Phương hướng và giải pháp bảo đảm vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010

Lời cám ơn Thời gian ngồi trên ghế nhà trường là thời gian học tập và nghiên cứu tại khoa Kinh tế phát triển - Trường Đại học Kinh tế quốc dân; cũng như thời gian thực tập đi vào thực tế tại Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch & Đầu tư. Em chọn đề tài: "Phương hướng và giải pháp bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp. Luận văn hoàn thành ngoài sự giúp đỡ của gia đình, bạn bè là sự dìu dắt ngày đêm, tận tìn

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và giải pháp bảo đảm vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hướng dẫn chỉ bảo của các thầy cô trong khoa Kinh tế phát triển, các cô, các chú công tác tại Viện chiến lược - Bộ Kế hoạch & Đầu tư. Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô, các cô, các chú về những bài học quý báu trong công tác nghiên cứu khoa học cũng như luân lý, lẽ sống ở đời. Em xin chân thành gửi lời cám ơn đặc biệt tới thầy giáo TS Lê Huy Đức - Phó khoa kinh tế phát triển - người đã trực tiếp định hướng nghiên cứu, sửa đề cương giúp em hoàn thành luận văn. ở thầy em đã học được cách nhìn nhận, tiếp cận vấn đề nghiên cứu cũng như tư chất của một người thầy, một nhà giáo, một nhà khoa học mẫu mực, tận tuỵ, hết lòng với công việc. Xin chân thành gửi lời cám ơn tới TS Trần Thị Tuyết Mai- Trưởng Ban Nguồn nhân lực & Xã hội, TS Phạm Lê Phương, TS Nguyễn Văn Thành cùng toàn thể các cô, chú công tác tại Ban Nguồn nhân lực & Xã hội - Viện chiến lược phát triển Bộ Kế hoạch & Đầu tư. Đã cung cấp tài liệu, góp ý, tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn. Xin chân thành cám ơn: Trung tâm thư viện trường Đại học kinh tế quốc dân, Trung tâm thư viện Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã cung cấp tài liệu cho việc viết luận văn. Cám ơn gia đình cùng toàn thể bạn bè đã giúp đỡ tạo điều kiện về mặt tài chính cũng như thời gian cho em hoàn thành luận văn này. Hà Nội ngày 31/05/2001. Sinh viên Phạm Chí Kiên Lời nói đầu ************************* Hệ thống cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng xã hội nói riêng là bộ mặt xã hội của mỗi quốc gia, là bản báo cáo phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó. ở bất kỳ xã hội nào các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng xã hội cũng đều tham gia trực tiếp vào đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển trong đời sống hàng ngày như: Giáo dục, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ cho người dân…quyết định trực tiếp tới tương lai của cá nhân, nâng cao trình độ, tư duy, tri thức giúp con người phát triển hoàn thiện hơn. Chính vì lý do đó nên đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội thực chất là trang bị cho con người có trình độ kiến thức nhất định, có một sức khoẻ dồi dào chống lại bệnh tật, giúp con người phát triển toàn diện. Cơ sở hạ tầng xã hội còn tác động tới năng suất lao động trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Nhận thức được vai trò của cơ sở hạ tầng xã hội, thời gian qua, Đảng và nhà nước ta đã dành không ít nguồn lực đầu tư cho phát triển lĩnh vực này. Đặc biệt là vốn đầu tư - nguồn lực chính - gồm nhiều nguồn khác nhau: ngân sách nhà nước, nguồn đầu tư tư nhân, viện trợ nước ngoài (ODA)…. Nhờ vậy mà hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ đắc lực trong quá trình phát triển kinh tế xã hội góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH đất nước. Quá trình phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải được nâng cao về trình độ, tư duy, kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho người dân ngày càng tăng, yêu cầu phải phát triển nhanh chóng hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội và nhu cầu vốn đầu tư ngày một gia tăng. Vốn đầu tư đã trở thành vấn đề bức xúc cần được giải quyết trong thời kỳ CNH-HĐH phát triển kinh tế đất nước. Qua thời gian thực tập tại Ban Nguồn nhân lực và Xã hội, em mạnh dạn chọn đề tài: "Phương hướng và giải pháp bảo đảm vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt nam giai đoạn 2001-2010”. Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào hai lĩnh vực chính của cơ sở hạ tầng xã hội là Giáo dục- Đào tào và y tế. Qua đó minh chứng cụ thể cho vấn đề đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt nam. Kết cấu luận văn gồm ba phần chính như sau: - Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về cơ sở hạ tầng xã hội và vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội - Chương II: Thực trạng của đầu tư vào một số ngành thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt Nam thời gian qua 1990-2000 - Chương III: Phương hướng và giải pháp bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010. Mặc dù có nhiều cố gắng học tập và nghiên cứu trong quá trình thực tập nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn mà đề tài của luận văn giải quyết một vấn đề lớn của cơ sở hạ tầng xã hội đó là nhu cầu vốn. Chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được góp ý quý báu từ phía Thầy cô, bạn bè, bạn đọc,… để lần nghiên cứu sau được hoàn thiện hơn. Để hoàn thành luận văn này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của ban lãnh đạo Viện chiến lược phát triển – Bộ kế hoạch và Đầu tư, các cô, các chú công tác tại Ban nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội. Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của thầy giáo TS Lê Huy Đức- Phó khoa Kinh tế phát triển, cùng toàn thể các thầy cô trong quá trình học tập cũng như hoàn thành luận văn này. Hà Nội ngày 10 tháng 5 năm 2001. Sinh viên thực hiện: Phạm Chí Kiên. Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về cơ sở hạ tầng xã hội và vốn Đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội. ******************** I. Cơ sở hạ tầng, cơ sở hạ tầng xã hội và phân loại Trên thế giới thuật ngữ cơ sở hạ tầng hay kết cấu hạ tầng đã được sử dụng từ lâu, bắt đầu từ trong lĩnh vực quân sự sau đó phạm vi này được mở rộng hơn với nội dung phong phú hơn trên cả lĩnh vực kinh tế chính trị. ở nước ta thuật ngữ này đã và đang được sử dụng với nội dung trên nhiều lĩnh vực. Nói đến cơ sở hạ tầng ( kết cấu hạ tầng ) người ta thường nghĩ ngay đến hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho phát triển sản xuất và đời sống xã hội. Hệ thống này là toàn bộ các công trình công cộng tham gia vào lĩnh vực sản xuất hoặc phi sản xuất. 1. Cơ sở hạ tầng Căn cứ vào các hình thức thể hiện kết quả hoạt động của nền kinh tế: - Hình thức vật chất cụ thể gồm các sản phẩm được tạo ra trong các lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng,… - Hình thức dịch vụ gồm các sản phẩm phi vất chất được tạo ra trong các lĩnh vực giao thông, thông tin liên lạc, năng lượng, nhà ở, Giáo dục-Đào tào, y tế,… Cụ thể hơn cơ sở hạ tầng là toàn bộ các công trình phục vụ các lĩnh vực sản xuất của nền kinh tế quốc dân đó là đường xá, kênh đào, sân bay, kho tàng, hệ thống giao thông vận tải, hệ thống Giáo dục-Đào tào, hệ thống y tế và bảo vệ sức khoẻ cho người dân. Hệ thống này chia ra hai phần: - Hệ thống cơ sở hạ tầng sản xuất trực tiếp phục vụ cho các ngành sản xuất vật chất. - Hệ thống cơ sở hạ tầng phi sản xuất có liên hệ gián tiếp với sản xuất. Từ đó có thể đi tới khái niệm cơ sở hạ tầng như sau: “ Cơ sở hạ tầng là nền tảng mang tính hệ thống duy trì cho toàn bộ đời sống kinh tế quốc dân và cho mọi hoạt động sản xuất; là tài sản mà sự cung cấp đầy đủ không được bảo đảm bằng cơ chế thị trường do có tính chất công cộng”. Cơ sở hạ tầng gồm các ngành kinh tế, kỹ thuật, các công trình phục vụ, sản phẩm của chúng tạo ra thể hiện dưới hình thức phi vật chất có tính công cộng. Sự phân biệt giữa cơ sở hạ tầng kỹ thuật chính là tính phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho hoạt động sản xuất. Phân loại: Theo hệ thống cơ sở hạ tầng ta có: - Hệ thống cơ sở hạ tầng sản xuất trực tiếp phục vụ cho các ngành sản xuất vật chất. - Hệ thống cơ sở hạ tầng phi sản xuất phục vụ gián tiếp cho các ngành sản xuất vật chất ( phục vụ đời sống xã hội ). Nếu xét theo hình thức vật chất: - Cơ sở vật chất bao gồm: Cơ sở hạ tầng kinh tế ( cầu, đường, thông tin liên lạc, giao thông vận tải,…) và cơ sở hạ tầng xã hội ( trường học, bệnh viện, nhà văn hoá, cơ sở thể thao,…). - Cơ sở hạ tầng phi vật chất: Bao gồm các chính sách, trình độ dân trí, kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp, đời sống xã hội,… Vai trò của cơ sở hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng nói chung gồm những công trình phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất đời sống xã hội. Vì vậy, cơ sở hạ tầng đặc biệt là cơ sở hạ tầng xã hội có liên hệ mật thiết đến quá trình sản xuất và đời sống kinh tế xã hội. Các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội có vai trò nâng cao đời sống dân cư và văn minh xã hội, liên quan trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực. Trong khi đó cơ sở hạ tầng kinh tế đảm bảo các điều kiện vật chất phục vụ quá trình sản xuất. Sự bảo đảm này thường xuyên và liên tục duy trì sự phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng thúc đẩy, kích thích phát triển thương mại trong và ngoài nước tăng khả năng giao lưu hàng hoá giữa các vùng, các quốc gia nhờ hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc,… Sự giao lưu trong các vùng diễn ra nhanh chóng và giữa các quốc gia với nhau cũng tăng thúc đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế cải thiện đời sống xã hội. 2. Cơ sở hạ tầng xã hội. Là một bộ phận của hệ thống cơ sở hạ tầng nhưng các lĩnh vực thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội trực tiếp liên quan đến các vấn đề xã hội như con người, văn hoá, văn minh,… 2.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng xã hội "Là một bộ phận hợp thành môi trường sống và bao gồm các ngành kinh doanh phục vụ sau đây ( cùng với những nhà cửa, công trình và các tổ chức của chúng ): việc phục vụ đời sống nhà ỏ phục vụ công cộng, thương nghiệp bán lẻ và ăn uống công cộng, phục vụ vận tải cá nhân, bảo vệ môi trường xung quanh, bảo vệ sức khoẻ, thể dục thể thao, bảo đảm xã hội và bảo hiểm xã hội, sự nghỉ ngơi có tổ chức của những người lao động, văn hoá nghệ thuật giáo dục phổ thông và đào tạo nghề nghiệp, sự giáo dục của xã hội đối với trẻ em, bảo vệ trật tự xã hội,…" Xuất phát từ khái niệm trên thì cơ sở hạ tầng xã hội gồm: - Nhà ở. - Các công trình phục vụ: Công trình y tế, văn hoá, giáo dục, thể dục thể thao, thương nghiệp, dịch vụ công cộng, bưu điện… - Cây xanh, công viên, mặt nước, và các điểm dân cư xã có các công trình công cộng của xã gồm: Nhà văn hoá, câu lạc bộ, nhà truyền thống, thư viện, trường tiểu học cấp một, trường trung học cơ sở cấp hai, sân vận động, chợ, cửa hàng, trường mẫu giáo, trạm y tế … Nếu xét theo hệ thống: "Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội là một bộ phận của hệ thống cơ sở hạ tầng nói chung. Nó bao gồm tập hợp các ngành thuộc loại nền tảng có tính chất dịch vụ xã hội có tác động tới hoạt động kinh tế xã hội, tạo thành môi trường sống có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển con người một cách toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần". Con người là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Có hàng loạt các nhu cầu cần được thoả mãn có thể chia thành các nhóm sau: - Nhóm nhu cầu thuộc về sinh lý của cơ thể gồm: ăn, mặc, ở, nghỉ ngơi, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ,… - Nhóm nhu cầu về các hoạt động. - Nhóm nhu cầu về biểu hiện mong muốn đạt đến những đỉnh cao về phát triển khả năng trong con người. Vậy hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội chính là cơ sở vật chất kỹ thuật cho các hoạt động, dịch vụ có liên quan đến việc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cho con người và sự thoả mãn nhu cầu nói trên. 2.2. Phân loại Cơ sở hạ tầng xã hội gồm hai loại: - Cơ sở hạ tầng vật chất gồm: Trường học, bệnh viện, nhà văn hoá, cơ sở thể thao,…còn gọi là cơ sở hạ tầng phần cứng. - Cơ sở hạ tầng xã hội phi vật chất gồm: hệ thống các chính sách, chế độ, trình độ dân trí, chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp,… còn gọi là cơ sở hạ tầng xã hội phần mềm. Hệ thống cơ cở hạ tầng xã hội cũng bao gồm: - Hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất – hệ thống cơ sở hạ tầng phần cứng gồm: hệ thống nhà ở, hệ thống các cơ sở khoa học, bệnh viện, hệ thống trường học,… cùng với các thiết bị của chúng. -Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội phi vật chất – hệ thống cơ sở hạ tầng phần mềm gồm: hệ thống các chính sách, luật, cơ chế,… 2.3. Đặc điểm và vai trò của cơ sở hạ tầng xã hội Đặc điểm Xuất phát từ khái niệm có thể thấy cơ sở hạ tầng xã hội có các đặc điểm sau: - Cơ sở hạ tầng xã hội là tập hợp hệ thống các ngành có tính chất phục vụ thường là không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội nhưng tính chất hỗ trợ lại rất cao như việc phục vụ đời sống xã hội bằng các công trình công cộng. Ngoài ra nó còn phục vụ gián tiếp phát triển kinh tế xã hội thông qua nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như y tế chăm sức sức khoẻ hay nâng cao trình độ dân trí thông qua Giáo dục- Đào tạo ở hiện tại cho tương lai. - Cơ sở hạ tầng xã hội tập hợp hầu hết các lĩnh vực tạo thành môi trường sống thuận lợi có tác dụng nâng cao mức sống dân cư, trình độ dân trí. Các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển con người cả về thể chất lẫn tinh thần như các hoạt động thể thao văn hoá,… - Cơ sở hạ tầng xã hội gồm chủ yếu là các công trình công cộng nên vốn đầu tư cho lĩnh vực này là rất lớn, thời gian thu hồi lâu; nguồn đầu tư tập trung chủ yếu vào ngân sách nhà nước, tư nhân hầu như ít tham gia. Hiệu quả mang lại từ đầu tư cho lĩnh vực này không thấy rõ ngay ở hiện tại như hoạt động đầu tư khác, mà chỉ thấy được trong tương lai sau một thời gian dài đầu tư. Nhìn chung cơ sở hạ tầng xã hội là một bộ phận của cơ sở hạ tầng, nội dung đề cập có sự khác nhau về phạm vi hệ thống cơ sở vật chất. Nhưng cơ sở hạ tầng xã hội có liên quan trực tiếp đến đầu tư phát triển nguồn nhân lực, động lực chính cho phát triển xã hội. Vai trò: Xã hội ngày càng phát triển tự nó đòi hỏi không ngừng tái sản xuất mở rộng sức lao động mới cả về số lượng lẫn chất lượng cùng với việc tạo điều kiện cho tất cả mọi thành viên của xã hội một đời sống không những đầy đủ về phương diện vật chất lại còn đảm bảo cho họ được phát triển tự do và đầy đủ các năng khiếu thể lực trí tuệ của mình. Trình độ phát triển của nền sản xuất càng cao, điều kiện sống của con người càng được cải thiện thông qua sự phát triển các ngành dịch vụ: - Số lượng thể hiện qua xu hướng có tính chất quy luật là lao động trong lĩnh vực sản xuất vật chất ngày càng giảm và lao động trong các ngành khoa học, Giáo dục - Đào tào, y tế, thể dục - thể thao, văn hoá, nghệ thuật. Các ngành phục vụ sự phát triển toàn diện của con người tăng cả về tuyệt đối lẫn tương đối cùng với trình độ chuyên môn nghề nghiệp ngày càng cao. - Chất lượng của toàn bộ hệ thống phải đạt được trình độ tiên tiến nhất định bao gồm các công trình xây dựng cơ bản với các điều kiện vệ sinh, thẩm mỹ nhất định, là cơ sở vật chất của việc nâng cao chất lượng hiệu quả phục vụ trong từng ngành. Đầu tư phát triển các ngành dịch vụ nói trên sẽ bảo đảm thoả mãn ngày càng nhiều hơn, chất lượng ngày càng cao hơn hệ thống các nhu cầu vật chất tinh thần hợp lý và chính đáng của con người, từ đó sẽ phát huy được động cơ lao động của từng cá nhân từng tập thể và trở thành động lực lao động mạnh mẽ nhất của phát triển. Chính vì vậy, ngày nay sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia bên cạnh sự tăng trưởng về kinh tế còn phụ thuộc rất lớn vào những nỗ lực phát triển văn hoá xã hội của riêng mình điều đó đòi hỏi phải có hành động cụ thể trong lĩnh vực phát triển xã hội với mục tiêu chung là hướng vào con người, phát triển con người, xoá đói giảm nghèo. Không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, nhất là những vùng nghèo, cộng đồng nghèo bởi vì: phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu cuối cùng và mục tiêu cao nhất của quá trình phát triển. 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội. Các yếu tố thuộc về môi trường tự nhiên. Sự phân bố cơ sở hạ tầng xã hội phụ thuộc nhiều vào vị trí địa lý, địa hình khí hậu và điều kiện đất đai. Trong quá trình phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội, các điều kiện tự nhiên tác động vào sự phân bố giữa các vùng, các ngành khác nhau. Sự ảnh hưởng có thể thấy rõ rệt nhất là sự phân bố các công trình xây dựng thuộc hệ thống này trong quá trình phát triển. Trình độ phát triển kinh tế xã hội: Đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định quá trình hình thành của hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội. Trình độ phát triển kinh tế xã hội ngày càng cao, càng có điều kiện thuận lợi trong việc đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu phúc lợi chung như: mở mang trường học, cơ sở y tế, thể dục thể thao, văn hoá … Nó có tác dụng to lớn trong việc bồi dưỡng sức khoẻ, vật chất, tinh thần kích thích sự phát triển mọi mặt của các thành viên trong xã hội. Trình độ phát triển kinh tế xã hội và trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội có quan hệ tỷ lệ thuận. Mức thu nhập càng thấp thì tỷ lệ người được học hành chăm sóc, y tế càng thấp. Thu nhập thấp không có điều kiện, khả năng tham gia vào nhiều hoạt động khác chứ không riêng gì lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội. Chính sách của Nhà nước. Mục tiêu của xã hội chính là sự phát triển cao tập trung vào con người, cho con người và vì con người. Chính vì vấn đề này quốc gia nào cũng rất quan tâm đến lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội biểu hiện bằng các chính sách phát triển kinh tế xã hội và điều này được khẳng định ngay trong hiến pháp. ở Việt Nam mục tiêu phát triển là dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh biểu hiện của nó là các chính sách về Giáo dục- Đào tạo hay trong các văn kiện Đại hội Đảng: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu cả xã hội phải chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, đưa giáo dục của nước ta ngang tầm với các quốc gia khác trên thế giới”. Chính sách chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ở điều 43 Hiến pháp năm 1992 quy định như sau: “Nhà nước định hướng chiến lựơc ban hành các chính sách và đưa ra giải pháp chủ yếu có liên quan trực tiếp tới việc thúc đẩy sự hình thành và phát triển hệ thống mạng lưới các cơ sở y tế”. Tuy vậy chính sách đầu tư, phân bổ và trợ cấp được xem xét thích hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Chất lượng phục vụ được nâng cao tạo điều kiện cho phát triển con người một cách toàn diện. Tiến bộ khoa học công nghệ: Ngày nay khoa học công nghệ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế xã hội. Khoa học phát triển như vũ bão, con người đòi hỏi phải có trình độ nhất định để tiếp thu công nghệ hiện đại bắt kịp sự phát triển của xã hội. Đầu tư vào nguồn nhân lực phát triển con người trở thành vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, hơn nữa những kỹ năng thực hành kỹ thuật và kinh tế linh hoạt, ý thức nghề nghiệp sâu sắc, đạo đức và lương tâm nghề nghiệp trong sáng sức khoẻ vững vàng …Những tiềm lực này chỉ thông qua quá trình phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về thể lực và trí lực lẫn văn hoá tinh thần. Như vậy, trình độ tiến bộ của khoa học công nghệ càng cao tác động tới trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội, cũng như đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực có liên quan. II. Vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội Để tiến hành hoạt động nào đó cần phải bỏ ra những nguồn lực nhất định và thu về các kết quả nhất định trong tương lai. Kết quả thu về đó lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra về mặt giá trị. Vậy vốn đầu tư được quan niệm là các nguồn lực bỏ ra để đầu tư cho một hoạt động nào đó. 1. Khái niệm vốn đầu tư . Vốn Đầu tư chính là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình sản xuất của xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội, nâng cao chất lượng đời sống xã hội. Để xã hội phát triển cần phải tạo ra nhiều tiềm lực mới trên tất cả các lĩnh vực. Do vậy, hoạt động đầu tư phát triển là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật và thực hiện các chi phí gắn liền với sự hoạt động vừa được tái sản xuất mở rộng, thông qua các hình thức xây dựng mới, tu bổ, sửa chữa hệ thống cơ sở vật chất nói trên. Từ khái niệm vốn đầu tư có thể hiểu: Vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội là tổng hợp các nguồn lực được đầu tư vào quá trình phát triển, đổi mới hệ thống cơ sở hạ tầng. Sau đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội được đầu tư xây dựng hoạt động mang lại lợi ích lớn hơn so với ban đầu. Đặc điểm của vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội Vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội tương đối lớn do tính chất của cơ sở hạ tầng xã hội quy định. Hầu hết các công trình thuộc cơ sở hạ tầng xã hội đều có tính phục vụ công cộng, nguồn đầu tư cần nhiều, thời gian thu hồi vốn lâu. Một đặc điểm quan trọng khác nữa là kết quả đầu tư vào các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội được xem xét trên góc độ lợi ích chứ không phải là lợi nhuận như các lĩnh vực kinh tế xã hội khác. Chẳng hạn như đầu tư cho Giáo dục-Đào tạo ở hiện tại thì sau một thời gian nhất định, nguồn nhân lực mới phát huy tác dụng tạo ảnh hưởng ngoại lai tích cực cho xã hội. Tính chất công cộng của các ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội là ít tham gia vào quá trình sản xuất, hiệu quả mà vốn đầu tư bỏ ra không được đo bằng lợi nhuận mà đo bằng lợi ích cho xã hội như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho cộng đồng… Trong luận văn này, vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội xem xét cho hai lĩnh vực chủ yếu của cơ sở hạ tầng xã hội là Giáo dục-Đào tạo và y tế. Cụ thể là các nguồn lực dùng để mua sắm, xây dựng mới hệ thống cơ sở vật chất thuộc hai lĩnh vực trên và toàn bộ tài sản kể cả tài sản cố định phục vụ trong ngành. 2. Phân loại vốn đầu tư Do tính chất đa dạng của vốn đầu tư nói chung và vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội nói riêng có thể chia thành các loại sau: Phân theo nguồn đầu tư: - Nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước: là nguồn đầu tư chủ yếu cho cơ sở hạ tầng xã hội do các công trình đầu tư thuộc lĩnh vực xã hội cần nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi lâu… - Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế (ODA)…là nguồn đầu tư đóng vai trò quan trọng, mục đích đầu tư mang tính chất viện trợ nhân đạo nhiều hơn. - Nguồn đầu tư tư nhân là nguồn vốn mà tư nhân bỏ ra để kinh doanh trên các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội. Xã hội ngày càng phát triển mỗi cá nhân đều có sự lựa chọn khác nhau trong kinh doanh các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Họ sẽ tự bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực nào đó nếu như hoạt động đó mang lại lợi ích cao hơn cho họ. - Nguồn khác: Bao gồm vốn đầu tư từ phía các doanh nghiệp và nguồn tự có của các cơ sở thực tại góp phần đa dạng hoá các nguồn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Phân theo đối tượng đầu tư : - Đầu tư cho các đối tượng vật chất của hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội chính là đầu tư vào tài sản vật chất hay tài sản thực: xây dựng trường lớp, bệnh viện, mua sắm trang thiết bị Giáo dục-Đào tạo, y tế, dụng cụ dạy và học, dụng cụ y tế … - Đầu tư cho các đối tượng phi vật chất của hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội: đầu tư tài sản trí tuệ, kiến thức, trình độ kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ giảng dạy, đội ngũ y sỹ, bác sỹ…. nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội. 3. Hình thức đầu tư : Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng nói chung, thời gian gần đây xuất hiện ba phương thức đầu tư. Cả ba phương thức này đều được áp dụng trong các dự án xây dựng cơ sở vật chất cho cơ sở hạ tầng xã hội.( Trích Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam). - Hình thức Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO) Hình thức xây dựng - chuyển giao - kinh doanh theo quy định thì nhà đầu tư sẽ bỏ vốn ra xây dựng các công trình thuộc cơ sở hạ tầng xã hội sau đó chuyển giao cho chính phủ. Khi công trình trở thành sở hữu Nhà nước, chính phủ sẽ thực hiện một số ưu đãi cho phép nhà đầu tư triển khai xây dựng và kinh doanh một công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn vốn và thu được lợi nhuận thoả đáng cho cả dự án mới và dự án đã chuyển giao. - Hình thức Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) Hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao nhà đầu tư bỏ vốn ra đầu tư xây dựng công trình, sau đó kinh doanh khai thác công trình qua thu phí hoặc bán sản phẩm để thu hồi lại số vốn đẫ bỏ ra và có tỷ lệ lãi hợp lý. Khi hết thời hạn thoả thuận trong hợp đồng, nhà đầu tư sẽ chuyển giao không bồi hoàn công trình lại cho chính phủ. - Hình thức Xây dựng - Chuyển giao (BT) Với hình thức này, nhà đầu tư sau khi xây dựng công trình sẽ chuyển giao cho Chính phủ được Chính phủ cho phép cùng quản lý điều hành giúp công trình hoạt động đạt hiệu quả cao nhất. Qua đó được hưởng tỷ lệ lợi nhuận nhất định để thu hồi vốn và có lãi thoả đáng. Thời gian đầu các hình thức này được áp dụng rộng trong các dự án của cơ sở hạ tầng kỹ thuật như xây dựng đường xá, cầu, cảng,… Gần đây phạm vi này được mở rộng trong các dự án thuộc cơ sở hạ tầng xã hội. Xây dựng trường lớp, bệnh viện, cơ sở thể thao văn hoá,… nhà đầu tư có thể là các nhà thầu trong và ngoài nước tham gia đầu tư san sẻ một phần gánh nặng chi cho đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội từ ngân sách nhà nước. 4. Vai trò của vốn đầu tư với phát triển cơ sở hạ tầng xã hội Hệ thống cơ sở hạ tầng nói chung và hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội nói riêng luôn phải được bổ sung đầu tư xây dựng kịp với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Dù ở quốc gia nào phát triển hay đang phát triển cũng đều cần phải được đầu tư xây dựng. Với các nước phát triển thường có hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội tương đối hịên đại cần phải được đầu tư sửa chữa tu bổ, vì trong quá trình hoạt động có sự xuống cấp của hệ thống cơ sở vật chất. Với các nước đang phát triển vốn đầu tư lại càng quan trọng hơn bởi nước nghèo có thu nhập thấp dẫn tới tích luỹ và tiêu dùng thấp, khả năng huy động vốn rất khó khăn trong khi muốn thoát khỏi nghèo đói cần phải có nguồn nhân lực có trình độ kiến thức tiếp thu những công nghệ hiện đại áp dụng vào trong sản xuất. Hơn nữa hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội ở các nước này thường lạc hậu nhiều so với Thế giới, không đáp ứng được nhu cầu xã hội đòi hỏi. Vốn đầu tư cho lĩnh vực này nhằm hiện đại hoá hệ thống cơ sở vật chất và vốn đầu tư trở thành vấn đề sống còn bởi vì cơ sở hạ tầng xã hội tác động mạnh mẽ tới quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội thông qua nguồn nhân lực. Cụ thể hơn vốn đầu tư ở đây được dùng xây dựng mới các hệ thống cơ sở vật chất của y tế, Giáo dục-Đào tạo như: trường lớp, bệnh viện, trạm xá, cơ sở y tế. Mua sắm hiện đại hoá thiết bị dạy và học, thiết bị y tế, dụng cụ y tế… hoặc mua sắm tài sản cố định phục vụ trực tiếp cho ngành. Vốn đầu tư dưới hình thức hiện vật chủ yếu xuất hiện dưới hình thức viện trợ nhân đạo bằng các máy móc thiết bị dụng cụ trong y tế Giáo dục-Đào tạo cũng như các lĩnh vực xã hội khác. Hình thức chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài này máy móc thiết bị tuy không hiện đại, cập nhật với trình độ khoa học đương thời nhưng nó cũng đáp ứng tốt nhu cầu thiếu thốn trang thiết bị ở các nước nghèo trong khi chưa đủ khả năng huy động vốn đầu tư cho lĩnh vực này. Một nhược điểm lớn dẫn đến tình trạng thiếu vốn đầu tư là nhu cầu xã hội đòi hỏi cao nhưng khả năng lại chậm và không đồng bộ vậy nên nhiều khi bỏ lỡ cơ hội cho phát triển kinh tế xã hội. 5. Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất song nó lại gián tiếp tác động vào quá trình này và vai trò của nó rất quan trọng trong quá trình sản xuất cũng như đời sống xã hội của bất kỳ quốc gia nào. Đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội quyết định sự phát triển kinh tế xã hội cơ sở của vấn đề này. Xuất phát từ vai trò của cơ sở hạ tầng xã hội đối với đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. - Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật là điều kiện thiết yếu để bảo đảm hoạt động có hiệu quả các ngành kinh tế có liên quan. Xã hội phát triển luôn phải xuất phát từ nền kinh tế vững chắc. Vậy chỉ có đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật mới thúc đẩy kinh tế phát triển từ đó xã hội phát triển. - Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội tác động trực tiếp tới sự phát triển nguồn nhân lực, số lượng nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực. Thông qua các ngành, lĩnh vực có liên quan như Giáo dục-Đào tạo, Y tế và chăm sóc sức khoẻ. Vì vậy đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội chính là đầu tư cho con người - động lực chính của sự phát triển kinh tế xã hội. Điều này được minh hoạ bằng lược đồ dưới đây: Con người Ytế CSSK Thể lực TDTT Nhân cách Trí lực Văn hoá GD-ĐT Hệ thống sản xuất xã hội Lược đồ: Con người – mục tiêu và động lực của sự phát triển - Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội –cơ sở vật chất kỹ thuật cho các hoạt động dịch vụ có liên quan tới việc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong việc chăm sóc sức khoẻ, Giáo dục-Đào tạo, văn hoá, tinh thần …Thoả mãn nhu cầu phát triển ngày càng cao, toàn diện của con người. Như vậy, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là vì con người. Nhân tố con người- sức lao động –là yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất và con người là chủ thể của quá trình phát triển xã hội trên những bậc thang tiến hoá. Quá trình phát triển nó đòi hỏi hệ thống năng lực của con người phải được tái sản xuất và hơn nữa là tái sản xuất mở rộng. Nhân tố con người bao gồm hai hệ thống lớn: - Hệ thống nhân tố thể lực: Chịu ảnh hưởng trực tiếp của mức sống vật chất, sự bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhất là trong giai đoạn phát triển ban đầu. Vậy y tế và Giáo dục-Đào tạo là hai lĩnh vực liên quan trực tiếp tới hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội. - Hệ thống nhân tố tinh thần: Bao gồm nhân cách và trí lực trực tiếp tác động tới quá trình thay đổi về chất của con người trong quá trình phát triển chất lượng nguồn nhân lực chính là con người đòi hỏi phải được nâng cao và Giáo dục-Đào tạo, văn hoá, tinh thần liên quan trực tiếp đến hệ thống này. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội mỗi quốc gia luôn chú trọng đầu tư trong phát triển ngắn hạn và dài hạn. Đầu tư cho con người quyết định rất lớn tới sự phồn thịnh của xã hội sau này. Thực tế cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho hệ thống cơ sở hạ tầng - cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu so với tiến trình phát triển. Vì vậy sẽ rất cần thiết phải đầu tư nâng cấp, sửa chữa, triệu bổ, xây dựng mới hiên đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng tốt hơn yêu cầu của xã hội. Điều này khẳng định rằng cần phải có sự quan tâm và có những hành động cụ thể trong các hoạt động đầu tư của các lĩnh vực xã hội. Mục tiêu chung là hướng vào phát triển con người, xoá đói giảm nghèo, cải thiện và nâng cao mức sống dân cư ở các vùng nghèo, địa phương nghèo và rộng hơn là quốc gia nghèo. III. Kinh nghiệm huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội của một số nước. Quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, mỗi khu vực đều có những điểm riêng, đặc thù cho mình. Nhưng nếu xét góc độ cơ sở hạ tầng nói chung và đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội nói riêng thì xu hướng chung của những năm gần đây: - Con số đầu tư ngày._. càng tăng cả về chiều rộng và chiều sâu do xã hội ngày càng phát triển. - ở phần lớn các nước con số đầu tư này gắn liền với sự tăng trưởng hay suy giảm của chu kỳ kinh tế, tuỳ thuộc vào quy mô của nền kinh tế mở rộng hay thu hẹp. - Đa dạng hoá các nguồn lực đầu tư, phát huy hiệu quả giữa các khu vực Nhà nước và phi Nhà nước, san sẻ gánh nặng chi tiêu từ ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực xã hội. Cụ thể ta xem xét kinh nghiệm huy động của hai nhóm nước chính sau: 1. Nhóm các nước phát triển: ở các nước này đầu tư phát triển nâng cao chất lượng cuộc sống con người chiếm tỷ lệ đáng kể so với GDP và so với tổng chi tiêu cuả ngân sách nhà nước. Đầu tư này bao gồm: Chi tiêu cho công cộng, chi tiêu cho đầu tư phát triển. Chi tiêu cho các ngành thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội: Giáo dục-Đào tạo, y tế, xây dựng nhà ở và trợ cấp xã hội như hưu trí, trợ cấp thất nghiệp và hỗ trợ khác. Tỷ lệ này chiếm tới 50% tổng chi ngân sách nhà nước và chiếm tỷ lệ từ 20%-25% GDP. Bình quân chung chi tiêu cho xã hội của các nước như sau: Liên minh Châu âu chi đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội 28,8% ngân sách nhà nước. Các nước cộng hoà liên bang Đức, cộng hoà Pháp, Hà Lan, Đan Mạch đều chi trên 30% ngân sách nhà nước cho chi đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội. Chi tiêu cho Giáo dục-Đào tạo so với GDP: Nhóm các nước phát triển có tỷ lệ chi cho Giáo dục-Đào tạo so với GDP khá cao. Bảng 1: Chi tiêu ngân sách Nhà nước cho Giáo dục-Đào tạo các nước. Các nước Chi cho giáo dục Chi cho đào tạo Hoa Kỳ 7% 5,5% Canada 7,4% 6,7% Thuỵ Điển 6,5% 6,5% Na Uy 7,6% 6,8% Nhật Bản 5,0% 3,7% Nguồn: Nghiên cứu tài chính cho Giáo dục-Đào tạo-Ngân hàng thế giới Kinh nghiệm huy động vốn cho giáo dục đào tạo như sau: - ở Hoa Kỳ nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển tăng nhanh, chính phủ đưa ra luật cho phép bán đất công tạo ra quỹ xây dựng trường học. Năm 1990 quỹ dành cho giáo dục đào tạo lên tới 515 triệu USD. Mặt khác để đạt tới một hệ thống giáo dục công bằng Hoa Kỳ đã chú ý bỏ các hàng rào chi phí giúp cho học sinh nghèo tới trường. Nguồn tài chính chủ yếu của phần hệ thống giáo dục quốc gia là do chính phủ các bang và các cơ quan quản lý địa phương quản lý cung cấp (77,8%). Tài chính của phân hệ trường tư là nguồn thu học phí quyên góp (86,5%). Ngân sách này không chỉ tập trung cho việc xây dựng trường, mua sắm trang thiết bị dạy và học mà còn dùng để đào tạo đội ngũ giáo viên. Ngân sách nhà nước tính theo tỷ lệ GDP cho giáo dục tăng liên tục, từ năm 1960 tỷ lệ này là 5,3% GDP đến năm 1991 đã tăng lên 7%. Đó là mức ngân sách giáo dục đào tạo cao hơn rất nhiều so với các nước tư bản phát triển khác. - ở Nhật Bản: Giáo dục của Nhật Bản được ưu tiên đầu tư trên nhiều khía cạnh khác nhau. Luật giáo dục của Nhật lập thành hệ thống giáo dục mới, trong đó nêu rõ các gia đình phải có nhiệm vụ đặt việc học tập của con em mình lên trên hết. Ngân sách nhà nước chi cho Giáo dục-Đào tạo chiếm 5-6% tổng chi ngân sách nhà nước. Từ thời Minh Trị chính phủ đã chi các khoản tiền rất lớn cho Giáo dục-Đào tạo. trong đó chi trả các khoản cho việc mời chuyên gia nước ngoài giảng dạy. ở Nhật Bản tồn tại song song cả hệ thống trường công và trường tư, huy động tối đa nguồn lực từ phía tư nhân. Trình độ học vấn chính là yếu tố cơ hội việc làm ở Nhật Bản do vậy không những bản thân các gia đình tập trung đầu tư mà cả xã hội cùng phải quan tâm đầu tư. Chi tiêu y tế- Chăm sóc sức khoẻ: Chi tiêu công cộng cho y tế so với tổng chi tiêu cũng khá cao: Hoa Kỳ 16%, Pháp 16%, Anh 13,8%… Tuy nhiên trong chi tiêu nói trên phần đầu tư hình thành phát triển và phân bố hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội nói chung ở mức độ khá cao kể cả bề rộng cũng như bề sâu như chất lượng các công trình xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị. - ở Pháp: Vấn đề huy động vốn tập trung vào các tổ chức bảo hiểm y tế và theo ngành dọc nộp tập trung toàn bộ nguồn thu bảo hiểm y tế vào quỹ bảo hiểm trung ương. - Các nước giàu có ở Trung đông có nguồn thu nhập dầu mỏ và những nước xã hội chủ nghĩa trước đây toàn bộ chi phí về y tế đều do ngân sách nhà nước tài trợ. 2. Nhóm các nước đang phát triển Đầu tư cho phát triển con người tạo động lực phát triển kinh tế xã hội. Nhưng ở các nước này hiệu quả kinh tế mang lại còn thấp nên mức đầu tư cũng thấp và khác nhau tuỳ theo trình độ phát triển của từng quốc gia. Về nguồn đầu tư ở những nước này bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước, Bảo hiểm y tế, thu viện phí, thu học phí,…và các nguồn viện trợ từ đầu tư nước ngoài. Mặc dù họ đều nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư phát triển con người, ở những mức độ khác nhau song hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội vật chất vẫn chưa đáp ứng được khả năng mà xã hội yêu cầu cả về số lượng và chất lượng. Bảng 2: Số liệu nghiên cứu tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước cho Giáo dục-Đào tạo, y tế của các nước trong khu vực Các nước đang phát triển Nhóm thu nhập Chi phúc lơị xã hội %GDP NSNN Cho GD-ĐT %GDP NSNNcho y tế % GDP Singapore Cao 7,1 3,4 1,1 Hàn Quốc Cao - 3,6 2,7 Malaysia Cao 0,5 6,9 1,3 Thái Lan Cao - 3,8 1,1 Philippines Trung bình 0,7 2,9 1 Indonisia Trung bình 0,7 2,9 0,7 Nguồn: Báo cáo phát triển nguồn nhân lực UNDP (1999) Các nước Châu á (các nước có thu nhập cao và thu nhập trung bình) đầu tư cho ngân sách nhà nước Nhà nước cho Giáo dục-Đào tạo khoảng 15-20% tổng ngân sách nhà nước Nhà nước mức chi cao hơn so với các nước khác. Tuy nhiên, chi đầu tư xây dựng cơ bản so với tổng chi cho Giáo dục-Đào tạo và GDP của các nước này dao động trong dải tần rộng từ 5-30% và của y tế dao động từ 0,2-10% tuỳ theo từng nước thuộc các nhóm có thu nhập khác nhau. Giáo dục-Đào tạo: ở Singapore tỷ lệ chi cho Giáo dục-Đào tạo còn cao hơn cả ngân sách nhà nước Nhà nước giành cho quốc phòng tăng liên tục từ 15,7% năm 1970 và lên tới 22,9% năm 1997 và duy trì ở mức cao từ đó tới nay. Singapore huy động nguồn lực công cụ này có tính bắt buộc hoặc khuyến khích sự tự giác đóng góp của các thành viên trong xã hội. - ở Hàn Quốc ngay từ thập kỷ 60 Chính phủ đã khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư kinh phí cho Giáo dục-Đào tạo giảm bớt chi tiêu công cộng từ ngân sách nhà nước. Các trường công và trường tư được phép thu học phí thậm chí thu ở mức cao không những với sinh viên trong nước mà còn cả sinh viên nước ngoài tới nghiên cứu. Khu vực tư nhân của Hàn Quốc gây ra sự tăng nhanh về số lượng học sinh trong Giáo dục-Đào tạo; 82% số người theo học ở khu vực tư nhân năm1997; chi phí cho Giáo dục-Đào tạo bằng 6% so với GDP vượt xa tỷ lệ 5% của Chính phủ. Y Tế: Thái Lan: thực hiện đa dạng hoá các nguồn đầu tư cho y tế: ngân sách nhà nước, thu viện phí, bảo hiểm y tế và huy động các nguồn khác trong đó viện phí chiếm tỷ lệ cao nhất và bảo hiểm y tế có tỷ lệ nhỏ nhất vì không có chính sách bắt buộc. Trung Quốc: Mô hình phát triển y tế của Trung Quốc tập trung chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ở khu vực nông thôn. Năm 1976 Trung Quốc sử dụng 60% ngân sách y tế chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ở vùng nông thôn thúc đẩy phát triển mạnh mẽ ngành y tế công cộng. Để tránh thất thoát vốn đầu tư và nâng cao sử dụng Trung Quốc đã dùng những cán bộ chuyên môn về quản lý đưa vào quản lý các dự án đầu tư tránh dùng những cán bộ y tế không có kinh nghiệm trong quản lý dự án đầu tư cho y tế. Kinh nghiệm chung trong đầu tư: Do phải đáp ứng những đòi hỏi của phát triển kinh tế xã hội cũng như nhu cầu ngày càng cao của dân cư trongg các lĩnh vực Giáo dục-Đào tạo chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ. Nhu cầu đầu tư phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội cũng ngày một gia tăng, để giảm bớt gánh nặng cho mình và có điều kiện tập trung cho những ưu tiên đối với từng lĩnh vực và từng nhóm đối tượng. Chính phủ các quốc gia đều thực thi chính sách xã hội hoá các lĩnh vực hoạt động và đa dạng hoá các nguồn lực tài chính cho các hoạt động đó với cơ chế mềm dẻo linh hoạt. - Ngân sách nhà nước (Trung ương và địa phương) được chi rất ưu đãi cho các lĩnh vực xã hội như Giáo dục-Đào tạo, y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. - Sự đóng góp của các tổ chức cá nhân thông qua việc đỡ đầu học sinh, sinh viên đại học, những người theo học những khoá ngắn hạn nhằm cập nhật những kỹ năng và kiến thức. Hình thức này đã phát triển rất nhanh ở một số nước trong thời gian gần đây. - Hoạt động tư vấn và nghiên cứu ứng dụng giữa các trường đại học và các ngành công nghiệp, thương mại thu nhập từ các hoạt động này đã tăng lên ở các nước phát triển. - Bán hàng hoá và dịch vụ: Sử dụng tốt hơn phòng thí nghiệm, trang thiết bị, dịch vụ in ấn và khuyến nông, sử dụng nơi ở của sinh viên trong thời gian nghỉ hè,… - Quà tặng của các cựu sinh viên, những người tốt nghiệp đại học làm cho khu vực tư nhân có thu nhập cao, nhân viên cũ của trường và các công dân có tiếng ỏ Hoa Kỳ và một số nước. Việc nuôi dưỡng những mối quan hệ giữa các cơ sở đại học và các cựu sinh viên là hình thức chính sách để tạo nguồn thu nhằm tạo ra các nguồn lực cho đầu tư. Chương II: Thực trạng đầu tư vào một số ngành thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội của Việt Nam thời gian qua 1990-2000 *************** I- Thực trạng chi tiêu cho xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội của Việt Nam thời gian qua. Quan điểm phát triển xã hội luôn là mối quan tâm hàng đầu trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội của Việt Nam. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở hạ tầng xã hội được khẳng định trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020. Ngân sách chi thường xuyên trên cơ sở các chuẩn mực chi tiêu tính theo đầu người dân (đối với tuyến cơ sở của ngành y tế và khối giáo dục phổ thông) theo vùng lãnh thổ, đầu sinh viên đối với khối đào tạo, theo giường bệnh đối với bệnh viện tuyến trên. Việc xác định mức chi do Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và đào tạo quyết định và xem xét lại hàng năm. Bộ tài chính trực tiếp xem xét chi tiết và phê duyệt tổng số tiền theo các loại chi. Nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ cho qúa trình phát triển là rất lớn trong điều kiện nguồn vốn đầu tư cho phát triển hạn chế. Khả năng thực hiện về các nguồn vốn có thể huy động được đánh giá rất chặt chẽ và phân bổ cho các lĩnh vực trong kế hoạch được cân nhắc căn cứ vào vào trình độ phát triển của từng vùng để đảm bảo cho chương trình đầu tư có tính khả thi cao và huy động được các nguồn lực khác. Đồng thời ưu tiên cho các vùng có nhiều khó khăn có các ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội kém phát triển để đảm bảo chiến lược phát triển của cả nước. Cụ thể kế hoạch cơ cấu đầu tư giai đoạn 1996-2000 như sau: Bảng 3: Cơ cấu vốn đầu tư thời kỳ 1996- 2000 Lĩnh vực ĐT Hạ tầng kinh tế Các ngành SX Hạ tầng XH Khác Tỷ lệ % tổng VĐT toàn XH 24 61 14 1 Nguồn: Vụ tổng hợp - Bộ KH&ĐT Đơn vị : % Nếu chỉ tính riêng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước vốn đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội chiếm 33,36% gần tương đương với hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế. Trong tổng số vốn đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội thì đầu tư cho giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội chiếm tới 43%. Tài chính công được chi tiêu cho các ngành phục vụ phát triển xã hội luôn được coi trọng và có xu hướng tăng lên mặc dù sự tăng trưởng kinh tế qua các năm là không đều. Tổng chi cho các ngành thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội có xu hướng tăng lên qua các năm song tổng chi có xu hướng tăng không đều. Chi thường xuyên chiếm phần lớn trong tổng chi ngân sách cho các ngành. Phần chi đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng nhỏ và cũng có xu hướng tương tự như trên. Chi đầu tư chiếm khoảng 8%-13% tổng chi của ngành giáo dục-đào tạo và dao động trong khoảng 5%-15% tổng chi ngân sách của y tế. Trong giai đoạn 1991-1996, chỉ tính riêng vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước cho các ngành thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội có xu hướng giảm so với giai đoạn 1986-1990 nên năng lực phục vụ phát triển của các ngành thuộc hệ thống nói trên cũng giảm đi. Năng lực phục vụ mới tăng thêm của các ngành xây dựng: nhà ở, văn hoá, thể dục thể thao,... đều giảm so với giai đoạn trước lần lược là: nhà ở: 2,1 lần, văn hoá: 1,3 lần và thể dục thể thao: 1,4 lần. Sự giảm sút nói trên có thể do ảnh hưởng của nhiều yếu tố: Sự khó khăn về tài chính cuối những năm của thập kỷ 80 cộng với việc xác định lại vai trò của Nhà nước và thực hiện xã hội hoá rộng rãi trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội nhằm huy động mọi nguồn lực phát triển cho xã hội. Thực tế phần chi của Nhà nước cho các dịch vụ xã hội cơ bản được thực hiện thì phần đóng góp của nhân dân thực hiện thường gấp 2-3 lần. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn bảo đảm cung cấp tương đối các dịch vụ y tế và giáo dục - những nhân tố quan trọng của chính sách phát triển xã hội và hoạt động của Nhà nước cho nhân dân. Xét một cách toàn diện thực hiện năng lực phục vụ mới tăng thực hiện của ngành giáo dục - đào tạo tăng cao nhất: số lượng trường phổ thông, nhà trẻ, trường dạy nghề (tính cho 1000 học sinh) tăng tới 9,2 lần mặc dù có sự phát triển không đều giữa các cấp học. Năng lực phục vụ mới tăng thêm ở các cấp nhà trẻ trong giai đoạn 1991-1996 giảm hai lần so với giai đoạn 1986-1990. Còn sự tăng thêm của ngành y tế là khá khiêm tốn 2,1 lần. Năng lực mới tăng thêm về nhà ở giảm một nửa so với thời kỳ 1986-1990 song vẫn cao hơn so với thể dục thể thao, văn hoá và thấp hơn giáo dục. Đầu tư cho việc hình thành phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội nói chung và cơ sở vật chất của giáo dục đào tạo, y tế nói riêng có sự khác nhau do phân cấp quản lý dẫn đến sự khác biệt đáng kể về chất lượng giữa các cấp, đơn vị trong nội bộ ngành. Giữa các ngành và giữa các vùng lãnh thổ có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Các dự án lớn thuộc trách nhiệm của các Bộ, Trung ương và thông thường vốn đầu tư được phân cấp cho ngân sách địa phương gấp khoảng 3 lần ngân sách Trung ương. Trong phạm vi các thông số này, các tỉnh sẽ quyết định sử dụng nguồn vốn này tế như thế nào cho phù hợp với các ưu tiên và nhu cầu của từng địa phương. Thế mạnh và khả năng tại trợ của từng địa phương được thể hiện rõ rệt trong giáo dục, đã không được khai thác triệt để trong ngành y tế. Sự tại trợ của chính quyền địa phương so với vốn đầu tư của Trung ương cho ngành giáo dục tăng 2,1 lần (1991) và tăng lên 4 lần (1996). Trong khi đó ngành y tế lại có xu hướng giảm dần từ 4,4 lần năm 1993 xuống còn 2,8 lần năm 1996. Thực tế đã có sự hỗ trợ từ Trung ương cho các địa phương trong xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội thông qua các chương trình chuyên ngành giai đoạn 1991 - 2000. Sự hỗ trợ này sử dụng chi cho thường xuyên, chi cho xây dựng cơ bản. Trung ương tăng cường hỗ trợ vốn cho các cấp hoạt động thông qua các chương trình mục tiêu trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội. Kinh phí chương trình mục tiêu của giáo dục là 3270 tỷ đồng tập trung vào 4 vấn đề: phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, hỗ trợ giáo dục dân tộc, nâng cấp các trường sư phạm và trình độ giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất trường học. Chương trình mục tiêu năm 1999 đề ra trong số 581 tỷ đồng cho một nghìn xã đặc biệt khó khăn thuộc 91 huyện thì: vốn cho chương trình xoá đói giảm nghèo chiếm 79,4% (tương đương 461,9 tỷ đồng), chủ yếu tập trung cho cơ sở hạ tầng là 18,7% (tương đương 410 tỷ đồng). Ngoài số vốn nói trên, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng còn được bổ sung thêm 310 tỷ đồng và vốn cho chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn là 7,08 tỷ đồng; chương trình giải quyết việc làm là 7,7 tỷ đồng; thanh toán một số bệnh xã hội là 15,9 tỷ đồng; nâng cấp trang thiết bị y tế là 11,7 tỷ đồng; dân số và kế hoạch hoá gia đình là 11 tỷ đồng; chương trình phát thanh và truyền hình, văn hóa thông tin là 21,4 tỷ đồng và giáo dục - đào tạo là 45 tỷ đồng. Viện trợ phát triển chính thức ODA cho các lĩnh vực xã hội có chương trình xã hội cơ bản và ngoài cơ bản tăng mạnh từ năm 1990. Năm 1990, con số đầu tư là 77 triệu USD tăng lên 242 triệu vào năm 1996, tỷ lệ tăng hơn 3 lần. Trong luồng vốn này, y tế luôn là lĩnh vực quan trọng được quan tâm hàng đầu, con số đầu tư tăng từ 16 triệu (chiếm 21% tổng vốn ODA năm 1990) lên 73 triệu (chiếm 33% tổng vốn ODA năm 1995). Tiếp theo là đầu tư phát triển xã hội chiếm 41% tổng vốn ODA năm 1990 và đạt 25% tổng vốn ODA năm 1996 (trong đó 78% cho nước sạch và vệ sinh môi trường). Giáo dục tăng nhanh từ 12 triệu USD (chiếm 15% tổng vốn ODA năm 1990) lên 62 triệu USD chiếm 24% tổng vốn ODA năm 1997. ODA dùng cho phát triển nông thôn chiếm 33% tổng vốn ODA năm 1997. Như vậy cho tới năm 1997 theo báo cáo của Bộ Tài Chính, tổng số chi cho giáo dục đào tạo từ ngân sách nhà nước là 10 nghìn tỷ đồng cho đến năm 2000 lên tới 19986 tỷ đồng. Với ngành y tế năm 1997 là 2940 tỷ đồng và năm 2000 là 4018 tỷ đồng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc y tế cho nhân dân. II. Thực trạng đầu tư cho một số ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội chủ yếu của Việt Nam thời gian qua 1. Ngành giáo dục - đào tạo Giáo dục- đào tạo là một bộ phận quan trọng trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX đề ra mục tiêu giáo dục phải được coi trọng và quan trọng nhất của sự phát triển, với phương châm giáo dục là quốc sách hàng đầu trong những năm qua tổng chi phí cho giáo dục đào tạo của toàn xã hội không ngừng tăng lên. Bảng 4: Tổng chí cho giáo dục và đào tạo của toàn xã hội Đơn vị: tỷ đồng Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001* Tổng số tỷ.đ 6912 7552 9974 14094 19986 20137 22371 Tốc độ tăng % 31,33 9,26 32,07 41,31 41,81 42,9 43,7 So với GDP % 2,3 2,7 2,86 2,59 2,95 3,01 3,12 * Số liệu dự tính Nguồn: Số liệu thống kê giáo dục năm 2000 - Bộ giáo dục - đào tạo Bảng trên cho thấy tốc độ chi cho giáo dục - đào tạo tăng liên tục qua các năm, tuy nhiên tốc độ tăng giữa các năm không đều. Năm 1996 tốc độ tăng chi của toàn xã hội cho Giáo dục giảm. Giải thích về sự giảm xuống có nhiều nguyên nhân cả về kinh tế, chính trị…trong và ngoài nước. Hoạt động xây dựng cơ bản nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế và có vai trò quan trọng trọng việc mở rộng quy mô trong ngành giáo dục. Tuy nhiên trong tổng cơ cấu chi cho hoạt động giáo dục- đào tạo thì phần vốn giành cho hoạt động xây dựng cơ bản không nhiều. Nếu so tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản của toàn xã hội thì lĩnh vực giáo dục- đào tạo chiếm một con số khá khiêm tốn chỉ xấp xỉ 2%. Bảng 5: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội tính theo giá hiện hành Đơn vị: tỷ đồng Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng 64963,0 77813,6 90870,4 118002,6 137485 146721 GD-ĐT 1291,3 1469,7 1715,0 2153,0 2746,7 2957,8 Tỷ lệ % 1,99 1,89 1,77 1,82 2,0 2,03 Nguồn: Niêm giám Thống kê năm 2001 ở Việt Nam hiện nay trong tổng kinh phí giành cho giáo dục - đào tạo thì ngân sách Nhà nước chiếm phần lớn khoảng gần 80%, còn lại là các nguốn khác như: nguồn ODA, đóng học phí của học sinh, các quỹ đóng góp của nhân dân… 1.1. Thực trạng nguồn đầu tư Cũng như nhiều lĩnh vực khác của hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, giáo dục - đào tạo có nhiều nguồn đầu tư được huy động. Nguồn đầu tư chính, chủ yếu vẫn là ngân sách Nhà nước, ngoài ra còn có nguồn từ ODA, đầu tư tư nhân,... Đầu tư cho giáo dục - đào tạo từ ngân sách Nhà nước: ở Việt Nam ngân sách giáo dục - đào tạo được phân thành hai cấp Trung ương và địa phương: - Bộ phận ngân sách Trung ương cung cấp kinh phí hầu hết cho giáo dục đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. - Bộ phận ngân sách địa phương trợ cấp giáo dục ở bậc thấp hơn. Cấp tỉnh chịu trách nhiệm về các trường trung học và cao đẳng. Trong những năm gần đây tế, đặc biệt từ Hội nghị Trung ương VII (1/ 1993), giáo dục được xác định là vấn đề hết sức cấp bách đối với nước ta. Có hàng loạt các chính sách nhằm cải tiến, đổi mới nền giáo dục. Các chính sách huy động vốn đầu tư cho giáo dục được tăng cường trên cả nước. Bảng 6: Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục - đào tạo giai đoạn1995 - 2000 Đơn vị: tỷ đồng Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001* NSNN chi cho GD 5482 6696 8179 11406 16188 22959 24956 Tốc độ tăng 31,18 22,15 22,15 39,45 41,93 41,83 42,83 Tỷ lệ so với tổng chi 10,5 11,8 12 12,7 13,3 14,8 15,7 Nguồn: Số liệu thống kê giáo dục năm 2001- Bộ GD- ĐT * Số liệu dự tính Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy rất rõ tổng chi cho giáo dục - đào tạo theo giá trị thực tế đã tăng bình quân khoảng trên 10% trong giai đoạn 1991- 2000. Tốc độ tăng chi thực tế cho đầu tư bình quân vẫn cao khoảng 15% và thường tăng giảm cùng với tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục. Theo số liệu thống kê cho thấy, chi từ ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ hơn 80% trong tổng chi công cộng cho giáo dục và đào tạo. Ngân sách địa phương trợ cấp Giáo dục ở bậc thấp hơn cấp tỉnh chịu trách nhiệm các trường trung học và cao đẳng. Chính quyền cấp huyện chịu trách nhiệm phân bổ ngân sách cho cấp tiểu học và mầm non. Một phần lớn tổng chi ngân sách nhà nước (72%) là do các tỉnh quản lý và điều phối trên cơ sở đã được Trung ương phê duyệt ngân sách với 76% tổng số vốn là chi cho thường xuyên và 56% chi cho đầu tư. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo từ nguồn ODA. Kinh phí viện trợ nước ngoài (ODA) được phân bổ cho các cấp giáo dục dưới dạng các dự án và chủ yếu để đầu tư và nâng cấp chất lượng cơ sở hạ tầng. Các dự án giành cho giáo dục đại học, dạy nghề chiếm tỷ trọng khá lớn từ 50 - 70% tổng kinh phí của nguồn này. Tuy vậy, chi tiêu cho các cấp giáo dục cơ bản trong tổng chi phí của nguồn vốn ngày càng tăng từ 1 triệu USD (11%) năm 1991 tăng lên 24 triệu USD (40%) năm 1994 và năm 1997 là 19 triệu USD (31%). Năm 2000, tổng mức đầu tư sửa chữa và xây dựng trường lớp thì nguồn vốn nước ngoài chiếm tới 78% tổng nguồn ODA đầu tư cho lĩnh vực này tương đương 327,7 tỷ đồng. Trong điều kiện hiện tại khi nguồn thu không đủ bù chi của Chính phủ thì các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp các dự án lớn bằng nguồn vốn vay ưu đãi có ý nghĩa quan trọng trong phát triển Giáo dục-Đào tạo của Việt Nam. Ngân hàng thế giới (WB) cho vay gần 80 triệu USD thực hiện dự án “Phát triển Giáo dục tiểu học” thực hiện trong giai đoạn 1994- 2001. Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) cho vay đầu tư vào dự án “Phát triển Giáo dục trung học cơ sở” trị giá 70 triệu USD. Ngành đào tạo dạy nghề sắp tới của Việt Nam sẽ nhận được nguồn tại trợ cho vay với lãi suất thấp từ Ngân hàng phát triển Châu á với tổng số tiền khoảng 130 triệu USD hỗ trợ lĩnh vực dạy nghề ở Việt Nam. Nhà nước dự kiến dùng một phần vốn này để nâng cấp cơ sở vật chất cho15 trường, một phần dùng để phát triển các chương trình dạy học và đầu tư vào việc đào tạo dạy học. Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đã có 9 dự án với tổng giá trị trên 10 triệu USD gồm những nội dung như điều tra tổng thể ngành Giáo dục, tăng cường trung tâm dạy nghề, tăng cường quản lý kinh tế,…Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) có 6 dự án với tổng giá trị trên 7 triệu USD, tập trung vào phát triển Giáo dục tiểu học, mẫu giáo và trẻ em chậm phát triển. Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) hỗ trợ 5 dự án với tổng giá trị gần 3,5 triệu USD. Nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế xã hội; về số lượng sinh viên trong những năm tới chúng ta đang triển khai dự án Giáo dục đại học với tổng kinh phí 103,3 triệu USD, trong đó vốn vay ODA chiếm phần lớn là 83,3 triệu USD (chiếm 80,3%), ngân sách Nhà nước 12.7 triệu USD (chiếm 12,2%), các trường đại học 7,8 triệu USD (7,5%). Dự án này có hiệu lực kể từ ngày 1/3/1999 thời hạn là 6 năm. Từ năm 1991 trở lại đây, có sự thay đổi cơ bản trong việc cung cấp nguồn ODA cho Việt Nam trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Song song với việc giảm viện trợ ODA từ các nước XHCN là sự tăng dần nguồn ODA từ các tổ chức quốc tế. Nguồn ODA được tài trợ bởi các quốc gia sau: - Austraylia: Hai dự án lớn về đào tạo; một dự án đào tạo tiếng Anh ước tính tổng giá trị 15 triệu USD, ngoài ra còn các suất học bổng. - Thuỵ Sỹ: Các dự án đào tạo dạy nghề trị giá 1,1 triệu USD và dự án cho Đại học Lâm nghiệp trị giá 1,4 triệu USD. - Nhật Bản: Hỗ trợ hai dự án nâng cao khoa học nông nghiệp của trường Đại học Cần Thơ, tổng trị giá 7 triệu USD. Hỗ trợ các trường tiểu học, vùng bị bão lụt trị giá 13,5 triệu USD. - Ngoài ra còn có các dự án của Pháp, Thuỵ Điển hợp tác tại trợ. Nhân dân với đầu tư cho giáo dục: Nhu cầu về giáo dục ngày càng tăng cao cùng với mức tăng dân số, nhu cầu phát triển toàn diện của con người nên số nhà trẻ, mẫu giáo, trường lớp, giáo viên của tất cả các cấp tăng nhanh. Nếu chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước thì đó là một gánh nặng quá lớn với ngân sách nhà. Nhân dân tham gia đầu tư cho Giáo dục đang là xu hướng đầu tư ở Việt Nam. Chủ trương xã hội hoá sự nghiệp Giáo dục được ghi ở điều 11 Luật Giáo dục ban hành ngày 1/6/1999 như sau: "Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp Giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường Giáo dục lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu Giáo dục. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp Giáo dục, thực hiện đa dạng hoá các loại hình nhà trường và hình thức Giáo dục, khuyến khích huy động và tạo điều kiện để, cá nhân tham gia phát triển Giáo dục-Đào tạo".(1) Trích: Luật giáo dục Hiện nay trong cả nước, hệ thống giáo dục mầm non (nhà trẻ, mẫu giáo) hầu hết do dân tự đóng góp; các trường học bán công, dân lập thông qua học phí và các khoản đóng góp quỹ xây dựng trường sở. Sự đóng góp của các gia đình chiếm khoảng 8 - 10% tổng chi tiêu cho giáo dục. Ước tính gần đây nhất là cuộc điều tra xã hội học năm 1996, số tiền đóng góp của học sinh trực tiếp được dùng cho xây dựng trường lớp của khối phổ thông là 308,1 tỷ đồng. Trong đó tiểu học là 176,4 tỷ đồng (chiếm 64,3%). Số tiền xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước ở cấp phổ thông trung học các số nói trên là 39,4 tỷ đồng, chiếm 23,4%. Nói chung chi phí của các gia đình nhiều hơn trợ cấp Nhà nước ở tất cả các cấp giáo dục, điều này cho thấy vai trò của khu vực công cộng đã giảm đi trong việc cung cấp các dịch vụ giáo dục thực tế. Mặt khác cũng có nghĩa là ngành giáo dục đã thành công trong việc huy động một lượng đáng kể các nguồn lực của nhân dân tại trợ cho việc đi học, cho thấy vai trò quan trọng của nhiều chi phí khác ở các trường công. Ước tính năm 1997, tổng chi công cộng xã hội cho giáo dục - đào tạo khoảng 11,237 tỷ đồng (823 triệu USD), trong đó ngân sách nhà nước là 10 nghìn tỷ đồng, ODA là 837 tỷ đồng, của các xã đóng góp khoảng hơn 400 tỷ đồng. Chi phí tư nhân cho hoạt động Giáo dục bao gồm học phí, bảo hiểm học sinh, tiền đóng học trái tuyến, đóng góp cho hội phụ huynh, đóng góp xây dựng trường, mua sắm đồng phục, mua hoặc thuê sách giáo khoa, chi phí học thêm…. Bảng 7: Đầu tư của các hộ gia đình cho con em theo khu vực bình quân một người đi học Đơn vị: 1000 đồng Chỉ tiêu Chung Thành thị Nông thôn Chung những người đi học 25865 494,085 186,3 Giáo dục: - Nhà trẻ - Mẫu giáo - Phổ thông: + Cấp I + Cấp II + Cấp III - GD thường xuyên 228,5 124,67 220,28 133,64 280,65 546,96 579,56 421,81 300,55 394,9 246,66 429,01 683,97 778,22 93,88 67,03 172,93 111,75 231,67 443,62 366,83 Đào tạo: - Học nghề - Sơ cấp CNKT - THCN - CĐ,ĐH - Trên ĐH - Đào tạo khác 614,02 853,78 1018,23 1875,35 1575,37 812,99 651,17 748,23 919,81 1884,2 1485,42 897,76 580,98 977,68 1114,95 1857,4 1665,33 891,15 Nguồn: kết quả điều tra kinh tế xã hội hộ gia đình 1994-1999 Bảng trên cho thấy chi phí của các hộ gia đình cho một học sinh đi học giữa các khu vực, giữa các cấp học là khác nhau. Đặc biệt là mức chênh lệch giữa khu vực nông thôn và thành thị, điều này dẫn đến khó khăn trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo đồng đều giữa các vùng và khó khăn trong việc thực hiện. Thực tế là khu vực thành thị do có mức sống cao hơn nên khả năng đầu tư phát triển giáo dục cho con em mình cũng tăng cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn. Các gia đình có khả năng đầu tư nhiều hơn cho con em mình cơ hội cho trẻ em ở thành thị. ở các vùng nông thôn, vùng núi và trung du thu nhập của người dân thấp, ít có khả năng đầu tư cho con em đi học. Đây chính là nguyên nhân của tình trạng tái mù chữ. 1.2. Thực trạng về cơ cấu đầu tư cho giáo dục - đào tạo Cơ cấu đầu tư của ngân sách nhà nước nói chung và giáo dục - đào tạo nói riêng gồm 3 mục chính sau đây: - Chi đầu tư xây dựng cơ bản - Chi thường xuyên - Chi cho các chương trình dự án ưu tiên 1.2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản cho giáo dục Chi đầu tư xây dựng cơ bản trong giáo dục là khoản chi nhằm tăng cường cơ sở vật chất cho giáo dục đào tạo cụ thể nội dung này là xây dựng mới trường, lớp mua sắm trang thiết bị . Bảng 8: Cơ cấu đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục Đơn vị: % Năm 1991 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số 100 100 100 100 100 100 chi đầu tư XDCB 5,07 6,05 9,55 8,64 9,35 9,62 chi thường xuyên 94,93 93,95 90,45 91,36 90,65 90,38 Nguồn: Số liệu Vụ ngân sách Nhà nước - Bộ tài chính. Bảng trên cho thấy tế năm 1996 trở về trước đầu tư xây dựng cơ bản cho giáo dục chỉ chiếm trên dưới 6,5% so với tổng số chi ngân sách Nhà nước, việc tăng cường cơ sở vật chất chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi hệ thống cơ sở vật chất giáo dục của nước ta tương đối lạc hậu. Năm 2000 chi cho xây dựng cơ bản đã được chú trọng hơn, tỷ trọng chi đầu tư xây dựng cơ bản tăng rõ rệt so với các năm trước cải thiện được đáng kể bộ mặt trường lớp. Tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tăng của quy mô học sinh ngày càng tăng, nhu cầu trang thiết bị phục vụ dạy và học tăng trong khi các nguồn lực tài chính lại và đội ngũ giáo viên lại hạn hẹp. 1.2.2. Chi thường xuyên cho Giáo dục-Đào tạo. Chi thường xuyên là khoản chi mang tính chất thường xuyên nhằm duy trì sự hoạt động và phát triển của ngành. Khoản chi này thường tương đối ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo. Chi thường xuyên chia thành 4 nhóm: Nhóm 1: Chi cho con người Nhóm 2: Chi cho quản lý hành chính Nhóm 3: Chi cho giảng dạy học tập Nhóm 4: Chi mua sắm sửa chữa Bảng 9: Cơ cấu đầu tư và sử dụng chi thường xuyên cho Giáo dục-Đào tạo Đơn vị: % Năm Tổng Nhóm I Nhóm II Nhóm III Nhóm IV KH TH KH TH KH TH KH TH 199._.vốn từ chương trước có thể thấy được còn nhiều vấn đề cần đề cập trong huy động vốn cho cơ sở hạ tầng xã hội. Khả năng huy động vốn đầu tư trong giai đoạn tới của Việt nam nói chung có rất nhiều khả quan. Trước hết nói tới nguồn chủ yếu để đầu tư đó là ngân sách nhà nước. Khi nền kinh tế phát triển thêm một bước thì thu nhập mang lại từ đó cũng tăng thêm. Với dự kiến tổng sản phẩm trong nước trong 5 năm tới tăng 7,5% năm dự kiến tổng ngân sách nhà nước là 720 - 750 nghìn tỷ đồng, trong đó dự kiến chi đầu tư phát triển chiếm 25 –26%. Hơn nữa, chủ trương chi ngân sách cho các ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội sẽ được cụ thể hoá hơn nữa bằng các chính sách ưu tiên đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Cần phải có những biện pháp cụ thể phát huy tối đa hiệu qủa của đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội 4. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Xã hội càng phát triển nhu cầu thoả mãn về tinh thần, vật chất của con người đòi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu đó, vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội có liên quan trực tiếp tới con người tăng là một tất yếu. Dự báo vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng sẽ dành khoảng 65-70% tổng nguồn vốn tập trung đầu tư cho một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế và khoảng 30-35% cơ sở hạ tầng xã hội. Riêng với các ngành: giáo dục, y tế, văn hoá xã hội đầu tư khoảng 8% tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội.Trong phần này em chỉ xin đề cập tới xu hướng nhu cầu đầu tư của hai ngành: giáo dục- đào tạo và y tế thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội Ngành giáo dục- đào tạo Nhu cầu vốn đầu tư cho giáo dục- đào tạo đến năm 2010 khoảng từ 100000 tỷ đến 200000 tỷ đồng. Trong đó Ngân sách nhà nước chiếm 77%, ODA chiếm 3% còn lại là nguồn đóng học phí và đóng góp của nhân dân. Bảng 19: Nhu cầu đầu tư cho ngành giáo dục- đào tạo Đơn vị: tỷ đồng Năm 2001-2005 2006-2010 Nhu cầu đảm bảo chất lượng GD 80000 - 100000 170000 - 200000 Trong đó: - Chi thường xuyên - Chi xây dựng cơ bản 65587,91 - 81980 14416 - 18020 78652,3 - 96457,6 91347,7 - 103542.4 Nguồn: Mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2020, Bộ GD&ĐT Hậu quả do lũ lụt mang lại làm cho hệ thống trường lớp cần khôi phục lại rất lớn, hiện tại vấn đề vốn đầu tư cần được bổ sung thêm như sau: - Sửa chữa 2500 phòng học (30 tỷ đồng). - Xây mới 750 phòng học (45,6 tỷ đồng). - Khôi phục bàn ghế (6,6 tỷ đồng). - Sửa chữa phòng thí nghiệm (15 tỷ đồng). - Hỗ trợ sách giáo khoa, bút giấy (5 tỷ đồng). Nhu cầu vốn đầu tư phụ thuộc vào các nhu cầu sau: - Quy mô học sinh các cấp học: điều này lại phụ thuộc vào tốc độ tăng dân số và nhu cầu chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển. Dân số Việt nam dự báo khoảng 88,6 triệu người vào năm 2010. Dân số tăng nhanh dẫn tới nhu cầu phòng học các cấp tăng, nhu cầu đất xây dựng phòng học cũng tăng. Ngành y tế: Nhu cầu vốn đầu tư cho ngành y tế phụ thuộc vào: - Số trạm y tế cần xây dựng thêm. - Nhu cầu bác sỹ tăng thêm. - Dân số tăng, nhu cầu chăm sóc sức khoẻ tăng. - Bệnh hiểm nghèo xuất hiện ngày một nhiều. Xuất phát từ cơ sở đó nhu cầu vốn được dự kiến trong bảng sau: Bảng 20: nhu cầu đầu tư cho ngành y tế. Đơn vị: tỷ đồng. Năm 1998-2000 2001-2010 2011-2020 Số trạm cần xây dựng 919 858 471 Nhu cầu đầu tư (tỷ đồng) 85,467 79,794 43,803 Trong đó: - Xây dựng nhà trạm - Dụng cụ y tế 73,520 11,947 68,64 11,154 37,680 6,123 Nguồn : Mục tiêu phát triển y tế đến năm 2020, Bộ Y Tế Kết quả dự báo trên đây chỉ là bước đầu. Trong tương lai còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Thực tế dân số nước ta phân bố không đều giữa các vùng trên cả nước. Vì thế nếu chỉ dừng lại ở các điểm dân cư thuần tuý theo dân số mà không tính đến yếu tố không gian địa lý, rất khó có thể giải quyết tốt mục tiêu công bằng trong phân bổ nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Ngoài ra đất nước ta luôn có hạn hán bão lụt cho nên nhu cầu vốn đầu tư cho tương lai chỉ mang tính tương đối, nếu như đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật thì yêu cầu đặt ra là phải có nguồn vốn bổ sung. Tiến hành xây dựng và cải tạo lại song song với việc xây mới. II. Quan điểm và phương hướng bảo đảm vốn cho cơ sở hạ tầng xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đảng và nhà nước ta đã có những phương hướng, chính sách, quan điểm chủ yếu liên quan trực tiếp đến việc thúc đẩy sự hình thành và phát triển hệ thống mạng lưới các cơ sở giáo dục, y tế như chính sách đầu tư phân bổ và trợ cấp. Thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. 1.1. Quan điểm Quan điểm bảo đảm vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội được thể hiện thông qua các văn bản có hiệu lực trong thời gian qua. Đại hội đảng toàn quốc lần IX đã thông qua phương hướng như sau: - Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một đất nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết. Trong nền kinh tế thị trường đất nước tồn tại nhiều thành phần kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế tập trung sức phát triển kinh tế để xây dựng đồng bộ cho một nước công nghiệp theo hướng hiện đại với những nội dung chủ yếu: Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất- kỹ thuật đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH, bao gồm: cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội. Trên cơ sở hiệu quả tổng hợp về kinh tế – xã hội, trước mắt và lâu dài, triển khai xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và cấp thiết có điều kiện về vốn phát triển nguồn lực con người Việt Nam. Đây là chủ trương đúng đắn của nhà nước ta trong thời kỳ CNH-HĐH, có huy động sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế mới đem lại kết quả cho hoạt động đầu tư. - Phát triển cơ sở hạ tầng xã hội là công việc thường xuyên và chung của toàn xã hội. Do đặc điểm của cơ sở hạ tầng xã hội, song song với việc phát triển xã hội việc đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội là thường xuyên nâng cao nhu cầu toàn xã hội mà không chỉ của nhà nước phải có sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế, của mọi đối tượng. Đẩy mạnh việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở nông thôn như trường học, bệnh viện, trạm y tế, điện, nước sạch, chợ và đường giao thông. đầu tư nhiều hơn cho những xã đặc biệt khó khăn - Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu của bất kỳ nước nào, do điều kiện địa lý, kinh tế nên có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng, địa phương. Do vậy giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội luôn được xác định rõ ràng về mặt tư tưởng trước khi ra các quyết định của nhà nước ta. - Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Trong điều kiện nguồn lực cho sự phát triển còn có hạn thì việc nâng cao hiệu quả trong đầu tư là rất cần thiết. Tránh lãng phí trong điều kiện đất nước còn khó khăn, đây là một chủ trương suyên suốt của Đảng và nhà nước ta. 2.1. Phương hướng bảo đảm vốn Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt về dân số, sự nghiệp CNH-HĐH và nhu cầu vốn đầu tư cho những năm tới cho hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội của Việt nam, phát triển con người là mục tiêu hàng đầu hơn nữa phải tạo ra nguồn vốn đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ phát triển con người. Phương hướng giai đoạn tới là: - Nâng dần tỷ trọng chi cho cơ sở hạ tầng xã hội so với chi cho các lĩnh vực xã hội. Tăng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả việc sử dụng quỹ đất, nguồn nước,vốn rừng gắn với bảo vệ môi trường. - Đa dạng hoá các nguồn đầu tư bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước, vốn huy động từ nhân dân, vốn đầu tư tư nhân, vốn vay nước ngoài nhà nước dành tỷ lệ ngân sách thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng xã hội. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đẩy mạnh hoạt động quốc tế về giáo dục, y tế, văn hoá… + Hướng cho khai thác nguồn đầu tư - Nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước: Trong những năm tới, ngân sách nhà nước vẫn là nguồn đầu tư chủ yếu cho cơ sở hạ tầng xã hội nói chung và y tế nói riêng. Đứng trước tình trạng bệnh tật, yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực của xã hội thì chi cho đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội cần phải gia tăng đáng kể. Đại hội Đảng IX đề ra hướng khai thác nguồn từ ngân sách nhà nước như sau: Tăng đầu tư cho tất cả các ngành thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội: giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao,…ngân sách nhà nước tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng nông thôn, miền núi, cho đào tạo trình độ cao và những ngành khó thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước. -Vốn đầu tư trong nhân dân Xây dựng đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội không chỉ nhà nước mà quan điểm của nhà nước ta là nhà nước và nhân dân cùng làm, đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội về vốn đầu tư. Khuyến khích mạnh mẽ các cá nhân, tổ chức đầu tư phát triển các lĩnh vực thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng có hướng cụ thể để huy động nguồn này. Đối với 2 ngành giáo dục và y tế, nguồn này thông qua các khoản sau: - Viện phí: phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như sức khoẻ, dân số, thu nhập, không phải là nguồn ổn định lâu dài. Do tính chất bệnh viện tự cân đối chi từ nguồn này nên xu hướng chung là tăng. Nhưng còn phải căn cứ vào từng vùng cụ thể, đối tượng cụ thể từ đó có mức thu viện phí phù hợp. Bảo đảm huy động được tối đa nguồn vốn từ viện phí nhưng tính công bằng trong việc hưởng thụ phúc lợi xã hội từ các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội vẫn được duy trì. - Học phí: Hướng thu học phí từ học sinh trực tiếp của nhân dân trong thời gian tới: Nâng dần mức học phí cho học sinh sống ở khu vực 3 trở nên, tỷ lệ cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với từng cấp học đối với cấp học cao như đại học và sau đại học. - Bảo hiểm y tế: Bảo đảm mục tiêu công bằng và hiệu quả trong hưởng thụ y tế. Trong thời gian tới thực hiện chế độ bảo hiểm y tế bắt buộc đối với những người có thu nhập cao, tương đối ổn định trong xã hội, nhằm tăng cường nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực y tế. Trước mắt, hướng cho các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mua bảo hiểm cho người lao động. Khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia bảo hiểm tự nguyện. - Vốn nước ngoài. Hướng huy động trong thời gian tới là tiếp tục thu hút vốn viện trợ nước ngoài trong đó đặc biệt chú ý tới nguồn ODA, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Giám sát chặt chẽ công tác giải ngân ODA và tìm vốn đối ứng cho các dự án có vốn FDI. III. Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội Qua phân tích thực trạng ở chương II luận văn này kết hợp với những quan điểm mang tính chiến lược có thể đưa ra một vài giải pháp sau đây: 1. Tăng cường vốn ngân sách và điều chỉnh hợp lý cơ cấu đầu tư Tăng cường vốn ngân sách cho cơ sở hạ tầng xã hội, nhà nước cần phải nâng dần tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho các ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội đặc biệt chi giáo dục và y tế. Kinh nghiệm của các nước cho thấy khi nền kinh tế đã phát triển thì cần thiết phải nâng cao mức chi ngân sách cho cơ sở hạ tầng xã hội. Do vậy nhà nước cần phải nâng cao sao cho ngang tầm với các nước trung bình trong khu vực hiện nay bởi vì trong giai đoạn tới vốn ngân sách nhà nước vẫn là chủ yếu nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng xã hội. Giáo dục và y tế là hai lĩnh vực có liên quan trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội thì ngân sách nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng nếu không nói là quyết định. Vì vậy trong hiện tại cũng như trong thời gian tới đề nghị nhà nước tăng chi cho cơ sở hạ tầng xã hội khoảng 1,5 - 2% GDP, nhằm từng bước bắt kịp với tốc độ phát triển của các nước trong khu vực cũng như thế giới trong lĩnh vực này. Về điều chỉnh cơ cấu đầu tư Cơ cấu vốn đầu tư theo đúng tinh thần Đại hội Đảng IX đề ra: Tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng tỷ trọng chi đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội lên khoảng 8% so với tổng chi đầu tư của toàn xã hội. Trong điều kiện nguồn lực của đất nước còn khó khăn vẫn phải duy trì 30-35% tổng số vốn đầu tư của xã hội cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội và tiếp tục nâng tỷ trọng đầu tư cho các ngành quan trọng chủ yếu của cơ sở hạ tầng xã hội là giáo dục và y tế. Trong tổng số ngân sách dành cho cơ sở hạ tầng xã hội, phân bổ cơ cấu đầu tư cho phù hợp. Tăng chi cho xây dựng cơ bản trong các ngành giáo dục - đào tạo lên 15 % so với trước đây, năm 2000 cao nhất là 9,62%. Ngành y tế tăng khoảng 25% so với trước đó, năm 2000 là 19% trong tổng ngân sách chi cho lĩnh vực này. 2. Xã hội hoá trong đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội Sẽ là một gánh nặng quá lớn cho nhà nước nếu như xã hội ngày càng phát triển mà chi cho cơ sở hạ tầng xã hội lại chỉ tập trung vào từ ngân sách nhà nước. Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với thu hút vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Cả xã hội phải quan tâm đến lĩnh vực này, tiến tới các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế... phải tham gia bằng các hành động cụ thể, có trách nhiệm hơn trong vấn đề này. Trong 10 năm tới với dự báo tăng trưởng kinh tế đạt 5-7% đồng thời phải tập trung ngân sách Nhà nước cho đầu tư nhằm tăng tốc độ phát triển. Nguồn ngân sách Nhà nước dành cho lĩnh vực Giáo dục-Đào tạo, y tế, văn hoá phải được tăng cường cùng với nhu cầu vốn của các lĩnh vực nói trên. Nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước là nguồn vốn đầu tư của xã hội cho các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội sẽ buộc và cần phải được huy động bằng mọi cách để tăng nhanh đạt tỷ trọng 30-50% so với nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong 3-5 năm đầu và càng tăng nhanh trong các năm tiếp theo có thể gấp hai đến năm lần nguồn ngân sách Nhà nước. Cụ thể xin nêu ra vấn đề xã hội hoá trong đầu tư của hai ngành giáo dục- đào tạo và y tế: 2.1. Ngành giáo dục- đào tạo 2.1.1. Học phí trong giáo dục Với giáo dục: Ngân sách Nhà nước tập trung chi cho Giáo dục tiểu học và cơ sở. Đối với giáo dục mầm non, ngân sách Nhà nước chỉ hỗ trợ cho những vùng nào có khó khăn còn đối với những vùng khác thì chủ yếu cha mẹ và địa phương đóng góp khuyến khích phát triển nhanh mạng lưới cơ sở ngoài công lập để trong một vài năm tới chuyển toàn bộ giáo dục mầm non sang cho khu vực ngoài công lập. Đối với các cấp giáo dục phổ thông, ngân sách Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần để đầu tư nâng cấp sửa chữa trường học và trang thiết bị dạy học. Thực hiện thu học phí và đóng góp xây dựng trường lớp để tạo nguồn chủ yếu cho đầu tư, tăng dần tỷ lệ học sinh chuyển sang học các trường bán công và dân lập, phấn đấu đạt tỷ lệ 30-50% vào năm 2005 và cao hơn vào các năm tiếp theo. Một mặt để giảm sức ép về kinh phí dành cho giáo dục- đào tạo từ ngân sách nhà nước, mặt khác thể hiện trách nhiệm của bản thân gia đình đối với sự nghiệp giáo dục- đào tạo của đất nước. Tuy nhiên để xác định mức thu học phí phù hợp phải mang tính điều tiết của những người, vùng khó khăn. Theo thống kê chưa đầy đủ thì hiện nay thu học phí cùng các cấp học là như nhau trừ một số trường. Phân chia học phí theo khu vực, chưa khuyến khích được các gia đình nghèo cho con đi học. Với đào tạo Các trường có thể tự tạo thêm vốn để tăng cường thêm kinh phí bằng cách tổ chức các lớp học nghề tạo ra sản phẩm kết hợp giữa học và hành. Sinh viên tiếp thu kiến thức lại tạo thêm kinh phí cho nhà trường nhất là đối với các trường dạy nghề. Mặt khác tạo mối liên kết giữa nhà trường và các doanh nghiệp rất thiết thực thông qua các đơn đặt hàng 2.1.2. Các loại quỹ Hiện nay trong giáo dục- đào tạo có nhiều loại quỹ nhưng tản mạn phạm vi hẹp do vậy cần thiết có một loại qũy Quốc gia để hỗ trợ phát triển giáo dục- đào tạo trên phạm vi cả nước. Quỹ này được hình thành từ các nguồn rộng rãi trong xã hội. Nội dung của quỹ này bao gồm: hỗ trợ có mục tiêu việc xây dựng trường lớp, trường bán công, hỗ trợ đào tạo tài năng trẻ cho học sinh nghèo học giỏi vay vốn ăn học 2.2. Ngành y tế Về đầu tư cho y tế bao gồm đầu tư của Nhà nước, đóng góp của cộng đồng tranh thủ viện trợ quốc tế…trong đó đầu tư của Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phấn đấu tăng chi thường xuyên cho y tế trong tổng chi ngân sách Nhà nước. Ưu tiên đầu tư cho vùng nghèo vùng nông thôn, vùng sâu về các hoạt động y tế dự phòng các hoạt động chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại y tế cơ sở. Khám chữa bệnh cho người nghèo và đối tượng chính sách. Thực hiện thí điểm cơ chế chính sách tài chính mới tại một số bệnh viện ở thành phố lớn, tiến tới tự cân dối thu chi thường xuyên dựa trên bảo hiểm y tế và viện phí. Đầu tư và kỹ thuật và trình độ chuyên môn và phù hợp với khả năng đóng góp của nhân dân ở từng vùng và khả năng chi trả của từng loại đối tượng. Tỷ lệ đầu tư cho lĩnh vực y tế hiện nay dưới 4% tổng chi ngân sách Nhà nước, thấp xa so với nhu cầu. Song song với việc nâng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2001-2005 nhằm đẩy mạnh tốc độ hiện đại hoá của ngành y tế, cần phải đẩy nhanh sự hình thành và phát triển hệ thống cơ sở y tế ngoài công lập có tiềm năng phát triển mạnh, kể cả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài khắc phục tình trạng quá tải của các bệnh viện hiện nay. Tăng cường huy động và điều phối các nguồn viện trợ, đặc biệt là các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản vay ưu đãi hỗ trợ kỹ thuật đầu tư phát triển. 2.2.1. Viện phí Đây là khoản phí khi thu phải cân nhắc sao cho công bằng với từng đối tượng song có thể giảm bớt chi ngân sách nhà nước từ nguồn này bằng cách tăng đáng kể nguồn thu từ viện phí. Tỷ trọng thu một phần viện phí so với tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm tăng lên. Tuy vậy việc thu không đủ chi khám chữa bệnh 2.2.2. Bảo hiểm y tế Để đảm bảo được mục tiêu công bằng và hiệu quả trong hưởng thụ y tế như đã nêu ở phần trước một trong nhiều số dân tham gia bảo hiểm y tế cũng như đầu tư cho hệ thống y tế. Có như thế mọi người dân mới được hưởng lợi như nhau trong chăm sóc y tế và đồng thời việc dân số tham gia bảo hiểm y tế làm tăng nguồn thu bảo hiểm y tế đóng góp đáng kể cho ngân sách y tế nói chung. Nguồn thu từ bảo hiểm y tế bắt buộc hiện tại mới chỉ bảo vệ được 10% dân số. Định hướng sắp tới là phát triển hệ thống bảo hiểm y tế tự nguyện, tăng dần nguồn thu để có thể bảo vệ được 25-30% dân số. Mở rộng bảo hiểm y tế tự nguyện củng cố quỹ bảo hiểm y tế bắt buộc tiến tới bảo hiểm y tế bắt buộc toàn dân. Đối với người nghèo thuộc diện chính sách mà đời sống thực sự còn nhiều khó khăn nhà nước nên có chính sách thích hợp theo hướng xét cấp sổ khám chữa bệnh hoặc không mất tiền, hoặc mua bảo hiểm cho họ. 3. Mở rộng hình thức đầu tư đối với tư nhân trong nước cho cơ sở hạ tầng xã hội. Nhà nước có thể huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hôị bằng cách mở rộng các hình thức đầu tư, khuyến khích đầu tư tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội. Cho phép tư nhân xây dựng các trường học tư, trường dân lập, bán công đưa vào hoạt động. Có thể áp dụng cả ba phương thức BOT, BTO, BT để khuyến khích đầu tư tư nhân trong nước. Về phía tư nhân, tự bỏ vốn xây dựng các công trình thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội: mở trường dân lập, tư thục, bệnh viện tư, cơ sở y tế… nhà nước căn cứ vào từng loại công trình mà áp dụng các hình thức kinh doanh hay chuyển giao ngay. Hiện tại tư nhân trong nước có nhiều khả năng tham gia đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng. Để khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này nhà nước phải đặt ra một tỷ lệ lãi suất hấp dẫn đối với cả ba hình thức đầu tư. Với hình thức BOT sau khi xây dựng xong công trình tư nhân được phép kinh doanh, thì thời gian thu hồi vốn phải đảm bảo cho nhà đầu tư có mức lợi nhuận thoả đáng. Với hình thức BTO khi xây dựng xong công trình đó nhà nước cho phép tư nhân xây dựng và kinh doanh một công trình khác trong một thời gian đủ để thu hồi vốn và có lãi. Cả hai hình thức này áp dụng trong đầu tư cho các bệnh viện, cơ sở y tế là phù hợp. Còn đối với hình thức BT nên áp dụng trong lĩnh vực giáo dục, xây dựng các trường học tư thục và bán công, các trường dân lập. Khi xây dựng xong nhà nước sẽ cùng tư nhân quản lý điều hành để công trình mang lại hiệu quả cao nhất. Nhưng với điều kiện tư nhân phải là người có kiến thức, trình độ nhất định nhất là trong lĩnh vực giáo dục. 4. Giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Giải pháp huy động nhanh nhất vốn đầu tư nước ngoài là nhà nước cho phép các ngành, các đơn vị thuộc cơ sở hạ tầng xã hội chủ động mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế với nước ngoài tạo nguồn vay ODA và các nguồn viện trợ không hoàn lại. Mỗi đơn vị có thể kết nghĩa với đơn vị ở nước ngoài để từ đó mở rộng tri thức và khai thác các nguồn hợp tác, liên kết nước ngoài. Với giáo dục- đào tạo - Hợp tác với các chuyên gia và các cơ sở đào tạo của nước ngoài trong việc xây dựng các chương trình, giáo trình, nội dung và phương pháp giảng dạy - Có chính sách động viên Việt kiều ở nước ngoài dưới các lĩnh vực lưu chuyển vốn về đầu tư liên doanh, nhận đỡ đầu học sinh, sinh viên lập ra quỹ từ thiện. - Khuyến khích các trường đại học trong nước nhận học sinh nước ngoài hoặc khuyến khích chính sinh viên ta đi học tự túc hay nhà nước cấp học bổng cho những người học giỏi. -Khai thác các khả năng của các công ty nước ngoài vào công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia cán bộ kỹ thuật của chúng ta, hình thức đào tạo thông qua các hợp đồng giữa các bên. Với y tế -Tranh thủ hơn nữa nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế bổ sung vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị theo hướng hiện đại hoá, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có để phục vụ tốt hơn công tác khám sức khoẻ cho nhân dân và các chương trình mục tiêu quốc gia. - Tranh thủ tài trợ để đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có đủ phẩm chất, chuyên môn và y đức theo kịp nền y học tiên tiến của các nước. - Có chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài, tranh thủ vốn công nghệ góp phần cải thiện tốt việc khám chữa bệnh. - Xây dựng cơ sở dữ liệu đủ tin cậy và có khả năng đáp ứng yêu cầu cần thiết cho việc xây dựng kế hoạch điều phối nguồn viện trợ nước ngoài, số liệu phải được cập nhật kịp thời nhằm đáp ứng những thông tin cần thiết trong việc khai thác và sử dụng viện trợ. 5. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho các dự án của cơ sở hạ tầng xã hội Trong điều kiện đất nước ta nguồn lực hạn chế cần thiết phải có kế hoạch sử dụng vốn đó theo đúng mục đích, hợp lý có hiệu quả tiết kiệm. - Xác định các thứ tự ưu tiên trong việc sử dụng vốn đầu tư cho các ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội, cụ thể hơn nữa trong từng ngành trong điều kiện nguồn vốn cho đầu tư không thể tăng trưởng nhanh trong một thời gian nhất định. Ưu tiên cho những lĩnh vực trọng tâm trọng điểm tránh đầu tư dàn trải. - Thực hiện tiết kiệm chống lãng phí nhất là không chi phần lớn ngân sách cho bộ máy hành chính, hay trong mua sắm thiết bị không cần thiết - Hoàn thiện các phương thức quản lý các nguồn vốn gồm: nguồn ngân sách nhà nước, nguồn ODA, nguồn từ học phí trong giáo dục và viện phí trong y tế. Yêu cầu các cơ quan có chức trách phải tuân thủ theo cơ chế quản lý tài chính hiện hành thông qua các khâu lập kế hoạch phân bổ tổ chức điều phối kiểm tra việc thực hiện sử dụng các nguồn vốn đó. - Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra tài chính trong ngành y tế, ngành giáo dục cũng như các ngành khác thuộc cơ sở hạ tầng xã hội trong việc quản lý vốn đầu tư cho các dự án cũng như thu thường xuyên. Kiểm tra thường xuyên công tác tài chính trong các khâu: dự toán, chấp hành dự toán hàng năm trong giáo dục y tế. - Nâng cao năng lực sử dụng vốn vay ODA cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội. Xây dựng và quản lý ODA giáo dục, y tế nhằm thực hiện giải ngân đúng tiến độ. Trong quá trình điều hành cần lồng ghép các dự án trong nước để sử dụng hiệu quả vốn vay và quan trọng hơn là nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ Việt nam trong thực hiện và quản lý dự án tài trợ. 6. Một vài kiến nghị khác 6.1. Tăng cường công tác quản lý của nhà nước “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là quan điểm xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước điều này đã được khẳng định trong các văn kiện đại hội Đảng. Lĩnh vực cơ sở hạ tầng hạ xã hội là do nhà nước trực tiếp quản lý do tính chất của nó quy định. Vậy để tăng cường hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước dành cho lĩnh vực này ngoài việc phân phối công bằng hợp lý còn cần phải làm tốt công tác kiểm tra sử dụng ngân sách đó. Các đơn vị trực tiếp chi tiêu, các Bộ, ngành chịu trách nhiệm thực hiện các chế độ chi và quản lý ngân sách. Cần thiết phải có kế hoạch kiểm tra, duyệt quyết toán thu chi đặc biệt là trong các dự án đầu tư Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trong các ngành thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, điều chỉnh hệ thống luật giáo dục, luật y tế,…Song song với tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách của nhà nước về khuyến khích, ưu đãi đối với đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Bộ giáo dục- đào tạo, Bộ y tế... cùng các cơ sở phối hợp với cơ quan tài chính kiểm tra việc thực hiện phân bổ kế hoạch ngân sách, chi ngân sách 6.2. Về nguồn lực Thực tế cho thấy trình độ của đội ngũ này còn rất hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Cần phải có kế hoạch cụ thể trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý dự án trong lĩnh vực này. Yêu cầu các ban quản lý dự án hàng tháng, hàng quý phải tổ chức mở các lớp tập huấn, nghiệp vụ kịp thời rút kinh nghiệm và chấn chỉnh các trường hợp cá nhân trong ban quản lý dự án có trình độ nghiệp vụ thấp, hoặc ý thức chấp hành kỷ luật kém - Tổ chức các cán bộ của nhóm có năng lực đi tham quan công tác học tập kinh nghiệm ở trong và ngoài nước hoặc ở các dự án có tính chất tương tự - Có kế hoạch đào tạo đội ngũ chuyên ngành về y tế, giáo dục về trình độ quản lý dự án tổ chức thực hiện đầu tư, thẩm định dự án, quyết toán dự án đầu tư 6.3. Về hình thức thu hút vốn đầu tư tư nhân Cho phép tư nhân tham gia vào đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội như trong hệ thống giáo dục, y tế, cho phép xây dựng các bệnh viện tư nhân, xây dựng các trường dân lập, tư thục... thông qua các biện pháp sau: Cho phép huy động mọi nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế và mọi cá nhân để xây dựng các cơ sở y tế, được tư nhân cũng như các trường học tư cho phép vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi để đầu tư cho lĩnh vực này Cho phép công nhân viên chức nhà nước góp vốn thành lập các cơ sở y tế Cho phép cá nhân, tổ chức nước ngoài được kinh doanh hành nghề thuộc các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội: mở phòng khám, đầu tư xây dựng bệnh viện, xây dựng trường học nhưng trong khuôn khổ pháp luật quy định của nhà nước 6.4. Cơ chế chính sách Cần phải có chính sách hay khung pháp lý tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội . Đặc biệt là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Các địa phương phải có trách nhiệm cung cấp đất mặt bằng, giải phóng mặt bằng... và việc đền bù giải phóng mặt bằng phải do địa phương đảm nhiệm. Kết luận Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư cho các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng xã hội nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ, tư duy, kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ dân trí…phục vụ cho hoạt động sản xuất xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nhu cầu về chất lượng nguồn nhân lực - lực lượng lao động - ngày càng tăng. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội giúp Việt Nam thực hiện các mục tiêu chiến lược mà Đại hội Đảng IX đề ra, phấn đấu tới năm 2020 cơ bản đưa đất nước trở thành nước công nghiệp. Cần phải khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Việc huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội phải được cân nhắc, xem xét cho phù hợp với điều kiện các nguồn lực tài chính của đất nước còn hạn hẹp. Vấn đề đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội là một vấn đề lớn không thể giải quyết ngay được, mà cần phải có thời gian. Trong giai đoạn hiện nay ngân sách Nhà nước vẫn là nguồn đầu tư chủ yếu cho cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt Nam. Nhưng cũng rất cần thiết có sự tham gia của các ngành, các cấp và toàn thể xã hội. Chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng xã hội, trong đó có xã hội hoá các nguồn lực đầu tư là phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội hiện tại cũng như trong chiến lược lâu dài. Đây là một đề tài lớn, đề cập tới một vấn đề tương đối phức tạp nhưng được nghiên cứu trong thời gian khá ngắn, do đó luận văn chỉ đề cập tới những gì cơ bản nhất của vấn đề huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Hy vọng luận văn sẽ góp phần làm rõ những vướng mắc của lĩnh vực quan trọng này. tài liệu tham khảo *********************** Tạp chí: Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 10/1996. Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 36/2000. Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 5/1999, số 9/1999 Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 4/2000, số9/2000, số10+11/2000. Tạp chí Con số và Sự kiện số 5/1999, số6/2000 Thông tin kinh tế xã hội số 5/1997, số 36(29/9/2000). Tài liệu nghiên cứu: “Nghiên cứu các giải pháp tài chính huy động vốn đầu tư trong nước”. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ-Viện chiến lược phát triển - Bộ KH&ĐT. “Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta đến năm 2010-2020”. Đề tài nghiên cứu cấp nhà nước -Viện chiến lược phát triển - Bộ KH&ĐT. Kỷ yếu toạ đàm khoa học "Cơ sở khoa học hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội trong quá trình CNH-HĐH”. Ban nguồn nhân lực & Xã Hội - Viện chiến lược phát triển - Bộ KH&ĐT. Việt Nam nghiên cứu tài chính cho Giáo dục - Ngân hàng thế giới-Phòng Dự án nguồn nhân lực - Vụ quốc gia I. Sách tham khảo: Dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam. Kinh tế phát triển- Khoa Kinh tế phát triển -Trường ĐHKTQD. Kinh tế đầu tư - Khoa Kinh tế đầu tư -Trường ĐHKTQD. 35 năm Viện chiến lược phát triển - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 5. Việt Nam- Quản lý tốt hơn nguồn lực nhà nước đánh giá chi tiêu công 2000. Báo cáo của nhóm công tac chung giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà tại trợ về Đánh giá chi tiêu công. 6. Niên giám thống kê năm 1997, 1998, 1999,2000 -Nhà xuất bản thống kê Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29806.doc
Tài liệu liên quan