Phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu ở Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam

Tài liệu Phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu ở Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam: ... Ebook Phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu ở Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1159 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu ở Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tr­êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n khoa kinh tÕ vµ kinh doanh quèc tÕ Chuyªn ngµnh qu¶n trÞ kinh doanh quèc tÕ  & œ CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI : PHÁT TRIỂN NGUỒN HÀNG XĂNG DẦU NHẬP KHẨU Ở TỔNG CÔNG TY XĂNG DẦU VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn  : TS. TẠ VĂN LỢI Sinh viên thực hiện : TRỊNH THỊ HIỀN Lớp  : KDQT46A Hệ  : Chính qui Hµ Néi 4 – 2008 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài: Thời đại ngày nay là thời đại của nền kinh tế tri thức, thời đại mà sự phát triển của xã hội gắn liền với sự phát triển của khoa học - công nghệ và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển của khoa học - công nghệ tạo ra những máy móc, thiết bị hiện đại giúp con người chinh phục tự nhiên, khai thác tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho chính cuộc sống của mình. Nhiều nguồn tài nguyên quý đã đựợc phát hiện và khai thác một cách có hiệu quả, chẳng hạn như dầu mỏ, than, các loại khoáng sản...Tuy vậy những tiến bộ khoa học - công nghệ đó lại được ứng dụng ở mỗi quốc gia khác nhau là khác nhau cùng với sự phân bố nguồn tài nguyên không đồng đều trên thế giới nên tạo ra khoảng cách rất lớn về sự phát triển kinh tế giữa các nước. Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu và khách quan ảnh hưởng tới mọi quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nó tạo điều kiện cho hoạt động ngoại thương của thế giới nói chung và của mỗi nước nói riêng phát triển.Ngoại thương phát triển thì hoạt động nhập khẩu cũng dễ dàng và thuận lợi hơn và đối với hoạt động nhập khẩu xăng dầu cũng vậy. Trên thế giới, xăng dầu luôn được coi là hàng hóa đặc biệt quan trọng, là máu huyết của nền kinh tế quốc dân và quốc phòng… Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (TCT) là một trong những doanh nghiệp trọng yếu của Nhà nước, ngoài chức năng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu và các dịch vụ hỗ trợ có liên quan, Tổng công ty còn có nhiệm vụ hết sức quan trọng mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội, đó là chức năng chủ đạo, bình ổn thị trường xăng dầu, đảm bảo nguồn xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu để cung cấp và phục vụ tốt nhất cho các nhu cầu thiết yếu của xã hội và đất nước. Chính vì vậy, việc đảm bảo nguồn hàng xăng dầu là nhiệm vụ hàng đầu của TCT và việc phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu là một trong những biện pháp tốt góp phần thực hiện nhiệm vụ đó. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài: “ Phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu ở Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu thực trạng nguồn hàng nhập khẩu xăng dầu của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam từ đó đánh giá khả năng phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu và đề xuất một số giải pháp để phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ cơ sở lý luận hoạt động nhập khẩu và phát triển nguồn hàng nhập khẩu; Phân tích, đánh giá việc phát triển nguồn hàng nhập khẩu xăng dầu ở Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam; Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam; Đối tượng nghiên cứu: Chuyên đề thực tập tập trung nghiên cứu hoạt động phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu ở Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Thời gian: nghiên cứu nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam từ năm 2005 đến nay Về không gian: Các thị trường xăng dầu nhập khẩu truyền thống của Tổng công ty và thị trường xăng dầu thế giới Về đối tượng: các sản phẩm xăng dầu nhập khẩu của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam như: Xăng, dầu mazút, dầu hoả, diesel. Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề tốt nghiệp sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp. Kết cấu của chuyên đề thực tập: Nội dung của chuyên đề thực tập gồm 3 phần: Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển nguồn hàng nhập khẩu và sự cần thiết phát triển nguồn hàng nhập khẩu ở Tổng công ty xăng dầu Việt Nam. Chương II: Thực trạng phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu ở Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN HÀNG NHẬP KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN NGUỒN HÀNG NHẬP KHẨU Ở TỔNG CÔNG TY XĂNG DẦU VIỆT NAM. 1.1. Hoạt động nhập khẩu 1.1.1. Khái niệm Nhập khẩu và xuất khẩu là hai bộ phận cấu thành nên thương mại quốc tế, cùng nhau tạo ra sức mạnh của một nước thông qua con đường ngoại thương. Nếu xuất khẩu mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước thì hoạt động nhập khẩu góp phần quan trọng trong việc đảm bảo nguồn hàng mà trong nước không thể sản xuất hoặc sản xuất không hiệu quả. Nhập khẩu có thể được hiểu là hoạt động đưa các hàng hoá và dịch vụ vào một nước do các Chính phủ, tổ chức hoặc cá nhân đặt mua từ các nước khác nhau. Hoạt động đặt mua đó không phải là hoạt động mua bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp và có tổ chức trên phạm vi quốc tế. Nó thể hiện sự phụ thuộc, sự tác động qua lại giữa các nền kinh tế, quốc gia với nền kinh tế thế giới. Đặc biệt là trong thời đại hiện nay khi mà xu hướng liên kết kinh tế quốc tế và khu vực diễn ra mạnh mẽ thì mức độ ảnh hưởng của từng quốc gia với nhau và từng khu vực kinh tế thế giới ngày càng tăng. Sự hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng rất sâu sắc đến mọi quốc gia cả xuất khẩu và nhập khẩu. Mỗi quốc gia khi tham gia vào cùng một sân chơi chung đều phải tuân thủ những nguyên tắc của tổ chức. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải linh hoạt nhạy bén nắm chắc các cơ hội đồng thời phải lường trước những thách thức để có biện pháp ứng phó, như vậy mới có thể tồn tại vững chắc và phát triển trong điều kiện hội nhập ngày nay. Nhập khẩu theo Luật thương mại 2005 được hiểu “là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật” Như vậy, trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì chủ thể tiến hành kinh doanh phải là những thương nhân có trụ sở tại những nước khác nhau và có quốc tịch khác nhau. Do đó các bên sẽ có sự khác biệt về văn hoá, tập quán thương mại... điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc mua bán hàng hoá. Vì vậy, muốn kinh doanh xuất nhập khẩu đạt hiệu quả thì phải tìm hiểu thật kỹ đối tác không chỉ về những vấn đề có liên quan trực tiếp đến hoạt động mua bán mà còn phải tìm hiểu về văn hoá, tập quán thương mại, chính trị, pháp luật... Về đối tượng trao đổi: Đó là những hàng hoá xuất nhập khẩu có sự di chuyển qua biên giới ( biên giới được hiểu dưới góc độ hải quan theo quy định của pháp luật ). Đồng thời những hàng hoá đó phải đáp ứng những tiêu chuẩn mà thị trường đòi hỏi tức là phải vượt qua cả hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan như: hạn ngạch, tiêu chuẩn chất lượng... Về thanh toán: đồng tiền thanh toán phải là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên mua bán. Về luật điều chỉnh: hoạt động xuất nhập khẩu phải tuân theo luật quốc gia (có thể là luật của bên mua, bên bán hoặc luật của nước thứ ba); luật quốc tế; tập quán thương mại quốc tế. 1.1.2. Phân loại. Trên thực tế hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đều được tiến hành theo những cách nhất định. Những cách thức mua bán đó quy định thủ tục tiến hành, điều kiện giao dịch, thao tác và những chứng từ cần thiết của quan hệ giao dịch. Đó thường được gọi là những phương thức giao dịch. Hiện nay, có một số phương thức giao dịch trong nhập khẩu như sau: Phương thức trực tiếp: Theo phương thức này, các doanh nghiệp trực tiếp giao dịch với nhau, việc mua và việc bán không ràng buộc nhau. Bên mua chỉ có thể mua mà không bán, bên bán có thể chỉ bán mà không mua. Hai bên - bên bán ( bên xuất khẩu) và bên mua ( bên nhập khẩu) thường phải trải qua quá trình giao dịch và thương lượng với nhau về các điều kiện giao dịch khi các điều kiện được kia bên nhất trí thì có thể tiến tới việc ký kết hợp đồng. Trong phương thức này, có những bước giao dịch chủ yếu như: hỏi giá (inquiry); chào hàng (offer); đặt hàng (order); hoàn giá (counter-offer); chấp nhận (acceptance); xác nhận (confirmation). Trong phương thức này doanh nghiệp nhập khẩu sẽ phải tự tiến hành nghiên cứu thị trường, tìm hiểu đối tác cũng như các yếu tố về giá cả, pháp luật...Doanh nghiệp phải tự tính toán các chi phí, tự chịu trách nhiệm về mọi rủi ro xảy ra về nguồn vốn của mình bỏ ra. Nhập khẩu theo phương thức trực tiếp có ưu điểm cho phép người nhập khẩu nắm được chính xác thông tin về thị trường nhập khẩu. Nhưng có nhược điểm là chi phí tiếp cận thị trường lớn và đòi hỏi cần có cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi về nghiệp vụ, am hiểu thị trường nhập khẩu, có kinh nghiệm về buôn bán quốc tế đặc biệt là các điều kiện nhập khẩu và thanh toán quốc tế. Phương thức gián tiếp ( phương thức giao dịch qua trung gian): là phương thức giao dịch mà mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán với người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua một người thứ ba. Người thứ ba này gọi là người trung gian buôn bán. Người trung gian buôn bán phổ biến hiện nay trên thị trường là đại lý và môi giới. Khi doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh mặt hàng nhập khẩu nhưng không được phép hoặc không đủ điều kiện để xuất khẩu mặt hàng đó, họ sẽ uỷ thác cho doanh nghiệp khác có chức năng trực tiếp tiến hành hoạt động mua bán theo yêu cầu của mình. Doanh nghiệp nhận uỷ thác (bên thứ ba) sẽ phải tiến hành trực tiếp đàm phán với doanh nghiệp nước ngoài để xuất nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của người uỷ thác. Trong hoạt động này, doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ phải thực hiện hai hợp đồng: hợp đồng mua bán hàng hoá với người nước ngoài và nhận uỷ thác của bên uỷ thác. Nhập khẩu theo phương thức này có ưu điểm là giảm bớt rủi ro cho nhà nhập khẩu do hoạt động nhập khẩu được thực hiện qua bên thứ ba (các trung gian), đó là những người am hiểu về thị trường, pháp luật cũng như tập quán buôn bán của địa phương và đồng thời họ thường có cơ sở vật chất, nghiệp vụ nhất định nên doanh nghiệp sẽ giảm bớt được chi phí vận tải, tìm hiểu thị trường...Bên cạnh ưu điểm phương thức gián tiếp có nhược điểm là các nhà nhập khẩu không có mối liên hệ trực tiếp với thị trường và phải chia sẻ một phần lợi nhuận cho bên thứ ba Tái xuất khẩu: Đây là hình thức nhập khẩu hàng hoá vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ mà để xuất khẩu trở lại sang các nước khác những hàng hoá đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Mục đích của phương thức này là thu lợi nhuận từ chênh lệch giá, mua hàng hoá với giá rẻ ở nước này và bán hàng hoá đó với giá đắt ở thị trường khác. Giao dịch này luôn có ba nước tham gia: nước xuất khẩu; nước nhập khẩu; nước tái xuất. Phương thức này có hai hình thức là tái xuất và chuyển khẩu. Khi thực hiện việc nhập khẩu theo phương thức tái xuất khẩu doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí từ tổ chức, giao dịch, đàm phán, giao nhận hàng hoá...với mỗi đối tác xuất và đối tác nhập, để đảm bảo sao cho hoạt động mua bán có lãi. Doanh nghiệp nước tái xuất sẽ phải kí hai hợp đồng: hợp đồng xuất khẩu và hợp đồng nhập khẩu và hàng hoá tái xuất hoàn toàn không phải chịu thuế xuất nhập khẩu. Đấu thầu quốc tế: là phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người mua công bố về hàng hoá và các điều kiện mua bán để nhiều người bán cạnh tranh chào giá nhằm trao cho người có đủ năng lực và chào giá hợp lý nhất. 1.1.3. Vai trò của hoạt động nhập khẩu. Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Nhập khẩu tác động trực tiếp quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả, không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế nghĩa là nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân trong đó, cân đối trực tiếp 3 yếu tố của sản xuất: công cụ lao động, đối tượng lao động và lao động. Với các tác động đó, ngoại thương được coi là một phương thức sản xuất gián tiếp. Vai trò của hoạt động nhập khẩu được thể hiện trên các mặt sau: Đối với nền kinh tế: Thứ nhất, nhập khẩu tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi nền kinh tế một cách cơ bản từ lao động thủ công sang lao động bằng cơ khí ngày càng hiện đại hơn. Thứ hai, nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định. Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần đảm bảo sự cân đối theo những tỷ lệ nhất định như: cân đối giữa khu vực nông thôn và thành thị, tích luỹ và tiêu dùng, giữa hàng hoá và lượng tiền trong lưu thông, giữa xuất khẩu với nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế. Nhập khẩu có tác động rất tích cực thông qua việc cung cấp các điều kiện đầu vào là cho sản xuất phát triển, mặt khác tạo điều kiện để các quốc gia chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận hưởng những lợi thế từ thị trường thế giới và khắc phục những mặt mất cân đối từ đó dẫn đến kinh tế quốc dân phát triển. Thứ ba, Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của người dân. Nhập khẩu có vai trò làm thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người dân về hàng tiêu dùng, mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ như thuốc chữa bệnh, đồ điện gia dụng, lương thực, thực phẩm... Đảm bảo đầu vào cho sản xuất, khắc phục lại những ngành nghề cũ, mở ra những ngành nghề mới, tạo nhiều việc làm ổn định cho người lao động, từ đó tăng khả năng thanh toán. Thứ tư, Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo ra đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang và kém phát triển, vì khả năng sản xuất của các quốc gia này còn có giới hạn. Do vậy, có thể nói đây là hiện tượng “lấy nhập khẩu nuôi xuất khẩu” và sự phát triển gia công xuất khẩu ở Trung Quốc, Việt Nam là minh chứng cụ thể. Tạo môi trường thuận lợi cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia ra nước ngoài, thông qua quan hệ nhập khẩu cũng như các hình thức thanh toán đòi hỏi kết hợp nhập khẩu với xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp: Đối với doanh nghiệp sản xuất đặc biệt là những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cần dùng tới nguyên liệu ngoại nhập thì hoạt động nhập khẩu đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Ở những nước đang phát triển và kém phát triển nhờ có hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp mới có được các máy móc, dây truyền công nghệ hiện đại của thế giới để từ đó sẽ tạo ra sản phẩm có khối lượng lớn, chất lượng cao, giảm chi phí đầu vào, hạ thấp giá thành sản phẩm, do đó sản phẩm sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường thế giới và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp thương mại đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, có thể nói hoạt động nhập khẩu là một trong những hoạt động cơ bản của doanh nghiệp. Nhập khẩu đảm bảo nguồn cung cho thị trường đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đối với người tiêu dùng Nếu không có hoạt động nhập khẩu người tiêu dùng chỉ tiếp xúc với hàng hoá trong nước, do đó hạn chế cơ hội lựa chọn hàng hoá. Nhập khẩu tạo ra sự đa dạng hàng hoá trên thị trường, người tiêu dùng sẽ có nhiều cơ hội chọn lựa những hàng hoá phù hợp với điều kiện và yêu cầu của mình. Bên cạnh đó, nhập khẩu cũng giúp người tiêu dùng mua được với những hàng hoá có chất lượng tốt mà trong nước chưa thể sản xuất hoặc sản xuất với hiệu quả không cao. 1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. 1.1.4.1. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp Nhân tố con người, nguồn lực trong công ty. Trong bất kỳ một tổ chức nào thì con người cũng đóng vai trò quan trọng quyết định sự thành bại của tổ chức. Trong một doanh nghiệp cũng vậy nhất là doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thì yếu tố con người lại càng có vị trí quan trọng hơn. Bởi vì, hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động có yếu tố nước ngoài, đối tác nước ngoài với những tập quán, văn hoá kinh doanh, luật pháp, hệ thống chính trị khác nhau, cùng với phương thức giao dịch phức tạp đòi phải có đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm buôn bán trên thị trường thế giới, trong giao dịch đàm phán, thanh toán... Nguồn lực tài chính. Nguồn lực tài chính là yếu tố cơ bản cấu thành nên doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải có nguồn tài chính mạnh. Đối với doanh nghiệp có hoạt động nhập khẩu thì nguồn tài chính càng phải mạnh vì hàng hoá nhập khẩu thường là những hàng hoá có giá trị lớn và chi phí cho hoạt động nhập khẩu là khá cao. Nếu doanh nghiệp có nguồn tài chính hạn hẹp sẽ khó có thể tiến hành hoạt động nhập khẩu có hiệu quả. Đặc điểm mặt hàng nhập khẩu và khả năng tiêu thụ. Điều này muốn nói đến loại mặt hàng mà doanh nghiệp nhập khẩu, nói đến khả năng marketing, đến thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Tìm được các nhà cung cấp tốt, sản phẩm tốt nhưng hoạt động kinh doanh sẽ thất bại nếu doanh nghiệp không có khả năng bán những lô hàng đã nhập về. Doanh nghiệp dựa vào đặc điểm hàng mình nhập khẩu về mà có các chiến lược phù hợp. Bán được nhiều hàng công ty mới thu hồi được vốn, tái đầu tư cho nhập khẩu, tiếp tục quá trình kinh doanh. Những doanh nghiệp có khả năng tiêu thụ nội địa lớn, số vòng quay của vốn nhiều, hiệu quả sử dụng vốn cũng cao hơn và sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Uy tín doanh nghiệp. Trong kinh doanh, uy tín doanh nghiệp có vai trò khá quan trọng, là một trong những sức mạnh vô hình giúp cho doanh nghiệp tạo được lợi thế cạnh tranh ở thị trường trong nước và ngoài nước. Để có một thương hiệu tốt doanh nghiệp sẽ phải mất một thời gian dài và phải được thị trường công nhận. Một doanh nghiệp có uy tín, được các doanh nghiệp khác tin tưởng, chú trọng sẽ dễ dàng hơn trong việc nhập khẩu, đồng thời việc tiêu thụ hàng hoá trong nước của doanh nghiệp cũng sẽ thuận lợi hơn. Đặc biệt, mối quan hệ làm ăn lâu dài với các đối tác, các khách hàng truyền thống có vai trò rất lớn. Nó giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quá trình tìm nguồn hàng cũng như các khâu trong việc thực hiện hoạt động nhập khẩu. 1.1.4.2. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp Yếu tố văn hoá Văn hoá là một trong những yếu tố quan trọng của mỗi một quốc gia. Nó chi phối đến rất nhiều khía cạnh của cuộc sống con người trong quốc gia đó. Văn hoá đó là một phạm trù dùng để chỉ các giá trị, tín ngưỡng, luật lệ và thể chế do một nhóm người xác lập nên. Hoạt động nhập khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau và mới mẻ. Sự khác biệt về văn hoá sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho những doanh nghiệp không am hiểu về các nền văn hoá. Hiểu biết về văn hoá của đối tác sẽ nâng cao khả năng đàm phán, giảm được rủi ro trong quá trình tổ chức hoạt động nhập khẩu, đặc biệt ở một số khâu như vận chuyển, giao hàng, thanh toán... Yếu tố chính trị, các chính sách thương mại đặc biệt là các chính sách về hoạt động xuất nhập khẩu của Chính phủ. Mỗi một quốc gia đều thiết lập cho mình một hệ thống chính trị - pháp luật tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội. Các hoạt động kinh doanh có thể bị Chính phủ can thiệp hoặc chịu nhiều ảnh hưởng bởi các sự kiện hoặc đặc điểm của môi trường. Đối với doanh nghiệp thì ảnh hưởng của môi trường chính trị pháp luật của đất nước xuất khẩu tới hoạt động nhập khẩu là vô cùng quan trọng. Mức độ ổn định chính trị ở các quốc gia mà doanh nghiệp nhập khẩu luôn là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Nếu quốc gia xuất khẩu có môi trường chính trị ổn định và thân thiện thì các doanh nghiệp sẽ có điều kiện đặt quan hệ làm ăn lâu dài. Hơn thế nữa, việc ổn định chính trị ở các quốc gia có nguồn nhập khẩu sẽ đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu của công ty không bị đình trệ hay mất hàng hoá và được tiến hành một cách liên tục, thuận lợi. Do đó, doanh nghiệp phải luôn luôn theo dõi các chính sách và độ ổn định chính trị của mỗi quốc gia nhằm xác định khả năng thay đổi chính trị có thể tác động tiêu cực đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ ổn định chính trị bao gồm: Sự phân bố của cải và thu nhập, kết cấu xã hội, các hình thức phản kháng như hoạt động biểu tình, khủng bố, đình công, các biến động kinh tế cũng như tác động mạnh mẽ đến các tình huống chính trị, do vậy doanh nghiệp cần quan tâm đến thành quả mà nền kinh tế quốc gia xuất khẩu đạt được như là sự tăng trưởng kinh tế, lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp, cán cân thanh toán, nợ quốc tế... Hoạt động thương mại quốc tế liên quan tới luật quốc gia nhập khẩu, luật ở nước xuất khẩu, tập quán thương mại quốc tế, nên hoạt động này chịu ảnh hưởng rất lớn của hệ thống pháp lý. Đối với nước ta, tuy không khuyến khích nhập khẩu nói chung nhưng đối với những loại thiết bị. máy móc, nguyên vật liệu mà trong nước còn thiếu thì Nhà nước cũng tạo điều kiện. Các thủ tục hải quan đã bớt rườm rà và có hiệu quả hơn. Đặc biệt là từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, thuế suất nhập khẩu đã được giảm xuống tạo thuận lợi cho việc nhập khẩu và bán hàng nhập khẩu. Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm khuyến khích và hướng dẫn hoạt động nhập khẩu của các chủ thể. Nhu cầu trong nước. Nhu cầu của thị trường ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Đối với nước ta hiện nay là một nước có nền kinh tế đang phát triển nhu cầu về số mặt hàng nhập khẩu rất lớn như: xăng dầu, thép, ô tô...Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu có cơ hội phát triển. Đặc điểm thị trường mà doanh nghiệp nhập khẩu. Thị trường mà doanh nghiệp nhập khẩu với những quy định, chính sách thương mại quốc tế cũng ảnh hưởng phần nào đến việc nhập khẩu của doanh nghiệp. Khi mà thị trường ở nước mà doanh nghiệp nhập khẩu có biến động về nguồn cung,giá cả... thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Những yếu tố khác. Cơ sở hạ tầng trong nước cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Các kho tàng, nhà kho, bến bãi để chứa hàng cũng có tác động tới chất lượng hàng hoá. Bên cạnh đó, ngành vận tải của nước ta tuy có nhiều tiến bộ song năng lực chuyên chở vẫn còn yếu nhất là vận tải biển, gây khó khăn trong hoạt động nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái đôi khi cũng làm cho hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp kém hiệu quả. Do hợp đồng với các nhà máy trong nước doanh nghiệp đã ký hợp đồng từ trước, sau đó mới nhập khẩu hàng về, thời gian từ khi ký kết đến khi thự hiện hợp đồng thường dài nên khi tỷ giá hối đoái tăng so với tỷ giá hối đoái trong hợp đồng nội thì doanh nghiệp nhập khẩu phải chịu thiệt. 1.2. Phát triển nguồn hàng nhập khẩu. 1.2.1. Khái niệm và phân loại nguồn hàng nhập khẩu. Nguồn hàng nhập khẩu được hiểu là thị trường nước ngoài cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp nhập khẩu để phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái xuất nhằm mục đích thu lợi. Mặt hàng nhập khẩu từ nguồn hàng có thể là nguyên liệu, có thể là bán thành phẩm hoặc thành phẩm. Nguồn hàng nhập khẩu có thể phân loại như sau: Phân loại nguồn hàng theo tầm quan trọng của nguồn hàng: + Nguồn hàng chính: là nguồn hàng mà phần lớn các sản phẩm nhập khẩu của công ty đều được cung cấp từ nguồn hàng này. Nguồn cung này phải đảm bảo được hầu hết các yêu cầu mà công ty đặt ra về số lượng, chất lượng, giá cả, khả năng cung ứng và tính ổn định của nguồn hàng... Nguồn hàng này có khả năng cung cấp sản lượng lớn mà vẫn thoả mãn được các yêu cầu công ty đòi hỏi về chất lượng, giá cả...Đồng thời do nhập khẩu với số lượng lớn nên công ty thường được giảm giá do mua nhiều, được hưởng nhiều ưu đãi khi mua hàng. Tuy nhiên nguồn hàng này có hạn chế là do công ty chọn đây là nguồn cung ứng chính nên nếu nguồn này vi phạm một trong các tiêu thức mà công ty đặt ra ví dụ như không cung cấp đủ số lượng, hàng giao có chất lượng kém sẽ gây khó khăn rất lớn cho công ty trong việc thoả mãn nhu cầu khách hàng, vì vậy sẽ gây rủi ro và thiệt hại lớn cho công ty. + Nguồn hàng phụ: là nguồn hàng không cung cấp thường xuyên cho hoạt động nhập khẩu của công ty do chưa đáp ứng được một số tiêu chuẩn mà công ty đề ra. Công ty chỉ đặt hàng ở các nguồn cung này với số lượng ít, nguồn hàng phụ nhằm hạn chế rủi ro cho công ty khi có biến động bất thường xảy ra đối với nguồn hàng chính. Nguồn hàng này có ưu điểm là giúp công ty có thể hạn chế được rủi ro và thiệt hại khi nguồn hàng chính làm sai hoặc phá vỡ hợp đồng đã ký kết. Mặt khác nguồn hàng phụ có nhược điểm là chưa đáp ứng hoặc đã đáp ứng nhưng chất lượng không cao so với các nguồn hàng khác về một hoặc một số tiêu chuẩn mà công ty đề ra. Thông thường công ty nhập khẩu với số lượng ít từ nguồn này nên không được hưởng các ưu đãi khi mua. Phân loại nguồn hàng theo mối quan hệ kinh tế: + Nguồn hàng truyền thống: là nguồn hàng mà công ty có mối quan hệ mua bán từ lâu, mang tính thường xuyên liên tục. Nguồn hàng này chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng giá trị hàng hoá kinh doanh, góp phần đảm bảo cho công ty kinh doanh liên tục. Đối với nguồn hàng này công ty không phải lo lắng nhiều về giá cả, chất lượng cũng như thời gian giao hàng. Đồng thời doanh nghiệp có khả năng thanh toán chậm hoặc áp dụng các hình thức thanh toán đơn giản hơn rất nhiều so với các nguồn hàng khác. Do có quan hệ mua bán lâu dài nên doanh nghiệp nhận được nhiều ưu đãi từ phía nguồn hàng ví dụ như chất lượng hàng hoá luôn được đảm bảo, luôn đồng đều qua các thời kỳ khác nhau, thường được chiết khấu thương mại, hoạt động cung ứng được đảm bảo đều đặn, thường xuyên ổn định, thời hạn thanh toán và điều kiện thanh toán được rút gọn nên không phức tạp, nhanh chóng, thuận tiện hơn...Mặc dù vậy, trong xu thế hiện đại nhu cầu khách hàng không ngừng nảy sinh và đòi hỏi của thị trường ngày càng cao, nếu nguồn hàng truyền thống không thường xuyên được đổi mới, doanh nghiệp không tìm kiếm nguồn cung mới thì sẽ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào nguồn hàng truyền thống, do đó gặp nhiều rủi ro và có thể giảm hiệu quả kinh doanh. + Nguồn hàng mới: là nguồn hàng mới được doanh nghiệp tìm hiểu và xúc tiến giao dịch mua bán, nó góp phần phát triển và mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường những nguồn hàng mới mà doanh nghiệp tìm đến thường có một số ưu điểm vượt trội so với nguồn hàng truyển thống như: giá cá hợp lý hơn, chất lượng cao hơn...Song sử dụng nguồn hàng này doanh nghiệp phải giám sát chặt chẽ bởi có thể chất lượng hàng hoá chưa bền vững và ổn định. Nguồn hàng mới thường có một số ưu thế vượt trội so với nguồn hàng truyền thống có thể về giá cả hoặc chất lượng hoặc các điều kiện khác. Nhưng nguồn hàng mới cũng có mặt hạn chế là chưa kiểm nghiệm được tính ổn định và khả năng cung ứng thường xuyên, liên tục của nguồn hàng do đó doanh nghiệp luôn phải cân nhắc và cẩn trọng khi nhập khẩu. + Nguồn hàng vãng lai: là nguồn hàng mà công ty chỉ giao dịch mua bán một đôi lần hoặc mua bán trôi nổi trên thị trường. Ưu điểm của nguồn hàng này đáp ứng tính kịp thời trong trường hợp doanh nghiệp nhận dơn hàng với mặt hàng đang khan hiếm hoặc mặt hàng đặc biệt phục vụ cho mục đích chuyên dụng mà các nguồn hàng truyển thống cũng như nguồn hàng mới khai thác không có, công ty phải tìm đến các nguồn hàng vãng lai. Hạn chế của nguồn hàng này là do việc mua bán với nguồn hàng vãng lai chỉ được doanh nghiệp tiến hành mua bán một đôi lần nên có thể sản phẩm giao dịch mua bán không đủ độ tin cậy vì vậy, doanh nghiệp cần có sự kiểm tra chất lượng chặt chẽ, định giá một cách chính xác về mặt hàng nhập khẩu. Phân loại nguồn hàng theo vị trí địa lý: + Nguồn hàng có khoảng cách địa lý gần: là nguồn hàng có vị trí địa lý gần với doanh nghiệp. Khi khai thác nguồn hàng này doanh nghiệp sẽ giảm bớt được chi phí vận chuyển đồng thời các phương tiện vận chuyển đa dạng hơn, tạo nhiều cơ hội chọn lựa phương tiện hơn cho doanh nghiệp. Và với ưu điểm quãng đường vận chuyển ngắn nên hàng hoá được nhập khẩu từ nguồn này sẽ giảm thiểu được các hao hụt tất yếu và hao mòn tự nhiên, đáp ứng các nhu cầu một cách nhanh chóng và kịp thời. Nguồn hàng này có ưu điểm là khi khai thác thi các chi phí đi lại, vận chuyển, kho bãi chi phí bảo quản sẽ giảm.. Đồng thời do khoảng cách địa lý gần nên thời gian vận chuyển ngắn giúp cho việc đáp ứng các nhu cầu của khách hàng môt cách nhanh chóng từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Nhược điểm của nguồn hàng này là nếu chỉ khai thác nguồn hàng ở gần mà không tìm kiếm thêm những nguồn hàng ở xa có những ưu điểm vượt trội hơn thì sẽ mất đi năng lực cạnh tranh, nhất là trong xu thế ngày nay sự cạnh tranh rất gay go và quyết liệt. + Nguồn hàng có khoảng cách địa lý xa: là nguồn hàng có khoảng cách địa lý xa so với doanh nghiệp. Chính vì vậy việc nhập khẩu ở nhuồn hàng này sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về phương tiện vận chuyển, giữ gìn và bảo quản hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Những nguồn hàng ở xa thường có sự đa dạng về chủng loại, cơ cấu giúp doanh nghiệp tăng khả năng lựa chọn mặt hàng kinh doanh phù hợp với yêu cầu. Ngoài ra, khai thác nguồn hàng ở xa chính là việc mở rộng thị trường nhập khẩu giúp cho doanh nghiệp đánh giá và lựa chọn được nguồn hàng tối ưu cho mình về giá cả, chất lượng, khả năng cung ứng...Nhưng vì quãng đường xa nên chi phí vận chuyển sẽ cao, do đó giá thành hàng hoá nhập khẩu sẽ bị đẩy lên, giảm sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Ngoài ra việc vận chuyển hàng với khoảng cách xa khiến cho độ an toàn trong quá trình vận chuyển thấp, thời gian vận chuyển dài, bất lợi với các hàng hoá cần có tính liên tục, ổn định, đáp ứng nhanh chóng. 1.2.2. Khái niệm phát triển nguồn hàng nhập khẩu. Phát triển nguồn hàng nhập khẩu được hiểu là việc mở rộng nguồn cung cấp hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nhằm mục đích đảm bảo nguồn hàng nhập khẩu cả về số lượng và chất lượng đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2.3. Các cách thức phát triển nguồn hàng nhập khẩu. Việc phát triển nguồn hàng nhập khẩu có các cách sau: Thứ nhất, mở rộng thị trường nhập khẩu: Mở rộng thị trường nhập khẩu là hình thức phát triển nguồn hàng theo chiều rộng. Tức là doanh nghiệp tìm kiếm thêm những thị trường nhập khẩu mới bên cạnh những thị trường hiện có. Điều này thường xảy ra khi những thị trường nhập khẩu hiện tại không đáp ứng các yêu cầu của doanh nghiệp nhập khẩu có thể về các mặt như: chất lượng, số lượng hàng hoá, thời gian giao hàng, giá cả, điều kiện vận chuyển...Tuy nhiên trong điều kiện c._.ạnh tranh mạnh mẽ ngày nay thì các doanh nghiệp phải luôn luôn tìm kiếm những nguồn cung cấp tốt hơn nữa, có như vậy mới đáp ứng một cách tối đa nhu cầu của khách hàng, tạo được lợi thế cạnh tranh cho mình. Vì vậy mở rộng thị trường nhập khẩu là cần thiết và hợp với xu thế của thời đại. Thứ hai, tăng quy mô hàng nhập khẩu: Đây là hình thức phát triển nguồn hàng nhập khẩu theo chiều sâu. Tức là doanh nghiệp nhập khẩu với sản lượng lớn hơn ở một số thị trường hiện tại mà doanh nghiệp cho là đã đáp ứng các nhu cầu. Hình thức này có ưu điểm là không phải tốn chi phí cho việc tìm kiếm bạn hàng mới, có nguồn hàng ổn định, quy trình nhập khẩu đơn giản hơn vì giao dịch mua bán với những bạn hàng quen thuộc, hạn chế rủi ro. Song nhược điểm lớn nhất của cách thức này là doanh nghiệp có thể bỏ qua các thị trường nhập khẩu khác tốt hơn thị trường hiện tại và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ không cao. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể phát triển nguồn hàng nhập khẩu bằng cách tìm kiếm những nhà cung cấp mới ở những thị trường mà hiện tại doanh nghiệp đang khai thác. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp đã có những thông tin rất cơ bản về môi trường kinh doanh của thị trường nhập khẩu, khi tiến hành giao dịch mua bán chỉ cần quan tâm đến các yếu tố trực tiếp như: chất lượng hàng, giá của lô hàng... 1.2.4. Vai trò của việc phát triển nguồn hàng nhập khẩu. Như chúng ta đã biết, nhập khẩu có vai trò khá quan trọng, nó góp phần mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, tạo môi trường cạnh tranh, là động lực thúc dẩy sản xuất trong nước phát triển. Xuất phát từ ảnh hưởng quan trọng của nhập khẩu mà ta có thể nhận thấy vai trò của việc phát triển nguồn hàng nhập khẩu. Thứ nhất, phát triển nguồn hàng nhập khẩu sẽ giúp doanh nghiệp đảm bảo được nguồn hàng cả về số lượng và chất lượng. Thông qua việc mở rộng thị trường, tăng quy mô hàng nhập khẩu doanh nghiệp sẽ luôn đảm bảo được nguồn hàng kể cả khi thị trường nhập khẩu truyền thống của doanh nghiệp có sự biến động lớn. Có nhiều mặt hàng nhập khẩu, chẳng hạn như xăng dầu thì việc đảm bảo nguồn hàng có thể coi là nhiệm vụ trọng tâm của doanh nghiệp. Nếu không có hoạt động phát triển nguồn hàng doanh nghiệp rất có thể sẽ rơi vào tình trạng thiếu hàng hoặc chất lượng hàng không được đảm bảo. Thứ hai, phát triển nguồn hàng nhập khẩu giúp doanh nghiệp giảm rủi ro trong hoạt động nhập khẩu của mình. Hoạt động nhập khẩu là một hoạt động khá phức tạp và rủi ro, bởi vì doanh nghiệp giao dịch mua bán ở thị trường nước ngoài mà thị trường nước ngoài sẽ rất có thể xảy ra nhiều biến động bất lợi. Đồng thời do khoảng cách địa lý xa nên cũng có thể gây ra những rủi ro khó lường trước. Chính vì vậy, khi mà doanh nghiệp có nhiều thị trường nhập khẩu thì sẽ có sự san sẻ rủi ro và doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để chọn lựa những thị trường nhập khẩu ít rủi ro nhất trong từng trường hợp cụ thể. Thứ ba, khi việc phát triển nguồn hàng của doanh nghiệp đạt hiệu quả thì sẽ nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu muốn đạt được hiệu quả kinh doanh cao thì trước hết phải đảm bảo được nguồn cung ứng ra thị trường và hàng hoá phải có chất lượng, giá cả cạnh tranh. Điều này chỉ có được khi doanh nghiệp tìm kiếm được nguồn hàng tốt. Phát triển nguồn hàng nhập khẩu cũng chính là quá trình doanh nghiệp chọn lựa, đào thải những thị trường nhập khẩu kém hiệu quả, để tìm ra nguồn hàng mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả tối ưu. 1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển nguồn hàng nhập khẩu. Nguồn lực của doanh nghiệp: Việc phát triển nguồn hàng nhập khẩu là việc không đơn giản. Nó đòi hỏi phải có sự tìm hiểu nghiên cứu kỹ lưỡng và thông tin nhanh chóng, chính xác về các nguồn hàng nhập khẩu. Do đó muốn hoạt động này đạt hiệu quả cần có một bộ phận riêng phụ trách và đội ngũ nhân lực trong bộ phận đó phải là những người ngoài kiến thức chuyên môn tốt cần có sự nhạy bén trong phán đoán và có khả năng phân tích. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nói chung và từng bộ phận nói riêng luôn là yếu tố quyết định sự thành công trong các hoạt động của doanh nghiệp. Nguồn tài chính: Muốn duy trì và phát triển một doanh nghiệp thì điều kiện cần là có một nguồn tài chính nhất định. Đối với hoạt động phát triển nguồn hàng nhập khẩu hay bất kỳ một hoạt động nào khác nếu doanh nghiệp có tài chính mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoạt động đó phát triển. Việc phát triển nguồn hàng đòi hỏi sự đầu tư lớn từ khâu tìm hiểu thông tin về các thị trường nhập khẩu đến khâu nhập khẩu hàng, rồi cả việc đầu tư vào phương tiện chuyên chở... Nếu doanh nghiệp có nguồn tài chính eo hẹp thì sẽ hạn chế khả năng tìm kiếm những nguồn hàng nhập khẩu mới, từ đó sẽ giảm hiệu quả trong kinh doanh. Chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp chi phối toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp đó. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp sẽ cho biết doanh nghiệp muốn đi đến đâu, có nhiệm vụ là gì. Còn kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp sẽ đưa ra các chỉ tiêu với con số cụ thể trong một thời gian nhất định, ví dụ như chỉ tiêu về lợi nhuận, thị phần...Căn cứ vào chiến lược và kế hoạch kinh doanh của một doanh nghiệp có hoạt động nhập khẩu ta có thể dự báo được khả năng phát triển nguồn hàng của doanh nghiệp. Chẳng hạn, nếu doanh nghiệp muốn tăng thị phần ở thị trường tiêu thụ thì nguồn cung hàng hoá phải tăng lên, việc mở rộng nguồn hàng nhập khẩu là một hoạt động cần thiết. Đặc điểm của mặt hàng nhập khẩu: Có những mặt hàng nhập khẩu thông dụng, sẵn có ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng có những mặt hàng chỉ có một số quốc gia có những điều kiện nhất định mới có thể sản xuất. Nếu là những mặt hàng thông dụng, vận chuyển một cách thuận tiện thì việc phát triển nguồn hàng nhập khẩu tương đối dễ dàng. Còn đối với mặt hàng chỉ một số nước mới có khả năng xuất khẩu, chẳng hạn như xăng dầu thì việc phát triển nguồn hàng nhập khẩu là tương đối khó khăn. Bởi vì, thứ nhất là do nguồn cung không phải lúc nào cũng sẵn, thứ hai là do vận chuyển tương đối khó khăn, điều này sẽ hạn chế việc khai thác các nguồn hàng ở xa, thứ ba là do các yếu tố khác như: hạn ngạch nhập khẩu đối với từng mặt hàng, các chính sách của Chính phủ quy định đối với từng loại hàng hoá cụ thể. Nhu cầu trong nước: Đây chính là cầu của các doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu. Yếu tố này trực tiếp ảnh hưởng đến lượng hàng hoá mà doanh nghiệp nhập về. Nếu nhu cầu hàng hoá trong nước cao thì hiển nhiên doanh nghiệp phải tăng cung tức là tăng sản lượng nhập khẩu của mình. Lúc này việc phát triển nguồn hàng nhập khẩu là một đòi hỏi tất yếu nhằm mục đích khai thác các thị trường nhập khẩu một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo khả năng cung ứng cho thị trường trong nước nhưng vẫn nâng cao được hiệu quả kinh doanh. Đặc điểm thị trường mà doanh nghiệp nhập khẩu Chính bản thân các nguồn hàng nhập khẩu cũng chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như những quy định của Chính phủ về xuất khẩu, nhu cầu mặt hàng đó tại nước xuất khẩu, năng lực sản xuất của nước xuất khẩu tại mỗi giai đoạn...Tất cả những nhân tố đó đều gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động phát triển nguồn hàng của doanh nghiệp nhập khẩu. Khi doanh nghiệp muốn khai thác một thị trường nhập khẩu nào đó thì đều phải tìm hiểu những yếu tố tác động tới việc xuất khẩu. Do đó, đặc điểm của thị trường nước mà doanh nghiệp nhập khẩu chính là căn cứ để doanh nghiệp xem xét, cân nhắc liệu có nên khai thác thị trường đó và nếu nhập khẩu thì với số lượng bao nhiêu. 1.3. Sự cần thiết phải phát triển nguồn hàng nhập khẩu Xuất phát từ vai trò quan trọng của việc phát triển nguồn hàng mà ta thấy rằng việc phát triển nguồn hàng nhập khẩu ở các doanh nghiệp nói chung và ở Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam nói riêng là một hoạt động rất cần thiết. Sự cần thiết của việc phát triển nguồn hàng xăng dầu nhập khẩu bắt nguồn từ vai trò vô cùng quan trọng của mặt hàng này. Ngày nay, nền kinh tế thế giới phát triển rất mạnh mẽ với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, các nguồn năng lượng khác như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời...đang dần được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, xăng dầu vẫn là nguồn nhiên liệu quan trọng không thể thay thế. Bên cạnh đó, thị trường xăng dầu thế giới trong những năm gần đây có sự biến động rất lớn, giá cả liên tục tăng ở mức kỷ lục, nguồn cung không ổn định. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới một hay hai quốc gia mà nó chi phối tới tất cả các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt là các quốc gia hoàn toàn phải nhập khẩu mặt hàng này và đặt các quốc gia đó đứng trước những khó khăn rất lớn về nguồn hàng nhập khẩu và giá cả. Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn toàn phải nhập khẩu xăng dầu. Do đó cũng bị ảnh hưởng rất lớn từ sự biến động của thị trường xăng dầu thế giới. Mặt khác nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do đó nhu cầu xăng dầu là rất lớn và ngày càng gia tăng. Chính từ những lí do trên mà hoạt động phát triển nguồn hàng nhập khẩu xăng dầu trong bối cảnh hiện nay là cần thiết đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, nhất là đối với Petrolimex, doanh nghiệp chiếm thị phần cung cấp xăng dầu lớn nhất trong cả nước. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN HÀNG XĂNG DẦU NHẬP KHẨU Ở TỔNG CÔNG TY XĂNG DẦU VIỆT NAM 2.1. Giớí thiệu về Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam trên cơ sở hợp nhất Tổng công ty Xăng dầu và Công ty dầu lửa thuộc Bộ Thương Mại theo Quyết định số 71/TTg ngày 17 tháng 04 năm 1995. Trụ sở chính đặt tại số 1 phố Khâm Thiên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Ngành nghề kinh doanh bao gồm: Xuất nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu, các sản phẩm hóa dầu, vật tư, thiết bị phục vụ ngành xăng dầu và các ngành khác; kinh doanh vận tải xăng dầu và kho cảng dầu; khảo sát thiết kế xây lắp công trình xăng dầu và dân dụng; dịch vụ khách sạn và dịch vụ du lịch. Vốn ngân sách cấp và vốn tự bổ sung dăng ký trong đơn xin thành lập doanh nghiệp: 1.432.775 triệu đồng. Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam là tổ chức kinh doanh thương mại xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu tại khâu hạ nguồn lớn nhất ở Việt Nam. Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam hiện có 43 Công ty thành viên, 25 Chi nhánh và 09 Xí nghiệp trực thuộc các Công ty thành viên 100% vốn Nhà nước; Có 20 Công ty cổ phần có vốn góp chi phối của Tổng công ty; Có 03 Công ty Liên doanh với nước ngoài. Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam có 01 Chi nhánh tại Singapore. Tổng công ty có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại phục vụ cho việc kinh doanh xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu. Mọi hoạt động quản lý, điều hành kinh doanh trong nội bộ ngành đều được thực hiện thông qua hệ thống mạng Petronet kết hợp với mạng Internet. Ngoài trung tâm hóa nghiệm của toàn Tổng công ty đặt tại số 1 Khâm Thiên, Hà Nội, Petrolimex còn có các phòng hóa nghiệm hiện đại đặt tại các kho xăng dầu, cảng để kiểm tra chất lượng xăng dầu, các sản phẩm hóa dầu từ khi nhập khẩu đến khi bán cho khách hàng theo đúng tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Hàng năm Tổng công ty thực hiện các chương trình đầu tư phát triển mở rộng và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra năng lực sản xuất mới và khả năng cạnh tranh; đầu tư vào các công trình trọng điểm tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh như: mua thêm tàu viễn dương chở dầu, chở gas, nâng cấp và xây dựng hệ thống cầu cảng, đầu tư mới và mở rộng cải tạo hệ thống kho xăng dầu, nâng cấp tuyến ống, phát triển thêm cửa hàng xăng dầu và cửa hàng kinh doanh dầu mỡ nhờn, gas hoá lỏng,… Petrolimex luôn chú trọng tìm hướng phát triển mới, mở rộng loại hình kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh. Petrolimex đang bước đầu thử sức trong kinh doanh kho xăng dầu ngoại quan, kinh doanh bất động sản, kinh doanh trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng, tham gia thị trường chứng khoán Quá trình phát triển của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam trải qua ba giai đoạn luôn gắn liền với các sự kiện lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước: Giai đoạn 1956 - 1975: Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam có nhiệm vụ đảm bảo nhu cầu xăng dầu cho sự nghiệp khôi phục, phát triển kinh tế để xây dựng CNXH và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc; Cung cấp đầy đủ, kịp thời xăng dầu cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Với thành tích xuất sắc trong giai đoạn này, đến nay Nhà nước đã phong tặng 8 đơn vị thành viên của Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, một cá nhân Anh hùng lao động và công nhận 31 cán bộ công nhân viên là liệt sỹ trong khi làm nhiệm vụ. Giai đoạn 1976 - 1986: Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam bắt tay khôi phục các cơ sở xăng dầu bị tàn phá ở miền Bắc, tiếp quản các cơ sở xăng dầu và tổ chức mạng lưới cung ứng xăng dầu ở các tỉnh phía Nam, thực hiện cung cấp đầy đủ, kịp thời nhu cầu xăng dầu cho sản xuất, quốc phòng và đời sống nhân dân đáp ứng yêu cầu hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước. Trong giai đoạn này Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương độc lập hạng nhì cho Tổng công ty, phong tặng một cá nhân danh hiệu Anh hùng lao động và nhiều huân chương lao động cho các tập thể, cá nhân. Giai đoạn 1986- đến nay: Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam thực hiện chiến lược đổi mới và phát triển theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, chuyển hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN, từng bước xây dựng Tổng công ty trở thành hãng xăng dầu quốc gia mạnh và năng động để tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong giai đoạn này Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhì cho Tổng công ty, phong tặng 02 đơn vị thành viên danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, 05 chiến sỹ thi đua toàn quốc và 114 Huân chương Lao động các hạng cho các tập thể, cá nhân. 2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. Chức năng: Ngày 17 tháng 4 năm 1995 Thủ Tướng Chính phủ ra quyết định số 224/TTg thành lập Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam với chức năng kinh doanh: Xuất nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, vật tư, thiết bị phụ vụ ngành xăng dầu và những ngành khác. Kinh doanh vận tải xăng dầu và kho cảng xăng dầu. Khảo sát thiết kế và xây lắp công trình xăng dầu dân dụng. Dịch vụ khách sạn và dịch vụ du lịch. Dịch vụ công nghệ thông tin, vật tư thiết bị phục vụ ngành tin học và tự động hoá. Cung ứng tàu biển. Với vị thế là doanh nghiệp trọng yếu của Nhà nước, được xếp hạng đặc biệt, có quy mô toàn quốc, đảm bảo trên 50% thị phần xăng dầu trên cả nước. Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam luôn phát huy vai trò chủ lực điều tiết, ổn định và phát triển thị trường xăng dầu, sản phẩn hoá dầu phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Định hướng chiến lược phát triển của Tổng Công ty là trở thành một tập đoàn kinh doanh mạnh của Nhà nước ở khâu hạ nguồn, lấy kinh doanh xăng dầu làm chính, đa dạng hóa có chọn lọc các mặt hàng và loại hình kinh doanh, đa dạng hóa hình thức sở hữu, đẩy mạnh chương trình hiện đại hóa, nâng cao năng lực hợp tác và cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Theo định hướng trên, hiện nay Tổng Công ty đã và đang thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng toàn diện doanh nghệp như: Thứ nhất, Tiếp tục phát triển và củng cố thị phần của Petrolimex trong cả nước, đẩy mạnh tái xuẩt và tiến tới tổ chức kinh doanh xăng dầu trên thị trường các nước trong khu vực, đổi mới và hoàn thiện phương thức kinh doanh thích ứng với điều kiện hợp tác và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam và quốc tế, vừa nâng cao hiệu quả kinh tế vừa đảm bảo hiệu quả chính trị - xã hội. Thứ hai, tiếp tục đầu tư theo Quy hoạch phát triển cơ sở kỹ thuật hạ tầng của Nhà nước để hiện đại hóa và xây dựng mới các công trình quan trọng như: cầu cảng, kho bể, đường ống, mạng lưới cửa hàng xăng dầu nhất là hệ thống cửa hàng hiện đại đường Hồ Chí Minh, các dây truyền công nghệ nhập, xuất, pha chế dầu mỡ nhờn, nhựa đường, gas…Tiếp tục phát triển đội tàu viễn dương Petrolimex, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong kinh doanh và quản lý doanh nghiệp. Petrolimex cam kết bảo vệ an toàn môi truờng sinh thái và sẵn sàng hợp tác, chia sẻ cơ hội đầu tư phát triển với các đối tác trong và ngoài nước. Thứ ba, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực theo chương trình đào tạo 2006 – 2010 từng bước hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành, đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh năng động, hiệu quả, đội ngũ công nhân xăng dầu được đào tạo phù hợp với yêu cầu hiện đại Động lực chủ yếu của chiến lược phát triển là sự phát huy yếu tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm, coi doanh nghiệp là phương tiện để con người phát huy tài năng sáng tạo, xây dựng và đào tạo đội ngũ làm việc có hiệu quả, phát huy truyền thống tốt đẹp của Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam, khẳng định phong cách văn hóa doanh nghiệp Petrolimex, bạn hàng tin cậy của thị trường trong nước và quốc tế. Nhiệm vụ: Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam được Nhà nước giao nhiệm vụ: Đảm bảo liên tục ổn định nguồn trên các vùng với việc điều tiết giá theo đúng chỉ đạo của Nhà nước. Cân đối xăng dầu cho toàn xã hội, cho nền kinh tế trong mọi thời kỳ. Tăng cường mở rộng phạm vi mạng lưới bán hàng nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của nhân dân, phục vụ đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Quản lý, sử dụng, bảo đảm và phát triển nguồn vốn một cách hiệu quả. Quản lý giá tối đa và bảo đảm nguồn hàng ngoại tệ nhập xăng dầu theo tỷ giá của ngân hàng cho các đầu mối trực tiếp nhập khẩu. Xây dựng phương án kinh doanh, sản xuất và dịch vụ phát triển theo kế hoạch và mục tiêu chiến lược mà Tổng công ty đề ra. Tổ chức nghiên cứu nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến công nghệ... Chấp hành pháp luật Nhà nước, thực hiện chính sách về quản lý và sử dụng tiền vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực, thực hiện hạch toán, kế toán kinh tế, boả toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Thực hiện đầy đủ cam kết trong hợp đồng kinh tế đã kí kết với các tổ chức trong và ngoài nước. Quản lí toàn diện, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ công nhân viên chức theo pháp luật, chính sách của nhà nước và phân cấp quản lí của Bộ để thực hiện nhiệm vụ của Tổng công ty, chăm lo đời sống, tạo điều kiện cho người lao động và thực hiện vệ sinh môi trường, thực hiện phân phối công bằng. Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh chính trị và an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Bản chất kinh tế của mô hình tổ chức hoạt động của Tổng công ty thể hiện ở chỗ Tổng công ty là một chủ thể kinh doanh điều hành toàn bộ quá trình kinh doanh xăng dầu từ nhập khẩu đến bán ra thị trường toàn quốc và tái xuất ra nước ngoài. Trong đó có phân định công đoạn và phân công cho các doanh nghiệp thành viên thực hiện phần bán lẻ thông qua mạng lưới đại lý. Mô hình tổ chức này đã được hình thành và củng cố, ổn định trong nhiều năm và qua thực tế hoạt động kinh doanh đã thể hiện tính hợp lý và hiệu quả của nó. Bộ máy tổ chức của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. Sơ đồ1: Bộ máy tổ chức Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Nguồn: Trang web của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam – www.petrolimex.com.vn) Tính đến 31/12/2007, tổng số lao động toàn ngành Xăng dầu là gần 16.480 người bao gồm 43 công ty thành viên, 25 chi nhánh, 09 xí nghiệp trực thuộc các công ty, 20 công ty cổ phần, 03 công ty liên doanh: BPPetro; PTN; VanPhong, 01 chi nhánh của Tổng công ty tại Singapore Tổng công ty là cơ quan đầu não quản lý và điều hành mọi hoạt động trong toàn ngành. Toàn bộ nguồn hàng xăng dầu được tập trung nhập khẩu tại cơ quan Văng phòng Tổng công ty và cung cấp nguồn hàng cho các đơn vị thành viên với kim ngạch nhập khẩu trên 4,2 tỷ USD (số liệu năm 2007). Đây là khâu then chốt giúp Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam duy trì được cơ cấu hoạt động và điều hành kinh doanh thống nhất trong toàn ngành, giúp Chính phủ ổn định thị trường xăng dầu thế giới trong những năm qua. Sơ đồ2: Bộ máy tổ chức hành chính của Tổng công ty: HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ Ban tổng giám đốc điều hành Phòng xuất nhập khẩu Phòng T.T&H.T.Q.T Phòng kinh doanh Phòng CN-ĐT Phòng AT&MTTT Phòng KT-XD Phòng TC-CB Phòng LĐ-TL Phòng PT-DN Phòng PC-TT Văn phòng Phòng TC-KT Phòng kiểm toán Bộ máy tổ chức của Tổng công ty được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng. Theo cơ cấu này thì các phòng ban không ra lệnh trực tiếp cho các đơn vị trực thuộc mà chỉ chuẩn bị quyết định đề nghị Tổng giám đốc ra quyết định. Các đơn vị trực thuộc chỉ nhận mệnh lệnh ở một người đó là Tổng giám đốc. Hội đồng quản trị: Gồm Chủ tịch hội đồng quản trị, một uỷ viên thường trực, một uỷ viên kiêm tổng giám đốc, một uỷ viên kiêm trưởng Ban kiểm soát, và một uỷ viên chuyên trách. Hội đồng quản trị có vai trò đại diện cho Tổng công ty trước pháp luật và cơ quan quản lý Nhà nước trong các hoạt động kinh doanh của Tổng công ty. Hội đồng quản trị có quyền bổ nhiệm hoặc bãi miễn các thành viên của Tổng công ty gồm phó Tổng giám đốc, Giám đốc các công ty thành viên và Kế toán trưởng của Tổng công ty. Các thành viên của hội đồng quản trị do Bộ Thương mại bổ nhiệm và miễn nhiệm. Ban Tổng giám đốc: Gồm Tổng giám đốc và 3 phó Tổng giám đốc. Tổng giám đốc là người chỉ đạo điều hành mọi hoạt động kinh doanh của Tổng công ty, do Bộ thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Giúp việc cho Tổng giám đốc là 3 phó Tổng giám đốc, mỗi phó Tổng giám đốc được Tổng giám đốc phân công chỉ đạo, điều hành một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về lĩnh vực được giao. Văn phòng và các phòng ban chức năng của Tổng công ty. Văn phòng Tổng công ty và các phòng ban có nhiệm vụ tham mưu cho Tổng công ty về các lĩnh vực: Theo dõi tình hình hoạt động của các cơ sở và các phòng ban trong Tổng công ty, nghiên cứu, đề xuất các vấn đề về hoàn thiện quản lý tại Văn phòng tổng công ty, theo dõi tổng hợp các công tác thi đua khen thưởng... Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam gồm 13 phòng ban đó là: Phòng Xuất nhập khẩu, Phòng Kinh doanh, Phòng Tài chính - Kế toán, Phòng Pháp chế thanh tra, Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng Kĩ thuật an toàn môi trường, Phòng Lao động tiền lương, Phòng Kĩ thuật xăng dầu, Phòng Công nghệ đầu tư, Phòng Thị trường hợp tác quốc tế, Phòng Phát triển doanh nghiệp, Văn phòng Tổng công ty, Phòng Công nghệ thông tin làm nhiệm vụ tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chức năng của từng phòng ban: - Phòng Xuất nhập khẩu: tham mưu cho Tổng giám đốc trong lĩnh vực nhập khẩu và tái xuất các sản phẩm xăng dầu, kí kết, thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu xăng dầu. - Phòng Kinh doanh: có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc chỉ đạo, quản lý điều hành kinh doanh các mặt hàng xăng dầu trên toàn quốc, đồng thời phát triển thị trường kinh doanh xăng dầu và các loại vật tư khác. - Phòng Tài chính - kế toán: giúp Tổng giám đốc chỉ đạo, nghiên cứu, hướng dẫn các đơn vị thành viên thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà nước và điều lệ kế toán thống kê của Nhà nước và điều lệ tổ chức kế toán nhà nước hiện hành, kiểm toán nội bộ Tổng công ty và các đơn vị thành viên. Kiểm tra kế toán đối với các đơn vị thành viên về thực hiện chế độ kế toán nhà nước và thực hiện chế độ kiểm toán nội bộ. Đồng thời tham mưu giúp Tổng giám đốc trong lĩnh vực quản lí, sử dụng vốn, tài sản và các hoạt động tài chính của Tổng công ty đạt hiệu quả và đúng pháp luật của Nhà nước, tổng hợp, cân đối kế hoạch tài chính đảm bảo vốn kinh doanh và vốn đầu tư cơ bản, lập các báo cáo kinh doanh sơ bộ, phương án điều động vốn, tài sản, phân phối sử dụng các quĩ Tổng giám đốc phê duyệt. - Phòng Pháp chế thanh tra: giúp Tổng giám đốc chỉ đạo công tác pháp chế, thanh tra các đơn vị trong toàn ngành, tăng trưởng công tác quản lí thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Bộ và ngành. - Phòng Tổ chức cán bộ: giúp Tổng giám đốc quản lí nhân sự, qui hoạch và sắp xếp cán bộ trong toàn ngành. - Phòng Kĩ thuật an toàn môi trường: giúp Tổng giám đốc nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp với sự phát triển của toàn ngành, đề xuất các phương án lựa chọn và bố trí cán bộ đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, tổ chức chỉ đạo theo dõi viêc thực hiện chế độ chính sách của Nhà nước về tổ chức cán bộ, lao động tiền lương và đào tạo cán bộ công nhân viên chức và công tác bảo vệ chính trị nội bộ, trực tiếp quản lí và thực hiện các chế độ chính sách đối với cán bộ công nhân viên thuộc khối văn phòng Tổng công ty. - Phòng Kĩ thuật xăng dầu: giúp Tổng giám đốc chỉ đạo, quản lí và thực hiện công tác đo lường giao nhận, công tác tiêu chuẩn hoá, quản lí hao hụt và phẩm chất xăng dầu. - Phòng Công nghệ đầu tư: giúp Tổng giám đốc trong lĩnh vực nghiên cứu áp dụng những kĩ thuật công nghệ mới, quản lí các công tác đầu tư, xây dựng cơ bản theo đúng quy định của Nhà nước. - Phòng Thị trường hợp tác quốc tế: giúp Tổng giám đốc thu thập thông tin về thị trường kinh doanh xăng dầu, tìm hiểu nghiên cứu đối tác, thiết lập các quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước. - Phòng phát triển doanh nghiệp: tham mưu giúp Tổng giám đốc về công tác cổ phần hoá, quản lí các công ty cổ phần, đầu tư ra ngoài doanh nghiệp. - Phòng Công nghệ thông tin: tham mưu giúp Tổng giám đốc về công tác công nghệ thông tin, hệ thống cơ sở hạ tầng máy móc thiét bị tin học, thông tin, chương trình phần mềm quản lý. Các đơn vị trực thuộc của Tổng công ty hạch toán kinh tế độc lập (trong phạm vi phân cấp của Tổng công ty) do Tổng giám đốc công ty đề nghị, Bộ trưởng Bộ thương mại nay là Bộ Công thương quyết định. Các doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty, chịu trách nhiệm trước Tổng công ty về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và là các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. 2.1.3. Các mặt hoạt động chủ yếu của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. - Lĩnh vực kinh doanh. Tổng công ty xăng dầu Việt nam có các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là: kinh doanh xăng dầu; kinh doanh các sản phẩm hóa dầu ( hóa chất; dầu mỡ nhờn; khí hóa lỏng; cơ khí và thiết bị xăng dầu)và các sản phẩm dịch vụ khác như: vận tải; bảo hiểm; thiết kế và xây dựng; công nghệ thông tin Thị trường. Bảng 2.1: Cơ cấu cửa hàng. STT Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 1 2 3 4 Số điểm bán lẻ Cửa hàng xăng dầu trực thuộc Cửa hàng đại lý bán lẻ Cửa hàng bán lẻ thuộc tổng đại lý 5.529 1430 (25,8%) 2637 (47,7%) 1462 (25,6%) 6012 1232 (20,5%) 3018 (50,2%) 1761 (29,3%) 6530 1194 (18,3%) 3415 (52,3%) 1921 (29,4%) 7500 1132 (15,1%) 4095 (54,6%) 2273 (30,3%) (Nguồn: Sách 50 năm Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (1956 – 2006) và sự tìm hiểu của tác giả.) Bảng 2.2: Cơ cấu bán hàng STT Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 2 3 4 5 Bán buôn trực tiếp Bán qua Tổng đại lý Bán qua đại lý Bán trực tiếp qua các cửa hàng xăng dầu thuộc Tổng công ty Tái xuất và chuyển khẩu 22% 17% 27% 27% 7% 19% 15% 30% 26% 10% 17% 16% 31% 25% 11% 13% 19% 34% 23% 11% (Nguồn: Sách 50 năm Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (1956 – 2006) và sự tìm hiểu của tác giả.) Qua bảng 2.1 ta thấy, tỷ trọng bán lẻ của Tổng Công ty (qua hệ thống xăng dầu của Tổng Công ty và qua cửa hàng của Đại lý và Tổng Đại lý) là khoảng trên 70% trên tổng lượng bán nội địa. Cụ thể là: năm 2004: 71%; năm 2005: 71%; năm 2006: 72%; năm 2007: 76%. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt xã hội (ổn định thị trường xăng dầu) mà còn làm tăng hiệu quả kinh doanh, nâng cao vị thế của Petrolimex. Khả năng kiểm soát của Tổng Công ty và các Công ty cũng được tăng cường và có hiệu quả. Tình trạng cạnh tranh nội bộ đã chuyển hướng sang phối hợp thị trường, góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững của toàn hệ thống. Cùng với việc mở rộng bán lẻ và bán buôn trực tiếp ở một số thị trường có tiềm năng, các công ty B12, KVII, Vận tải thủy I đã tăng cường tái xuất và chuyển khẩu. Do đó tỷ lệ tái xuất và chuyển khẩu tăng dần qua các năm từ 2004 (7%) đến năm 2007 (11%) (theo bảng 2.2). Nguồn lực tài chính. Bảng 2.3: Các chỉ tiêu tài chính Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Nộp ngân sách Nhà nước 7.556 6.507 6.417 2 Cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh 1.011.000 1.011.000 903.000 3 Vốn tự bổ sung 1.306.000 1.367.000 1.335.000 4 Tổng số vốn 2.317.000 2.378.000 2.696.000 5 Giá trị thực hiện vốn 366 814 514 (Nguồn: Sách 50 năm Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (1956 – 2006) và sự tìm hiểu của tác giả). Qua bảng 2.3 ta có thể thấy rằng tổng số vốn của Tổng Công ty tăng dần qua các năm với tỷ lệ ngày càng cao ( năm 2006 tổng số vốn tăng 2,6% so với năm 2005; năm 2007 tổng số vốn tăng 13,4% so với năm 2006). Như vậy quy mô của Petrolimex tăng lên theo năm nếu xét ở chỉ tiêu tổng vốn, đồng thời nó cũng chứng tỏ Tổng công ty có sự mở rộng hơn trong lĩnh vực kinh doanh. Hàng năm Petrolimex có vốn tự bổ sung với tỷ trọng khoảng 49,5% trong tổng số vốn. Điều này cho thấy Tổng Công ty hoạt động khá hiệu quả. Và nguồn vốn tham gia sản xuất kinh doanh chiếm 33,5% trong tổng số vốn. Cơ cấu này đảm bảo cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Nguồn lực lao động. Cơ cấu lao động theo trình độ Bảng 2.4: Cơ cấu lao động theo trình độ Đơn vị: người STT Trình độ đào tạo Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Trên đại học 45 50 58 2 Đại học 2921 3354 3911 3 Cao đẳng 560 550 532 4 Trung cấp 3594 3490 3360 5 Sơ cấp, Công nhân kĩ thuật 8118 8100 7999 6 Chưa đào tạo 786 774 620 7 Tổng số lao động 16.024 16.318 16.480 (Nguồn: Phòng lao động tiền lương - Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam) Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng: Trình độ sau đại học và đại học trong 3 năm gần đây dao động trong khoảng từ 18,28% đến 24,05% và tăng dần lên theo năm. Có được điều này là do Petrolimex đã từng bước nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, bản thân số lao động nghiệp vụ chuyên môn có trình độ chưa đạt chuẩn cũng đã có những nổ lực trong việc tự đào tạo để nâng cao trình độ. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học khá cao._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26373.doc