Nghiên cứu thống kê tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Dệt Minh Khai thời kỳ 1995-2003

Lời mở đầu Xuất khẩu là một mũi nhọn quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, là một trong ba chương trình kinh tế lớn do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra: “ Trong toàn bộ hoạt động kinh tế, một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức tăng xuất khẩu để nhập khẩu”. Hiện nay, đứng trước xu thế toàn cầu hoá cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trên thị trường thì không thể không có hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình ra thị trường nước ngo

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1151 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thống kê tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Dệt Minh Khai thời kỳ 1995-2003, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài. Dệt Minh Khai là một doanh nghiệp Nhà nước đứng đâud trong ngành công nghiệp nhẹ Hà Nội, chuyên sản xuất kinh doanh hàng dệt may. Trong những năm qua Công ty luôn chú trọng phát triển nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi kiểu dáng, mẫu mã phong phú…do đó sản phẩm không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà chủ yếu ngày càng chiếm lĩnh thị trường quốc tế, tạo dựng được uy tín với khách hàng truyền thống như Nhật Bản, EU… Với những sản phẩm xuất khẩu chính như: khăn bông, áo choàng tắm, màn tuyn…đã tạo ra cho Công ty một nguồn doanh thu đáng kể, kim ngạch xuất khẩu qua các năm (thời kỳ1995-2003) đều có xu hướng tăng, lợi nhuận xuất khẩu là một nguồn thu chính của Công ty.Tuy nhiên trong bối cảnh tự do hoá thương mại ngày nay Công ty cũng vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ lớn mạnh trong ngành dệt may như Trung Quốc…Đây là những thách thức đòi hỏi Công ty cần có biện pháp giải quyết nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng kim ngạch xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Sau thời gian thực tập tại phòng kế hoạch thị trường ở Công ty cùng với những kiến thức đã được tích luỹ ở nhà trường, em đã chọn đề tài: ‘Nghiên cứu thống kê tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Dệt Minh Khai thời kỳ 1995-2003” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp bao gồm các phần sau: Chương I: Những vấn đề chung về xuất khẩu và phân tích thống kê hoạt động xuất khẩu. Chương II. Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích hoạt động xuất khẩu của Công ty Dệt Minh Khai thời kỳ (1995-2003) Chương III Một số kiến nghị và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty Dệt Minh Khai. Việc nghiên cứu đề tài không thể không tránh được những thiếu sót, em rất mong thầy hướng dẫn: PGS.TS Bùi Huy Thảo chỉ bảo để em hoàn thành tốt chuyên đề. Em xin chân thành cảm ơn thầy! Sinh viên thực hiện: Đỗ Thị Thuý Lớp: Thống kê 42 Chương I Những vấn đề chung về xuất khẩu và phân tích thống kê tình hình xuất khẩu I. Những vấn đề chung về xuất khẩu 1. Khái niệm Xuất khẩu hàng hoá được coi là một trong những hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất hiện từ lâu đời và ngày càng phát triển. Hàng hoá được vận chuyển qua biên giới quốc gia trong đó một nước đóng vai trò xuất khẩu hàng hoá một nước đóng vai trò nhập khẩu hàng hoá. Như vậy, xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá của quốc gia này cho một quốc gia khác trên cơ sở thanh toán bằng tiền tệ, tiền tệ có thể là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai quốc gia và các bên chủ thể phải có quốc tịch ở hai nước khác nhau. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống, trong các điều kiện kinh tế khác nhau, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến dịch vụ, tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị và khoa học kỹ thuật công nghệ cao. Tất cả các hoạt động đó đều mang lại lợi ích kinh tế cho các quốc gia tham gia. Hoạt động xuất khẩu là một lĩnh vực quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại đối với bất kỳ một quốc gia nào. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng ta tại Đại hội lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: “ Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển khoa học-kỹ thuật và công nghiệp hoá XHCN ở nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”. Xuất khẩu là một mũi nhọn quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, là một trong ba chương trình kinh tế lớn do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra: “ Trong toàn bộ hoạt động kinh tế, một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức tăng xuất khẩu”. Hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển và là nhân tố cơ bản thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhất là đối với các nước có nền kinh tế nhỏ và công nghệ lạc hậu như ở nước ta. Do đó mà ở nước ta hiện nay có một số hình thức xuất khẩu chủ yếu như sau: 1.1 Xuất khẩu tự doanh Xuất khẩu tự doanh là hoạt động xuất khẩu độc lập của một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí đảm bảo kinh doanh xuất khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách, pháp luật của quốc gia cũng như quốc tế. Trong xuất khẩu tự doanh, doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm trước mọi kết quả sản xuất kinh. Do đó doanh nghiệp phải thận trọng trong từng chiến lược từ bước nghiên cứu thị trường đến việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng vì doanh nghiệp phải tự bỏ vốn của mình ra, chịu mọi chi phí và rủi ro có thể xảy ra. 1.2 Xuất khẩu uỷ thác Xuất khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có nhu cầu xuất khẩu một số loại hàng hoá nhưng không đủ điều kiện để xuất khẩu đã uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức năng giao dịch ngoại thương tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục xuất khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác. Trong hoạt động xuất khẩu uỷ thác, doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ do không phải tiêu thụ hàng mà chỉ phải đứng ra thay mặt bên uỷ thác tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục xuất khẩu hàng hoá cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. 1.3 Xuất khẩu liên doanh Hoạt động xuất khẩu hàng hoá theo loại này dựa trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp nhằm phối hợp khả năng để cùng nhau giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho tất cả các bên, cùng chia lãi và cùng chịu lỗ. So với hình thức xuất khẩu tự doanh thì với hình thức này, doanh nghiệp ít phải chịu rủi ro hơn do mỗi doanh nghiệp liên doanh xuất khẩu chỉ góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng phân theo số vốn góp. 1.4 Xuất khẩu đổi hàng Xuất khẩu đổi hàng là hình thức xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu, thanh toán theo hình thức này không phải dùng tiền mà chuyển bằng hàng hoá. Với hình thức xuất khẩu này thì hàng hoá nhập và hàng hoá xuất phải tương đương nhau về giá trị, phải cân bằng về giá cả, bạn hàng bán và mua là một. 2. Bản chất Hoạt động xuất khẩu là một trong những hình thức biểu hiện của hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Nó được biểu hiện thông qua trao đổi hàng hoá dịch vụ của một nước này cho nước khác và dùng tiền tệ làm phương tiện trao đổi. Hoạt động xuất khẩu rất cần thiết vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu và khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu. Thương mại quốc tế cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với chất lượng và số lượng, mẫu mã cao hơn so với khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không giao lưu buôn bán với nước ngoài. Do đó, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng, thúc đẩy các nước mở rộng quan hệ trao đổi mua bán với nhau. Thế nhưng, xét một cách cụ thể thì nguyên nhân cơ bản và sâu xa của việc trao đổi mua bán hàng hoá là xuất phát từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên mà một nước có thể chuyên môn sản xuất một số mặt hàng có lợi thế hơn và xuất khẩu để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác nhằm mục đích lợi nhuận. Do đó hai bên cùng có lợi do có sự khác nhau về sở thích và lượng cầu đối với hàng hoá khi thực hiện trao đổi mua bán hàng hoá. Vì vậy, mặc dù với xuất phát điểm thấp và chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hàng của các quốc gia, nước ta vẫn có thể duy trì quan hệ thương mại với các nước đó. Vì thế, trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu luôn là mục tiêu chiến lược để phát triển kinh tế được Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu tại các hội nghị của Đảng và Nhà nước họp bàn. 3. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy cho phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu, cũng như tạo cơ sở cho phát triển các cơ sở hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động xuất khẩu có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, bởi lẽ mỗi quốc gia đều có một lợi thế so sánh riêng cho nên muốn kinh tế phát triển họ không thể không đem bán các sản phẩm có lợi thế của quốc gia mình. Đó là các vai trò sau: 3.1 Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Xuất khẩu là hoạt động mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn nhất. Xuất khẩu quyết định quy mô và tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu. Xuất khẩu là hoạt động tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho hoạt nhập khẩu máy móc thiết bị, khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nguồn vốn nhập khẩu chủ yếu được hình thành từ các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ…tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Việt Nam là một nước đang phát triển, nhu cầu nhập khẩu là rất lớn nhằm thoả mãn cho nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống nhân dân cho nên việc xuất khẩu ít hơn nhập khẩu là tất yếu. Nhưng việc nhập khẩu nhiều như hiện nay chỉ nên kéo dài trong một thời gian ngắn nữa vì nếu không nó sẽ dẫn đến mất cân bằng trong cán cân thương mại. Vì vậy, muốn phát triển sản xuất thì chúng ta cần phải đẩy mạnh xuất khẩu nhằm tạo thế vững chắc cho sự phát triển kinh tế của đất nước. 3.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Là một nước có nền kinh tế chậm phát triển, cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ thì vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cải thiện đời sống, tăng thu ngoại tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế là một chiến lược phát triển lâu dài. Để thực hiện được chiến lược lâu dài đó chúng ta phải nhận thức rõ được ý nghĩa của việc xuất khẩu hàng hoá: +Thông qua hoạt động xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh của ta có thể phát huy lợi thế so sánh, sử dụng hợp lý các nguồn lực, trao đổi và áp dụng được các thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại trên thế giới vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới và đưa đất nước tiến nhanh vào quá trình công nghiêp hoá- hiện đại hoá đất nước. +Thông qua hoạt động xuất khẩu, khả năng cạnh tranh trên thị trường được nâng cao nên hàng hoá có chất lượng ngày càng cao, mẫu mã sản phẩm ngày càng phong phú đa dạng đáp ứng được nhu cầu thị trường quốc tế. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi mỗi quốc gia phải luôn luôn tỏ chức lại và cải tiến sản xuất thích nghi với thị trường. Không những thế nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới hoàn thiện công việc và hoạch định chương trình sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp nhằm tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất và ổn định cơ cấu kinh tế tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào và máy móc thiết bị kỹ thuật để góp phần phát triển kinh tế nước nhà. Mặt khác hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt các ngành sản xuất khác phát triển, đồng thời cũng thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ hoạt động xuất khẩu như ngành bảo hiểm, hàng hải, thông tin liên lạc quốc tế dịch vụ tài chính quốc tế đầu tư...Xuất khẩu tạo điều kiện cho ngành khai thác có cơ hội phát triển thuận lợi, chẳng hạn như nếu phát triển ngành dệt xuất khẩu thì nó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các ngành như: tơ lụa, bông đay phát triển theo đồng thời thu hút được một số lượng lao động lớn vào làm trong các ngành đó. Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi mở rộng khả năng cung cấp đầu tư trở lại cho sản xuất, tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật đồng thời nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều đó chứng tỏ xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn đưa kỹ thuật công nghệ nước ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. 3.3 Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho người lao động. Việt Nam là một nước có dân số đông, cơ cấu dân số thuộc loại dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số dân của cả nước. Hàng năm, số người trong độ tuổi lao động được bổ sung khoảng 1,5-2 triệu người. Một đặc điểm của nước ta hiện nay là số lao động làm việc trong ngành nông nghiệp rất nhiều nên có hiện tượng thất nghiệp theo mùa vụ. Trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động ở nước ta, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động nhờ áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trên thế giới. +Thông qua xuất khẩu, quy mô của các ngành sản xuất hàng xuất khẩu sẽ được mở rộng, có thêm nhiều ngành nghề mới từ đó thu hút nhiều lao động vào làm việc với thu nhập cao và ổn định. + Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu các hàng hoá, vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. + Xuất khẩu phát triển là tiền đề cho các quan hệ kinh tế đối ngoại khác như du lịch, xuất khẩu sức lao động, tạo điều kiện đưa lực lượng lao động tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. 3.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Để thực hiện quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Đảng ta đã chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, trong đó chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đẩy mạnh các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu là một lĩnh vực của kinh tế đối ngoại nhưng có quan hệ mật thiết với các lĩnh vực như thu hút vốn đầu tư trực tiếp, vay tín dụng quốc tế, hợp tác và triển khai công nghệ mới. Khi xuất khẩu hàng hoá phát triển mạnh thì nó cũng thúc đẩy và đòi hỏi các hoạt động khác như: đầu tư, tín dụng, vận tải quốc tế phát triển theo. Mặt khác, chính các hoạt động kinh tế đối ngoại nêu trên lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. 4. Những ảnh hưởng của hoạt động xuất khẩu đến nền kinh tế. 4.1 Những ảnh hưởng tích cực Để đưa nền kinh tế hội nhập với thị trường quốc tế thì hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một nhu cầu tất yếu. Nó là động lực của phát triển đồng thời trực tiếp tham gia giải quyết những vấn đề thời sự của nền kinh tế. Nó có tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước thể hiện ở các mặt sau: + Xuất khẩu làm tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần vào việc cải thiện cán cân thanh toán, tăng lượng dữ trữ ngoại hối, tăng lượng nhập máy móc thiết bị để phát triển công nghiệp nước nhà. + Xuất khẩu làm tăng thu nhập, đảm bảo đầu vào cho sản xuất đồng thời tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động góp phần vào ổn định xã hội. + Xuất khẩu tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật đồng thời làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực đưa đất nước tiến nhanh trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đậi hoá đất nước. + Xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm và nâng cao tay nghề cho người lao động. 4.2 Những ảnh hưởng tiêu cực Trong quan hệ kinh tế đối ngoại thì bên cạnh những lợi thế đạt được thì hoạt động xuất khẩu cũng bộc lộ những khó khăn và thách thức sau: + Về văn hoá bản sắc dân tộc: Khi các quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng mở rộng thì sự trao đổi giao lưu văn hoá giữa các nước trên thế giới cũng đồng thời xảy ra. Do đó, nền văn hoá bản sắc dân tộc có nguy cơ bị mai một. + Về an ninh chính trị: Khi tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại không chỉ đơn thuần có những tính toán kinh tế mà còn có cả những mưu toan chính trị. Thực tế đã có những thế lực thù địch muốn thông qua chính sách kinh tế mà âm mưu tiến hành diễn biến hoà bình nhằm phá hoại lật đổ chế độ nước ta. II. Hệ thống chỉ tiêu thống kê tình hình xuất khẩu 1. Sự cần thiết xây dựng hệ thống chỉ tiêu Hệ thống chỉ tiêu thống kê là một tập hợp những chỉ tiêu phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng nhất, các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt của tổng thể và mối liên hệ của tổng thể với các hiện tượng có liên quan. Hệ thống chỉ tiêu được hình thành từ hai nguồn: + Từ những tổng hợp theo những biểu hiện trực tiếp gián tiếp của chỉ tiêu nghiên cứu. + Từ các nhóm chỉ tiêu được xây dựng cho nghiên cứu riêng. Việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê có tác dụng như sau: Lượng hoá các mặt, cơ cấu, mối liên hệ cơ bản của đối tượng nghiên cứu từ đó nhận thức được bản chất cụ thể và tính quy luật của hiện tượng. 2. Những nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê tình hình xuất khẩu Trên thực tế, các hiện tượng mà thống kê nghiên cứu đều rất phức tạp. Để phản ánh chính xác chúng, cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê theo các nguyên tắc nhất định nói chung, với hệ thống chỉ tiêu thống kê tình hình xuất khẩu nói riêng theo những căn cứ và yêu cầu sau: 2.1. Những căn cứ để xây dựng hệ thống chỉ tiêu Căn cứ vào mục đích nghiên cứu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp:’ Nghiên cứu thống kê tình hình xuất khẩu hàng dệt may’. Mục đích nghiên cứu của đề tài có vai trò quyết định trong việc lựa chọn chỉ tiêu thống kê phù hợp để phân tích. Căn cứ vào tính chất đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu tình hình xuất khẩu hàng dệt may với những đặc trưng riêng vốn có của ngành. Căn cứ vào khả năng thu thập tổng hợp chỉ tiêu thống kê của người nghiên cứu. Với nội dung đề tài trên, các chỉ tiêu thống kê có thể là: quy mô xuất khẩu, cơ cấu xuất khẩu, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động xuất khẩu. 2.2.Yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu Hệ thống chỉ tiêu phải có khả năng nêu được mối liên hệ giữa các bộ phận, các mặt, giữa hiện tượng nghiên cứu và các hiện tượng có liên quan trong phạm vi mục đích nghiên cứu, muốn vậy phải dựa trên các nguyên tắc sau: + Đảm bảo tính hiệu quả- hướng đích + Đảm bảo tính hệ thống + Đảm bảo tính khả thi Đối với đề tài về xuất khẩu, ta phải tiến hành phân tích lý luận về xuất khẩu và phân tích thống kê tình hình xuất khẩu để nghiên cứu bản chất của hiện tượng. Trong hệ thống chỉ tiêu phải có chỉ tiêu mang tính chất chung như quy mô xuất khẩu, các chỉ tiêu mang tính bộ phận và các chỉ tiêu nhân tố như chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động xuất khẩu nhằm phản ánh đầy đủ hiện tượng nghiên cứu. Phải đảm bảo thống nhất về nội dung phương pháp và phạm vi tính toán của các chỉ tiêu cùng loại. 3. Hệ thống chỉ tiêu thống kê xuất khẩu của doanh nghiệp 3.1 Chỉ tiêu phản ánh quy mô xuất khẩu( hiện vật, giá trị ) Lượng hàng hoá xuất khẩu là chỉ tiêu hiện vật chủ yếu áp dụng đối với các hàng hoá là sản phẩm vật chất, nó cho biết tổng lượng hàng hoá xuất khẩu trong một năm hoặc trong một giai đoạn là bao nhiêu, đơn vị tính là sản phẩm, tấn, chiếc... Đối với doanh nghiệp dệt may thì đơn vị tính của lượng hàng hoá xuất khẩu có thể là bao nhiêu sản phẩm khăn quy chuẩn, bao nhiêu vải tuyn khổ 1,8m… Trong thống kê chỉ tiêu lượng hàng hoá xuất khẩu có tác dụng như sau: + Là cơ sở để tính các chỉ tiêu giá trị xuất khẩu. + Là cơ sở để cân đối tình hình sản xuất của doanh nghiệp. + Là cơ sở để lập và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất và kinh doanh đối với từng loại sản phẩm. Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu là chỉ tiêu cho biết tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trong một năm hoặc trong một giai đoạn là bao nhiêu, đơn vị tính là VNĐ, USD… Kim ngạch xuất khẩu là chỉ tiêu tuyệt đối, nó phản ánh kết quả hoạt động xuất khẩu qua đó đánh giá được tiềm năng kinh tế của doanh nghiệp và hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp đó. Trong đó: Xi : Trị giá xuất khẩu theo mặt hàng i Pxk : Đơn giá mặt hàng i theo mức giá k : Lượng hàng của mặt hàng i theo mức giá k Trên thực tế, với bất kỳ một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu nào trên thương trường đều hiểu rõ: muốn tồn tại và kinh doanh càng có hiệu quả thì kim ngạch xuất khẩu phải càng lớn. 3.2 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Theo lý thuyết, tần số khi biểu hiện bằng số tương đối gọi là tần suất: Trong đó: Tần số fi ( i= 1,n ) là số lần lặp lại của các lượng biến hay là số đơn vị trong từng tổ. Tổng số đơn vị trong từng tổ Tần suất nói lên tỷ trọng của từng đơn vị tổng thể hay kết cấu đơn vị tổng thể. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các nhà quản lý kinh tế thường phân loại xuất khẩu theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng những nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Tuỳ mục đích nghiên cứu, có thể nghiên cứu cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo các tiêu thức thường được sử dụng, đó là: cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng, cơ cấu xuất khẩu theo thị trường, cơ cấu xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu. a. Cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng Đó là toàn bộ mặt hàng xuất khẩu hiện có trong danh mục hàng hoá của Việt Nam mà đơn vị sản xuất kinh doanh thương mại thực hiện xuất khẩu các mặt hàng này ra thị trường nước ngoài. Tỷ trọng hàng hoá phân theo mặt hàng được tính theo đơn vị giá trị. Từ công thức tính kim ngạch xuất khẩu ở trên ta có: Trong đó: X: Tổng kim ngạch xuất khẩu : Kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng i Do đó ta có thể tính tỷ trọng của hàng hoá như sau: b. Cơ cấu xuất khẩu theo thị trường (theo nước) Đó là tên các nước là thị trường xuất khẩu của đơn vị sản xuất kinh doanh thương mại trong thời kỳ báo cáo. Chỉ tiêu này được xác định để xem xét cơ cấu xuất khẩu của doanh nghiệp sang các nước để từ đó tìm ra nguồn xuất khẩu nào đem lại nhiều lợi ích lớn nhất, thị trường nào là lớn nhất đối với hàng hoá xuất khẩu của doanh nghiệp. Công thức tính kim ngạch xuất khẩu sang các nước ( các thị trường) Trong đó: X : Tổng kim ngạch xuất khẩu : Kim ngạch xuất khẩu sang nước i Chỉ tiêu này có thể tính cho từng doanh nghiệp, nó cho biết đâu là thị trường xuất khẩu chủ yếu và sự thay đổi của nó qua các năm. Ta có thể tính tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trường từ công thức tính toán ở trên như sau: Trong đó: : tỷ trọng xuất khẩu phân theo thị trường Tỷ trọng này cho biết trị giá một thị trường xuất khẩu của nước ta chiếm bao nhiêu % trong tổng số trị giá xuất khẩu sang các thị trường. c. Cơ cấu xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu Hiện nay, phương thức xuất khẩu chủ yếu là hai hình thức: xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp. Xuất khẩu trực tiếp cho các siêu thị và các công ty nước ngoài. Xuất khẩu gián tiếp thông qua sự hoạt động của các công ty thương mại trung gian trong và ngoài nước. 3.3 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động xuất khẩu Nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu luôn là mục tiêu phấn đấu của bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu, nó có ý nghĩa rất lớn như : tận dụng và tiết kiệm được các nguồn lực hiện có, nâng cao chất lượng, hạ giá thành, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động xuất khẩu có thể là chỉ tiêu tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả xuất khẩu với chi phí xuất khẩu (chỉ tiêu hiệu quả thuận) hoặc có thể là chỉ tiêu tuyệt đối: HQ=KQ-CP Các công thức tổng quát tính các chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu đầy đủ có dạng: Về kết quả xuất khẩu có thể sử dụng các chỉ tiêu sau: a) Chỉ tiêu lợi nhuận xuất khẩu: Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Lợi nhuận xuất khẩu là chỉ tiêu phản ánh phần giá trị thặng dư hoặc hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp thu được từ các hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. * Chỉ tiêu này được mô tả theo công thức sau: Lãi kinh doanh= Doanh thu kinh doanh – Chi phí kinh doanh ( kinh doanh từ hoạt động xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp ) * Nội dung kinh tế: + Lợi nhuận thu được từ kết quả hoạt động xuất khẩu. + Lợi nhuận thu từ hoạt động tài chính: Khi một đơn vị tiền tệ trong nước chi ra cho hàng xuất khẩu thông qua quan hệ ngoại tệ đem về bao nhiêu đơn vị ngoại tệ. + Lợi nhuận thu được từ hoạt động bất thường: Kết quả xuất khẩu các kỳ trước bỏ sót kỳ này tìm ra. Trong ba bộ phận trên thì lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận xuất khẩu của doanh nghiệp. * Tác dụng: Lợi nhuận xuất khẩu là chỉ tiêu quan trọng và quyết định sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp xuất khẩu. Nó là tiền đề để duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, để cải thiện va nâng cao mức sống của người lao động, là cơ sở để doanh nghiệp lập ra các quỹ: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi… Doanh nghiệp có làm ăn hiệu quả thì đất nước mới giàu có, phát triển. Ngược lại làm ăn kém sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản. b) Doanh thu xuất khẩu: là tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu tiêu thụ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị hàng hoá xuất khẩu mà doanh nghiệp đã bán ra thu được tiền trong kỳ báo cáo. * Chỉ tiêu này có nội dung kinh tế như sau: + Giá trị xuất khẩu sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành, đã tiêu thụ ngay trong kỳ báo cáo. + Giá trị xuất khẩu sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành đã giao dịch cho người mua trong cả kỳ trước và nhận được thanh toán trong kỳ báo cáo. * Phương pháp tính: Pij : giá bán đơn vị sản phẩm i bán ở thời điểm j Qij : lượng sản phẩm i bán ở thời điểm j trong kỳ báo cáo Do tính theo giá bán thực tế mà chỉ tiêu doanh thu xuất khẩu của các doanh nghiệp tính theo mức độ: + Doanh thu bán hàng thuần: là tổng doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu và các khoản giảm trừ khác phát sinh trong kỳ báo cáo như giảm giá hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại, các khoản đền bù sửa chữa hàng hoá xuất khẩu hư hỏng còn trong thời hạn bảo hành. c) Giá trị sản xuất (GO) của sản phẩm xuất khẩu. Giá trị sản xuất công nghiệp là toàn bộ giá trị của các sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu ích do lao động công nghiệp của doanh nghiệp xuất khẩu làm ra trong một thời kỳ. * ý nghĩa của chỉ tiêu GO trong hoạt động sản xuất công nghiệp: + Phản ánh quy mô về kết quả của hoạt động sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp xuất khẩu. + Là cơ sở tính các chỉ tiêu VA và NVA của doanh nghiệp xuất khẩu. + Là căn cứ tính các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp xuất khâủ. * Phương pháp tính GO của sản phẩm xuất khẩu cũng giống như phương pháp tính của GO của hoạt động sản xuất công nghiệp chỉ khác ở chõ trong doanh nghiệp xuất khẩu, nó chỉ tính cho sản phẩm xuất khẩu. GO của hoạt động sản khẩu tính theo giá sử dụng cuối cùng gồm các yếu tố sau: (+) Doanh thu thuần của hoạt động sản xuất công nghiệp (gồm doanh thu thuần bán sản phẩm hàng hoá công nghiệp và doanh thu thuần cung cấp dịch vụ sản xuất công nghiệp). (+) Trợ cấp của Nhà nước. (+) Chênh lệch (cuối kỳ trừ đầu kỳ) của sản phẩm trung gian, công cụ mô hình tự chế. (+) Chênh lệch (cuối kỳ trừ đầu kỳ) hàng gửi bán. (+) Thuế sản xuất khác. (=) Giá trị sản xuất theo giá cơ bản. (+) Thuế sản phẩm. (=) Giá trị sản xuất theo giá sản xuất . (+) Cước vận tải và phí thương nghiệp. (=) Giá trị sản xuất theo giá sử dụng cuối cùng. d) Giá trị gia tăng (VA) Giá trị gia tăng là phần giá trị tăng thêm của kết quả sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp xuất khẩu trong một thời kỳ, được tạo ra bởi hai yếu tố sản xuất có vai trò tích cực là lao động sống và tư liệu lao động. Vì vậy chỉ tiêu bao gồm giá trị mới sáng tạo của lao động và giá trị chuyển dịch( hay hoàn vốn) của tài sản cố định. Đây là chỉ tiêu tính theo phương pháp SNA, có cấu thành giá trị: VA=( V+M ) + C1 * ý nghĩa của chỉ tiêu này: + Đánh giá vai trò của mỗi yếu tố trong hai yếu tố tích cực. + Xem xét mối quan hệ phân chia lợi ích giữa người lao động (V) với doanh nghiệp (lãi ròng) và nhà nước (VAT). + Phản ánh thành quả lao động của doanh nghiệp xuất khẩu và mức đóng góp đích thực của mỗi doanh nghiệp vào kết quả sản xuất của nền kinh tế. + Đảm bảo sự công bằng hợp lý trong việc tính toán thuế VAT. * Phương pháp tính VA Chỉ tiêu được tính theo hai phương pháp cho sản phẩm xuất khẩu: + Phương pháp sản xuất Giá trị Giá trị Chi phí gia tăng = sản xuất - trung gian (VA) (GO) (IC) + Phương pháp phân phối Giá trị Thu nhập lần Thu nhập lần Khấu hao gia tăng = đầu của lao + đầu của doanh + TSCĐ (VA) động (V) nghiệp (M) (C1) Trong đó: V- Thu nhập lần đầu của lao động, gồm: + Tiền lương hoặc thu nhập theo ngày công của người lao động (nhận dưới hình thức tiền mặt và cả bằng hiện vật). + BHXH (gồm BHXH trả thay lương và phần đóng góp của doanh nghiệp về BHXH và BHYT cho người lao động). + Các khoản thu nhập ngoài lương hoặc ngoài thu nhập theo ngày công (như chi ăn trưa, ca 3, chi lương cho ngày nghỉ việc, bồi dưỡng nghiệp vụ) mà doanh nghiệp trả trực tiếp cho người lao động). M- Thu nhập lần đầu của doanh nghiệp, gồm các khoản: + Thuế sản xuất (trừ trợ cấp) gồm: thuế sản phẩm, thuế sản xuất khác. + Lãi trả tiền vay ngân hàng (không kể chi phí dịch vụ ngân hàng đã tính vào IC) và phần thu trên vốn (đối với các DNNN). + Mua bảo hiểm nhà nước (không kể BHXH, BHYT cho CBCNV). + Thuế thu nhập (thuế lợi tức). + Phần còn lại là lãi ròng của hoạt động công nghiệp của doanh nghiệp, dùng để chia cho các chủ sở hữu vốn và trích lập các quỹ của doanh nghiệp. C1 - Khấu hao tài sản cố định dùng vào sản xuất, kinh doanh công nghiệp. Để tính được VA theo phương pháp sản xuất cần phải xác định được chi phí trung gian. * Chi phí trung gian ( IC ) Chi phí trung gian là chi phí sử dụng đối tượng lao động cho sản phẩm trung gian để làm ra sản phẩm cuối cùng trong một thời kỳ và do đó là bộ phận cấu thành quan trọng của tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, được tính theo phương pháp SNA phục vụ cho việc xác định chỉ tiêu giá trị gia tăng. Chi phí trung gian của hoạt động xuất khẩu gồm toàn bộ chi phí về vật chất khác (không kể khấu hao về TSCĐ) và chi phí về dịch vụ cho sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp. -- Chi phí vật chất khác, gồm có: + Nguyên, vật liệu chính; + Vật liệu phụ, bao bì; + Nửa thà._.nh phẩm mua ngoài; + Điện năng mua ngoài; + Nhiên liệu, chất đốt; + Công cụ lao động nhỏ; + Vật tư đưa vào sửa chữa thường xuyên TSCĐ; + Dụng cụ bảo vệ sản xuất và phòng cháy chữa cháy; + Trang phục bảo hộ lao động; + Chi phí văn phòng phẩm; + Chi phí vật chất khác; -- Chi phí dịch vụ, gồm có: + Công tác phí; + Tiền thanh toán các hợp đồng sản phẩm hay dịch vụ thuê ngoài mà nguyên, vật liệu do doanh nghiệp cung cấp; + Tiền thuê nhà cửa, máy móc, thiết bị, kho, bãi; + Tiền thuê sửa chữa nhỏ, bảo dưỡng TSCĐ; + Tiền trả công đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho CNVC; + Tiền trả cho sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và nghiên cứu khoa học; + Tiền chi cho dịch vụ pháp lý, tư vấn kinh doanh; + Cước phí vận tải và bưu điện, lệ phí bảo hiểm nhà nước về nhà cửa, tài sản và an toàn sản xuất, kinh doanh, lệ phí dịch vụ ngân hàng; + Chi phí PCCC, bảo vệ an ninh và vệ sinh khu vực; + Tiền thuê quảng cáo, thông tin, kiểm toán; + Tiền trả cho các dịch vụ khác: in, sao, chụp tài liệu… e) Giá trị gia tăng thuần (NVA) Giá trị gia tăng thuần là chỉ tiêu biểu hiện phần gía trị mới sáng tạo của lao động sống làm ra trong kỳ của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này nói lên vai trò của lao động trong việc tạo ra nguồn thu nhập cho các đối tượng khác nhau và sự đóng góp của lao động doanh nghiệp vào kết quả lao động chung của nền kinh tế. Vì vậy, NVA là cơ sở: + Tính chỉ tiêu VA; + Nghiên cứu quan hệ thu nhập giữa người lao động doanh nghiệp nhà nước. * Phương pháp tính NVA NVA được tính theo hai phương pháp: + Phương pháp sản xuất GTGT thuần (NVA) = GTGT (VA) – Khấu hao (C1) + Phương pháp phân phối Giá trị gia Thu nhập lần Thu nhập lần tăng thuần = đầu của lao + đầu của doanh (NVA) động (V) nghiệp (M) Về chi phí xuất khẩu Chi phí chung cho xuất khẩu: Các chi phí này bao gồm phần chi phí của cơ quan xuất khẩu như chi phí về lao động, chi phí về vốn, chi phí về đất đai… * Chi phí về lao động: + Tổng số giờ- người làm việc trong kỳ + Tổng số ngày- người làm việc trong kỳ + Số lao động làm việc bình quân trong kỳ + Tổng quỹ lương + Tổng quỹ phân phối lần đầu cho người lao động * Chi phí về vốn: + Tổng vốn có bình quân trong kỳ + Vốn cố định có bình quân trong kỳ + Vốn lưu động có bình quân trong kỳ + Tổng gía trị khấu hao có trong kỳ + Tổng chi phí sản xuất trong kỳ + Tổng chi phí trung gian trong kỳ * Chi phí đất đai: + Tổng diện tích mặt bằng của doanh nghiệp + Tổng diện tích sử dụng vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp * Chi phí cho các chuyến đi sang các thi trường nước ngoài, nghiên cứu thị trường để phát triển và chỉnh lý sản phẩm sao cho thích ứng… Tất cả những chi phí này phát sinh bất chấp khối lượng bán là bao nhiêu và ở mức độ nào đó phát sinh trước cả khi tiến hành xuất khẩu. Tuy nhiên chúng vẫn phải được bù đắp và do đó phải được gộp vào giá bán của nhà xuất khẩu. Ngoài chi phí sản xuất sản phẩm để xuất khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu còn phải bỏ ra một số khoản chi phí nhất định khác gọi là chi phí xuất khẩu trực tiếp. Chi phí xuất khẩu trực tiếp: Các hạng mục chi phí này liên quan trực tiếp đến khối lượng hàng hoá xuất khẩu bán ra. Các khoản này bao gồm: hoa hồng đại lý, cước phí chuyên chở, phí bảo hiểm, chi phí lập chứng từ và thu thập chứng từ xuất khẩu, phí cảng bãi và dỡ hàng, thuế hải quan và các khoản thuế khác đánh vào nhập khẩu. Người sản xuất không phải gánh chịu toàn bộ tất cả các khoản chi phí này. Những khoản phí nào anh ta phải gộp vào giá bán của mình là tuỳ thuộc vào điều kiện bán hàng và thanh toán mà anh ta thương lượng với người mua. Chi phí Marketing xuất khẩu: Các chi phí cho quảng cáo, khuếch trương xuất khẩu và các hoạt động hỗ trợ marketing xuất khẩu khác trên thị trường nước ngoài cũng sẽ phát sinh. Người xuất khẩu sẽ phải gánh chịu hoàn toàn các chi phí này hoặc chúng được phân bổ một phần cho người phân phối hoặc người mua nước ngoài. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động xuất khẩu Ngoài chỉ tiêu lợi nhuận xuất khẩu để đánh giá hiệu quả xuất khẩu, chúng ta còn cần nghiên cứu một số chỉ tiêu khác sau đây: a) Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu. Sự tiết kiệm lao động xã hội thu được thông qua xuất khẩu phụ thuộc vào mối tương quan cụ thể giữa giá trị quốc tế và giá trị dân tộc của hàng hoá được xuất khẩu. Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng cách so sánh số ngoại thu được do XK (giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu đó (giá trị dân tộc của hàng hoá). Trong đó: Hx: là hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu Tx : là doanh thu (bằng ngoại tệ) từ việc xuất khẩu đơn vị hàng hoá, dịch vụ (giá quốc tế). Cx : là tổng chi phí của việc sản xuất sản phẩm xuất khẩu, bao gồm cả vận tải đến cảng xuất (giá trong nước). Chỉ tiêu này cho ta biết số thu bằng ngoại tệ đối với đơn vị chi phí trong nước. Công thức này được vận dụng để tính hiệu quả xuất khẩu của từng mặt hàng, hoặc hiệu quả xuất khẩu sang từng nước, khu vực thị trường. Để tính chính xác hiệu quả xuất khẩu của từng doanh nghiệp hoặc của từng mặt hàng thì điều quan trọng là phải tính đầy đủ, chính xác các chi phí bỏ ra cho việc xuất khẩu đó. Trong điều kiện hiện nay, đây quả là một công việc phức tạp và khó khăn. Nếu doanh nghiệp nào đó xuất khẩu không phải 1 sản phẩm, mà có nhiều mặt hàng xuất khẩu sang nhiều thị trường và đồng tiền thanh toán khác nhau thì vấn đề càng phức tạp hơn. Và trong trường hợp đó, khẳng định chính xác mặt hàng này xuất khẩu có lãi, mặt hàng xuất khẩu kia bị lỗ thì độ tin cậy rất thấp. Đây là một thực tiễn hiện nay tại các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, việc tính toán đầy đủ các chi phí đầu vào, có hướng giảm tối thiểu các chi phí để nâng cao doanh lợi là hết sức cần thiết. b) Doanh lợi xuất khẩu Việc tính toán hiệu quả kinh tế xuất khẩu theo các cách tính toán trên gặp không ít khó khăn do việc tính toán chi phí kinh tế của hàng hoá xuất khẩu. Để giúp ta tính toán và so sánh dễ dàng những kết quả hoạt động xuất khẩu người ta dùng chỉ tiêu doanh lợi để xem xét. Doanh lợi xuất khẩu phản ánh kết quả tài chính của hoạt động xuất khẩu, nghĩa là nó phản ánh những kết quả bằng tiền thực tế thu được và những chi phí thực tế bỏ ra cho những kết quả đó, giá tính doanh lợi được tính toán trên cơ sở giá hiện hành (giá tính toán của kế toán doanh nghiệp). Vì vậy, về mặt lượng nó không trùng hợp với chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xuất khẩu đã xem xét. Trong đó: Dx : Doanh lợi xuất khẩu Tx : Thu nhập về bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được chuyển đổi ra tiền Việt nam theo tỷ giá công bố mua của Ngân hàng ngoại thương (sau khi trừ mọi chi phí bằng ngoại tệ). Cx : Tổng chi phí cho việc xuất khẩu. c) Các chỉ tiêu hiệu quả trên cơ sở tài liệu thống kê về kết quả và chi phí ở trên. Tuỳ theo số chỉ tiêu kết quả và số chỉ tiêu chi phí thu thập được mà ta có thể tính được một số chỉ tiêu hiệu quả. Giả sử ta thu thập được các chỉ tiêu kết quả là: GO, VA, NVA, doanh thu xuất khẩu (DT), lợi nhuận xuất khẩu (M) và các chỉ tiêu chi phí là: Số lao động làm việc bình quân trong kỳ (L), số vốn cố định có bình quân trong kỳ (Vc), và tổng chi phí sản xuất (C). Với số chỉ tiêu kết quả và chi phí như vậy có thể tính được các chỉ tiêu hiệu quả đầy đủ dưới dạng thuận như sau: + Năng suất lao động tính theo + Hiệu năng (hay năng suất) vốn cố định tính theo + Hiệu năng (hay năng suất) chi phí tính theo + NSLĐ tính theo + Hiệu năng (hay năng suất) VCĐ tính theo + Hiệu năng (hay năng suất) chi phí tính theo + Tỷ suất lợi nhuận tính theo lao động = + Tỷ suất lợi nhuận tính theo VCĐ = Tương tự như vậy có thể lập bảng tính hiệu quả toàn phần cho các chỉ tiêu khác dưới dạng thuận và dạng nghịch. III. các phương pháp Thống kê phân tích tình hình xuất khẩu của doanh nghiệp 1. Phương pháp phân tổ Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hay một số tiêu thức nào đó để tiến hành phân chia các đơn vị thuộc hiện tượng nghiên cứu thành các tổ và các tiểu tổ có tính chất khác nhau. Phân tổ thống kê được dùng trong tất cả các giai đoạn của qúa trình nghiên cứu thống kê và là phương pháp cơ bản của tổng hợp thống kê, là một trong các phương pháp phân tích thống kê. Phân tổ có thể theo tiêu thức thuộc tính hoặc số lượng. Đối với một doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu dệt may trên thị trường thì chủ yếu phân tổ sản phẩm theo các loại mặt hàng, theo thị trường xuất khẩu, theo phương thức xuất khẩu. Qua đó đánh giá được tình hình thực hiện kế hoạch, chính sách và rút ra được kinh nghiệm cho những lần sau. Đây chủ yếu là các hình thức phân tổ giản đơn theo một tiêu thức. 2. Phương pháp dãy số thời gian Mặt lượng của hiện tượng thường xuyên biến động qua thời gian. Trong thống kê, để nghiên cứu sự biến động này người ta thường dựa vào dãy số thời gian. Dãy số thời gian là dãy các trị số của một chỉ tiêu thống kê nào đó được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển, đồng thời để dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai. Mỗi dãy số thời gian đựoc cấu tạo bởi hai thành phần là thời gian và chỉ tiêu về hiện tượng được nghiên cứu. Thời gian ở đây có thể là ngày, tuần, tháng, quý, năm… Độ dài giữa hai thời gian liền nhau được gọi là khoảng cách thời gian. Chỉ tiêu về hiện tượng được nghiên cứu có thể là số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân. Trị số của chỉ tiêu gọi là mức độ của dãy số. Căn cứ vào đặc điểm tồn tại về quy mô của hiện tượng qua thời gian có thể phân biệt dãy số thời kỳ và dãy số thời điểm. Dãy số thời kỳ biểu hiện (quy mô) khối lượng của hiện tượng trong từng khoảng thời gian nhất định. Dãy số thời điểm biểu hiện (quy mô) khối lượng của hiện tượng tại những thời điểm nhất định. Đối với một doanh nghiệp xuất khẩu, đó có thể là tài liệu về kim ngạch xuất khẩu qua các năm 1995-2003. Đây là dãy số thời kỳ biểu hiện quy mô (khối lượng) của hiện tượng trong từng khoảng thời gian nhất định. Đối với quá trình xuất khẩu thì có thể áp dụng các dãy số thời kỳ khi tính toán và phân tích chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu nhằm phản ánh kết quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, qua đó có thể nhìn nhận những thiếu sót của hoạt động xuất khẩu. Bởi lẽ trong các dãy số thời kỳ các mức độ nghiên cứu là những số tuyệt đối thời kỳ, vì thế độ dài của khoảng cách thời gian có ảnh hưởng đến trị số của chỉ tiêu. Do đó ta có thể cộng trừ các trị số của chỉ tiêu để phản ánh quy mô của hịên tượng trong những khoảng thời gian dài hơn. Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của kim ngạch xuất khẩu, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển đồng thời dự đoán ngắn hạn kim ngạch xuất khẩu, trong tương lai như dựa vào mức độ trung bình, lượng tăng giảm, tốc độ phát triển… 3.Phương pháp chỉ số Chỉ số là một số tương đối được biểu hiện bằng lần hoặc % tính bằng cách so sánh hai mức độ của hiện tượng. Phương pháp chỉ số có tác dụng nêu lên sự biến động của hiện tượng qua thời gian như chỉ số giá theo thời gian. Phương pháp chỉ số có tác dụng nêu lên sự biến động của hiện tượng qua không gian. Phương pháp chỉ số có tác dụng nêu lên nhiệm vụ kế hoạch xuất khẩu của doanh nghiệp và tình hình thực hiện kế hoạch đó. Phương pháp chỉ số có tác dụng phân tích ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với sự biến động của toàn bộ hiện tượng như doanh thu xuất khẩu phụ thuộc vào hai nhân tố: giá bán đơn vị và lượng hàng hoá tiêu thụ. Như vậy phương pháp chỉ số có tác dụng tổng hợp sự biến động và phân tích các nhân tố gây nên sự biến động đó. Căn cứ vào tính chất của từng chỉ tiêu nghiên cứu có các chỉ số chỉ tiêu chất lượng và chỉ số chỉ tiêu khối lượng: + Chỉ số chỉ tiêu số lượng nói lên biến động của các chỉ tiêu khối lượng như lượng hàng hoá xuất khẩu. + Chỉ số chỉ tiêu chất lượng nói lên biến động của các chỉ tiêu chất lượng như giá xuất khẩu. Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu khác nhau mà chúng ta sử dụng mỗi loại chỉ số thích hợp. Ngoài ra khi nghiên cứu biến động của các thành phần tới tổng thể chúng ta còn sử dụng hệ thống chỉ số để nhằm xác định vai trò và ảnh hưởng của mỗi nhân tố đối với biến động của hiện tượng nhiều yếu tố. 4. Phương pháp hồi quy- tương quan Theo quan điểm của duy vật biện chứng thì các hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Không có một hiện tượng nào phát sinh phát triển một cách cô lập, tách rời các hiện tượng khác. Vì vậy, việc nghiên cứu các mối liên hệ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của thống kê. Trên cơ sở dãy số thời gian, người ta tìm ra một hàm số (gọi là phương trình hồi quy) để phản ánh sự biến động của hiện tượng qua thời gian. Yt : múc độ lý thuyết ao, a1…. an :các tham số t: thứ tự thời gian Để lựa chọn đúng đắn các dạng phương trình hồi quy đòi hổi phải dựa vào sự phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian, đồng thời kết hợp một số phương pháp đơn giản khác như dựa vào đồ thị, dựa vào đọ tăng giảm tuyệt đối… Trong thống kê xuất khẩu thì phương pháp hồi quy tương quan được thể hiện khi phân tích mối liên hệ chặt chẽ giữa giá (tiêu thức nguyên nhân) và lượng ( tiêu thức kết quả) của những mặt hàng xuất khẩu. Các tham số a,b thường được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất: Đối với dãy số thời gian áp dụng để viết phương trình hồi quy cho tình hình xuất khẩu ta thường áp dụng phương trình bậc nhất: Yx= a*X + b X: trị số của tiêu thức nguyên nhân Y: trị số của tiêu thức kết quả Chương II. Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích hoạt động xuất khẩu của Công ty dệt minh khai thời kỳ (1995-2003) I. khái quát về Công ty Dệt Minh Khai Quá trình hình thành và phát triển của công ty dệt Minh Khai Quá trình hình thành Công ty dệt Minh Khai là một doanh nghiệp Nhà Nước, một đơn vị kinh doanh thuộc sự quản lý của Sở Công Nghiệp Hà Nội thành lập vào năm 1974 theo quyết định của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội với tên gọi là Nhà máy dệt khăn mặt khăn tay. Trước đây Nhà máy Dệt khăn mặt, khăn tay được khởi công xây dựng từ những năm cuối của thập kỷ 1960 cho đến những năm đầu của thập kỷ 1970. Thế nhưng lúc bấy giờ, cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc Việt Nam đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Cho nên mãi đến năm 1974 về cơ bản Công ty mới được xây dựng xong và được chính thức thành lập theo quyết định của Uỷ ban nhân dân Thành phố, chính vào năm đó Công ty đã bước đầu đi vào sản xuất thử và đến năm 1975 Nhà máy Dệt khăn mặt khăn tay chính thức nhận kế hoạch Nhà nước giao. Trong thời gian này, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà máy Dệt khăn mặt, khăn tay là sản xuất các sản phẩm dệt may như sản xuất: khăn mặt, khăn bông, khăn tắm …nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Sau đó vào năm 1983 đổi tên thành Nhà máy dệt Minh Khai. Vào năm 1992 công ty được thành lập lại theo quyết định 338/TTg của Thủ tướng Chính phủ trong đó toàn bộ số vốn của công ty hoạt động là 8,680 tỷ đồng vốn kinh doanh bao gồm: Vốn ngân sách cấp: 1,3 tỷ đồng Vốn huy động ( vốn vay): 7.38 tỷ đồng Năm 1994 công ty đổi tên thành: Công ty dệt Minh Khai để thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Hiện nay tên công ty vẫn được giữ nguyên theo tên gọi năm 1994, đó là: Tên công ty: Công ty dệt Minh Khai Tên giao dịch quốc tế : Minh Khai Textile Company Trụ sở chính: 423 Minh Khai- Hai Bà Trưng- Hà Nội Công ty luôn chú trọng hoàn thiện nhà xưởng, nâng cao máy móc thiết bị, đào tạo thêm lao động mới… làm cho việc sản xuất đi vào ổn định, nâng cao hiệu quả sản xuất… Hiện nay, với diện tích khoảng gần 5 ha, với tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty là 1020 người có trong danh sách Số ca làm việc trong ngày: 3 ca ( tuỳ theo phân xưởng ) Số giờ làm việc mỗi ca: 8h Số ngày làm việc trong năm: 350 ngày Đầu năm 2000 nguồn vốn của Công ty là: +Vốn cố định: 10.294.447.616đ +Vốn lưu động: 4.458.512.667đ Hiện nay, nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là ngoài việc sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa Công ty còn tiến hành các hoạt động xuất khẩu các sản phẩm ra thị trường thế giới. Do đó, công ty có một vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp Hà nội, tạo công ăn việc làm cho người lao động. 1.2. Quá trình phát triển của Công ty dệt Minh Khai a. Giai đoạn mới thành lập 1974-1980 Trong khoảng thời gian đầu mới được thành lập và chính thức đi vào hoạt động Công ty gặp rất nhiều khó khăn do nhà xưởng xây dựng chưa hoàn thiện, máy móc thiết bị đều do Trung quốc viện trợ, khâu lắp đặt không đồng bộ, có nhiều khâu hoạt đông theo phương pháp thủ công. Ban đầu Công ty chỉ được trang bị với 260 số máy dệt thoi của Trung quốc và tài sản cố định khi đó chỉ có gần 3 triệu đồng. Trong khi đó, lực lượng lao động lành nghề còn thiếu, cán bộ công nhân viên còn thiếu chuyên môn nghiệp vụ,chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Thế nhưng, đội ngũ cán bộ công nhân viên Công ty đã mạnh dạn đưa vào sản xuất mặt hàng khăn bông với nhiều thông số kỹ thuật không có sẵn mà phải vừa làm vừa tìm tòi, nghiên cứu. Vì thế, trong những năm đầu tiến hành sản xuất Công ty chỉ mới đưa vào hoạt động được hơn 100 máy dệt (thừa gần 160 máy dệt thoi ), số cán bộ công nhân viên là 415 người. Năm 1975 Công ty chính thức nhận kế hoạch Nhà nước giao và Công ty tiến hành sản xuất đạt mức: +Sản phẩm chủ yếu đạt gần 2 triệu khăn bao gồm nhiều loại +Giá trị tổng sản lượng gần 2,5 triệu đồng Mặc dù có những khó khăn nhất định vào thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc đang ở giai đoạn ác liệt nhưng cán bộ công nhân viên Công ty đã có những cố gắng nỗ lực nhất định hoàn thành các chỉ tiêu đề ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân đồng thời với sự giúp đỡ quan tâm của các lãnh đạo ban ngành thành phố Công ty đã khắc phục những khó khăn, dần đi vào ổn định xây dựng và hoàn thiện dây chuyền sản xuất, lao động được bổ sung cả về số lượng lẫn chất lượng. Do đó mà năng suất lao động và doanh thu ngày càng được tăng thêm. b. Giai đoạn 1981-1989 Giai đoạn này Công ty phát triển với tốc độ cao là do được thành phố đầu tư thêm cho một dây chuyền công nghệ dệt kim đan dọc để dệt các loại vải rèm, tuyn, valide. Do vậy, vào thời điểm này Công ty được giao cùng một lúc quản lý và triển khai thực hiện hai quy trình công nghệ dệt khác nhau là dệt thoi và dệt kim. Để không ngừng nâng cao năng lực sản xuất Công ty đã tập trung đầu tư theo chiều sâu với các biện pháp kinh tế kỹ thuật nhằm đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, đưa dần toàn bộ những máy móc thiết bị ở khâu đầu dây chuyền sản xuất như: nồi hơi, nồi nấu áp lực, máy nhuộm, máy sợi đi vào hoạt động sản xuất. Do đó mà Công ty đã chấm dứt được tình trạng khâu đầu của dây chuyền sản xuất không hoạt động được phải làm theo phương pháp thủ công. Trong giai đoạn này để giải quyết những khó khăn về nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ, để chủ động sản xuất kinh doanh Công ty đã chủ động chuyển hướng sang việc sản xuất chủ yếu phục vụ cho hoạt động xuất khẩu (ở cả hai thị trường XHCN và TBCN). Năm 1981, công ty đã ký hợp đồng xuất khẩu dài hạn sang nước CHDC Đức và sau đó ký hợp đồng xuất khẩu sang Liên xô. Công ty xuất khẩu sản phẩm khăn sang thị trường Nhật bản vào năm 1983 và từ đó cho đến nay lượng xuất khẩu sang thị trường này ngày càng tăng và đang dần trở thành một thị trường xuất khẩu chính của Công ty trong những năm gần đây. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty từ 1981-1989 luôn đạt mức tăng trưởng cao từ 9-11%/ năm, nhất là với chỉ tiêu doanh thu xuất khẩu. c. Giai đoạn từ 1990 đến nay Trong lúc đó nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế quản lý mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội VI và VII của Đảng, tình hình chính trị trên thế giới có nhiều biến động nhất là đối với các nước XHCN. Hệ thống XHCN sụp đổ ở Liên xô và các nước Đông âu đã làm cho nhiều Doanh nghiệp Nhà nước trong đó có Công ty dệt Minh Khai gặp phải nhiều khó khăn. Vì thế, các quan hệ bạn hàng truyền thống của Công ty với các nước này không còn, công ty mất đi một thị trường xuất khẩu quan trọng. Đây là thời kỳ Công ty gặp phải nhiều khó khăn nhất trong suốt quá trình 30 năm hình thành, xây dựng và phát triển Công ty. Máy móc thiết bị của Trung quốc được đầu tư ở giai đoạn trước đã lỗi thời và lạc hậu, vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh còn thiếu nhiều không đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Đội ngũ lao động lành nghề còn thiếu, số lượng lao động quá đông không phù hợp và không dễ thích nghi với cơ chế mới vì đã quá quen với cơ chế bao cấp. Trong lúc nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế quản lý mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội VI và VII của Đảng, tình hình chính trị trên thế giới có nhiều biến động nhất là đối với các nước XHCN. Hệ thống XHCN sụp đổ ở Liên xô và các nước Đông âu đã làm cho nhiều Doanh nghiệp Nhà nước trong đó có Công ty dệt Minh Khai gặp phải nhiều khó khăn. Vì thế, các quan hệ bạn hàng truyền thống của Công ty với các nước này không còn, công ty mất đi một thị trường xuất khẩu quan trọng. Đứng trước những khó khăn trên, bằng những cố gắng nỗ lực của cán bộ công nhân viên Công ty, sự quan tâm hỗ trợ nhiệt tình của các ban ngành lãnh đạo thành phố Hà nội và nhất là sự chỉ đạo của sở Công nghiệp Hà nội Công ty đã tập trung giải quyết những vấn đề như: thị trường, vốn, lao động…và không ngừng đầu tư thêm trang thiết bị mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chăm lo tốt đời sống cán bộ công nhân viên, hoàn thành nhiệm vụ Nhà nước giao. Sau đây là bảng số liệu thống kê tình hình xuất khẩu của Công ty Dệt Minh Khai Bảng 1: Bảng số liệu doanh thu xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai thời kỳ 1995-2003 Năm Chi tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Doanh thu (trđ) 51600 52550 54000 54520 64550 67200 77600 81930 81930 Doanh thu xuất khẩu(trđ) 39216 40989 43038 47700 56500 53400 68800 68920 69930 Tỷ trọng xuất khẩu ( % ) 76 78 79,7 87,49 87,53 79,46 88,66 84,12 85,35 Qua bảng số liệu có thể thấy hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động chủ yếu đối với Công ty Dệt Minh Khai. Hàng năm, doanh thu xuất khẩu luôn có xu hướng tăng và chiếm một tỷ trọng lớn từ 76-85% tổng doanh thu mỗi năm. Nhìn lại quá trình 30 năm xây dựng và phát triển Công ty Dệt Minh Khai tuy có những thăng trầm song Công ty đã khẳng định được vị trí của mình là một doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh có hiệu quả, góp phần quan trọng trong sự phát triển của nước nhà. 2. Đặc điểm về chức năng và nhiệm vụ sản xuất của Công ty Trong qúa trình phát triển Công ty Dệt Minh Khai ngay từ khi mới được thành lập đã được Nhà nước giao cho thực hiện với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là chuyên sản xuất các loại sản phẩm như khăn mặt, khăn tắm, màn tuyn, áo choàng tắm, rèm cửa … phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài nhằm tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu ngoại tệ và góp phần phát triển kinh tế nước nhà. Do đó, trong quá trình phát triển của mình Công ty không ngừng đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ, nâng cao mẫu mã chủng loại, nâng cao chất lượng hàng hoá…nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường. Công ty sản xuất kinh doanh không theo một kế hoạch dài hạn mà theo từng năm. hiện nay Công ty sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng mà chủ yếu là khách hàng Nhật bản- một thị trường truyền thống của Công ty trong những năm qua. 3. Cơ cấu bộ máy quản lý và cơ cấu tổ chức sản xuất của Công ty Giám đốc Phó Giám đốc phụ trách kỹ thuật Phó Giám đốc phụ trách sản xuất Phòng kỹ thuật Phòng tổ chức bảo vệ Phòng hành chính y tế Phòng tài chính kế toán Phòng kế hoạch thị trường Bộ phận cơ điện Bộ phận kho Phân xưởng dệt thoi Phân xưởng tẩy nhuộm Phân xưởng hoàn thành Phân xưởng dệt kim Công ty Dệt Minh Khai là mộ doanh nghiệp Nhà nước có tổ chức bộ máy quản lý theo một cấp: Đứng đầu là giám đốc có nhiệm vụ quản lý chung mọi vấn đề của Công ty như công tác tài chính kế toán, hành chính…đồng thời giấm đốc còn giám sát các vấn đề về kỹ thuật và kế hoạch thị trường. Trợ giúp cho giám đốc còn có các phó giám đốc và các phòng ban nghiệp vụ. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban nghiệp vụ như sau: + Ban giám đốc: gồm có giám đốc và hai phó giám đốc ( phó giám đốc sản xuất và phó giám đốc kỹ thuật ) cùng chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và có vai trò quyết định trong định hướng và phát triển của Công ty. + Giám đốc: là người đứng đầu Công ty phụ trách chung những vấn đề đối nội đối ngoại. + Phòng kế hoạch thị trường: là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc trong công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạc sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, tổ chức thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty. + Phòng tài chính –kế toán: Giúp giám đốc thống kê tài chính kế toán, kiểm tra giám sát tài chính, tình hình thu chi tài chính và hướng dẫn chế độ chi tiêu của hoạch toán kinh tế, đề xuất các biện pháp tài chính. + Phòng hành chính –y tế: Giúp giám đốc trong việc quản lý các công việc thuộc phạm vi hành chính, tổng hợp các giao dịch văn thư và truyền đạt chỉ thị của giám đốc đến các phòng ban phân xưởng, thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh cho cán bộ công nhân viên. + Phòng tổ chức: Giúp giám đốc xây dựng mô hình tổ chức sản xuất và quản lý Công ty, quản lý cán bộ công nhân viên, sắp xếp đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên sao cho phù hợp với nhu cầu sản xuất, thực hiện đầy đủ các chính sách đối với người lao động. + Phòng kỹ thuật: Nghiên cứu tham mưu giúp giám đốc về công tác quản lý sử dụng và biện pháp áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong thiết kế chế tạo sản phẩm và đưa công nghệ mới vào sản xuất. Đặc điểm về sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt Minh Khai 4.1 Đặc điểm về sản phẩm Sản phẩm của Công ty là sản phẩm thiết yếu đối với người tiêu dùng, mọi người đều sử dụng đến sản phẩm này như:khăn mặt, khăn tắm, màn tuyn, rèm cửa… Những sản phẩm này có tính chất sử dụng nhiều lần trong sinh hoạt đời thường, có tác dụng giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ cho mỗi người dân. Do đó yêu cầu với loại sản phẩm này phải có độ bền, mịn, mềm, thấm nước, không phai màu, có nhiều kích cỡ khác nhau, mẫu mã đa dạng, có độ dày mỏng và bảo quản dễ…Khăn bông là nhóm sản phẩm chủ yếu của Công ty, chiếm tới 98% khối lượng sản phẩm của Công ty bao gồm: Khăn ăn: dùng cho nhà hàng và sinh hoat gia đình. Khăn rửa mặt: phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước tiêu thụ tông qua nhà buôn, siêu thị, cửa hàng để đến tay người tiêu dùng. Khăn tắm: phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Hiện nay nhu cầu về mặt hàng này của thị trường trong nước đang có xu hướng gia tăng. Các loại vải sợi bông sử dụng để may lót và may mũi giầy phục vụ cho các cơ sở may xuất khẩu như may X40… Sản phẩm màn tuyn có độ bền cao chống được ôxy hoá gây màn vàng là do Công ty sản xuất 100% sợi PETEX, sản phẩm này mới đưa vào sản xuất trong Công ty nên khối lượng chiếm tỷ trọng chưa nhiều. Như thế chất lượng sản phẩm phải đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của thị trường. Hiện nay Công ty đang trong quá trình triển khai áp dụng theo hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO9001:2000. 4.2 Đặc điểm về máy móc thiết bị Công ty Dệt Minh Khai Trong những năm đầu thành lập, máy móc thiết bị của Công ty chủ yếu do Trung quốc viện trợ lắp đặt không đồng bộ, khâu đầu của dây chuyền sản xuất không hoạt động được phải làm theo phương pháp thủ công. Những năm sau đó (1981-1989) Công ty được thành phố đầu tư cho một dây chuyền công nghệ dệt kim đan dọc, tập trung đầu tư theo chiều sâu để đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất. Nhờ đó mà khâu đầu của sản xuất Công ty không phải gia công, phụ thuộc bên ngoài. Hiện nay hệ thống máy móc thiết bị của Công ty hầu hết được trang bị khá hiện đại đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Ban đầu trình độ công nghệ mới chỉ đạt ở mức thủ công và cơ khí thì cho đến nay đã đạt được mức trung bình ở trong khu vực, nhiều bộ phận đã đạt được trình độ công nghệ tự động hoá. Điều đó cho thấy Công ty đã không ngừng chú trọng đầu tư đổi mới trang thiết bị hiện đại sao cho phù hợp với xu thế thị trường. 4.3. Đặc điểm về nguyên vật liệu sản xuất của Công ty Dệt Minh Khai Trong những năm qua Công ty luôn chú trọng vấn đề mua, cung cấp và bảo quản nguyên vật liệu sản xuất là do nhận thức được vai trò quan trọng của nguyên vật liệu đối với sản phẩm về chất lượng, chủng loại …Công ty chủ yếu nhập nguyên vật liệu đầu vào từ nước ngoài, còn lại do các cơ sở sản xuất trong nước cung cấp. 4.4. Đặc điểm về lao động của Công ty Dệt Minh Khai Với quy mô khoảng 1020 cán bộ công nhân viên, do đặc điểm của ngành dệt may cho nên số lao động nữ trong Công ty luôn chiếm đại đa số( khoảng 80% ) cơ cấu lao động. Trong những năm qua do yêu cầu của sản xuất Công ty đã tổ chức sắp xếp lại lao động sao cho phù hợp với tình hình mới. Với những công nhân có tuổi đời cao thì Công ty giải quyết theo chế độ nghỉ hưu, thôi việc, đồng thời tiếp tục tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng kiến thức tay nghề cho người lao động nhất là với những lao động tuổi đời còn trẻ. Bởi vì những lao động này thường tay nghề chưa cao, ít kinh nghiệm, vì thế mà có thể ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Bậc thợ bình quân Công ty mới chỉ là 3,6 nhưng Công ty có thể nâng cao bậc thợ cho phù hợp với thực tế cấp bậc công việc yêu cầu. Có thể khẳng định điều đó là do lượng lao động trẻ có điều kiện về sức khoẻ, có khả năng tiếp thu nhanh về tiến độ khoa học kỹ thuật trong thời đại mới. Do số lao động nữ chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động toàn Công ty nên không thể tránh khỏi những ngày nghỉ phép, ngày công nghỉ thai sản … Thế nhưng họ lại có ưu điểm là lao động cần cù, chăm chỉ, khéo léo.. Như vậy, nhân tố lao động cũng như các nhân tố khác có vai trò quan trọng trong việc sản xuất kinh doanh, khi tay nghề bậc thợ càng cao thì năng suất lao động càng cao, chất lượng sản phẩm càng tốt đáp ứng được yêu cầu của thị trường. 4.5. Đặc điểm về thị trường Trong giai đoạn đầu mới thành lập Công ty thực hiện việc sản xuất kinh doanh theo kế hoạch Nhà nước giao nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa. Do đó Công ty chỉ quan tâm đến việc hoàn thành kế hoạch được giao mà không cần quan tâm ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33629.doc
Tài liệu liên quan