Nội dung đầu tư phát triển nguồn lực con người (nguồn nhân lực) ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Nội dung đầu tư phát triển nguồn lực con người (nguồn nhân lực) ở Việt Nam hiện nay: ... Ebook Nội dung đầu tư phát triển nguồn lực con người (nguồn nhân lực) ở Việt Nam hiện nay

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nội dung đầu tư phát triển nguồn lực con người (nguồn nhân lực) ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU B. LÝ LUẬN VỀ NỘI DUNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI I. Khái niệm về đầu tư phát triển nguồn nhân lực 1. Tìm hiểu về đầu tư phát triển 1.1. Đầu tư 1.2. Đầu tư phát triển 2. Tìm hiểu về nguồn lực con người 2.1. Nguồn lực con người 2.2 Phát triển nguồn nhân lực 3. Đầu tư phát triển nguồn lực con người II. Đặc điểm của đầu tư phát triển nguồn nhân lực III. Vai trò của đầu tư phát triển nguồn nhân lực 1.Đối với từng cá nhân trong xã hội 2.Đối với xã hội. IV. Nội dung đầu tư phát triển nguồn lực Đầu tư giáo dục đào tạo nguồn nhân lực  Đầu tư cho chương trình giảng dạy Đầu tư đội ngũ giáo viên và phương pháp dạy học Đầu tư cơ sở hạ tầng giáo dục Đầu tư y tế và chăm sóc sức khỏe Đầu tư cơ sở vật chất (bệnh viện) Đầu tư trang thiết bị y tế, chăm sóc sức khỏe Đầu tư cho cán bộ y tế  Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của người lao động 4. Đầu tư cho tiền lương V. Mối quan hệ giữa đầu tư phát triển nguồn lực con người với các loại hình đầu tư khác 1. So sánh giữa đầu tư phát triển nguồn nhân lực với các loại hình đầu tư khác 2. Mối quan hệ với các loại hình đầu tư khác VI. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển nguồn nhân lực Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe dân cư 2. Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của người lao động 3. Chỉ tiêu thể hiện chất lượng lao động 4. Một số chỉ tiêu tổng hợp 5. Chỉ tiêu khác C. Thực trạng đầu tư phát triển nhân lực tại VN hiện nay I. Đầu tư kế hoạch hóa dân số và đầu tư cho chăm sóc sức khỏe nhân dân 1. Đầu tư cho kế hoạch hóa dân số 2. Đầu tư cho y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân II. Đầu tư cho giáo dục đào tạo 1. Nguồn vốn và quy mô vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước 2. Đầu tư cho hệ thống giáo dục. 2.1. Đầu tư giáo dục mầm non. 2.2. Đầu tư giáo dục phổ thông. 2.3. Đầu tư giáo dục bậc đại học, cao đẳng 2.4. Đào tạo  cho giáo dục sau đại học 2.5. Đầu tư cho hệ thống dạy nghề 3. Đầu tư tạo việc làm. 3.1 Đầu tư tạo việc làm cho lao động 4. Đầu tư xã hội và xuất khẩu lao động 4.1. Đầu tư toàn xã hội 4.2. Xuất khẩu lao động 5. Đầu tư cải thiện môi trường lao động 5.1. Tiền lương 5.2. Bảo hiểm 5.3. Công đoàn 5.4. Điều kiện làm việc 6. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển nguồn nhân lực 2.6.1. Về sức khỏe 2.6.2.Về trình độ văn hóa 2.6.3. Về chuyên môn kỹ thuật 2.6.4. Chỉ số tổng hợp D. Giải pháp 1.Phát triên nguồn nhân lực theo chiều rộng: Thu hút và nâng cao nguồn nhân lực từ nông thôn, vùng núi Phát triển cơ sở hạ tầng ,xây dựng thêm nhà máy xí nghiệp : Xây dựng môi trường, thực hiện an toàn lao động 2. Phát triển nguồn nhân lực theo chiều sâu 2.1. Tích cực thực hiện đầu tư cho giáo dục đào tạo 2.2. Chuyên môn hóa hệ thống làm việc 2.3. Thực hiện các chính sách thu hút, lôi kéo nhân tài NỘI DUNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY A. LỜI MỞ ĐẦU Con người, vốn và công nghệ là ba yếu tố sản xuất để con người tạo ra của cải vật chất, thiếu một trong ba yếu tố này hay có sự tăng không đều giữa 3 yếu tố này đều tạo nên sự phát triển không cân đối cho nền kinh tế. Nếu chúng ta chỉ chú trọng thu hút càng nhiều vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh mà quên mất đầu tư cho nâng cấp nguồn nhân lực thì quá trình đầu tư đó không thể phát huy được hết lợi ích của nguồn vốn, dẫn tới một khoản đầu tư không hiệu quả. Nền kinh tế toàn cầu đang chuyển dịch nhanh chóng sang dạng kinh tế tri thức cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Cơ cấu kinh tế của nước ta cũng đang chuyển mạnh theo hướng dịch vụ, công nghiệp, đặc biệt là dịch vụ cao cấp. Điều này đòi hỏi khách quan của thị trường cầu về số lượng, cơ cấu chất lượng, cơ cấu ngành nghề đối với nguồn nhân lực. Từ đó cho thấy vai trò quan trọng của hoạt động Đầu tư phát triển nguồn nhân lực đối với sự phát triển lâu dài và bền vững của nền kinh tế. Bối cảnh mới đã đặt ra những cơ hội cũng như thách thức cho hoạt động Đầu tư phát triển nguồn nhân lực mà chúng ta cần xem xét để có thể đưa ra những định hướng hợp lý, đáp ứng được những yêu cầu trong giai đoạn hiện nay. B. LÝ LUẬN VỀ NỘI DUNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI I. Khái niệm về đầu tư phát triển nguồn nhân lực 1. Tìm hiểu về đầu tư phát triển 1.1. Đầu tư Đầu tư là một hoạt động kinh tế của đất nước; một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở, một vấn đề trong cuộc sống được mọi gia đình, mọi cá nhân quan tâm khi có điều kiện nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình. Bản chất thuật ngữ “đầu tư” là sự bỏ ra, sự chi phí, sự hy sinh và hoạt động đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh sự chi phí các nguồn lực (tiền, của cải vật chất, sức lao động,...) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt được những kết quả lớn hơn (các chi phí đã bỏ ra) trong tương lai (như thu về được số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra, có thêm nhà máy, trường học, bệnh viện, máy móc thiết bị, sản phẩm được sản xuất ra,... tăng thêm sức lao động bao gồm cả số lượng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sức khoẻ). 1.2. Đầu tư phát triển Xét về bản chất chính là đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra tài sản mới cho mình đồng thời cho cả nền kinh tế, từ đó làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động sản xuất khác, là điều kiện chủ yếu tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì hoặc tăng thêm tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại, bổ sung tài sản và tăng thêm tiềm lực của mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước< 2. Tìm hiểu về nguồn lực con người 2.1. Nguồn lực con người (Human resources - nguồn nhân lực), yếu tố quan trọng, năng động nhất của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực có thể xác định cho một quốc gia, vùng lãnh thổi địa phương (Tỉnh, Thành Phố …) và nó khác với các nguồn lực khác (Tài chính, đất đai, công nghệ …) ở chỗ nguồn lực với hoạt động sáng tạo, tác động vào thế giới tự nghiên và trong quá trình lao động nảy sinh các vấn quan hệ lao động và quan hệ xã hội, cụ thể hơn nguồn nhân lực của một quốc gia biểu hiện ở các khía cạnh sau đây: _ Với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội bao gồm toàn bọ dân cư trong xã hội có khả năng lao động. _ Với tư cách là yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã hội thì nguồn nhân lực là khả năng lao động ở các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. _ Với tư cách là tổng thể cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động thì nguồn nhân lực bao gồm cả yếu tố về thể lực và trí lực, thuộc những người có giới hạn tuổi từ 15 trở lên. Nguồn lực con người được xem xét trên góc độ số lượng thì nguồn nhân lực được thể hiện qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nguồn 2.2 Phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng bao gồm cả số lượng và chất lượng dân số, do vậy phát triển nguồn nhân lực (PTNNL) về thực chất là liên quan đến cả hai khía cạnh đó. Tuy nhiên, hiện nay đối với thế giới và đặc biệt các nước đang phát triển thì vấn đề nổi cộm là chất lượng dân số và do vậy các nghiên cứu về PTNNL trong những thập kỷ gần đây chủ yếu nhằm vào chất lượng nguồn nhân lự, tức nhấn mạnh chủ yếu đến nguồn vốn nhân lực. Còn đối với khía cạnh số lượng, do tốc độ tăng dân số quá mức trong những thập niên gần đây, điều quan tâm của các chính phủ các nước đang phát triển là hạn chế gia tăng dân số. Như vậy hướng PTNNL hiện nay đang được đặc biệt quan tâm là quá trình nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dung nguồn nhân lực. Việc hình thành và tạo dựng nguồn vốn nhân lực của mỗi cá nhân là một quá trình thay đổi chất lượng sức lao động. Quá trình này chủ yếu do trình độ giáo dục chính thức, kinh nghiệm, sức khỏe và dinh dưỡng quyết định. Theo lý thuyết nguồn vốn còn người (The Human Capital Theory) thì nguồn vốn con người được thể hiện trong năng suất lao động, rằng nguồn vốn nhân lực của một con người càng cao thì năng suất lao động của anh ta càng cao. Nguồn vốn nhân lực được tạo ra qua quá trình đầu tư vào nguồn nguồn nhân lực bao gồm đầu tư vào giáo dục và học học tập kinh nghiệm tại nơi làm việc, sức khỏe và dinh dưỡng. PTNNL, xét từ góc độ một đất nước là quá trình tạo dựng lực lượng lao động năng động có kỹ năng và sử dụng chúng có hiệu quả, xét từ góc độ cá nhân là việc nâng cao kỹ năng, năng lực hành động và chất lượng cuộc sống nhằm nâng cao năng suất lao động và thu nhập. Một cách rõ ràng hơn, có thể nói PTNNL là các hoạt động nhằm nâng cao và khuyến khích đóng góp tốt hơn kiến thức và thể lực của người lao động, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất. Kiến thức có được nhờ quá trình đào tạo và tiếp thu kinh nghiệm, trong khi đó thể lực có được nhờ chế độ dinh dưỡng, rèn luyện thân thể và chăm sóc y tế. Như vậy phát triển nguồn nhân lực bao gồm các quá trình phát triển giáo dục, tiếp thu kinh nghiệm, tăng cường thể lực, kế hoạch hóa dân số, tăng nguồn khích hiệu ứng lan tỏa kiến thức trong nhân dân. PTNNL từ góc độ làm chính sách vốn xã hội cũng như các quá trình khuyến khích hoặc tối ưu hóa sự đóng góp của các quá trình đã nói trên vào quá trình sản xuất chẳng hạn như các quá trình sử dụng lao động, khuyến là một giải pháp phân phối hơn là tái phân phối. 3. Đầu tư phát triển nguồn lực con người _ Đầu tư phát triển nhân lực là một bộ phận của đầu tư phát triển, nó là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm nâng cao và khuyến khích đóng góp tốt hơn kiến thức, thể lực của người lao động, để đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất. _ Đầu tư phát triển bao gồm : đầu tư những tài sản vật chất và đầu tư phát triển những tài sản vô hình. _ Đầu tư phát triển nhân lực là một trong những nội dung của đầu tư những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm những nội dung cơ bản sau: đầu tư cho hoạt động đào tạo lực lượng lao động, đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe y tế, đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động … II. Đặc điểm của đầu tư phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực được xem xét trên góc độ về mặt chất lượng được thể hiện trên các mặt trình độ văn hoá, trình độ chính thức chuyên môn, năng lực phẩm chất... Như vậy, mặc dù có các biểu hiện khác nhau nhưng nguồn nhân lực một quốc gia phản ánh các đặc điểm quan trọng sau _ Nguồn nhân lực là nguồn lực con người _ Nguồn nhân lực là bộ phận của dân số, gắn với cung lao động. _ Nguồn nhân lực phản ánh khả năng lao động của một xã hội . Coi vốn nhân lực là một lĩnh vực có thế đầu tư, cần phân biệt sự khác nhau giữa lĩnh vực đầu tư này với các lĩnh vực đầu tư thông thường khác. Kết quả của đầu tư phát triển nhân lực không phải sự tăng lên ngay về tài sản cố định mà là sự tăng lên về tài sản trí tuệ và tài sản sức khỏe. Các kết quả đạt được đó góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất xã hội, rồi qua đó người lao động sẽ tác động người lại các tài sản cố định khác làm chúng tăng lên. Một khác biệt quan trọng nữa là ta có thể mua bán, trao đổi và dùng vốn tài sản như một khoản thế chấp khi vay tiền trong khi ta không thể làm được như vậy với vốn con người. Ta chỉ có thể thuê vốn con người. Điều này lý giải phần nào tại sao như chúng ta thấy chỉ có một khoản vay tư nhân hạn chế dành cho các sinh viên học lên đại học. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực có những mặt tích cực hơn so với các loại hình đầu tư khác ở chỗ : _ Đầu tư vào nguồn nhân lực không hề bị giảm giá trị trong quá trình sử dụng mà ngược lại càng được sử dụng nhiều, khả năng tạo thu nhập và do vậy thu hồi vốn càng cao. _ Đầu tư vào nguồn nhân lực có chi phí tương đối không cao trong khi đó khoảng thời gian sử dụng lại lớn, thường là khoảng thời gian làm việc của một đời người. _ Các hiệu ứng gián tiếp, và hiệu ứng lan tỏa của đầu tư và vốn nhân lực là rất lớn. Trình độ nhân lực trung bình ở một nước cao hơn cũng cho phép tăng trưởng kinh tế tốt hơn và điều chỉnh tốt hơn đối với các vấn đề dân số, kế hoạch hóa gia đình, môi trường và nhiều vấn đề khác. _ Đầu tư vào con người không chỉ là phương tiện để đạt thu nhập mà còn là mục tiêu của xã hội, giúp con người thưởng thức cuộc sống đầy đủ hơn. _ Đầu tư vào con người không chỉ do tỷ lệ thu hồi đầu tư trên thị trường quyết định. Tuy nhiên, đầu tư phát triển nguồn nhân lực nếu các điều kiện được sử dụng không hiệu quả và có môi trường phát triển không phù hợp và thuận lợi sẽ là sự lãng phí đầu tư. Trong mọi sự lãng phí, lãng phí nguồn nhân lực con người là mất mát to lớn và đáng sợ nhất. III. Vai trò của đầu tư phát triển nguồn nhân lực Đối với từng cá nhân trong xã hội Việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực sẽ đem lại lợi ích cho mỗi cá nhân. Để thấy được lợi ích của mỗi cá nhân trong việc đầu tư vào nguồn nhân lực ta sẽ đi so sánh chi phí bỏ ra và lợi ích thu được qua các bảng số liệu sau đây: Hình 1:Tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ học vấn Hình 1 trên đây thể hiện một lợi ích khác mà học vấn cao đem lại. Nó giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp và giảm bớt độ nhạy với chu kỳ kinh doanh. Nên lưu ý một điều rằng các sinh viên tốt nghiệp ĐH có thể phải vật lộn mới tìm được công việc đầu tiên của mình. Tuy nhiên, sau khi bắt đầu đi làm thì tỷ lệ thất nghiệp của họ giảm dần (trong khoảng thời gian từ 2 năm sau khi tốt nghiệp đến 5 năm, tỷ lệ thất nghiệp này giảm xuống còn một nửa). Trong khi đó, mức tiền công họ nhận được bắt đầu tăng ngay khi bắt đầu đi làm (trong khoảng thời gian từ 2 năm sau khi tốt nghiệp đến 5 năm sau khi tốt nghiệp, mức lương của nam tăng 20%, của nữ tăng 11%). Hình 2: Biểu quan hệ thu nhập theo tuổi của nam Hình 3: Biểu Quan hệ Thu nhập theo tuổi của nữ Nam lứa tuổi 20 có trình độ đại học có thu nhập cao hơn so với nam cùng độ tuổi có trình độ trung học khoảng 8,000 đô. Nam độ tuổi 50 có trình độ đại học có thu nhập cao hơn so với nam cùng độ tuổi có trình độ trung học khoảng 17,000 đô. Nữ độ tuổi 20 có trình độ ĐH có thu nhập cao hơn so với nữ cùng độ tuổi có trình độ trung học khoảng 10,000 đô trong khi nữ ở độ tuổi 50 có trình độ ĐH có thu nhập cao hơn so với nữ cùng tuổi có trình độ trung học khoảng 18,000 đô. Như vậy: Việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực đem lại rất nhiều lợi ích cho cá nhân trong xã hội. Những lợi ích trước mắt chính là điều chỉnh nhận thức, nâng cao động lực, kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, tăng cơ hội tìm kiếm việc làm, giảm nguy cơ thất nghiệp. Đối với xã hội. Ngoài lợi ích mà các cá nhân tích lũy được, việc đầu tư vào vốn con người còn đem lại lợi ích ngoại sinh cho toàn xã hội. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực sẽ tăng hiệu quả đầu tư trong xã hội trong giáo dục đào tạo, giảm bớt tính trạng thất nghiệp nâng cao tính cạnh tranh và đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường theo định hướng kinh tế tri thức Trước hết, người ta thường lập luận rằng cá nhân được giáo dục tốt hơn sẽ trở thành những công dân tốt hơn. Họ được thông tin đầy đủ hơn và có khả năng đóng góp nhiều hơn cho toàn xã hội Thứ hai, Chính phủ (CP) thu lợi trực tiếp từ mức vốn con người cao hơn. CP phải chi ít hơn cho trợ cấp thất nghiệp và phúc lợi xã hội. CP chi ít hơn cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe (trạng thái sức khỏe được cải thiện cùng với sự gia tăng trong trình độ học vấn). CP thu được nhiều thuế thu nhập hơn. Một lập luận khác thường gặp là giáo dục tốt hơn dẫn đến tăng trưởng kinh tế, nhất là giáo dục trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ. Lập luận này lấy từ những những lý thuyết mới về tăng trưởng của Paul Romer.Romer lập luận rằng thay đổi kỹ thuật mang tính nội sinh. Các kỹ thuật mới là do các công ty, cá nhân hưởng ứng những khuyến khích về kinh tế sáng chế và phát triển. Càng có nhiều nhân viên R & D càng có nhiều phát minh, sáng kiến mới. Các kỹ thuật mới là do các công ty, cá nhân hưởng ứng những khuyến khích về kinh tế sáng chế và phát triển. Càng có nhiều nhân viên R & D càng có nhiều phát minh, sáng kiến mới. Những hiệu ứng lan tỏa (spillover effects) củng cố thêm tác động này. Phát minh về con chíp điện tử dẫn đến việc chế tạo ra đầu đĩa DVD và túi khí cùng nhiều sản phẩm khác. Thực nghiệm đã củng cố thêm lập luận này. Nó đưa ra bằng chứng chứng tỏ rằng đầu tư vào vốn con người có vai trò quan trọng không kém gì đầu tư vào vốn tài sản trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế IV. Nội dung đầu tư phát triển nguồn lực Đầu tư giáo dục đào tạo nguồn nhân lực Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định. Phát triển nguồn nhân lực bao gồm các hoạt động học tập trang thiết bị kiến thức kĩ năng để cho người lao động làm công việc khó khăn phức tạp hơn và để phát triển sự nghiệp của mình. Để hoàn thành tốt công tác đào tạo nguồn nhân lực cần phải có sự đầu tư kĩ lưỡng về mọi mặt. Việc đầu tư cho giáo dục được thể hiện qua các mặt chính sau:  Đầu tư cho chương trình giảng dạy      Chương trình giảng dạy thể hiện những nội dung sẽ được đưa vào nhà trường nhằm nâng cao tri thức của mỗi người tham gia khóa học. Vì vậy chương trình giảng dạy cần được coi trọng. Hiện nay ở Việt Nam thì chương trình học được thể hiện rõ nét trong sách giáo khoa.      Sách giáo khoa là loại sách cung cấp kiến thức, được biên soạn với mục đích dạy và học. Thuật ngữ sách giáo khoa còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho ngành học. Sách giáo khoa được phân loại theo đối tượng sử dụng hoặc chủ đề của sách. Biên soạn một sách giáo khoa có giá trị cả một kì công. Ở cấp phổ thông, sách giáo khoa là sự thể hiện những nội dung cụ thể của chương trình phổ thông. Trên thế giới có nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau cùng biên soạn cho cùng một môn học. Tại Việt Nam, hiện tại chỉ tồn tại một bộ sách duy nhất cho một môn học.      Để sách giáo khoa được đảm bảo phù hợp với trình độ và thời gian học tập của học sinh thì nó cần phải được đầu tư một cách nghiêm túc, có sự tham gia của các học giả, các nhà giáo kinh nghiệm để đảm bảo hệ thống kiến thức trong đó phải chính xác, theo một trình tự logic chặt chẽ, được gia công về mặt sư phạm cho phù hợp với học sinh. Và ngoài phần kiến thức, sách giáo khoa còn có một phần về rèn luyện các kĩ năng và các phương pháp giảng dạy môn học. Đầu tư đội ngũ giáo viên và phương pháp dạy học Một chương trình đào tạo giáo dục có hiệu quả, chất lượng tốt cần có sự phối hợp giữa người dạy và người học, người dạy tốt sẽ có học trò giỏi. Một người giáo viên dạy tốt là người nhiệt tình, nhiều kinh nghiệm và có trình độ cao. Để đảm bảo sự nhiệt tình cho người giáo viên, tạo hứng thú cho mỗi giờ giảng của họ thì ít nhất họ cũng phải có một cuộc sống ổn định, không phải lo lắng về thu nhập hay nói cách khác việc đầu tư nâng cao thu nhập của giáo viên sẽ tăng làm hiệu quả của công tác giảng dạy, người giáo viên sẽ dành nhiều tâm sức để nâng cao hiệu quả bài giảng của mình. Phương pháp giáo dục là cách thức sử dụng các nguồn lực trong giáo dục như giáo viên, trường lớp, dụng cụ học tập, các phương tiện vật chất để giáo dục người học. Hiện nay đã hình thành và phát triển nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau như: ·        Phương pháp giáo dục truyền thống: Giáo viên độc thoại, chủ động truyền đạt kỹ năng còn người học tiếp thu một cách thụ động. Giáo viên làm mẫu còn học viên làm theo. ·Phương pháp giáo dục hiện đại: Giáo viên là người thiết kế tổ chức còn bản thân học viên tự tìm kiếm tri thức, tự hoạt động theo cách riêng độc lập và sáng tạo. ·Phương pháp giáo dục thụ động: Giáo viên truyền đạt kiến thức, độc thoại, phát vấn hay đặt câu hỏi, giáo viên áp đặt kiến thức có sẵn, còn học viên thì học thuộc lòng và nhớ máy móc. Giáo viên độc quyền đánh giá cho điểm. ·Phương pháp giáo dục tích cực: Học viên tự tìm ra kiến thức bằng hành động thao tác... giáo viên đối thoại với học viên, giáo viên hợp tác và trao đổi với học viên và giáo viên khẳng định kiến thức do học viên tìm ra. Học sinh học cách học, cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, cách sống và trưởng thành. Học sinh tự đánh giá và điều chỉnh làm cơ sở cho giáo viên cho điểm cơ động. Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng nâng cao giáo dục hiện đại với người học tích cực chủ động tìm kiếm kiến thức là một trong những điều kiện quyết định đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo hiện nay. Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này, nhà nước ta rất quan tâm tới việc bồi dưỡng, cập nhật, vận dụng các phương pháp giảng dạy mới trong nhà trường. Đầu tư cơ sở hạ tầng giáo dục Việt Nam đang trên con đường phát triển với nhiều biến đổi cả về chất và lượng. Một trong những những nguyên nhân đó là do đặc điểm nguồn nhân lực Việt Nam. Nhà nước ta đã đầu tư rất nhiều ngân sách cho công tác giáo dục. Một trong những nội dung đầu tư đó là đầu tư cho cơ sở hạ tầng giáo dục. Mà ở đây chúng ta sẽ xét đến cơ sở nhà trường nơi diễn ra quá trình đào tạo nguồn nhân lực. Để đầu tư cho giáo dục đào tạo cần một lượng vốn rất lớn, điều đó có thể nằm ngoài khả năng ngân sách của chính phủ, vì vậy phải tạo điều kiện tối đa cho các thành phần kinh tế khác đầu tư cho giáo dục. Bên cạnh đó, ở những vùng sâu vùng xa miền núi, chi phí của việc xây dựng trường học rất tốn kém, lợi nhuận từ việc đầu tư cho giáo dục cũng không hấp dẫn tư nhân tham gia nên nhà nước phải đứng ra đầu tư. Hay các trường chuyên, trường năng khiếu; trường, lớp dành cho người tàn tật; trường giáo dưỡng cũng thế, đều cần có sự đầu tư trực tiếp từ nhà nước. Đầu tư y tế và chăm sóc sức khỏe Chăm sóc sức khỏe là một ngành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử dụng quan hệ với nhau thông qua giá dịch vụ. Tuy nhiên, không giống các loại dịch vụ khác, chăm sóc sức khỏe có một số đặc điểm riêng, đó là: Mỗi người đều có nguy cơ mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ở các mức độ khác nhau. Chính vì không dự đoán được thời điểm mắc bệnh nên thường người ta gặp khó khăn trong chi trả các chi phí y tế không lường trước được. Chính vì những đặc điểm trên của ngành y tế mà việc đầu tư phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe phải được quan tâm một cách đặc biệt để phát triển nguồn nhân lực hoạt động một cách có hiệu quả. Đầu tư vào lĩnh vực y tế đứng trên góc độ của một nền kinh tế bao gồm những lĩnh vực sau: Đầu tư cơ sở vật chất (bệnh viện) Việc đầu tư xây dựng bệnh viên tổ chức tuyến điều trị theo ba cấp độ chuyên môn như sau: Ø     Tuyến 1( tuyến chăm sóc sức khỏe cơ bản ban đầu hay tuyến huyện): thực hiện các kỹ thuật chăm sóc sức khỏe cơ bản, mang tính đa khoa; Ø     Tuyến 2( tuyến tỉnh ): chăm sóc sức khoẻ với các kỹ thuật phức tạp hơn, mang tính chuyên khoa chuyên ngành; là tuyến kỹ thuật cao hơn Tuyến 1 và tiếp nhận người bệnh do Tuyến 1 chuyên đến. Ø     Tuyến 3( tuyến trung ương ): tuyến cuối cùng trong bậc thang điều trị, thực hiện các kỹ thuật chuyên khoa sâu và tiếp nhận người bệnh từ tuyến dưới chuyển đến. Ngoài các bệnh viện công lập như trên còn phải khuyến khích việc hình thành và phát triển các bệnh viện theo hướng đa dạng hóa các loại hình khám chữa bệnh, khuyến khích thành lập các bệnh viện bán công, dân lập, tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài nhưng bệnh viện công vẫn giữ vai trò chủ đạo. Nhất là bệnh viện chuyên khoa nhằm thực hiện chính sách xã hội hoá và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ y tế. Tuy nhiên, hệ thống bệnh viện công vẫn đóng vai trò chủ đạo, đặc biệt là phát triến các kỹ thuật cao, đảm bảo cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Đầu tư trang thiết bị y tế, chăm sóc sức khỏe Trang thiết bị y tế bao gồm các loại thiết bị, dụng cụ, vật tư, phương tiện vận chuyển chuyên dụng phục vụ cho hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, nhu cầu chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân đòi hỏi chất lượng ngày càng cao. Trang thiết bị y tế là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả, chất lượng của công tác y tế, hỗ trợ tích cực cho người thầy thuốc trong công tác phòng bệnh và chữa bệnh. Do vậy, lĩnh vực trang thiết bị y tế cần được tăng cường đầu tư cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo tính khoa học và hiệu quả. Việc đầu tư trang thiết bị y tế cần phải chú ý những nội dung sau: Ø     Trang thiết bị y tế là lĩnh vực chuyên dụng và rất đắt tiền đòi hỏi nhiều yêu cầu khắt khe về kỹ thuật cao, chính xác, an toàn và ổn định. Nhu cầu kinh phí để trang bị mới cũng như duy trì hoạt động liên tục của trang thiết bị đã có là rất lớn Ø     Đầu tư trang thiết bị y tế phải có trọng tâm, trọng điểm nhằm đạt được tính hiệu quả, khoa học và kinh tế. Ø     Xây dựng kế hoạch đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ sản xuất trang thiết bị y tế mà trong nước có ưu thế. Trước hết tập trung sản xuất các thiết bị y tế thông dụng phục vụ y tế cơ sở, chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc sức khỏe ban đầu, dụngcụ sử dụng một lần và các trang thiết bị phục vụ y tế học đường và gia đình, người lao động. Xây dựng quy chế nhằm tạo môi trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ thuộc các ngành, các địa phương tham gia sản xuất trang thiết bị y tế. Khuyến khích dùng trang thiết bị y tế sản xuất trọng nước, giảm dần nhập khẩu, đến năm 2010 chỉ nhập khẩu những thiết bị y tế chưa sản xuất được trong nước. Từng bước xây dựng và đệ trình Nhà nước xem xét ban hành các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các cơ sở sản xuất trang thiết bị y tế trong nước. Có chính sách ưu tiên thích đáng trong việc cử cán bộ đi đào tạo về nghiên cứu sản xuất trang thiết bị trong nước. Có chính sách hỗ trợ về vốn và kỹ thuật cho các cơ sở thuộc thành phần kinh tế nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo trong lĩnh vực kinh doanh trang thiết bị y tế. Tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế có thể tham gia hoạt động kinh doanh trang thiết bị y tế theo quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Bộ y tế. Bộ Y tế thành lập cơ sở nghiên cứu với sự tham gia của các cơ quan trực thuộc Bộ Y tế, các cơ sở khoa học công nghệ, các nhà khoa học để nghiên cứu khả năng ứng dụng những trang thiết bị y tế, các phương pháp điều trị và chẩn đoán mới xuất hiện trên thế giới để áp dụng có chọn lọc vào Việt Nam. Có chính sách khuyến khích các nhà khoa học, các cơ sở khoa học và công nghệ trong và ngoài ngành tham gia nghiên cứu chế tạo, khai thác sử dụng và thực hiện dịch vụ kỹ thuật về trang thiết bị y tế. Đầu tư cho cán bộ y tế Cán bộ y tế là lực lượng chủ chốt trọng nghành y. Dù máy móc, thiết bị có hiện đại đến đâu đi chăng nữa thì vẫn cần phải có những bác sĩ có trình độ chuyên môn để khám và chuẩn đoán bệnh. Chính vì vậy mà việc đầu tư cho cán bộ y tế là rất cần thiết. Đầu tư cho hệ thống giáo dục đào tạo các y bác sĩ ngay từ trong nhà trường. Việc đào tạo phải được kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, đầu tư trang bị các dụng cụ học tập phục vụ giảng dạy, sinh viên phải được tiếp xúc với các loại bệnh tật ngay khi còn ở trên ghế nhà trường. Muốn trò giỏi thì đội ngũ giáo viên phải là những người có chuyên môn và kinh nghiểm giảng dạy cũng như thực hành trong thực tế. Tổ chức các chương trình du học, cấp học bổng cho các sinh viên y khoa có trình độ giỏi đi du học nước ngoài để nâng cao tầm hiểu biết và kinh nghiệm. Tuy nhiên đi kèm với nó phải có sự thỏa thuận về công ăn việc làm sau khi học xong tránh tình trạng chảy máu chất xám cũng như thất nghiệp sau khi về nước. Đội ngũ y, bác sĩ phải được quan tâm, phụ cấp phải phù hợp với trình độ và hơn thế nữa là tránh hiện tượng lương được chi trả không đáp ứng được những chi tiêu thiết yếu của cuộc sống. Tóm lại, nhà nước và doanh nghiệp khi đầu tư vào y tế cần tập trung vào các vấn để kể trên, cần phải vận dụng và kết hợp sao cho phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp và cuộc sống của người lao động.  Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của người lao động Cùng với sự phát triển về kinh tế, sự gia tăng lực lượng lao động và số doanh nghiệp trong công tác an toàn – vệ sinh lao động(AT-VSLĐ),  chúng ta phải đối mặt với những thách thức về sự gia tăng tai nạn lao động(TNLĐ), bệnh nghề nghiệp(BNN) và ô nhiễm môi trường lao động. Để giảm thiểu sự bất lợi đó, không chỉ các địa phương cần quan tâm làm tốt công tác quản lý nhà nước, mà còn cần cả các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định về AT-VSLĐ. Công tác AT-VSLĐ có tác động rất lớn đến kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và đem lại quyền lợi trước hết cho doanh nghiệp, cho người lao động và bản thân gia đình họ. Một công tác nghiên cứu tại Canada cho thấy nếu đầu tư cho công tác AT-VSLĐ 1USD sẽ thu lợi được lại từ 1,5 đến 8 USD. Các nghiên cứu về lợi nhuận thu được từ đầu tư cho AT-VSLĐ được tiến hành tại nhiều nước như Trung Quốc, Đức đã cho các kết quả khả quan tương ứng. Một kết quả nghiên cứu  tại cộng đồng Châu Âu cho thấy chi phí trực tiếp và gián tiếp trung bình cho 1 người bị TNLĐ khoảng 25000 EUR, nhưng nếu phòng ngừa tốt thì nó có thể đem lại cho người lao động khoảng 3000 EUR/người mỗi năm. Đây là những con số lý tưởng nếu so sánh với mức sống trên 1USD/người 1 ngày mà các quốc gia đang phấn đấu trong xóa đói giảm nghèo. Theo số liệu của tổ chức ILO,  mỗi năm trên thế giới có khoảng 270 triệu người bị TNLĐ phải nghỉ việc ít nhất 3 ngày, trong đó 350000 ca chết người và khoảng 160 triệu người mắc BNN làm khoảng 1,7 đến 2 triệu người chết. TNLĐ, BNN làm thiệt hại khoảng 4% GDP toàn thế giới. Dự báo ở Việt Nam năm 2010, khu vực công nghiệp có khoảng 120-130 tai nạn lao động/năm, khoảng 2000 người mắc bệnh nghề nghiệp làm thiệt hại cho nền kinh tế hàng nghìn tỷ đồng. Trước tình hình đó, nhà nước cần có những biện pháp tích cực để giảm thiểu TNLĐ và BNN phải tăng cường giám sát và đầu tư cho các vấn đề sau: ·Đầu tư tăng cường điều kiện lao động. ·Đầu tư tăng cường bảo hộ lao động. ·Đầu tư giảm tai nạn lao động. ·Đầu tư cho bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội. Đầu tư cho tiền lương Đối với người lao động, tiền lương là thu nhập từ quá trình lao động của họ, phần thu nhập chủ yếu đối với đại đa số lao động trong xã hội. Phấn đấu nâng cao TL là mục đích của hết thảy mọi người lao động. Mục đích này tạo ra động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao động của mình. Còn đối với doanh nghiệp, TL là một phần chi phí cấu thành chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Tiền lương phải trả cho người lao động là một yếu tố cấu thành nên giá trị sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp toạ ra. Các doanh nghiệp sử dụng tiền lương để làm đòn bẩy kinh tế kh._.uyến khích tinh thần tích cực lao động, là nhân tố thúc đẩy để phát triển năng suất lao động. Để có được cơ chế trả lương xứng đáng cho người lao động cũng như phù hợp với từng doanh nghiệp thì cần có nhiều sự điều chỉnh xuyên suốt từ các cấp cao đến từng cấp ngành cơ sở, địa phương. V. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển nguồn nhân lực Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe dân cư Sức khỏe là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần chứ không phải đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khỏe là tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng thái về sức khỏe, bộ y tế nước ta quy định có 3 loại: - Thể lực tốt, loại không có bệnh tật gì - Trung bình - Yếu, không có khả năng lao động Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của người lao động Trình độ văn hóa của dân số hay của nguồn nhân lực là một chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng của nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Chỉ tiêu thể hiện chất lượng lao động Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Do đó, trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo bằng: Tỉ lệ cán bộ tổ chức Tỉ lệ cán bộ cao đẳng, đại học Tỉ lệ cán bộ trên đại học Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ lại như Đại học bao gồm: kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ, thậm chí trong từng chuyên môn lại chia thành những chuyên môn nhỏ nữa. Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng đó chỉ trình độ của người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật thường được biểu hiện qua các chỉ tiêu: Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng Trình độ tay nghề theo bậc thợ Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau, thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng tập thể nguồn nhân lực. Một số chỉ tiêu tổng hợp Chỉ số phát triển con người HDI Chỉ số phát triển con người là một số đo tóm lược sự phát triển của con người. Nó đo thành tựu trung bình ở một nước theo ba độ đo cơ bản của phát triển con người: - Tuổi thọ trung bình. - Thu nhập trung bình đầu người (GDP/1 người) - Trình độ học vấn (tỉ lệ biết chữ và số còn đi học trung bình của dân cư) Như vậy chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế mà còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng tiến bộ xã hội. 4.2. Chỉ số nghèo đói của con người đối với nước đang phát triển (HPI-1) Trong khi HDI đo lường thành tựu trung bình thì HPI-1 lại đo sự thiếu hụt ở ba độ đo cơ bản trong phát triển con người mà HDI thể hiện: Tuổi thọ đo bằng xác suất sống chưa đến 40 tuổi. Trình độ học vấn đo bằng tỷ lệ mù chữ ở người lớn. Mức sống đo bằng trung bình không trọng số của hai chỉ tiêu: tỷ lệ dân số không được tiếp cận bền vững tới nguồn nước được cải thiện và tỷ lệ trẻ thiếu cân số với tuổi. 4.3. Chỉ số đói nghèo đối với một số nước OECD lựa chọn (HPI-2) HPI-2 cũng đo sự thiếu hụt ở các độ đo như HPI-1 và cũng thể hiện việc bị loại ra ngoài xã hội. Như vậy nó phản ánh sự thiếu hụt ở bốn độ đo: Tuổi tho đo bằng xác suất sống chưa đến 60 tuổi. Trình độ học vấn đo bằng tỷ lệ người lớn (16-65) thiếu kỹ năng đọc viết chức năng. Mức sống hợp lý đo bằng tỷ lệ người dân dưới chuẩn nghèo thu nhập (50% trung bình của phần thu nhập có thể chi tiêu cho hộ gia đình đã điều chỉnh) Việc bị loại ra ngoài xã hội đo bằng tỷ lệ thất nghiệp lâu dài (12 tháng trở lên). . Chỉ số phát triển liên quan tới giới (GDI) Trong khi HDI đo thành tựu trung bình thì GDI điều chỉnh thành tựu trung bình để phản ánh bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới ở các độ đo sau: Tuổi thọ đo bằng tuổi thọ trung bình. Trình độc học vấn đo bằng tỷ lệ biết chữ ở người lớn và tổng tỷ lệ đi học kết hợp cả tiểu học, trung học và đại học. Mức sống hợp lý đo bằng thu nhập kiếm được ước tính (PPP USD). . Số đo sự trao quyền cho giới (GEM) Tập trung vào các cơ hội của phụ nữ hơn là khả năng của họ.GEM thể hiện sự bất bình đẳng giới trong ba lĩnh vực cơ bản: Sự tham gia chính trị và quyền quyết định số đo bằng tỷ lệ phần trăm số đại biểu quốc hội là nữ và nam. Sự tham gia kinh tế và quyền quyết định đo bằng tỷ lệ phần trăm phụ nữ và nam giới nắm giữ các chức vụ như lập pháp, cán bộ cao cấp và quản lý, và tỷ lệ phần trăm phụ nữ và nam giới nắm giữ các chức vụ chuyên môn kỹ thuật. Quyền đối với nguồn lực kinh tế đo bằng thu nhập kiếm được ước tính của phụ nữ và nam giới.(PPP USD). Chỉ tiêu khác Ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hóa được như trên người ta còn xem xét chỉ tiêu năng lực phẩm chất của người lao động. Chỉ tiêu phản ánh mặt định tính mà khó có thể định lượng được. Nội dung của chỉ tiêu này được xem xét thông qua các mặt: Truyền thống dân tộc bảo vệ tổ quốc. Truyền thống về văn hóa văn minh dân tộc. Phong tục tập quán, lối sống. Nhìn chung chỉ tiêu này nhấn mạnh đến ý chí, năng lực tinh thần của người lao động. C. Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực tại Việt Nam giai đoạn 2001-2009 I. Đầu tư kế hoạch hóa dân số và đầu tư cho chăm sóc sức khỏe nhân dân I.1. Đầu tư cho kế hoạch hóa dân số Số lượng nguồn lực con người được phản ánh qua quy mô dân số và tốc độ gia tăng dân số của 18 năm trước đó. Với một tỷ lệ tăng dân số quá cao sẽ làm triệt tiêu mọi cố gắng và thành quả đạt được trong phát triển kinh tế, làm gay gắt thêm các vấn đề xã hội vốn đã gay gắt, mà còn là vật cản không cho phép cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Năm 2003 nhà nước đã ban hành pháp lệnh dân số (hiện nay đang xây dựng luật dân số), trong đó quy định quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư, chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số và quản lý nhà nước về dân số. Cùng Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số và kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2006 -2010 với mục tiêu mỗi gia đình chỉ sinh 2 con, đã thể hiện quyết tâm của nhà nước về giảm mức độ gia tăng dân số hàng năm. Từ năm 2003, do được đầu tư mạnh từ ngân sách (841 tỷ năm 2002) cho công tác tuyên truyền dân số nên tốc độ gia tăng dân số đã giảm dần và tới năm 2007 còn 1,21%. Tuy nhiên gần đây tỷ lệ số người sinh con thứ 3 có xu hướng tăng, điều này tiềm ẩn nguy cơ tỷ lệ tăng dân số cao trong những năm sắp tới.  Bảng 2: Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp dân số kế hoạch hóa gia đình trong giai đoạn 2000-2007 Đơn vị: Tỷ đồng 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Chi cho dân số kế họach hoá gia đình 559 434 841 666 397 483 489 612 Nguồn: Tổng cục thống kê I.2. Đầu tư cho y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân Nói về sức khỏe thì sự cường tráng về thể chất, sự thoải mái về tinh thần vừa là nhu cầu của bản thân mỗi con người, vừa là vốn quý để tạo ra các tài sản trí tuệ, vật chất, và tinh thần cho toàn xã hội. Do vậy vấn đề chăm sóc sức khỏe, tăng cường thể chất cho các thế hệ người Việt Nam luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân ta.  Để thực hiện việc này, nhà nước đã ban hành Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân (1989), Điều lệ khám bệnh, chữa bệnh, phục hổi chức năng (1991), cũng như nhiều văn kiện khác về chăm sóc sức khỏe  cho các tầng lớp nhân dân (như cho phụ nữ, trẻ em). Việc thực thi những chính sách chủ trương, biện pháp được nêu trong các văn kiện đó những năm qua đưa lại những kết quả thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, nâng cao một bước chất lượng dân số nước ta. Phần lớn nguồn vốn đầu tư cho y tế là từ nguồn ngân sách nhà nước. Theo báo cáo của Chính phủ đã ưu tiên tăng chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho y tế, năm sau đã cao hơn năm trước cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng chi NSNN (năm 2007 tăng lên 23.280 tỷ đồng, đạt 6,3% và dự toán năm 2008 là 27.463 tỷ đồng). Bên cạnh nguồn vốn đầu tư cho y tế từ NSNN, Nhà nước cũng có chủ trương khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế vào đầu tư phát triển hệ thống y tế. Cho đến nay, các bệnh viện công đã huy động được khoảng 3.000 tỷ đồng để triển khai các kỹ thuật cao. Ngoài ra còn có 22 bệnh viện đã được cấp phép đang tiến hành xây dựng Chính phủ đã đảm bảo đủ kinh phí để khám, chữa bệnh miễn phí cho khoảng 10 triệu trẻ/năm tại các cơ sở y tế công lập với mức chi ngày càng tăng: năm 2005 là 75.000 đồng/trẻ, năm 2007 là 108.000 đồng/trẻ, năm 2008 là 130.000 đồng/trẻ. Hàng chục triệu trẻ em đã được khám chữa bệnh miễn phí, nhiều trường hợp bệnh nặng, hiểm nghèo chi phí lên đến 40-50 triệu đồng. Theo đánh giá của Chính phủ, việc tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước và thực hiện các giải pháp, chính sách nêu trên đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.                  Bảng 3: Phần trăm chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế trong giai đoạn 2000-2007 Đơn vị:% 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Chi sự nghiệp y tế 3,17 3,24 3,14 2,96 2,81 2,90 3,74 4.11 Nguồn: Tổng cục Thống kê II. Đầu tư cho giáo dục đào tạo Nhà nước ta đã xác định đầu tư cho giáo dục đào tạo, trong đó có cả dạy nghề là đầu tư cho tương lai, đầu tư cho phát triển, từ đó Nhà nước đã kêu gọi các cấp ngành và toàn xã hội đẩy mạnh phát triển giáo dục, góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. II.1. Nguồn vốn và quy mô vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước Nhà nước chịu trách nghiệm hầu như toàn bộ các khoản chi của giáo dục đại học, trung học chuyện nghiệp và dạy nghề. Phần ngân sách nhà nước cấp phần lớn để trả lương cho giáo viên và một phần dành để trao học bổng cho sinh viên đại học và trung học chuyên nghiệp. Chính quyền địa phương cấp tỉnh và thành phố chịu phần lớn ngân sách giáo dục bậc phổ thông. Các địa phương phải lo phần lớn các khoản chi xây dựng trường học, phương tiện học tập của học sinh. Trong những năm qua nhà nước đã rất chú trọng tăng cường đầu tư cho giáo dục. Tăng đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, đào tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các bậc học, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Ngân sách nhà nước tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng nông thôn, miền núi, cho đào tạo trình độ cao và những ngành khó thu hút đầu tư ngoài ngân sách nhà nước; bảo đảm điều kiện học tập cho con em người có công và gia đình nghèo. Tăng cường quản lý nhà nước, đặc biệt là hệ thống thanh tra giáo dục, thiết lập kỷ cương, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực. Tăng cường quản lý và giúp đỡ người đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài.Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo năm 2000 là 11,63%, năm 2005 là 10.89%, năm 2007 là 20%. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC PUBLIC EXPENDITURE ON EDUCATION & TRAINING (Tỉ đồng - VND billion) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số - Total 15609 20624 22795 32730 41630 55300 66770 Chi cho xây dựng cơ bản Capital Expenditure   2360 3008 3200 4900 6623 9705 11530 Chi thường xuyên cho giáo dục và đào tạo Regurar expenditure 10356 12649 16906 18625 27830 35007 45595 55240 Kinh phí CTMT giáo dục và đào tạo National target program 600 600 710 970 1250 1770 2970 3380 Chia ra - Of which: * Giáo dục For education 415 495 725 925 1305 2328 2333 Dạy nghề Vocational training 90 110 130 200 340 500 700 Trung học chuyên nghiệp Professional Secondary Education 20 25 30 35 35 37 50 Đại học và cao đẳng Higher education 75 80 85 90 90 105 297 * Chương trình mục tiêu. Nguồn: Tổng cục thống kê Trên thực tế, tính theo thu nhập trên đầu người, Việt Nam có lẽ là nước chi cho giáo dục cao nhất thế giới : trung bình hàng năm khoảng 8% GDP/năm, ở Mĩ mới chỉ là 6%, Trung Quốc là 2,7%... ; nếu tính theo thu nhập hộ gia đình tỷ lệ chi cho giáo dục ở nước ta còn cao hơn nữa.Ví dụ Trung Quốc, họ chi trung bình cho một học sinh là 332 $US một năm, so với Việt Nam là 227 $US. Tất nhiên so sánh này cũng còn khập khiễng vì thu nhập trên đầu người Trung Quốc gấp 3 Việt Nam (2 055 $US so với 643 $US), và giá cả cao hơn Việt Nam khoảng 20%. Nhưng như vậy cũng cho thấy là về con số tuyệt đối, sau khi điều chỉnh giá, Việt Nam không thấp hơn nhiều so với Trung Quốc. Nhiều quốc gia mơ tưởng chỉ số này dành cho giáo dục của họ. Bên cạnh đó có nhiều chính sách hỗ trợ về tài chính như việc miễn học phí và trợ cấp cho sinh viên có gia đình thuộc diện đối tượng chính sách, cho sinh viên nghèo vay tiền ngân hàng để chi cho học tập. Chính phủ sẽ dành 4 tỷ USD tạo một quỹ cho người Việt Nam đủ tiêu chuẩn được duyệt đi học. Sau 1 năm triển khai, 2007-2008 số sinh viên được vay đã tăng từ 100.000 lên hơn 750.000 (tăng gấp hơn 7 lần), khẳng định không có học sinh- sinh viên nào phải bỏ học vì không có điều kiện đóng học phí. Tổng số tiền cho vay là gần 5.300 tỷ đồng, trong đó 1,7% số học sinh được vay thuộc diện mồ côi; 16,5% thuộc gia đình nghèo; 67% cận nghèo và 14% là gia đình có hoàn cảnh khó khăn. II.2. Đầu tư cho hệ thống giáo dục. Việt Nam có hệ thống giáo dục tương tự hệ thống giáo dục của hầu hết các nước châu Á. Chính phủ quản lý các trường đại học và cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ; tỉnh thành phố quản lý giáo dục trung học ; quận huyện quản lý giáo dục tiểu học. Hệ thống giáo dục Việt Nam đang được mở rộng, bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục dạy nghề, trung học chuyên nghiệp (theo chương trình 3 năm), giáo dục đại học và cao đẳng (3-5 năm) ; cuối cùng là giáo dục sau đại học (từ 3-5 năm) . II.2.1. Đầu tư giáo dục mầm non. Trong giai đoạn vừa qua Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến vấn đề nâng cao vai trò của Gia đình trong chức năng giáo dục trẻ em (thông qua hàng loạt các chương trình, chính sách như: Chiến lược phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2001-2010, luật giáo dục....) Tiếp tục triển khai thực hiện đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006 – 2015 đã được phê duyệt theo quyết định số 149/2006/QD-TT ngày 23-5-2006 của thủ tướng chính phủ Nhà nước chú trọng phát triển mạng lưới giáo dục mầm non phù hợp với yêu cầu thực tế. Đầu tư phát triển cơ sở vật chất cho hệ thống trường lớp, nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ. Trong giai đoạn 1999-2007 số lượng các trường mầm non tăng lên 20%, từ 9.598 đến 11.509 trường và đến 2009 con số này là 12190 trường . Không chỉ số lượng giáo viên tăng lên, mà chất lượng giáo viên cũng đã được nâng cao hơn trước (nhiều trường đại học, cao đẳng đã thực hiện chương trình đào tạo ngành sư phạm mầm non). II.2.2. Đầu tư giáo dục phổ thông. Đầu tư xây dựng mạng lưới trường phổ thông đã được tương đối ổn định. Hiện nay cả nước có khoảng 21 nghìn trường tiểu học và trung học cơ sở; hầu hết các xã đã có trường tiểu học; phần lớn các xã ở vùng đồng bằng có trường trung học cơ sở. Các địa phương bắt đầu chú ý quy hoạch mạng lưới trường gắn với quy hoạch kinh tế xã hội. Các trường ngoài công lập đang hình thành và phát triển mạnh. Hệ thống các trường dân tộc nội trú tỉnh huyện được củng cố; hầu hết các bản làng ở vùng núi cao, vùng sâu đã mở lớp học. Loại hình trường bán trú đang phát triển mạnh. Hiện nay đã có 239 trường dân tộc nội trú, đảm bảo điều kiện học tập, ăn ở nội trú cho 45 nghìn học sinh dân tộc. Số trường phổ thông trong cả nước tăng liên tục. Năm học 1999-2000 cả nước có 23960 trường phổ thông thì năm học 2006-2007 có 27595 trường , tăng 15,17%, năm học 2008-2009 có 28144 trường. II.2.3. Đầu tư giáo dục bậc đại học, cao đẳng Hệ thống giáo dục đại học của Việt  Nam áp dụng mô hình của Liên Xô cũ, từ sau khi đổi mới giáo dục đại học, cao đẳng Việt nam đến nay Việt Nam đã có 322 trường đại học và cao đẳng trong đó 275 trường công lập và 47 trường ngoài công lập. Hầu hết các tỉnh đều ít nhất có một trường đại học. Để có được số lượng này một mặt do nhu cầu học đại học gia tăng, một mặt do ở các tỉnh, thành phố đều có chính sách khuyến khích đầu tư cho giáo dục nhất là giáo dục đại học. Ví dụ: Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách miễn tiền thuê đất cho các trung tâm, viện, trường đại học có uy tín quốc tế đầu tư vào khu công nghệ cao (Q.9). Tuy nhiên chúng ta cũng cần quan tâm đến những mặt hạn chế trong việc đào tạo - giáo dục bậc đại học – cao đẳng ở nước ta: ·        Những năm gần đây tốc độ phát triển quy mô đào tạo đại học và cao đẳng quá nhanh so với các điều kiện dạy và học. Tỷ lệ bình quân số sinh viên so với giáo viên của ta hiện nay đang quá tải (26,5 sinh viên/giáo viên), là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng đào tạo giảm thấp. Một số trường đại học phát triển quy mô quá mức, thiên về lợi ích kinh tế (nhất là hệ tại chức). Một số trường đại học dân lập tuyển sinh quá mức cho phép, vượt xa các điều kiện bảo đảm việc dạy và học, tổ chức quản lý đào tạo lỏng lẻo, chất lượng đào tạo chưa cao. Quy mô một số trường đại học của nước ta còn quá lớn : Ø     Đại học Quốc gia TPHCM : 81.000 Ø     Đại học Kinh tế TPHCM    : 34.000 Ø     Đại học Huế                        : 81.000 Ø     Đại học Đà Nẵng                : 52.000 Trong khi đó ở Mỹ, đại học lớn nhất là Arizona State cũng chỉ có khoảng 52.000 sinh          viên. Các trường đại học hàng đầu chỉ khoảng 15.000 sinh viên. ·        Cơ cấu đào tạo mất cân đối về bậc học, về ngành nghề, người học dồn nhiều vào bậc đại học và một số ngành nghề có nhu cầu trước mắt, không có sự hướng dẫn, điều chỉnh của Nhà nước về ngành nghề đào tạo. Trong đào tạo mất cân đối theo vùng và lãnh thổ, học sinh tốt nghiệp đại học tập trung xin việc ở thành phố và đồng bằng, nhiều trường hợp làm việc trái nghề. Trong hội nghị toàn quốc về chất lượng giáo dục đại học ngày 5/1/2008, cả nước chỉ có 25 trường, có tỷ lệ sinh viên ra trường làm đúng nghề, trên 60%. ·        Cơ sở vật chất của ngành giáo dục đào tạo mặc dù đã được chú ý đầu tư, nhưng so với nhu cầu nâng cao chất lượng thì ở mức rất thấp, đặc biệt là thiếu thiết bị phục vụ học tập và giảng dạy, thư viện nghèo nàn, thiếu ký túc xá cho học sinh, sinh viên. Sự tăng cơ sở vật chất thấp xa so với tăng quy mô học sinh, sinh viên. ·        Công tác bồi dưỡng và sử dụng nhân tài như là đầu tàu của đội ngũ nhân lực chưa được quan tâm đúng mức, “thiếu cơ chế, chính sách để trọng dụng cán bộ khoa học và nhà giáo có trình độ cao” và “nhiều chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ chưa được ban hành". Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao còn ít, song chưa được sử dụng tốt, đang bị lão hoá, ít có điều kiện cập nhật kiến thức mới. Sự hẫng hụt về cán bộ là nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh vực khoa học cơ bản”. 2.2.2.4. Đào tạo  cho giáo dục sau đại học Để đào tạo và bồi dưỡng cán bộ từ trình độ đại học trở lên, đạt chuẩn quốc tế tại cơ sở nước ngoài trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội quan trọng, mỗi năm đề án 332 (Đề án “Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước”) tuyển 400 chỉ tiêu, trong đó 50% chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ, 25% đào tạo thạc sĩ, 15% đào tạo kỹ sư, cử nhân và 10% thực tập khoa học đi đào tạo ở nước ngoài. Đối tượng được cử đi đều là những cán bộ, sinh viên xuất sắc, trải qua các vòng thi tuyển và đáp ứng đủ yêu cầu ngoại ngữ. Theo thống kê năm 2005 của Bộ GD-ĐT, hiện có khoảng 38.000 du học sinh Việt Nam đang theo học tại hơn 20 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó gần 20% du học bằng ngân sách Nhà nước. 2.2.2.5. Đầu tư cho hệ thống dạy nghề Ngân sách từ chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư cho dạy nghề từ nay đến năm 2010 dự kiến khoảng 7.000 tỉ đồng. Hệ thống các trường dạy nghề cũng sẽ được nâng cấp để đến năm 2010 có 40 trường chất lượng cao, 3 trường tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và có khoảng 7,5 triệu LĐ được qua đào tạo nghề. Trong những năm gần đây, số trường trung học chuyên nghiệp không tăng hoặc tăng không đáng kể. So với năm học 2005-2006, năm học 2006-2007 số trường dạy nghề giảm đi. Trước vấn đề này, đề án “Hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008-2015” với kinh phí khoảng 10.000 tỷ đồng, nhằm nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 50% vào năm 2010 và 75% năm 2015 của Chính phủ đã thể hiện quyết tâm xóa bỏ tình trạng “thừa thầy thiếu thợ “ hiện nay, tăng cường số lượng công nhân có tay nghề cao. Các cơ sở dạy nghề được phát triển theo quy hoạch rộng khắp trên toàn quốc, đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình đào tạo.Đến nay trong cả nước có 2052 cơ sở dạy nghề (trong đó có 62 trường cao đẳng nghề, 235 trường trung cấp nghề). Số lượng cơ sở dạy nghề tư thục tăng nhanh, đã có một số cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện có 789 cơ sở dạy nghề công lập. 2.3. Đầu tư tạo việc làm. Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam, giải quyết việc làm cho người lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế phát triển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách thiết thực hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của chính phủ và sự nỗ lực vươn lên của nhân dân, trong những năm qua công tác giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động đã thu được nhiều kết quả khả quan. 2.3.1 Đầu tư tạo việc làm cho lao động Vai trò của nhà nước chuyển tự tạo việc làm trực tiếp sang gián tiếp thông qua các chính sách nguồn lực hỗ trợ, đặc biệt thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Trong những năm qua đã có sự lồng ghép hiệu quả với chương trình phát triển  kinh tế xã hội khác, thực hiện các dự án vê tín dụng việc làm với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm, góp phần thúc đẩy chuyển dich cơ cấu lao động, gắn dạy nghề với tạo việc làm, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, tạo và tự tạo việc làm cho từ 300-350 nghìn lao động trên năm. Quỹ quốc gia giải quyết việc làm có mục tiêu hỗ trợ những người lao động tự tạo việc làm, tính đến năm 2007 tổng nguồn vốn cho vay lên trên 2.900 tỷ, tạo ra 25-30% việc làm được giải quyết mỗi năm. Tuy nhiên ngân sách đầu tư cho phát triển tạo việc làm còn quá ít so với nhu cầu hàng năm, bình quân mỗi năm chưa tới 300 tỷ, chỉ đáp ứng được 35-40% nhu cầu vay vốn tạo việc làm cho nhân dân. Suất đầu tư cho mỗi chỗ làm việc trong thực hiện cấc dự án cho vay theo chính sách hỗ trợ việc làm cho người nghèo thấp nên chất lượng của giải quyết việc làm theo các dự án đạt được chưa cao. Nhà nước đã thực hiện vai trò bà đỡ thông qua việc ban hành các chính sách cho nhóm lao động yếu thế, như các chế độ ưu đãi đối với người lao động là người tàn tật, lao động là người dân tộc thiểu số, chính sách về bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ lao động dôi dư ... góp phần hỗ trợ người lao động tạo việc làm, nhanh chóng ổn định cuộc sống. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tạo thuận lợi phát triển các hoạt động giao dịch trên thị trường. Đến nay đã có 150 trung tâm giới thiệu việc làm và hàng nghìn doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, giới thiệu việc làm cho hàng triệu lượt người. Các hội chợ việc làm, tháng tạo việc làm, sàn giao dịch việc làm được tổ chức thường xuyên, đặc biệt là những trang thông tin chuyên về việc làm như www.vietnamworks.com.vn đã tích cực gắn kết người lao động và người sử sụng lao động. Đối với nhà khoa học công nghệ, nhất là với những tài năng đỉnh cao, để tạo việc làm cho họ phải cung cấp được tài chính và tạo những điều kiện làm việc cần thiết như cung cấp thông tin, trang thiết bị phương tiện thí nghiệm, các cơ sở triển khai ứng dụng nhanh các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Tuy nhiên nguồn tài chính này nếu chỉ đơn giản là do nhà nước cấp để cho các nhà khoa học nghiên cứu mà không có đơn đặt hàng từ phía sản xuất thì việc nghiên cứu đó sẽ không đem lại hiệu quả thực. Ø     Thống kê cho thấy, hiện nay đầu tư cho Khoa học - Công nghệ ở Việt Nam chiếm 0,56% GDP so với 1% của Trung Quốc và 5,5% của Hàn Quốc và có năm (2005-2006) cũng không chi hết số tiền này. Ø     Chính phủ đã ban hành Nghị định 115/2005/NĐ-CP về chuyển đổi các tổ chức khoa học và công nghệ công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (tháng 9/2005) hay gọi là ”khoán 10 trong khoa học công nghệ”. Nghị đinh này cho phép ngoài việc thực hiện các chức năng chính là nghiên cứu như trước đây, khi đăng ký chuyển đổi sang mô hình tự chủ, tự chịu trách nhiệm, các tổ chức khoa học công nghệ được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh như một doanh nghiệp. Đây được coi là bước chuyển lớn đối với các tổ chức khoa học và công nghệ để họ tự thương mại hóa kết quả nghiên cứu của mình hoặc sử dụng kết quả nghiên cứu của mình để góp vốn liên doanh qua đó họ có điều kiện để nâng cao hiệu quả đầu tư cho khoa học và công nghệ 2.4. Đầu tư xã hội và xuất khẩu lao động 2.4.1. Đầu tư toàn xã hội Muốn tạo việc làm phải tăng vốn đầu tư cho sản xuất và kinh doanh vì phát triển lao động mà không có vốn đầu tư thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ giảm xét từ góc độ kinh tế. Theo báo cáo của bộ kế hoạch và dầu tư giai đoạn 2005-2010 để phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động hiện có cần lượng vốn đầu tư ít nhất sấp xỉ 50 tỷ USD. Để có được lượng vốn lớn như vậy phải tạo vốn từ nhiều kênh khác nhau, trong đó nhà nước phải có chính sách hấp dẫn, tin cậy để thu hút nguồn vốn trong nhân dân, nước ngoài dưới nhiều hình thức. Ø     Trong những năm gần đây tỷ lệ tiết kiệm nội địa so với GDP tăng nhanh và ổn định ở mức 31% - 33% (đây là cũng là mức tiết kiệm của Nhật bản trong giai đoạn bùng nổ kinh tế ). Ø     Bên cạnh đó để thu hút vốn đầu tư trước tiếp FDI chính phủ đã thực hiện nhiều cải cách thủ tục đầu tư, ban hành nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI, cùng với luật đầu tư nước ngoài được ban hành đã biến Việt Nam thành một điểm sáng trong thu hút đầu tư nước ngoài. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 8 tháng đầu năm 2008, Việt Nam đã thu hút mới 772 dự án với 46,3 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), bằng 79,2% về số dự án và tăng gấp 5 lần về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước, vốn FDI giải ngân được đạt trên 7 tỷ USD, tuy thấp hơn so với vốn đăng ký nhưng tăng tới 32,1% so với cùng kỳ năm 2007 và là mức cao nhất kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài đến nay. 2.4.2. Xuất khẩu lao động Để giải quyết sức ép việc làm trong nước, phát triển thu nhập cho người lao động, nhà nước đã tiến hành các chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Ở một số địa phương đã phối hợp cùng các ngân hàng tiến hành cho người lao động đi vay tiền để xuất khẩu. Ví dụ người lao động sẽ được vay 20 triệu để đi Malaysia với thu nhập trung bình 4 triệu/tháng.Theo thống kê, hiện nay, tổng số lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài nhiều nhất là Malaysia là trên 100 nghìn người, trong đó một số nghề thu nhập từ 5 – 7 triệu đồng/tháng. Thứ hai là Đài Loan có trên 90 nghìn người có thu nhập lên tới 300 – 500 USD/tháng và sau đó là Hàn Quốc có trên 30 nghìn,  thu nhập bình quân của lao động khoảng 900 - 1000 USD/tháng. 2.5. Đầu tư cải thiện môi trường lao động 2.5.1. Tiền lương Để bảo vệ quyền lợi của người lao động trước chủ lao động, Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới đều quy định định mức lương tối thiểu cho lao động. Khác với các nước trên thế giới áp dụng một mức lương tối thiểu chung cho cả nước thì chúng ta phân biệt mức lương tối thiểu ở doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự chênh lệch về mức lương tối thiểu giữa 2 khu vực này tạo ra lợi thế tương đối về chi phí của doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Đây là sự ưu đãi của chính phủ dành cho các doanh nghiệp trong nước khi sức cạnh tranh của chúng còn yếu, tuy nhiên 2 mức lương tối thiểu này sẽ dần được tăng lên theo hướng mức tăng ở doanh nghiệp trong nước tăng nhanh hơn mức tăng ở doanh nghiệp FDI. Dự kiến đến năm 2012, 2 mức lương này sẽ được thống nhất theo cam kết của Việt Nam gia nhập WTO. Lương tối thiểu ở Việt Nam có quá nhiều ràng buộc với hệ thống an sinh. Nếu như ở các nước, lương tối thiểu gắn với yếu tố lạm phát, thường được điều chỉnh kịp thời dựa trên những thay đổi về chỉ số giá sinh hoạt, thì ở Việt Nam, lương tối thiểu còn là cơ sở để điều chỉnh lương hưu, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc. Mục đích của nhà nước là  rất rõ ràng, đó là tạo ra sự công bằng hơn cho tất cả mọi đối tượng hưởng lương, nhưng điều đó lại tạo ra sự mất linh hoạt trong cơ chế điều chỉnh lương, đặt lên vai ngân sách nhà nước một gánh nặng quá lớn. Bảng 5: Mức lương tối thiểu chung áp dụng từ 1/1/2008 Đơn vị :đồng/tháng Hà Nội, TP HCM Hải Phòng, Quảng Ninh, Đồng Nai, Vũng Tàu (*) Địa bàn khác Doanh nghiệp trong nước 620.000 580.000 540.000 Doanh nghiệp nước ngoài 1.000.000 900.000 800.000 (*) Các huyện thuộc TP Hải Phòng; TP Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh; TP Biên Hòa, thị xã Long Khánh, các huyện Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu, Trảng Bom thuộc tỉnh Đồng Nai; thị xã Thủ Dầu Một, các huyện: Thuận An, Dĩ An, Bến Cát, Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương; TP Vũng Tàu thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Mức lương tối thiểu vùng 1/1/2010: Mức lương tối thiểu chia thành 4 vùng, sát với mức tiền công tiền lương và mức sống tại mỗi vùng. Cụ thể mức lương tối thiểu tại từng vùng dùng để trả công đối với người lao động làm việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường ở các doanh nghiệp trong nước được quy định tại Nghị định 97/2009/NĐ-CP,lần lượt như sau: Vùng I là 980.000 đồng/tháng; Vùng II là 880.000 đồng /tháng; Vùng III là 810.000 đồng/tháng;Vùng IV là730.000đồng/tháng. Đối với lao động tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quy định tại Nghị định 98/2009/NĐ-CP, Vùng I: 1.340.000 đồng/tháng; Vùng II: 1.190.000 đồng/tháng; Vùng III: 1040.000 đồng/tháng; Vùng IV:._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26123.doc
Tài liệu liên quan