế hoạch thực hiện Chênh lệch Kế hoạch thực hiện Chênh lệch Kế hoạch thực hiện Chênh lệch Kế hoạch thực hiện Chênh lệch 1.Tổng nguồn vốn 16.000 16.626 626 18.500 16.809 -1.691 19.000 21.962 2.962 24.600 26.329 1.729 2.Vốn lưu động 11.000 11.081 81 13.300 11.502 -1.798 14.500 16.454 1.954 17.800 20.471 2.941 - Vốn bằng tiền 215 156 -59 185 231 46 570 853 283 655 687 32 - Đầu tư tài chính ngắn hạn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 - Các khoản phải thu 3.850 3.635 -215 3.400 2.479 -921 6.320 8.510 2.190 9.300 13.838 4.538 - Hàng tồn kho 3.410 3.431 21 6.095 4.362 1.733 3.110 2.237 -873 2.995 2.580 -415 - Tài sản lưu động khác 3.525 3.859 334 3.620 4.430 -810 4.500 4.854 354 4.850 3.366 -1.484 % VLĐ/ Tổng nguồn vốn 68,75 66,66 -2.15 71,89 68,43 -3,46 76,32 74,92 -1,4 72,36 77,75 5,39 Từ bảng trên, ta có nhận xét sau: sự sai lệch quá lớn giữa dự báo và thực tế về nhu cầu vốn lưu động là một điều đáng báo động, nó phản ánh chất lượng của công tác dự báo là không cao. Đặc biệt là năm 2001 trong khi dự báo tổng nguồn vốn là 19.000 triệu đồng thì thực tế lại cần đến 21.962 triệu đồng vượt 2.962 triệu đồng, sự sai lệch có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời với việc dự báo sai về tổng nguồn vốn là việc dự báo sai nhu cầu vốn lưu động, trong khi dự báo là 14.500 triệu đồng thì thực tế lại cần đến 16.454 triệu đồng, vượt 1.954 triệu đồng. Việc dự báo sai tổng nguồn vốn nói chung, nhu cầu vốn lưu động nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn, nhất là khi dự báo thấp hơn so với thực tế sẽ tạo sự thiếu hụt vốn vì không có kế hoạch huy động kịp thời. Trong năm 2002 tình trạng dự báo không sát với thực tế lại tiếp tục diễn ra, trong khi dự báo nhu cầu vốn lưu động là 17.800 triệu đồng thì thực tế lại cần 20.471 triệu đồng, thiếu 2.941 triệu đồng. Từ thực tế này, có thể thấy Công ty cần có ngay các giải pháp cho việc xác định chính xác hơn nhu cầu vốn lưu động. Cũng từ bảng trên ta thấy, quy mô vốn lưu động của Công ty không ngừng tăng lên trong thời gian qua và ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn: năm 1999 vốn lưu động là 11.081 triệu đồng, chiếm 66,66% tổng nguồn vốn, năm 2000 đã tăng lên và chiếm 68,43% tổng nguồn vốn, năm 2001 chiếm 74,92% và đến năm 2002 vốn lưu động là 20.471triệu đồng, chiếm tới 77,75 % tổng nguồn vốn. Điều này phản ánh một thực tế là Công ty đang thiên nhiều hơn về hoạt động thương mại so với hoạt động sản xuất, đòi hỏi vốn lưu động ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn. Sự tăng lên rõ rệt về qui mô cũng phản ánh vốn lưu động của Công ty được bảo toàn qua thời gian, vì nó đảm bảo được sức mua của vốn lưu động. 2.1.2. Cơ cấu và tình hình chiếm dụng vốn lưu động Nhìn chung tài sản lưu động của Công ty được tài trợ từ 2 nguồn cơ bản là: nguồn vốn lưu động tạm thời và nguồn vốn lưu động ròng. - Nguồn vốn lưu động tạm thời: là những khoản nợ ngắn hạn của Công ty, luồng vốn này không tồn tại lâu trong Công ty mà chỉ mang tính chất tạm thời, Công ty chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu. Các khoản nợ ngắn hạn thường bao gồm: vay ngắn hạn, phải trả người bán, người mua trả trước, thuế phải nộp, phải trả đơn vị nội bộ và phải trả công nhân viên. Đối với khoản vay ngắn hạn: để vay được khoản này Công ty phải trải qua một số thủ tục còn tương đối rườm rà cũng như phải có tài sản thế chấp và phải chịu một mức lãi suất nhất định thường cao hơn các khoản nợ khác mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Tuy nhiên khoản này là không thể thiếu trong các doanh nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong nợ phải trả của Công ty. Khoản phải trả người bán: khoản này nhiều hay ít là do quy mô của doanh nghiệp hay chính xác hơn là do uy tín của doanh nghiệp, cũng như những tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Với khoản này doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí vốn rất thấp hoặc không có. Trong tình hình hiện nay các doanh nghiệp thường tìm cách để tranh thủ được nhiều nguồn vốn này. Khoản người mua trả trước: khoản này sẽ giúp doanh nghiệp phải sử dụng ít hơn nguồn vốn lưu động của mình, đồng thời đảm bảo cho hàng sản xuất ra hoặc nhập về sẽ được tiêu thụ. Đối với doanh nghiệp là người bán, thường rất muốn có nhiều nguồn vốn này nhưng điều đó là không dễ, vì các doanh nghiệp đi mua hàng không chấp nhận mà chỉ thoả thuận được ở một mức nhất định. Còn đối với các khoản khác như: thuế phải nộp, phải trả đơn vị nội bộ, phải trả công nhân viên là những khoản mà doanh nghiệp chỉ có thể trả chậm, nộp chậm trong một thời gian rất ngắn nhưng các doanh nghiệp vẫn tìm cách để tận dụng triệt để nguồn vốn này. - Nguồn vốn lưu động ròng (vốn lưu động thường xuyên): là phần còn lại của vốn sản xuất kinh doanh dài hạn sau khi đã tài trợ đủ cho nhu cầu về tài sản cố định và được tính bằng hiệu số của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn. Nguồn vốn này được coi là mạch máu của doanh nghiệp, quyết định đến khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong luân chuyển vốn và trong các quan hệ thanh toán. Cơ cấu nguồn vốn và tình hình chiếm dụng vốn của Công ty được thể hiện trong bảng sau: Bảng 5: Cơ cấu nguồn vốn lưu động của Công ty Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tr.đ % Tr.đ % Tr.đ % Tr.đ % Vốn lưu động 11.081 100 11.502 100 16.454 100 20.471 100 I. VLĐ tạm thời 10.140 91,51 10.318 89,71 14.790 89,89 16.724 81,7 1. Vay ngắn hạn 3.179 28,69 3.418 29,72 4.101 24,92 4.503 22,0 2. Phải trả người bán 2.193 19,79 1.256 10,92 5.479 33,31 7.817 38,19 3. Người mua trả trước 1.034 9,33 2.347 20,41 2.983 18,13 2.384 11,65 4. Thuế phải nộp 735 6,63 634 5,51 241 1,46 574 2,8 5. Phải trả đơn vị nội bộ 938 8,46 1.025 8,91 604 3,67 409 2,0 6. Phải trả phải nộp khác 1.625 14,66 1.235 10,74 1.032 6,27 879 4,29 7. Nợ dài hạn phải trả 0 0 0 0 0 0 0 0 8. Phải trả CNV 436 3,93 403 3,5 350 2,13 158 0,77 II. VLĐ thường xuyên 941 8,49 1.184 10,29 1.664 10,11 3.747 18,3 Qua bảng phân tích cơ cấu vốn lưu động của Công ty ta thấy rằng nguồn vốn lưu động tạm thời chiếm chủ yếu trong vốn lưu động của Công ty. Năm 1999 số vốn lưu động tạm thời là 10.140 triệu đồng chiếm 91,51% vốn lưu động, năm 2000 vốn lưu động tạm thời là 10.318 triệu đồng chiếm 89,71% vốn lưu động, tuy có giảm nhưng vẫn tương đối cao, năm 2001 vốn lưu động tạm thời là 14.790 triệu đồng chiếm 89,89% vốn lưu động đã tăng lên so với năm 2000 nhưng đến năm 2002 số vốn lưu động tạm thời là 16.724 triệu đồng và chỉ chiếm 81,7% vốn lưu động. Điều này cho thấy hiện tại Công ty đang sử dụng tương đối nhiều nợ ngắn hạn trong cơ cấu vốn lưu động, trong khi đó lượng vốn lưu động ròng của Công ty lại tương đối nhỏ, năm 1999 là 941 triệu đồng, năm 2000 là 1.184 triệu đồng chiếm 10,29% vốn lưu động, năm 2001 là 1.664 triệu đồng và sang đến năm 2002 vốn lưu động ròng đã tăng lên là 3.747 triệu đồng chiếm 18,3 % vốn lưu động của Công ty. Điều này chứng tỏ Công ty đã sử dụng nhiều hơn vốn sản xuất kinh doanh dài hạn để tài trợ cho tài sản lưu động. - Tình hình chiếm dụng vốn lưu động của Công ty: trong cơ cấu vốn lưu động của Công ty ta thấy, chủ yếu là khoản vốn lưu động tạm thời và là nợ ngắn hạn, do đó cần thiết phải xem xét đến các khoản chiếm dụng được của Công ty. Trong các khoản vốn lưu động tạm thời, chiếm tỷ lệ cao nhất thường là khoản vay ngắn hạn và khoản phải trả người bán. Đối với khoản vay ngắn hạn, năm 1999 là 3.179 triệu đồng, chiếm 28,69% còn phải trả người bán là 2.193 triệu đồng, chiếm 19,79 %. Năm 2000 nợ ngắn hạn là 3.418 triệu đồng, chiếm 29,72% vốn lưu động còn phải trả người bán là 1.256 triệu đồng, chiếm 10,92 % vốn lưu động. Sang đến năm 2001 khoản vay ngắn hạn là 4.101 triệu đồng, chiếm 24,92% vốn lưu động, trong khi khoản phải trả người bán đã tăng lên là 5.479 triệu đồng, chiếm 33,31% vốn lưu động. Điều này cho thấy Công ty có xu hướng sử dụng nhiều hơn khoản phải trả người bán vì nguồn này có chi phí là tương đối thấp, có thể là 0, đây cũng là xu hướng chung của các doanh nghiệp hiện nay. Xu hướng này lại càng thể hiện rõ khi sang năm 2002 vay ngắn hạn là 4.503 triệu đồng, chiếm 22% vốn lưu động còn khoản phải trả người bán đã là 7.817 triệu đồng, chiếm tới 38,19 % vốn lưu động. Ngoài hai khoản trên ta thấy Công ty cũng đang có được một phần nguồn vốn lưu động bằng khoản người mua trả trước, năm 1999 lượng vốn người mua trả trước là 1.034 triệu đồng, chiếm 9,33%, năm 2000 là 2.347 triệu đồng, chiếm 20,41% vốn lưu động, khoản này khá lớn và rất có lợi cho Công ty vì Công ty tận dụng được vốn c._.ủa khách hàng và cũng tạo ra được những đảm bảo chắc chắn hơn cho mình trong khâu tiêu thụ. Năm 2001 khoản người mua trả trước cho Công ty là 2.983 triệu đồng, chiếm 18,13% vốn lưu động sang năm 2002 khoản này chỉ là 2.384 triệu đồng chỉ còn chiếm 11,65% vốn lưu động, điều này cho thấy Công ty đang gặp khó khăn trong việc có được khoản trả trước của người mua, một phần khác là do Công ty cũng tạo điều kiện dễ dàng hơn cho người mua, bằng việc đáp ứng nhu cầu cho khách hàng mà không cần phải đặt tiền trước hoặc phải đặt không nhiều như trước, do sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn do đó họ ít chấp nhận điều kiện trả tiền trước hoặc chỉ chấp nhận một mức rất nhỏ vì nó không có lợi cho họ khi bị chiếm dụng vốn. Qua bảng trên ta thấy Công ty cũng đang chiếm dụng được các khoản: phải trả, phải nộp khác, thuế phải nộp và phải trả đơn vị nội bộ, các khoản này cũng có đóng góp không nhỏ trong cơ cấu vốn lưu động của Công ty như khoản phải trả phải nộp năm 1999 là 1.625 triệu đồng chiếm 14,66% vốn lưu động, năm 2000 là 1.235 triệu đồng chiếm 10,74% tuy nhiên năm 2002 chỉ còn 879 triệu đồng chiếm 4,29% vốn lưu động. Khoản phải trả đơn vị nội bộ năm 1999 là 938 triệu đồng chiếm 8,46% vốn lưu động, năm 2000 là 1.025 triệu đồng chiếm 8,91% vốn lưu động và năm 2002 chỉ còn 409 triệu đồng chiếm 2% vốn lưu động. Qua việc phân tích các khoản nợ ngắn hạn mà Công ty hiện đang chiếm dụng, ta thấy trong năm 2002 tỷ lệ vốn chiếm dụng từ khoản phải trả người bán hiện đang chiếm tỷ lệ cao nhất là 39,19% và nhìn chung vốn lưu động tạm thời của Công ty chiếm tỷ lệ cao cũng phản ánh thực tế của một Công ty thiên nhiều hơn về hoạt động thương mại. Nhìn chung công tác quản lý vốn lưu động của Công ty còn khá nhiều bất cập điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty do đó để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì cũng phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả của công tác quản lý vốn lưu động. 2.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty 2.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Khi đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn lưu động phải chú ý đánh giá tốc độ luân chuyển của nó. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt công tác mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp hợp lý hay không hợp lý, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không tốt, các khoản phí tổn trong sản xuất kinh doanh cao hay thấp, tiết kiệm hay không tiết kiệm. Ngoài mục tiêu sử dụng cho mua sắm, dự trữ, vốn lưu động còn được sử dụng trong thanh toán. Bởi vậy, hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn thể hiện ở khả năng đảm bảo lượng vốn lưu động cần thiết để thực hiện thanh toán. Đảm bảo đầy đủ trong thanh toán sẽ giúp doanh nghiệp tự chủ hơn trong kinh doanh , tạo được uy tín với bạn hàng và khách hàng. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phản ánh trình độ và năng lực quản lý vốn của doanh nghiệp, đảm bảo vốn lưu động được luân chuyển với tốc độ cao, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp luôn ở tình trạng tốt và mức hao phí vốn là thấp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động có thể sử dụng các chỉ tiêu sau: 2.2.1.1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động * Hệ số luân chuyển vốn lưu động: Là chỉ số được tính bằng thương số giữa tổng doanh thu tiêu thụ trong kỳ và vốn lưu động bình quân trong kỳ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động nhanh hay chậm, trong một chu kỳ kinh doanh vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng. Hệ số luân chuyển VLĐ = Tổng doanh thu tiêu thụ VLĐ bình quân Nếu chỉ số này tăng so với các kỳ trước thì chứng tỏ doanh nghiệp có hoạt động luân chuyển vốn có hiệu quả và ngược lại. Bảng 6: Hệ số luân chuyển vốn lưu động của Công ty Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. VLĐ bình quân Tr.đ 11.081 11.502 16.454 20.471 2. Doanh thu tiêu thụ Tr.đ 100.313 105.235 114.167 141.263 3. Hệ số luân chuyển của VLĐ Vòng 9,05 9,15 6,94 6,9 Qua bảng phân tích trên ta thấy: tốc độ luân chuyển vốn của Công ty trong thời gian qua là tương đối nhanh, nhưng lại đang có xu hướng giảm mạnh. Năm 1999, vốn lưu động luân chuyển được 9,05 vòng, tuy năm 2000 có tăng lên là 9,15 vòng, nhưng lại giảm mạnh vào năm 2001, chỉ còn 6,94 vòng và năm 2002 là 6,9 vòng trong 1 năm, giảm 2,15 vòng so với năm 1999. Điều này cho thấy tốc độ tăng của doanh thu tiêu thụ nhỏ hơn tốc độ tăng của vốn lưu động, tức là Công ty có xu hướng đầu tư thêm vào vốn lưu động mà hiệu quả thu được lại không cao, đòi hỏi Công ty phải có những điều chỉnh kịp thời về lượng vốn lưu động, cũng như có các giải pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động cụ thể là tăng doanh thu tiêu thụ để dẫn đến tăng được tốc độ luân chuyển của vốn lưu động trong từng năm. Để biết rõ hơn nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm tốc độ luân chuyển vốn lưu động của Công ty trong thời gian qua, chúng ta sẽ xem xét mức độ ảnh hưởng của 2 nhân tố doanh thu tiêu thụ và vốn lưu động bình quân đến chỉ tiêu này. +) Năm 2000 so với năm 1999 Do ảnh hưởng của doanh thu trong kỳ đến hệ số luân chuyển vốn lưu động D1 = 105.235 11.081 _ 100.313 11.081 = 0,45 (vòng) Do ảnh hưởng của vốn lưu động bình quân D2 = 105.235 11.502 _ 105.235 11.081 = -0,35 Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng D = D1 + D2 = 0,45 - 0,35 = 0,1 Như vậy hệ số luân chuyển vốn lưu động năm 2000 tăng 0,1 vòng so với năm 1999: trong đó sự tăng lên của doanh thu tiêu thụ đã làm cho hệ số này tăng lên 0,45 vòng và vốn lưu động đã làm giảm hệ số này mất 0,35 vòng, nhưng do sự tăng lên của doanh thu tiêu thụ nhiều hơn so với sự tăng lên của vốn lưu động bình quân nên hệ số luân chuyển vốn lưu động đã tăng và lượng vốn lưu động tăng lên là cần thiết và được sử dụng có hiệu quả. +) Năm 2001 so với năm 2000 Do ảnh hưởng của doanh thu trong kỳ đến hệ số luân chuyển vốn lưu động D1 = 114.167 11.502 _ 105.235 11.502 = 0,78 Do ảnh hưởng của vốn lưu động bình quân D2 = 114.167 16.454 _ 114.167 11.502 = -2.99 Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng D = D1 + D2 = 0,78 - 2,99 = - 2,21 Ta thấy rằng năm 2001, hệ số luân chuyển của vốn lưu động là 6,94 vòng trong 1 năm giảm 2,21 vòng so với năm 2000, trong đó do sự tăng lên của doanh thu làm tăng hệ số này 0,78 vòng, nhưng do sự tăng lên quá nhiều của vốn lưu động, vốn lưu động của năm 2001 tăng 4,952 triệu đồng đã làm cho hệ số luân chuyển của vốn lưu động giảm đi 2,99 vòng. Tổng hợp sự ảnh hưởng của doanh thu và vốn lưu động thì thấy hệ số luân chuyển của vốn lưu động giảm 2,21 vòng, tức là vốn lưu động tăng lên quá nhiều so với sự tăng lên của doanh thu tiêu thụ, điều này cho thấy sự tăng lên của vốn lưu động trong năm 2001 là không hiệu quả hay được sử dụng không hiệu quả, đòi hỏi Công ty phải có những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. +) Năm 2002 so với năm 2001 Do ảnh hưởng của doanh thu trong kỳ đến hệ số luân chuyển vốn lưu động D1 = 141.263 16.454 _ 141.167 16.454 = 1,65 Do ảnh hưởng của vốn lưu động bình quân D2 = 141.263 20.471 _ 141.263 16.454 = -1,69 Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng D = D1 + D2 = 1,65 - 1,69 = - 0,04 Qua phân tích trên ta thấy: hệ số luân chuyển vốn lưu động của năm 2002 là 6,9 vòng, giảm 0,04 vòng so với năm 2001 và là thấp nhất trong 4 năm qua. Trong năm 2002 vốn lưu động bình quân và doanh thu tiêu thụ tăng lên với tốc độ khá đồng đều tuy vốn lưu động có cao hơn một chút và làm hệ số luân chuyển vốn lưu động giảm đi một chút so với năm 2001. Bảng 7: Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố đến hệ số luân chuyển vốn lưu động Đơn vị: vòng Chỉ tiêu Năm 2000/ 1999 Năm 2001/ 2000 Năm 2002/ 2001 Hệ số luân chuyển vốn lưu động +0,1 -2,21 +0,04 1. Do ảnh hưởng của doanh thu +0,45 +0,78 +1,65 2. Do ảnh hưởng của vốn lưu động bình quân -0,35 -2.99 -1.69 Qua việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu hệ số luân chuyển vốn lưu động, ta thấy nhìn chung tốc độ tăng vốn lưu động bình quân của Công ty là nhanh hơn doanh thu tiêu thụ làm giảm tốc độ luân chuyển của vốn lưu động và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Đòi hỏi Công ty phải có sự đầu tư thích đáng vào các biện pháp để tăng doanh thu tiêu thụ, cũng như có những quyết định chính xác trong việc tăng vốn lưu động bình quân của mình. * Thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động : Chỉ tiêu này thể hiện số thời gian cần thiết cho một vòng luân chuyển vốn lưu động trong kỳ. Thời gian một vòngluân chuyển VLĐ = 360(ngày) Hệ số luân chuyển VLĐ Chỉ tiêu này càng nhỏ là càng tốt cho doanh nghiệp. Bảng 8: Thời gian vòng luân chuyển Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Hệ số luân chuyển của VLĐ Vòng 9,05 9,15 6,94 6,9 2. Thời gian một vòng quay Ngày 39,78 39,34 51,87 52,17 Qua bảng phân tích ta thấy: thời gian một vòng quay vốn lưu động có xu hướng tăng lên. Năm 1999 thời gian một vòng quay vốn lưu động là 39,78 ngày, tức là Công ty phải mất 39,79 ngày để vốn lưu động quay được một vòng, năm 2000 chỉ tiêu này giảm đi 0,44 ngày, tuy không nhiều nhưng cũng là một dấu hiệu tích cực đối với hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty. Tuy nhiên sang đến năm 2001 thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động lại tăng lên thành 51,87 ngày, tức là tốc độ thu hồi vốn lưu động của Công ty đã giảm đi, Công ty đã rơi vào tình trạng sử dụng vốn lưu động là không hiệu quả. Điều này không những không được cải thiện mà còn tiếp tục giảm, tuy không nhiều trong năm 2002 Công ty phải mất 52,17 ngày cho một vòng luân chuyển vốn lưu động chỉ tăng 0,3 ngày so với năm 2001 nhưng đã tăng 12,39 ngày so với năm 1999. Do đó Công ty cần có những giải pháp để có thể giảm thời gian cho một vòng luân chuyển để có thể tăng được hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Thời gian luân chuyển vốn lưu động ngoài khả năng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn giúp ta tính được số vốn tiết kiệm hay lãng phí trong kỳ. V = Doanh thu thuần 360 x (T1 - T0) T1, T0: Thời gian luân chuyển vốn lưu động kỳ này và kỳ trước V: Vốn lưu động tiết kiệm hay lãng phí trong kỳ Để biết được số vốn tiết kiệm hay lãng phí ta phải tiến hành so sánh hiệu quả sử dụng vốn qua các năm +) Năm 2000 so với năm 1999 V = 105.235 360 x (39,34 - 39,78) = - 128,62 triệu đồng Như vậy, năm 2000 Công ty đã tiết kiệm được một lượng vốn lưu động, hay nói cách khác cần thêm ít vốn lưu động so với việc tăng lên của doanh thu, doanh thu năm 2000 tăng 4.922 triệu đồng tương đương 4,91 % so với năm 1999 trong khi đó vốn lưu động của Công ty chỉ tăng 421 triệu đồng tương đương 3,8 % so với năm 1999. Có thể nói rằng năm 2000 Công ty đã sử dụng có hiệu quả vốn lưu động hơn so với năm 1999 +) Năm 2001 so với năm 2000 V = 114.167 360 x (51,87 - 39,34) = 3.973,65 triệu đồng Năm 2001 Công ty đã sử dụng quá lãng phí vốn lưu động, so với năm 2000.Với mức tăng của doanh thu là 8.932 triệu đồng tương đương tăng 8,49% so với năm 2000 thì chỉ cần tăng vốn lưu động là (16.454 - 11.502 - 3.973,65) = 978,35 triệu đồng, như vậy Công ty đã sử dụng không hiệu quả 3.973,65 triệu đồng vốn lưu động. Hoặc nếu với việc tăng lên của vốn lưu động là 4.952 triệu đồng tương đương với 43,05% thì doanh thu phải tăng tương ứng là 45.210,06 triệu đồng, tương đương với 42,96 % so với năm 2000 thì mới duy trì được thời gian luân chuyển vốn lưu động như năm 2000. Có thể nói năm 2001 là năm không thành công trong việc sử dụng vốn lưu động của Công ty +) Năm 2002 so với năm 2001 V = 141.263 360 x (52,17 - 51,87) = 117,72 triệu đồng Như vậy so với năm 2001, Công ty vẫn tiếp tục sử dụng không hiệu quả vốn lưu động dẫn đến sử dụng lãng phí 117,72 triệu đồng, con số này tuy không lớn. Với vốn lưu động của Công ty nhưng nó làm trầm trọng hơn hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong 2 năm 2001, 2002. Đòi hỏi Công ty phải có những giải pháp kịp thời để thoát khỏi tình trạng sử dụng lãng phí vốn lưu động trong 2 năm vừa qua. Bảng 9: Tổng hợp tình hình tiết kiệm (lãng phí) vốn lưu động Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000/ 1999 Năm 2001/ 2000 Năm 2002/ 2001 Vốn lưu động tiết kiệm (lãng phí) -128,62 +3.973,65 +117,72 Qua bảng tổng hợp có thể thấy vốn lưu động của Công ty đang bị lãng phí hay sử dụng không hiệu quả, đặc biệt là năm 2001 và vẫn còn xảy ra trong năm 2002, do đó Công ty cần có những biện pháp thích hợp để xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động cũng như sử dụng có hiệu quả vốn lưu động của Công ty. * Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm VLĐ = VLĐ Doanh thu tiêu thụ = 1 Hệ số luân chuyển Hệ số này càng nhỏ thì càng tốt cho Công ty vì nó phản ánh phải cần bao nhiêu đồng vốn lưu động để tạo ra một đồng doanh thu. Bảng 10: Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. VLĐ bình quân Tr.đ 11.081 11.502 16.454 20.471 2. Doanh thu tiêu thụ Tr.đ 100.313 105.235 114.167 141.263 3. Hệ số đảm nhiệm Tr.đ/tr.đ 0,11 0,109 0,144 0,145 Qua bảng phân tích trên cho thấy, năm 1999 hệ số đảm nhiệm vốn lưu động là 0,11 tức là để tạo ra được 1 đồng doanh thu cần 0,11 đồng vốn lưu động. Sang năm 2000 để tạo ra 1 đồng doanh thu thì chỉ cần đến 0,109 đồng vốn lưu động. Điều này khẳng định khả năng tạo doanh thu của vốn lưu động trong năm 2000 so với năm 1999 là tốt hơn. Nhưng đến năm 2001, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động đã tăng lên 0,144, tức là phải mất tới 0,144 đồng vốn lưu động mới tạo ra được 1 đồng doanh thu, tăng 0,035 đồng vốn lưu động so với năm 2000 và năm 2002 phải mất 0,145 đồng vốn lưu động mới tạo ra 1 đồng doanh thu, vậy khả năng tạo doanh thu của vốn lưu động trong năm 2002 còn thấp hơn năm 2001. Có thể kết luận, trong 2 năm gần nhất khả năng tạo doanh thu của vốn lưu động trong Công ty đã giảm, Công ty cần có sự quan tâm, điều chỉnh kịp thời để đạt được những kết quả khả quan hơn trong những năm sắp tới. Bảng 11: Tổng hợp các chỉ số đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Hệ số luân chuyển Vòng 9,05 9,15 6,94 6,9 2. Thời gian một vòng quay Ngày 39,78 39,34 51,87 52,17 3. Hệ số đảm nhiệm Tr.đ/tr.đ 0,11 0,109 0,144 0,145 Như vậy trong 4 năm phân tích ta thấy các chỉ tiêu: hệ số luân chuyển, thời gian luân chuyển cũng như hệ số đảm nhiệm vốn lưu động của Công ty có khá nhiều biến động và có xu hướng xấu đi, cần thiết phải tạo ra được những bước đột phá bằng việc tìm ra và áp dụng kịp thời các giải pháp hợp lý và phù hợp với Công ty trong tình hình hiện nay. 2.2.1.2. Sức sinh lời của vốn lưu động Sức sinh lời của VLĐ = Lợi nhuận sau thuế VLĐ bq trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động hoạt động trong kỳ kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để đánh giá chính xác, hiệu quả hơn, đầy đủ hơn về việc sử dụng vốn lưu động ta cần xem xét đánh giá thêm chỉ tiêu hiệu quả về lợi nhuận của Công ty. Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của vốn lưu động, đây là chỉ tiêu vô cùng quan trọng vì mọi hoạt động của Công ty đều hướng tới mục tiêu có lợi nhuận cao. Bảng 12: Sức sinh lời của vốn lưu động Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. VLĐ bình quân Tr.đ 11.081 11.502 16.454 20.471 2. Lợi nhuận sau thuế Tr.đ 382 441 500 565 3. Sức sinh lời của vốn Tr.đ/tr.đ 0,034 0,038 0,03 0,028 Qua bảng phân tích trên ta thấy năm 1999 cứ 1 đồng vốn lưu động tạo ra 0,034 đồng lợi nhuận, năm 2000 tạo ra được là 0,038 đồng lợi nhuận cao nhất trong 4 năm phân tích, nói cách khác năm 2000 là năm Công ty sử dụng vốn lưu động có hiệu quả nhất. Năm 2001 chỉ tiêu này chỉ là 0,03 tức là 1 đồng vốn lưu động chỉ tạo ra được 0,03 đồng lợi nhuận, sang năm 2002 chỉ là 0,028 thấp nhất rong 4 năm qua. Nếu chỉ xét chỉ tiêu này, thì thấy Công ty đang ở trong tình trạng sử dụng không có hiệu quả vốn lưu động, sức sinh lời của vốn lưu động không cao và giảm dần. Tuy nhiên cũng phải quan tâm đến chỉ tiêu tổng lợi nhuận thì lợi nhuận sau thuế của Công ty trong 4 năm vẫn tăng khá đều đặn, nói đến điều này để tránh nhìn phiến diện đối với hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nhưng cũng phải thấy rằng Công ty sử dụng vốn lưu động có hiệu quả chưa cao, tình trạng lãng phí vốn lưu động vẫn xảy ra cần thiết phải có những chấn chỉnh kịp thời. 2.2.1. 3. Các chỉ số về năng lực hoạt động Các chỉ số về năng lực hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp: Khả năng hoạt động của Công ty được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: * Vòng quay tiền mặt: Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân. Nó cho biết số vòng quay của tiền mặt trong năm Vòng quay tiền mặt = Doanh thu thuần Tiền mặt bình quân Bảng 13: Vòng quay tiền mặt Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Doanh thu thuần Tr. đ 100.313 105.235 114.167 141.131 2. Tiền mặt bình quân Tr. đ 156 231 853 687 3. Vòng quay tiền mặt Vòng 643,03 455,56 133,84 205,43 Qua bảng trên ta thấy: vòng quay tiền mặt năm 1999 là rất nhanh 643,03 vòng trong năm, điều này có được là do lượng tiền mặt bình quân trong năm của Công ty là khá nhỏ. Trong năm 2000 vòng quay tiền mặt giảm xuống còn 455,56 vòng trong 1 năm do lượng tiền mặt được bổ sung nhiều hơn so với sự tăng lên của doanh thu. Năm 2001 chỉ số này giảm nhanh, chỉ còn 133,84 vòng trong 1 năm điều này chưa hẳn là xấu đối với Công ty, vì nhìn chung các Công ty hiện nay có xu hướng hạn chế tiền mặt nhưng cũng không quá nhỏ để có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán tức thời, cũng như có thể tận dụng được những lợi thế trong mua bán. Năm 2002 vòng quay tiền mặt lại tăng lên là 205,43 vòng trong 1 năm, là do lượng tiền thì giảm xuống còn doanh thu thì tăng lên. Để biết chính xác mức tăng, giảm của vòng quay tiền mặt ta phải xem xét cụ thể sự ảnh hưởng của doanh thu thuần, của tiền mặt đến chỉ tiêu này +) Năm 2000 so với năm 1999 Do ảnh hưởng của doanh thu trong kỳ đến vòng quay tiền mặt D1 = 105.235 156 _ 100.313 156 = 31,55 Do ảnh hưởng của lượng tiền mặt D2 = 105.235 231 _ 105.235 156 = - 219,02 Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng D = D1 + D2 = 31,55 - 219,02 = - 187,07 Như vậy, do tốc độ tăng của tiền lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu đã làm cho vòng quay tiền mặt giảm xuống 187,07 vòng trong 1 năm: doanh thu thuần tăng làm cho vòng quay tiền mặt tăng 31,55 còn tiền mặt tăng đã làm vòng quay tiền mặt giảm đi 219,02 vòng. +) Năm 2001 so với năm 2000 Do ảnh hưởng của doanh thu thuần D1 = 114.167 231 _ 105.235 231 = 38,67 Do ảnh hưởng của lượng tiền mặt D2 = 114.167 853 _ 114.167 231 = - 360,39 Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng D = D1 + D2 = 38,67 - 360,39 = - 321,72 Như vậy năm 2001 số vòng quay của vốn lưu động tiếp tục giảm mạnh trong đó tốc độ tăng của tiền mặt lớn hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của doanh thu. Do sự tăng lên của tiền mặt đã làm cho vòng quay tiền mặt giảm đi 360,39 vòng trong khi doanh thu thuần tăng lên chỉ làm cho vòng quay tiền mặt tăng được 38,67 vòng do đó tổng hợp lại thì vòng quay tiền mặt của năm 2001 giảm 321,72 vòng so với năm 2000. Tuy nhiên số vòng quay tiền mặt năm 2001 là 133,84 vòng trong 1 năm là chấp nhận được +) Năm 2002 so với năm 2001 Do ảnh hưởng của doanh thu thuần D1 = 141.132 853 _ 114.167 853 = 31,61 Do ảnh hưởng của lượng tiền mặt D2 = 141.131 687 _ 141.131 853 = 39,98 Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng D = D1 + D2 = 31,61 + 39,98 = 71,59 Qua phân tích ta thấy, vòng quay tiền mặt năm 2002 lại bắt đầu tăng lên, điều này là do sự tăng lên của doanh thu thuần đồng thời với việc giảm lượng tiền mặt. Doanh thu tăng đã làm vòng quay tiền mặt tăng 31,61 vòng và lượng tiền mặt giảm cũng làm cho vòng quay tiền mặt tăng lên 39,98 vòng. Tổng hợp ảnh hưởng của cả hai nhân tố đã làm vòng quay tiền mặt tăng lên 71,59 vòng. Bảng14: Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố đến vòng quay tiền mặt Đơn vị: vòng Chỉ tiêu Năm 2000/ 1999 Năm 2001/ 2000 Năm 2002/ 2001 Vòng quay tiền mặt -187,07 -321,72 +71,59 1. Do ảnh hưởng của doanh thu thuần +31,55 +38,67 +31,61 2. Do ảnh hưởng của tiền mặt bình quân -219,02 -360,39 +39,98 Như vậy, qua việc phân tích vòng quay tiền mặt của Công ty trong 4 năm qua ta thấy hệ số này có sự tăng giảm không đều và không tuần tự trong các năm. Do đó Công ty cũng cần phải có những điều chỉnh, để có thể có được lượng tiền mặt hợp lý cũng như vòng quay tiền mặt phù hợp trong các năm tới. * Thời gian một vòng quay tiền mặt: Thời gian một vòng quay tiền mặt = 360 Vòng quay tiền mặt Chỉ tiêu này phản ánh trong 1 chu kỳ kinh doanh tiền mặt quay một vòng hết bao nhiêu thời gian. Bảng 15:Thời gian một vòng quay tiền mặt Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Vòng quay tiền mặt Vòng 643,03 455,56 133,84 205,43 2. Thời gian một vòng quay Ngày 0,56 0,79 2,69 1,75 Qua bảng trên ta thấy, thời gian một vòng quay tiền mặt của Công ty có xu hướng tăng: năm 1999 chỉ cần 0,56 ngày cho một vòng quay, thì năm 2001 là 2,69 ngày và năm 2002 là 1,75 ngày. Bình thường khi chỉ tiêu này tăng, sẽ là dấu hiệu không có lợi cho Công ty trong việc giữ tiền mặt quá nhiều nhưng Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp trong những năm qua với lượng tiền mặt là tương đối nhỏ, tuy đã tăng lên trong các năm nhưng vẫn ở mức có thể chấp nhận được. Tuy vậy Công ty cũng đã có sự điều chỉnh lượng tiền mặt nên thời gian cho một vòng quay tiền mặt năm 2002 đã giảm xuống còn 1,75 ngày, giảm 0,94 ngày so với năm 2001. * Vòng quay các khoản phải thu Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ các khoản phải thu chuyển thành tiền mặt và được tính như sau: Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần Các khoản phải thu Vòng quay này càng lớn thì càng tốt cho doanh nghiệp. Bảng 16: Vòng quay khoản phải thu Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Doanh thu thuần Tr. đ 100.313 105.235 114.167 141.131 2. Các khoản phải thu Tr. đ 3.635 2.479 8.510 13.838 3. Vòng quay các khoản phải thu Vòng 27,6 42,45 13,42 10,2 Qua phân tích trên ta thấy, năm 1999 số vòng quay của các khoản phải thu là 27,6 và tăng mạnh ở năm 2000 với 42,45 vòng, thể hiện các khoản phải thu là tương đối nhỏ, luân chuyển nhanh hay thu hồi nhanh trong năm. Nhưng sang đến năm 2000 thì vòng quay các khoản phải thu giảm mạnh, chỉ còn 13,42 vòng trong năm, là do sự tăng lên khá mạnh các khoản phải thu, năm 2001 các khoản phải thu là 8.510 triệu đồng tăng 6.031 triệu đồng so với năm 2000, tương đương với 243,28%, sự tăng lên đột ngột này có thể được giải thích là Công ty đã sử dụng chính sách tín dụng thương mại đối với khách hàng, tuy nhiên cũng có dấu hiệu không tốt đối với công tác thu hồi tiền của khách hàng. Sang năm 2002 vòng quay các khoản phải thu không những không tăng mà lại có xu hướng giảm xuống và chỉ còn 10,2 vòng trong 1 năm, năm 2002 các khoản phải thu đã lên tới 13.838 triệu đồng tăng 5.328 triệu đồng so với năm 2001 và tăng 11.359 triệu đồng so với năm 2000, một con số khá lớn, nó cho thấy rằng Công ty đang gặp khó khăn trong công tác đòi nợ, cũng như Công ty đã chấp nhận cho nợ quá nhiều, đòi hỏi Công ty có các biện pháp chấn chỉnh kịp thời để tăng khả năng thu hồi vốn. * Kỳ thu tiền bình quân Kỳ thu tiền bình quân = 360 Vòng quay các khoản phải thu Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ vốn bị chiếm dụng lâu. Chỉ tiêu này cho biết số ngày bình quân để 1 đồng tiền bán hàng trước đó được thu hồi. Việc tồn đọng nợ quá nhiều ở các năm trước đó cũng ảnh hưởng đến chỉ tiêu này. Bảng 17: Kỳ thu tiền bình quân Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Vòng quay các khoản phải thu Vòng 27,6 42,45 13,42 10,2 2. Kỳ thu tiền bình quân Ngày 13,04 8,48 26,83 35,29 Qua bảng phân tích trên ta thấy, năm 1999 kỳ thu tiền bình quân là 13,04 ngày là tương đối nhanh, Công ty chỉ mất 13,04 ngày để thu hồi được nợ. Tình hình thu hồi nợ còn khả quan hơn trong năm 2000 vì Công ty chỉ cần 8,48 ngày để thu hồi được nợ. Tuy nhiên sang năm 2001 kỳ thu tiền bình quân lại tăng lên một cách rõ rệt là 26,83 ngày, Công ty phải mất 26,83 ngày để thu hồi một lần nợ, tăng 18,35 ngày so với năm 2000. Tình hình không những không khá lên trong năm 2002 mà lại xấu đi, kỳ thu tiền bình quân là 35,29 ngày, tăng 8,46 ngày so với năm 2001 và tăng 26,81 ngày so với năm 2000. Như vậy có thể nói rằng Công ty đang gặp những khó khăn nhất định trong việc thu hồi nợ, do đó thời gian cho việc thu hồi nợ ngày càng tăng. * Vòng quay hàng tồn kho: Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán Hàng tồn kho bình quân Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển hàng tồn kho trong một thời gian nhất định, qua chỉ tiêu này giúp nhà quản trị tài chính xác định mức dự trữ vật tư, hàng hoá hợp lý trong chu kỳ sản xuất kinh doanh. Bảng 18: Vòng quay hàng tồn kho Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Giá vốn hàng bán Tr. đ 98.415 103.100 111.525 137.798 2. Hàng tồn kho Tr. đ 3.635 4.362 2.237 2.580 3.Vòng quay hàng tồn kho Vòng 28,68 23,64 49,85 53,41 Qua bảng trên ta thấy, năm 1999 vòng quay hàng tồn kho là 28,68 vòng và giảm xuống chỉ còn 23,64 vòng trong năm 2000, đây là mức thấp nhất trong 4 năm phân tích nhưng nhìn chung mức tồn kho của Công ty là không nhiều và vòng quay hàng tồn kho của Công ty đạt rất cao. Năm 2001 và năm 2002 vòng quay hàng tồn kho của Công ty đạt tương ứng là 49,85 và 53,41 vòng trong 1 năm, tỷ lệ hàng tồn kho trong tổng tài sản lưu động của Công ty là rất ít, đặc biệt là năm 2002 chỉ chiếm 12,6% (2.580/20.471). Nếu xét một cách đơn thuần thì khi tỷ lệ hàng tồn kho thấp, vòng quay hàng tồn kho là nhanh thì có thể khẳng định đó là một dấu hiệu tích cực đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh của Công ty nói chung, hoạt động tiêu thụ nói riêng, tuy nhiên ta cần phải xem xét một cách tổng thể các hoạt động để có được những kết luận chính xác, khi đó ta thấy rằng các khoản phải thu của Công ty là tương đối lớn, đặc biệt là 2 năm 2001 và năm 2002, có thể thấy rằng tuy tiêu thụ được nhiều sản phẩm, giảm được lượng hàng tồn kho, nhưng lại không thu được tiền do đó điều này cũng chưa hẳn là tốt đối với Công ty. Đối với Công ty ngoài việc tiêu thụ được sản phẩm, tăng được doanh thu thì mục tiêu chính phải là thu được tiền. *Thời gian một vòng quay hàng tồn kho: Chỉ tiêu này cho biết trong một chu kỳ kinh doanh, hàng dự trữ quay hết một vòng tốn bao nhiêu thời gian. Thời gian một vòng quay hàng tồn kho = 360(ngày) Vòng quay hàng tồn kho Bảng 19:Thời gian 1 vòng quay hàng tồn kho Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Vòng quay hàng tồn kho Vòng 28,68 23,64 49,85 53,41 2. Thời gian 1 vòng quay Ngày 12,55 15,23 7,22 6,74 Qua bảng trên ta thấy, năm 1999 thời gian một vòng quay hàng tồn kho là 12,55 ngày, tức là Công ty phải mất 12,55 ngày để sử dụng cũng như tiêu thụ hết số hàng tồn kho, chỉ tiêu này đã tăng lên trong năm 2000 thành 15,23 ngày, cao nhất trong 4 năm phân tích nhưng vẫn có thể nói là nhanh. Thời gian một vòng quay hàng tồn kho trong năm 2001 chỉ còn 7,22 ngày và năm 2002 chỉ còn 6,74 ngày, đó là khoảng thời gian rất ngắn, nếu Công ty có thể đảm bảo thu hồi được tiền của khách hàng một cách bình thường thì đây quả là một điều tốt cho Công ty, tuy nhiên trong thực tế thì khoản phải thu của Công ty đã không ngừng tăng lên, làm cho thời gian thu tiền cũng tăng nên chỉ tiêu thời gian vòng quay hàng tồn kho giảm không còn giữ nguyên được ý nghĩa. Điều này đòi hỏi Công ty phải có những biện pháp thích hợp, để không những giảm được lượng hàng tồn kho mà còn phải đồng thời giảm được những khoản phải thu. Bảng 20: Tổng hợp các chỉ số về năng lực hoạt động Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Vòng quay tiền mặt Vòng 643,03 455,56 133,84 205,43 2. Thời gian một vòng quay tiền mặt Ngày 0,56 0,79 2,69 1,75 3. Vòng quay các khoản phải thu Vòng 27,6 42,45 13,42 10,2 4. Kỳ thu tiền bình quân Ngày 13,04 8,48 26,83 35,29 5. Vòng quay hàng tồn kho Vòng 28,68 23,64 49,85 53,4 6. Thời gian một vòng quay hàng tồn kho Ngày 12,55 15,23 7,22 6,74 Qua bảng tổng hợp này ta có thể đưa ra nhận xét chung như sau: do xu hướng chung của các Công ty là hạn chế giữ tiền mặt nên vòng quay của tiền mặt là cao và thời gian cho một vòng là nhanh, cao nhất là năm 2002 mất 1,75 ngày, còn đối với chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân lại có xu hướng tăng lên điều này chưa hẳn đã xấu vì Công ty đã sử dụng chính sách tín dụng thương mại nhằm thu hút khách hàng, tiêu thụ nhiều sản phẩm, chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho của Công ty là tương đối nhỏ, năm 2002 thời gian cho một vòng quay hàng tồn kho chỉ là 6,74 ngày là tương đối nhanh. Nhìn chung trong thời gian qua Công ty đã tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách khá linh hoạt nhưng hiệu quả chưa cao, do còn có nhiều biến động cũng như những bất cập đòi hỏi phải tìm ra những giải pháp thích hợp, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cho Công ty trong thời gian tới. 2.2.1.4. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán Trong nền kinh tế thị trường khả năng thanh toán là chỉ tiêu hàng đầu cần xem xét đối với một doanh nghiệp. Chỉ tiêu này đánh giá một cách cơ bản đối với tình hình tài chính của doanh nghiệp đó để từ đó nhà quản trị có thể đưa ra những quyết định đúng đắn, nó phản ánh trực tiếp tình hình phát triển của doanh nghiệp đó. * Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành: Khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Khả năng thanh toán hiện hành = Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn Bảng 21: Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Tài sản lưu động Tr.đ 11.081 11.502 16.454 20.471 2. Nợ ngắn hạn Tr.đ 10.140 10.317 14.790 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4608.doc