Quản lý Nhà nước đối với Thị Trường Chưng Khoán Việt Nam

Tài liệu Quản lý Nhà nước đối với Thị Trường Chưng Khoán Việt Nam: LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Quá trình toàn cầu hoá, trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế đã ảnh hưởng mạnh mẽ với sự quốc tế hoá của TTCK. Ngày nay, TTCK không chỉ tồn tại ở các nước công nghiệp phát triển lâu đời mà nó còn có vị thế to lớn ở nhiều nước đang phát triển và mới phát triển, trở thành biện pháp quan trọng để lưu thông vốn. Ở Việt Nam, từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu phải hình thành và phá... Ebook Quản lý Nhà nước đối với Thị Trường Chưng Khoán Việt Nam

doc116 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Quản lý Nhà nước đối với Thị Trường Chưng Khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển từng bước TTCK và quan điểm này đã được thể hiện trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra yêu cầu chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng TTCK phù hợp với điều kiện và định hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Chính phủ đã tiến hành hàng loạt các bước chuẩn bị để thành lập và đưa vào vận hành TTCK. Với việc chủ động xây dựng khung pháp lý, xâydựng mô hình TTCK, tạo dựng bộ máy QLNN chuyên ngành, thành lập các cơ quan tổ chức thị trường và chuẩn bị các điều kiện cần thiết khác mà bước đi đầu tiên là thành lập TTGDCK Tp.HCM, tháng 7/2000, TTCK nước ta chính thức ra đời và đi vào hoạt động, mở ra kênh huy động vốn trung và dài hạn mới cho nền kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Sự góp mặt của TTCK ở Việt Nam còn là một sự bổ xung hoàn chỉnh cho một cấu trúc thị trường tài chính theo hướng phát triển nền tài chính phù hợp với chính sách xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và thêm một lần nữa khẳng định đường lối nhất quán của Đảng phù hợp với xu hướng quốc tế hoá và đưa nền kinh tế hội nhập khu vực và quốc tế. TTCK Việt Nam không hình thành một cách tự phát mà xuất phát từ chủ trương của Đảng và Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò là người xây dựng và tạo lập thị trường. Bởi vậy Nhà nước cũng là chủ thể quản lý mọi hoạt động của TTCK theo yêu cầu của các quy luật kinh tế, đảm bảo tính công khai, minh bạch của thị trường. Đó là yêu cầu mang tính khách quan, xuất phát từ chức năng nhiệm vụ QLNN. Qua gần 7 năm hoạt động, trước sự chuyển biến tích cực của TTCK Việt Nam trong thời gian qua, hoạt động QLNN đối với TTCK đã có những bước tiến đáng kể, trong đó phải kể đến động thái hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo hàng hoá cho thị trường, xây dựng và vận hành các SGDCK, TTGDCK, thành lập TTLKCK,… Với mục đích đi sâu tìm hiểu những vấn đề về QLNN đối với TTCK Việt Nam , em đã chọn đề tài luận văn là:“ Quản lý Nhà nước đối với TTCK Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu: 2.1. Mục đích nghiên cứu: - Hệ thống hoá và làm rõ một số một số nội dung cơ bản về TTCK, và QLNN đối với TTCK. - Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động QLNN đối với TTCK Việt Nam trong thời gian qua, từ đó chỉ ra các kết quả đạt được và hạn chế. - Nghiên cứu mô hình cơ quan quản lý và kinh nghiệm quản lý đối với TTCK ở một số nước để áp dụng bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; đồng thời đề xuất giải pháp để nâng cao vai trò QLNN đối với TTCK Việt Nam. 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: vai trò của Nhà nước trong quản lý các hoạt động của TTCK Việt Nam. Vai trò này được biều hiện qua các hoạt động cụ thể của Nhà nước trong quản lý các hoạt động của TTCK. - Phạm vi nghiên cứu: Về cơ sở lý thuyết, tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản của TTCK và QLNN đối với TTCK. Về phân tích đánh giá thực tiễn thì luận văn đã tập trung nghiên cứu thực trạng và hoạt động QLNN đối với TTCK Việt Nam trong thời gian qua. Các nội dung chủ yếu là hoạt động xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản lý, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý, quản lý, giám sát các hoạt động trên TTCK. Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu và tổng kết các bài học kinh nghiệm của một số nước trong quản lý TTCK; đề xuất một số giải pháp để nâng cao vai trò QLNN đối với TTCK Việt Nam. 2.3. Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên các phương pháp luận nghiên cứu khoa học, các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước để nghiên cứu, đánh giá các hoạt động trên TTCK; nghiên cứu các chính sách pháp luật và công cụ quản lý đang vận dụng cũng như xu hướng vận dụng của TTCK; phương pháp hệ thống hoá, diễn giải, quy nạp, so sánh. 2.4. Y nghĩa của việc nghiên cứu: Thông qua việc nghiên cứu, luận văn muốn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về TTCK và QLNN đối với TTCK. Từ thực trạng QLNN đối với TTCK Việt Nam, luận văn sẽ tổng hợp và đưa ra những đánh giá về những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế cần khắc phục. Các giải pháp đưa ra đều xuất phát từ thực tiễn công tác QLNN đối với TTCK Việt Nam trong thời gian qua cùng với việc tham khảo bài học kinh nghiệm từ một số nước trên thế giới, cùng với việc gắn với chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 nhằm góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác QLNN đối với TTCK Việt Nam. 2.5. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mục lục, danh mục chữ viết tắt, tài liệu tham khảo, phụ lục, danh mục các bảng biều, sơ đồ thì nội dung của luận văn được chia thành 3 chương. Cụ thể là: Chương I : Cơ sở lý luận chung về TTCK và QLNN đối với TTCK. Chương II : Thực trạng QLNN đối với TTCK Việt Nam . ChươngIII : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN đối với TTCK Việt Nam CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TTCK VÀ QLNN ĐỐI VỚI TTCK I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TTCK: 1.Tính tất yếu khách quan của sự hình thành và phát triển của TTCK trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh có thể chia thành hai nhóm đối tượng đối lập nhau: nhóm người có vốn cần tìm nơi đầu tư để kiếm lợi nhuận, nhóm kia là những người cần vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Làm sao để người có vốn gặp được người cần vốn thì đó là quá trình giao lưu vốn. Quá trình giao lưu vốn này không phải lúc nào, nơi nào cũng được khuyến khích phát triển làm nền tảng cho sự kích thích tăng trưởng của một quốc gia. Chức năng điều hoà quá trình giao lưu vốn trong xã hội thuộc về các định chế tài chính trung gian với các kênh huy động vốn ngày càng đa dạng. Nói chung, trong nền kinh tế thị trường có hai kênh huy động vốn: kênh dẫn vốn gián tiếp và kênh dẫn vốn trực tiếp. - Kênh dẫn vốn gián tiếp: được hình thành thông qua các định chế tài chính trung gian. Kênh dẫn vốn này hình thành ngay từ thời kì đầu của quá trình sản xuất hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Nó ra đời nhằm huy động và tập trung những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tái phân phối cho nền kinh tế quốc dân theo phương thức tín dụng. Đặc trưng của kênh dẫn vốn gián tiếp là nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi hình thành trong xã hội, nguồn vốn này chủ yếu là ngắn hạn. Bởi vậy, sự xuất hiện của Ngân hàng là bước tiến quan trọng trong quá trình giao lưu vốn. Ngân hàng làm vai trò trung gian giữa người có vốn và người cần vốn bằng cách huy động tiền gửi rồi cho vay. Ngân hàng cùng các tổ chức tín dụng khác đã làm cho quá trình giao lưu vốn được phát triển nhanh chóng. - Kênh dẫn vốn trực tiếp không thông qua hệ thống trung gian tài chính. Bên có vốn khi có đủ điều kiện về môi trường pháp lý, môi trường tài chính …sẽ trực tiếp đầu tư vốn của mình vào sản xuất kinh doanh thông qua thị trường chứng khoán (TTCK ). Đặc trưng của kênh dẫn vốn trực tiếp là nguồn vốn trung và dài hạn cho những doanh nghiệp (DN) và nguồn tiền huy động dài hạn cho ngân sách Nhà nước. Sơ đồ 1: Mô hình dòng vốn đầu tư vào ngân sách các DN [36 ] A gọi chung là nhà đầu tư B gọi chung là nhà doanh nghiệp A B Khảo sát kênh dẫn vốn theo sơ đồ trên cho thấy: Theo kênh dẫn vốn gián tiếp ( qua hệ thống trung gian tài chính ) - Bên A nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng để ngân hàng tái chuyển nhượng vốn cho các doanh nghiệp đi vay vốn, còn quyền sở hữu vốn vẫn thuộc về bên A. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng vốn này có điều kiện, nghĩa là chỉ chuyển nhượng vốn trong thời hạn nhất định, hết hạn ngân hàng phải hoàn trả lại vốn cho bên A kèm theo tiền lãi. Trong vị thế này, ngân hàng chỉ là người trung gian. - Chi phí vay cao vì các doanh nghiệp không thể vay trực tiếp từ bên A mà phải qua các trung gian tài chính. - Vì là vốn vay nên thời hạn thường có hạn ( ngắn hạn hoặc trung hạn). Các doanh nghiệp chỉ có thể bổ xung vốn đi vay qua kênh này, còn huy động vốn và bổ xung vốn điều lệ của doanh nghiệp ( thường là dài hạn) phải thông qua kênh dẫn vốn trực tiếp. Như vậy, hệ thống ngân hàng khó có thể đảm bảo sự ổn định đầu tư trong điều kiện huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ xã hội để đầu tư dài hạn trong các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có nhu cầu thu hút vốn lớn, dài hạn phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh. - Mặc khác, qua kênh dẫn vốn gián tiếp, các chủ thể của bên A không thể tham gia quản lý các doanh nghiệp mà mình đầu tư, do đó làm cho quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách rời nhau làm giảm động lực tiềm năng trong quản lý mà động lực này chứa đựng trong quyền sở hữu vốn của người đầu tư. Sự tách rời này càng có khoảng cách lớn thì càng gây nên tính ỳ trong hoạt động quản lý, trong điều kiện xã hội hoá sản xuất còn chưa cao nó còn gây nên tình trạng ăn bám của người nắm quyền sở hữu về vốn. Theo kênh dẫn vốn trực tiếp ( thông qua TTCK), bên A đã thực sự được góp quyền sử dụng và quyền sở hữu về vốn và các doanh nghiệp để cùng nhau quản lý, khai thác chia lợi nhuận từ nguồn vốn đầu tư mà không phải thông qua các trung gian tài chính. Đặc biệt các doanh nghiệp cổ phần rất coi trọng hình thức huy động thông qua kênh dẫn vốn trực tiếp này. Điều này đã được Mác đánh giá rất cao: “ Nhờ vào công ty cổ phần mà chủ nghĩa tư bản đã làm được hệ thống đường xe lửa xuyên châu Âu dễ như trở bàn tay”. Như vậy hệ thống kênh dẫn vốn trực tiếp đã đem lại những ưu điểm hơn hẳn trong việc huy động vốn mà kênh dẫn vốn gián tiếp không thể có được. TTCK sẽ là công cụ rất quan trọng cho việc đa dạng hoá các hình thức tạo vốn và tạo ra môi trường lưu thông các nguồn vốn một cách dễ dàng, là phương tiện rất hữu hiệu nhằm tạo điều kiện cho việc điều hoà, luân chuyển vốn trong nền kinh tế quốc dân. TTCK có một ý nghĩa quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và cũng là tính tất yếu khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường. Nếu trong thời kỳ đầu TTCK chỉ xuất hiện ở các nước có nền kinh tế tự do phát triển như Hà Lan, Đức, Mỹ…thì hiện nay mô hình này đã lan rộng và trở thành hiện tượng phổ biến của các quốc gia có nền kinh tế thị trường. Mặc dù vậy, để phù hợp với trình độ phát triển nền kinh tế, thực lực nền kinh tế, mà mức độ phức tạp, đa dạng cũng như mức độ sôi động của TTCK tại các quốc gia là khác nhau. Sự khác nhau đấy không chỉ dừng lại giữa các quốc gia. Ngay ở những khu vực phát triển kinh tế khác nhau trong một quốc gia, mức độ lưu hoạt vốn của các bộ phận thị trường ( mang tính địa phương) cũng khác nhau rõ rệt. Điều đó có thể thấy rất rõ qua hoạt động của các loại TTCK Mỹ, Cộng hoà liên bang Đức… Cùng với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động của TTCK các quốc gia này càng trở nên gần nhau hơn, thông qua các liên kết giao dịch, nhu cầu kinh doanh đầu tư của tất cả các đối tượng. 2.Khái niệm về TTCK: Có nhiều cách tiếp cận với khái niệm về TTCK. Nếu tiếp cận từ góc độ thuần tuý thị trường thì: “ Thị trường chứng khoán ( Securities market) là một thị trường mà ở đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời.” Theo Longman- Dictionary of Business English, 1985 thì: “ Thị trường chứng khoán là nơi những người có vốn hoặc là góp quyền sử dụng và sở hữu về vốn cho những người cần vốn để cùng nhau quản lý, khai thác, và chia lợi nhuận từ nguồn vốn đầu tư hoặc là chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho những người cần vốn trong một thời gian nhất định theo nguyên tắc hoàn trả và có đền bù dưới hình thức lợi tức.” Theo quy định của pháp luật hiện hành tại Việt Nam về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì không có khái niệm thị trường chứng khoán mà chỉ có khái niệm Trung tâm giao dịch chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán. 3.Đặc điểm của TTCK: 3.1. Hàng hoá trao đổi trên TTCK là những hàng hoá đặc biệt: Giá trị sử dụng của chứng khoán với tư cách hàng hóa không phải là tính năng vốn có chứa đựng ngay trong bản thân hình thái vật chất của chứng khoán , mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động và khả năng trả nợ của tổ chức phát hành. Chính vì vậy, TTCK đòi hỏi khá nghiêm ngặt về chế độ cung cấp thông tin so với tất cả các thị trường khác. Mức độ đầy đủ, rõ ràng, chính xác và kịp thời của thông tin là yếu tố hàng đầu làm cho TTCK vận hành một cách có hiệu quả. Giá cả của chứng khoán được xác định bằng cách vốn hoá thu nhập mà nó có thể đem lại. Phương thức vốn hoá phụ thuộc vào lãi suất thị trường, vào lãi suất trái phiếu, vào cổ tức và mức độ rủi ro…Đến lượt mình, lãi suất lại phụ thuộc vào cung cầu vốn, cổ tức lại phụ thuộc vào hoạt động của tổ chức phát hành cũng như rủi ro của yếu tố tâm lý của người tham gia TTCK gây ra… 3.2.Phương thức giao dịch trên TTCK khá đặc thù: Ngoài một số giao dịch thoả thuận giữa các định chế tài chính lớn, đa phần các giao dịch của các nhà đầu tư cá nhân đều phải thực hiện thông qua các công ty môi giới. Để có thể vận hành được TTCK, yêu cầu cần có trình độ tổ chức cao, trong đó các công tác trung thực, công khai, công bằng được đặt lên hàng đầu. Bởi vì các giao dịch chứng khoán thường xuyên liên quan đến những giá trị tài sản lớn, do đó, nếu xảy ra gian lận sẽ gây ra thiệt hại cho những người liên quan. Chính vì thế, khi tham gia giao dịch, các chủ thể phải đáp ứng yêu cầu trung thực, phải tuân thủ các nguyên tắc khắt khe của TTCK và hoạt động công khai để phòng ngừa gian lận. 3.3.TTCK mang tính cạnh tranh khá hoàn hảo: Những hành vi gian lận, độc quyền, câu kết để lũng đoạn giá…đều có các chế tài ngăn cấm, xử phạt một cách nghiêm khắc hơn các loại thị trường khác. Đồng thời TTCK phải có hệ thống thông tin công khai về giá cả, động thái giao dịch cũng phải được tổ chức kiểm soát chặt chẽ nhằm duy trì tính công bằng, minh bạch. Các giao dịch trên thị trường phải được chuẩn hoá và được điều hành một cách công khai…Tất cả những nét đặc thù đó đã làm cho TTCK không những là thị trường trong đó cơ chế cung cầu tự phát quyết định giá cao hơn giá ở các loại thị trường khác. 4.Chức năng của TTCK: 4.1.TTCK tạo ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế: So với huy động vốn qua các tổ chức tín dụng, TTCK có ưu thế hơn ở chỗ nó cung cấp vốn đầu tư mạo hiểm để phát triển các ngành, lĩnh vực mới, tạo cơ chế chuyển hóa vốn ngắn hạn thành vốn dài hạn, mở rộng quy mô huy đông vốn cho các doanh nghiệp và Nhà nước; cung cấp khả năng chủ động lựa chọn cho cả người có vốn và người cần vốn. 4.2. TTCK tham gia phân phối lại thu nhập quốc dân. Cùng với hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường tiền tệ, TTCK thực thi quá trình phân phối dựa trên quyền sở hữu thông qua giá cả chứng khoán. Tuy nhiên có thể thấy đâylà hệ thống phân phối ít nhiều không công bằng bởi lợi nhuận kiếm được qua chênh lệch giá không phản ánh công sức đóng góp của nhà đầu tư hay nhà kinh doanh chứng khoán. Lợi nhuận này ở một mức độ nào đó phụ thuộc vào tài năng dự đoán của người kinh doanh chứng khoán, nhưng chủ yếu phụ thuộc vào sự may rủi và xu thế biến động của thị trường. Trên TTCK, nhà đầu tư có thể giầu nên rất nhanh, nhưng có thể mất rất nhanh. 4.3.TTCK là kênh giao lưu vốn trong nước và nước ngoài: Thông qua TTCK, nhà đầu tư có thể mua chứng khoán của nước ngoài hoặc phát hành chứng khoán thu hút vốn đầu tư của nước ngoài một cách dễ dàng. Ưu thế của việc mua chứng khoán nước ngoài so với đầu tư trực tiếp là các nhà đầu tư có thể nhanh chóng chuyển đổi vốn giữa các ngành, các doanh nghiệp, cũng như có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm tránh rủi ro. Thu hút vốn qua TTCK nước ngoài giúp cho các doanh nghiệp có thể tìm kiếm các nguồn vốn mạo hiểm, hoặc mở rộng quy mô phát hành chứng khoán. 4.4.TTCK điều hoà phân bổ vốn đầu tư xã hội giữa các lĩnh vực, ngành nghề, doanh nghiệp: Sự lên xuống của giá cổ phiếu tác động đến mức lợi nhuận mà các cổ đông thu được từ cổ phiếu và các thông tin để họ quyết định chuyển dịch vốn của mình từ cổ phiếu có lợi nhuận thấp sang cổ phiếu có lợi nhuận cao. Thông qua quyết định của người đầu tư, các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, giá cổ phiếu giảm sẽ khó huy động vốn, còn các doanh nghiệp có mức doanh lợi cao, giá cổ phiếu lên dễ dàng huy động vốn. Tuy nhiên trong thực tế, chức năng này của TTCK thường hay bị nhiễu loạn do đầu cơ và sự không đầy đủ của thông tin. 4.5. TTCK cung cấp một chỉ báo và một môi trường điều tiết vĩ mô: Các chỉ số giá cả của TTCK cho thấy một cách tổng hợp thực trạng nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Thông qua TTCK, Nhà nước có thể điều tiết nền kinh tế bằng cách mua, bán cổ phiếu hoặc xử lý nghiệp vụ phát hành trái phiếu Nhà nước. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều thừa nhận tín hiệu từ TTCK không phải bao giờ cũng phản ánh trung thực thực trạng của nền kinh tế bởi vì sự biến động của các chỉ tiêu chứng khoán còn chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố phi kinh tế. 4.6.TTCK cung cấp tính thanh khoản cho nhà đầu tư: Những giao dịch liên tục trên TTCK cung cấp cho nhà đầu tư khả năng chuyển đổi chứng khoán ra tiền mặt khi cần thiết, do đó họ có thể huy động được các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi, ngắn hạn để mua chứng khoán. Những TTCK có quy mô lớn, thời gian giao dịch kéo dài và thường xuyên sẽ có tính thanh khoản cao hơn những TTCK nhỏ bé và thời gian giao dịch ngắn. 4.7.TTCK có chức năng định giá thị trường doanh nghiệp có cổ phiếu giao dịch: Thông qua các giá trị thị trường này, các hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp có điều kiện thực hiện dễ dàng hơn. Hơn nữa, TTCK cũng buộc ban quản lý các công ty cổ phần phải làm ăn đàng hoàng, chú trọng hiệu quả. 5. Phân loại TTCK: 5.1. Căn cứ vào sự luân chuyển của nguồn vốn: 5.1.1. Thị trường sơ cấp hay thị trường phát hành (Primary market): Là thị trường mua bán các loại chứng khoán mới phát hành, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc mua bán chứng khoán mới. Hay nói cách khác, thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành. Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà chứng khoán đem lại vốn cho người phát hành bằng việc chứng khoán hoá các nguồn vốn cần huy động. Với chức năng này, thị trường sơ cấp thực hiện chức năng chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân chúng vào đầu tư và chuyển tiền sang các dạng vốn dài hạn. Người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là Kho bạc, ngân hàng, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành…Các tổ chức này thường ấn định giá chứng khoán và in ngay giá đó trên tờ chứng khoán. Trừ TPCP, tất cả các tổ chức kinh tế muốn PHCK đều phải được phép của cơ quan Nhà nước về CK&TTCK. Thị trường sơ cấp tạo môi trường cho các doanh nghiệp gọi vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách thông qua việc phát hành trái phiếu, có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Thị trường sơ cấp cũng đồng thời trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của họ tốt hơn. 5.1.2. Thị trường thứ cấp hay thị trường lưu hành chứng khoán( Secondary market): Là thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Khoản tiền chênh lệch thu được từ việc mua bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về các nhà phát hành. Thị trường thứ cấp không ảnh hưởng đến nguồn vốn của các tổ chức phát hành chứng khoán mà còn tạo cho chứng khoán hấp dẫn các nhà đầu tư bởi tính thanh khoản của nó. Thị trường thứ cấp có một số đặc điểm sau: - Là thị trường cạnh tranh tự do, các nhà đầu tư và các công ty môi giới kinh doanh chứng khoán được tự do tham gia vào thị trường. - Là thị trường hoạt động liên tục. - Các nhà đầu tư tham gia trên thị trường thứ cấp bao gồm các nhà đầu tư cá nhân và các nhà đầu tư chuyên nghiệp. - Các công ty thực hiện nghiệp vụ môi giới và tự doanh chứng khoán là cầu nối giữa những người đầu tư trên thị trường thứ cấp. 5.2.Căn cứ vào phương thức hoạt động: 5.2.1.TTCK tập trung ( SGDCK, TTGDCK): Là thị trường trong đó việc mua bán chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch chứng khoán của SGDCK hay TTGDCK. Thị trường này hoạt động theo quy định của pháp luật, thời gian biểu được quy định rõ. Các chứng khoán được niêm yết tại SGDCK hay TTGDCK thường là chứng khoán của những công ty lớn, có danh tiếng và phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường giao dịch chứng khoán tập trung. SGDCK hay TTGDCK là thị trường có tổ chức, nơi các chứng khoán được mua bán bởi các thành viên của SGDCK hay TTGDCK với tư cách môi giới hoặc chính chủ. 5.2.2. Thị trường phi tập trung: - Thị trường giao dịch qua quầy ( thị trường OTC- Over the counter): là thị trường trong đó việc giao dịch không diễn ra tại một địa điểm tập trung và thông qua hệ thống nối mạng giữa các thành viên, không có giấy tờ hay thủ tục nhất định mà chỉ do thoả thuận giữa người mua và người bán. Các chứng khoán trên thị trường OTC thường có mức độ tín nhiệm thấp hơn, nhiều chủng loại hơn các chứng khoán được niêm yết trên SGDCK hay TTGDCK. Sự khác biệt cơ bản giữa thị trường giao dịch tập trung và thị trường OTC là ở các điều kiện để chứng khoán tham gia thị trường giao dịch tập trung ngặt nghèo hơn so với thị trường OTC. - TTCK “ trao tay” hay “chợ đen”: là thị trường hoạt động mua bán tự do, phân tán không qua thị trường tập trung hay thị trường OTC. Thị trường này không thực hiện giao dịch bằng hệ thống đấu giá của TTCK tập trung hay thị trường OTC, mà việc mua bán diễn ra một cách trực tiếp, trao tay giữa người mua và người bán chứng khoán. Vì thế người ta gọi đây là thị trường “ trao tay” hay “chợ đen”. 5.3.Căn cứ vào hàng hoá trên TTCK: 5.3.1.Thị trường cổ phiếu ( The stock market): là thị trường phát hành cổ phiếu mới và mua đi bán lại cổ phiếu cũ. Hoạt động của thị trường cổ phiếu chứa đựng cả hai lĩnh vực đầu tư chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. 5.3.2.Thị trường trái phiếu ( Bond market): là thị trường phát hành trái phiếu và mua đi bán lại trái phiếu cũ. Trái phiếu thường bao gồm hai loại cơ bản: Trái phiếu doanh nghiệp (Corporate Bond) và TPCP (Government bond). Tương ứng đó thị trường trái phiếu tách ra thành Thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường TPCP 5.3.3.TTCK phái sinh: là thị trường mua đi bán lại các công cụ có nguồn gốc chứng khoán và bao gồm các loại: quyền lựa chọn ( Options), quyền mua trước (Rights), chứng quyền (Warrents), hợp đồng kì hạn… II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TTCK: 1.Khái niệm cơ bản về quản lý và QLNN đối với TTCK: Khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng hình thành. Trình độ quản lý phát triển theo sự phát triển của xã hội qua các phương thức sản xuất khác nhau. Trong thời đại ngày nay, trong ba yếu tố cơ bản quyết định tới sự phát triển của xã hội là sức lao động, tri thức và trình độ quản lý thì quản lý được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu. “Quản lý là sự tác động liên tục, có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý ( người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể ( đối tượng bị quản lý) trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá,xã hội …thông qua hệ thống pháp luật, các chính sách, các nguyên tắc, các quy định và bằng các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra mội trường và tạo điều kiện cho sự phát triển của đối tượng bị quản lý”. Quy mô của quản lý có thể khác nhau: toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị…Quy mô khác nhau thì tính chất của quản lý cũng khác nhau. Quản lý ở phạm vi quốc gia được coi là quản lý Nhà nước, quản lý ở một đơn vị kinh doanh được coi là quản lý kinh doanh ( quản trị kinh doanh)… TTCK là một lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế một quốc gia. Vì vậy: “Quản lý Nhà nước đối với TTCK của một quốc gia là sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các hoạt động xây dựng, vận hành và phát triển của TTCK”. Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên các khách thể chịu sự quản lý, làm cho các khách thể vận động theo hướng mà chủ thể mong muốn. Bản chất của hoạt động quản lý là quá trình đề ra các luật lệ, quy tắc, quy định và thực hiện việc giám sát, cưỡng chế thực thi các luật lệ, quy tắc, quy định đó nhằm kích thích và phát triển các yếu tố tích cực, đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực không mong muốn. Hoạt động có sự quản lý là hoạt động phải tuân thủ các luật lệ, quy tắc do con người là chủ thể quản lý đặt ra. Lịch sử hình thành và phát triển TTCK ở các nước cho thấy TTCK ở những nước phát triển ra đời và hoạt động tự do nhiều năm trước khi có sự quản lý về lĩnh vực này. Việc quản lý TTCK xuất hiện với mục đích chống lại những hành vi thao túng, lừa đảo, chống lại sự lạm dụng trong hoạt động chứng khoán. Cùng với sự phát triển với quy mô ngày càng rộng lớn và đa dạng, phức tạp của TTCK thì phương thức, nội dung, chức năng của quản lý ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Nếu như trong thời kì sơ khai của TTCK, việc quản lý TTCK chủ yếu do các tổ chức tự nhiên đảm trách, không có sự tham gia của các tổ chức quản lý Nhà nước và pháp luật, thì cho đến ngày nay, ở hầu hết các nước đã có sự tham gia quản lý của Nhà nước để tăng cường hiệu quả của quản lý. Nếu như trước đây, chức năng chủ yếu của các chủ thể quản lý là duy trì sự ổn định kỷ luật của thị trường thì ngày nay, ngoài các chức năng đó, các chủ thể quản lý còn phải thực hiện chức năng phát triển thị trường và ngăn ngừa những rủi ro lây lan của toàn bộ hệ thống. Có thể khẳng định rằng, xu thế của tất cả các quốc gia là đưa TTCK vào quỹ đạo quản lý Nhà nước có kết hợp với chế độ tự quản. Quá trình hình thành và mức độ phát triển phức tạp, đa dạng của TTCK và điều kiện cụ thể của mỗi nước dẫn đến sự đa dạng trong cơ chế và mức độ quản lý thị trường. Trong khi hầu hết các TTCK ở các nước phát triển được hình thành từ khu vực tư nhân nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, do các cá nhân đứng ra tổ chức, vận hành và tự quản thì ngược lại, ở các nước đang phát triển TTCK thường do Chính phủ đứng ra thành lập với những mục đích cụ thể như hỗ trợ huy động vốn, tư nhân hoá hay thực hiện các mục tiêu kinh tế khác của Nhà nước. Do vậy Chính phủ đóng vai trò chính trong việc tổ chức và quản lý thị trường. 2. Vai trò của việc quản lý TTCK: Vai trò của việc quản lý TTCK là hướng tới việc tạo lập một thị trường công bằng, công khai, trung thực và hiệu quả. - Tính công bằng trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các biện pháp quản lý chống độc quyền và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh chứng khoán, đầu tư chứng khoán, đặc biệt là công bằng với các nhà đầu tư nhỏ. - Tính công khai trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các biện pháp quản lý bắt buộc công khai thông tin của các đối tượng tham gia thị trường, nhằm tránh hoạt động lạm dụng, không lành mạnh. - Tính trung thực trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các hoạt động quản lý nhằm làm hạn chế những rủi ro phát sinh từ những hoạt động không đúng đắn, rủi ro lây lan do mất lòng tin của công chúng đầu tư. Một thị trường mà hệ thống quản lý được xem là có hiệu quả cần phải được xem xét cả về khía cạnh tiết kiệm chi phí và lợi ích thu được.Tính hiệu quả tỷ lệ thuận với kết quả và tỷ lệ nghịch với chi phí. Kết quả được đánh giá chủ yếu thông qua việc thực hiện chức năng huy động vốn dễ, rẻ, luân chuyển vốn, phân bổ và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý…Chi phí được tính chủ yếu được tính đến là chi phí cho bộ máy quản lý và những chi phí thất thoát, mất mát do quản lý kém. Việc quản lý thái quá hoặc không đầy đủ có thể dẫn đến làm tăng chi phí, làm giảm hiệu quả quản lý thị trường. 3. Chức năng của quản lý TTCK: Quản lý là một hình thức đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm của tiến trình phân công lao động và chuyên môn hoá việc quản lý. ở hầu hết các nước đang phát triển, các chủ thể quản lý luôn có hai chức năng chính: duy trì sự hoạt động ổn định của thị trường; tạo điều kiện để phát triển thị trường, làm cho thị trường có thể cạnh tranh và thích ứng với mọi thay đổi trong xã hội. Với chức năng ổn định thị trường tức là phải tạo lập một thị trường có kỷ luật, an toàn, trật tự, ít rủi ro thì các nhà quản lý phải xác định được nên cho phép đối tượng nào tham gia thị trường, tiêu chuẩn tham gia gồm những yếu tố gì, xác định phải quản lý cái gì và giám sát cái gì. Với chức năng phát triển thì các nhà quản lý phải tạo động lực thúc đẩy thị trường. Các chức năng này được sử dụng vào hoàn cảnh khác nhau, tuy nhiên trong hoạt động quản lý Nhà nước thì các chức năng này thường được áp dụng một cách đồng bộ. Đối với TTCK, hoạt động quản lý được cụ thể hoá ở một số lĩnh vực sau: - Xây dựng kế hoạch hoạt động và phát triển TTCK với từng bước đi cụ thế và thích hợp với điều kiện văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội, dân trí và các điều kiện khác. - Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy của TTCK như: cơ quan quản lý Nhà nước, SGDCK, TTGDCK, TTLKCK, CtyCK, CtyQLQ… - Xây dựng sự phối hợp giữa các tổ chức, các cá nhân là thành viên tham gia TTCK để tạo được sự thống nhất trong mọi hoạt động của TTCK. - Điều chỉnh, xử lý các hành vi sai phạm trên TTCK như mua bán gian lận, đầu cơ,…Mặt khác, tạo các điều kiện thuận lợi, khuyến khích những hoạt động tiêu cực trên thị trường. - Thực hiện công tác kiểm tra định kỳ, bất thường nhằm phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật, thực hiện tổng kết thống kê nhằm tổng hợp hoạt động của thị trường. 4. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý TTCK: Nguyên tắc quản lý là những nguyên tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi mà các chủ thể quản lý phải tuân theo khi thực hiện việc chỉ đạo, điều hành của mình. Các nguyên tắc trong quản lý được hình thành theo một hệ thống nhất quán. Con người đề ra các nguyên tắc quản lý nhưng những nguyên tắc này cũng chỉ mang tính chất khách quan vì nó nảy sinh từ chính bản chất xã hội. Khoa học quản lý đã rút ra những nguyên tắc cơ bản của quản lý như sau: 4.1. Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị và kinh tế: Trong hoạt động con người thì chính trị và kinh tế là hai phạm vi khác nhau nhưng lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau. Giữa hai phạm vi hoạt động này không phải lúc nào cũng thống nhất mà nhiều khi chúng có sự độc lập tương đối nhưng lại có quan hệ tương hỗ và phụ thuộc nhau. Chính trị nhiều khi là biện pháp để thực hiện các mục tiêu kinh tế và ngược lại, kinh tế lại là đòn bẩy, là động lực để thực hiện các mục đích chính trị. Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong QLNN đối với TTCK. Yếu tố kinh tế của TTCK được t._.hể hiện ở chỗ nó được coi như là một thị trường của các thị trường. Bên cạnh đó, TTCK không chỉ mang lại lợi ích mang tính kinh tế mà còn có cả các yếu tố chính trị trong đó. Chính vì thế, trong quản lý TTCK, sự kết hợp giữa kinh tế và chính trị là một yêu cầu bắt buộc, và trong trường hợp có xung đột giữa hai mục đích thì mục tiêu chính trị phải được đặt lên trên nhất vì trong chính trị đã bao hàm cả kinh tế. Để TTCK phát huy được hết vai trò, chức năng của mình thì TTCK phải ổn định, phát triển lành mạnh. Với đặc điểm đây là một thị trường có tính rủi ro hệ thống rất cao, dễ bị ảnh hưởng khi có thông tin bất cân xứng trên thị trường thì nếu nhà quản lý không đặt mục tiêu an toàn ổn định của TTCK lên trước mục tiêu kinh tế thì nguy cơ xảy ra những tác động không tốt là rất lớn. Tuy nhiên, nhà hoạch định chính sách và quản lý TTCK cũng không thể lơi là tính kinh tế trong việc thực hiện công tác quản lý. TTCK cần được hoạt động đúng theo nguyên tắc của thị trường là quy luật tự do cung cầu và chỉ khi đó TTCK mới đem lại lợi ích thiết thực. 4.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ: Tập trung dân chủ là tập trung điều hành vào một cơ quan quyền lực cao nhất. Đây là cơ quan vạch ra đường lối, điều lệ, quy chế, phương hướng, đường lối, mục tiêu tổng quát và đề ra các biện pháp cơ bản, chủ yếu để thực hiện. Tính dân chủ trong quản lý thể hiện ở chỗ mọi người có thể tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến để tìm ra các biện pháp khả thi nhất cho quá trình thực hiện. Hai vấn đề tập trung dân chủ có sự tác động qua lại với nhau. Tuy nhiên trong thực tế, quá trình thực hiện hai nguyên tắc này thường dễ làm nảy sinh hai thái cực, hoặc là tập trung quan liêu độc đoán chuyên quyền, hoặc là dân chủ quá trớn, vô chính phủ. Đối với TTCK, sự tập trung quản lý thể hiện ở việc tập trung quyền hạn quản lý cho một cơ quan nhất định, thường là UBCK quốc gia, và ở các TTCK trong giai đoạn mới hình thành và phát triển thì điều này đặc biệt quan trọng. ở những TTCK mới hình thành thì chủ thể tham gia thị trường còn chưa có hiểu biết tốt, tình trạng không minh bạch, lừa đảo có thể xảy ra; đồng thời TTCK còn là thị trường của những thị trường do vậy cần phải có một cơ quan quyền lực đủ khả năng thực hiện những biện pháp cần thiết để tạo lập được một thị trường công bằng và điều khiển mọi hoạt động của TTCK theo những nguyên lý cơ bản của thị trường về quy luật cung cầu, quy luật tự do cạnh tranh, nếu không tính hiệu quả của thị trường sẽ không còn nữa. Trong quá trình hình thành và phát triển của TTCK, chính những chủ thể tham gia trên thị trường lại là những người khởi xuớng, thống nhất những quy ước và tập quán chung cho toàn TTCK, và ở các TTCK lâu đời thì vai trò của những quy ước, tập quán tự thiết lập này là rất lớn nếu không nói là vai trò chính. Trong một chừng mực nào đấy, chính những quy ước, tập quán này đã tạo lập được trật tự của TTCK và giúp cho TTCK hoạt động có hiệu quả. Vì vậy, nếu sự tập trung quyền hạn bị lạm dụng trong quản lý TTCK thì sẽ làm hỏng các chức năng lành mạnh của TTCK. Do đó, người làm công tác quản lý cần có sự điều chỉnh mức độ dân chủ tuỳ theo sự phát triển của thị trường với sự tập trung quyền lực quản lý nhất định. 4.3. Nguyên tắc kết hợp giữa các lợi ích kinh tế: Trên thực tế luôn có lơi ích khác nhau giữa chủ thể và khách thể quản lý, có sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Vai trò của công tác quản lý lúc này là phải tìm cách kết hợp, thoả mãn các lợi ích theo đúng nhu cầu, đảm bảo cho các lợi ích không đối lập nhau, hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển. Vấn đề này đòi hỏi công tác quản lý phải chú trọng tới từng loại lợi ích trong từng mặt hoạt động như đầu tư, huy động vốn, phân chia lợi nhuận, ban hành các quy định về thuế,… Khi TTCK hoạt động ổn định, hiệu quả thì các nguồn vốn mới được sử dụng tối đa nhât và đem lại lợi ích kinh tế. Người cần vốn có được chi phí vốn rẻ nhất và lợi nhuận đem lại cho người đầu tư là cao nhất. Thực tế, bên cạnh sự thống nhất chung thì luôn tồn tai mâu thuẫn giữa các lợi ích với nhau, mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, và nguyên nhân phát sinh lại chính từ tính chất cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường. Các nguồn vốn đầu tư được thông qua TTCK thì lại tập trung chủ yếu vào trong các lĩnh vưc sản xuất, dịch vụ là những nơi đem lại mức sinh lời cao, dễ thu hồi vốn và mức độ rủi ro lại thấp. Ngược lại, tại những ngành thuộc lĩnh vực đầu tư mang tính công cộng, tính xã hội cao như giáo dục, y tế, khoa học…thì lại không mấy được các nhà đầu tư mặn mà vì khó thu hồi vốn, lợi nhuận thu được thấp và mức độ rủi ro cao. Rủi ro trên TTCK còn phát sinh khi các cá nhân vì lợi ích riêng mà có thể có những hành vi không tốt, không minh bạch như tình trạng đầu cơ, các hành vi gian lận, làm giá gây thiệt hại tới lợi ích chung của toàn bộ thị trường, và khi đó thì lợi ích của toàn xã hội cũng bị ảnh hưởng. Như vậy, thứ tự ưu tiên trong quản lý là quyền lợi xã hội nói chung, thể hiện là quyền của người đầu tư phải được đảm bảo. Khi đó thị trường mới có thể vận hành tốt được và đem lại lợi ích cho những chủ thể tham gia khác như người môi giới kinh doanh dịch vụ…Do đó cần phải có sự điều tiết quản lý của Nhà nước mới có thể đảm bảo nguồn vốn đầu tư cho các ngành phi lợi nhuận hoạt động, đảm bảo sự phát triển đồng đều và toàn diện của xã hội. 4.4. Nguyên tắc hiệu quả: Tiết kiệm là hạn chế chi phí đến mức tối thiểu mà vẫn đem lại hiệu quả tối đa. Tiết kiệm là nhằm để giảm thiểu chi phí nhưng chỉ có ý nghĩa khi thực hiện nó mang tính hiệu quả. Hiệu quả là kết quả cuối cùng của hoạt động được đo bằng giá trị, vật phẩm, thời gian tác động,…Tiết kiệm và hiệu quả luôn đi với nhau và nó là thước đo để đánh giá kết quả cuối cùng của quản lý. TTCK là mô hình tiêu biểu nhất về tính hiệu quả vì bản thân TTCK đã mang trong nó tính tiết kiệm chi phí và nhằm tới hiệu quả kinh tế cao nhất vì đây là môi trường thuận lợi nhất cho các nguồn vốn từ các nhà đầu tư được trực tiếp đưa đến nơi cần vốn. Quá trình đầu tư thông qua TTCK được thực hiện với chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, đảm bảo nguyên tắc này trong TTCK tức là đảm bảo cho TTCK được hoạt động tự nhiên và phát huy những chức năng vốn có của nó. Nguyên tắc này được coi là tiêu chí áp dụng cho bất kì chính sách nào bởi mỗi chính sách đem lại lợi ích cũng kèm theo đó là chi phí. Nếu chi phí lớn hơn lợi ích đem lại thì việc áp dụng các chính sách đó là không có tác dụng. 5. Các biện pháp quản lý TTCK: Biện pháp quản lý là tổng thể những cách thức tác động đến cá nhân hay tập thể nhằm khuyến khích họ thực hiện tốt công việc. Khác với nguyên tắc quản lý là những yêu cầu bắt buộc phải tuân theo thì biện pháp quản lý là những cách thức linh hoạt mà người quản lý có thể tuỳ chọn và sử dụng phối hợp theo ý mình nhằm tạo ra hiệu quả quản lý cao nhất. Do đó biện pháp quản lý có rất nhiều, hình thức và cách áp dụng cũng khác nhau. Đối với TTCK cần áp dụng phương thức quản lý nào thì lại phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phát triển của thị trường. Trên thực tế, xuất hiện hai trường phái quản lý chính đối với TTCK là quản lý chặt chẽ của Nhà nước (phổ biến ở những nước có TTCK mới phát triển) hoặc là tự quản (phổ biến ở những nước có thị trường phát triển lâu đời). QLNN được hiểu là Nhà nước giao quyền quản lý cho một hay nhiều cơ quan của Nhà nước hoặc Chính phủ được phép đặt ra luật pháp hay quy định cho thị trường và thực thi luật. Cho dù quyền quản lý này nằm trong tay một hay nhiều cơ quan khác nhau thì vẫn thuộc quyền kiểm soát của Nhà nước. Khi một nước theo trường phái Nhà nước tham gia nhiều vào quản lý, thông thường là bẵng cách thông qua một cơ quan chuyên biệt trực thuộc Nhà nước thì việc áp dụng biện pháp hành chính, luật pháp thường chiếm một vị trí lớn. Trường phái tự quản lại cho phép chính người tham gia vào TTCK tự đặt ra luật lệ. Ví dụ như rất nhiều SGDCK có tư cách là một hiệp hội và mọi hoạt động của SGDCK đều do SGDCK tự đặt ra để mọi thành viên phải tuân theo…Trong trường hợp này, biện pháp mà Nhà nước phải sử dụng là biện pháp tổ chức, điều kiển và biện pháp kinh tế. Mỗi trường phái đều có mặt mạnh và mặt yếu của nó. Tự quản cho phép các quy định của thị trường phù hợp với yêu cầu của những người tham gia thị trường, song chính các tổ chức tự quản này đôi khi có khả năng bất chấp và hi sinh tính thống nhất của thị trường vì quyền lợi trước mắt của các hội viên. Mặt tốt của các tổ chức tự quản này là thường xuyên có những đổi mới về tập quán kinh doanh cho phù hợp với sự phát triển thực tế của thị trường, song cũng có nguy cơ khi các tổ chức này có tính “ phản cạnh tranh” khi chúng tìm cách cố định giá cả, hạn chế sự tham gia của các thành viên mới và phản đối sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế khi sự thayđổi đó ảnh hưởng đến quyền lợi của các hội viên. Trong trường hợp này, nếu có sự quản lý của cơ quan QLNN cùng với sự hỗ trợ ngân sách cần thiết thì các cơ quan QLNN này có thể vượt qua được vấn đề quyền lợi trước mắt và thực hiện các thay đổi cần thiết. Mặt khác, các cơ quan QLNN thường lại thiếu nhân lực cũng như tài chính để vạch ra các chính sách mang tính kĩ thuật và để trực tiếp giám sát, kiểm soát hoạt động của thị trường. Trong công tác quản lý, người quản lý phải biết vận dụng khéo léo tất cả các biện pháp trên để đạt được hiệu quả quản lý cao nhất. Một số biện pháp điển hình thường được sử dụng là: 5.1. Biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng: Hầu hết các TTCK mới nổi đều không phải theo con đường tự nhiên như các thị trường lâu đời ở phương Tây. Những thị trường này ra đời là do lỗ lực của Chính phủ trong việc thiết lập một thị trường tài chính. Nó còn mới mẻ với tất cả các chủ thể tham gia trên TTCK. Hầu hết mọi người chưa có nhận thức và hiểu biết về TTCK do đó họ còn dè dặt trong việc đầu tư vào thị trường này. Bởi vậy, việc trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK để họ có thể hiểu về những lợi ích của hình thức đầu tư mới mẻ này đem lại, đồng thời trang bị cho họ những kĩ năng để họ có thể đầu tư một cách hiệu quả nhất, tự chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình, tự phòng chống được các rủi ro khi tham gia trên thị trường,… Vì thế yếu tố giáo dục, xây dựng tâm lý cho người tham gia thị trường là cực kì quan trọng. Việc giáo dục bao gồm công tác vạch đường lối chính sách phát triển kinh tế cho phù hợp, đào tạo phổ biến kiến thức về thị trường, về chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng và thiết lập những chuẩn mực kinh doanh, kế toán, kiểm toán, xếp hạng cho hoạt động phát hành và bảo lãnh chứng khoán. 5.2. Biện pháp hành chính luật pháp: Bịên pháp này có tác động trực tiếp và có vai trò lớn nhất trong các biện pháp quản lý của Chính phủ ở các TTCK mới nổi bởi ở những thị trường này mọi hoạt động đang đều ở giai đoạn mới hình thành, hơn thế nữa nhiều khi lại ra đời không theo con đường tự nhiên như ở các nước phát triển. Nhà nước đóng vai trò chính trong việc điều hành và hướng dẫn thị trường. Ngoài ra, cho dù ở bất kỳ TTCK nào thì hình thức quản lý cơ bản nhất vẫn là luật pháp. Bởi đây là một thị trường đầy tính phức tạp thì luật pháp rõ ràng gần như là một điều kiện tiên quyết để có một thị trường hoạt động trong khuôn khổ và ổn định. Luật pháp về chứng khoán phải được hiểu là cả một hệ thống gồm Luật Chứng khoán và các luật khác như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,… Và vì vậy, việc xây dựng một hệ thống luật pháp không chỉ đơn thuần là việc cho ra đời Luật Chứng khoán mà còn bao gồm cả việc điều chỉnh và hoàn thiện dần các luật liên quan để tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho sự hình thành và phát triển của thị trường. Trên thực tế, rõ ràng không thể có được một hệ thống luật pháp hoàn thiện lý tưởng ngay từ khi TTCK mới hình thành. Do dó, biện pháp quản lý hành chính là điều cần thiết để điều chỉnh và xử lý những hành vi có nguy cơ hoặc đã gây thiệt hại cho thị trường, nhất là những thị trường mới nổi và đặc biệt đang ở trong giai đoạn đầu mới hình thành thị trường. Điều này còn đúng hơn với thị trường đang còn thiếu những chuyên gia giỏi về kiểm toán, kế toán, hệ thống hành pháp thiếu những người có hiểu biết về TTCK. 5.3.Biện pháp tổ chức và chỉ đạo: Tổ chức là định hình các cơ cấu bộ phận tạo thành, xác lập chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của từng bộ phận, đặt các bộ phận trong quan hệ đối tác phù hợp, trong một tổng thể hoàn chỉnh. Thể chế hoá tổ chức là quá trình Nhà nước quy định cơ cấu tổ chức, vạch ranh giới cho từng cấp quản lý bằng các văn bản pháp luật, các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, là những cơ quan QLNN theo lĩnh vực chuyên môn; quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của DNNN hoặc cơ cấu tổ chức của các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, điều lệ doanh nghiệp, điều lệ công ty… Trong quản lý, sự tác động của tổ chức có ý nghĩa hiệu quả và thiết thực. Nó chỉ cho mọi người, mọi cấp biết trước phải hoạt động theo trật tự quy định trước, nhằm đạt được những chỉ tiêu định trước. Mặt khác, tổ chức có thể gây cản trở nếu quy định quá chi tiết, cứng nhắc khiến người thừa hành không phát huy được sáng kiến, mất tính linh hoạt, sáng tạo. Do đó, bên cạnh công tác tổ chức phải có sự điều khiển trực tiếp. Điều khiển là sự đôn đốc, chỉ đạo cụ thể nhằm điều chỉnh kịp thời những sai lệch so với mục tiêu đề ra. Đó là hình thức tác động tích cực và linh hoạt nhất của biện pháp quản lý.Tổ chức và điều khiển cần được thực hiện phối hợp lẫn nhau trong quá trình quản lý. Đối với TTCK, vai trò của biện pháp tổ chức trong QLNN là rất quan trọng. Chỉ khi Nhà nước thể chế hoá được hệ thống quản lý TTCK thì mới có thể thực hiện được việc quản lý. Thông thường, các Chính phủ phải thành lập một uỷ ban chuyên trách trực tiếp quản lý TTCK, thường là UBCK quốc gia. Ngoài ra, nếu không thành lập một uỷ ban riêng thì Nhà nước phải giao quyền quản lý cho một Bộ hay một cơ quan tương đương cấp, ví dụ như NHTW. Tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà uỷ ban này được quy định, Nhà nước thực hiện công tác quản lý của mình. Nếu việc thể chế hoá tổ chức được thực hiện kém thì khả năng QLNN sẽ bị hạn chế đi rất nhiều. Tuy nhiên, cần phải hết sức thận trọng khi sử dụng biện pháp này vì sự can thiệp quá sâu vào TTCK thường để lại những hậu quả xấu. Trong trường hợp cần thiết vẫn phải sử dụng biện pháp này vì các cơ quan quản lý thường chậm thay đổi, khó có thể theo kịp những thay đổi và tiến bộ hàng ngày của thị trường. Cách tốt nhất là hoàn thiện thể chế tổ chức quản lý và liên tục cải tiến, đổi mới tổ chức quản lý. 5.4. Biện pháp kinh tế: Biện pháp quản lý bằng kinh tế là cách thức vận dụng tổng hợp các đòn bẩy kinh tế để kích thích các cá nhân, tập thể và toàn bộ xã hội thực hiện được mục tiêu theo định hướng vạch sẵn. Những đòn bẩy này ở phạm vi vĩ mô là các chính sách kinh tế, các chế tài, các chế độ thuế, chế độ hạch toán, kế toán,…Cơ sở lý luận và thực tế của nhiều nước cho thấy chế độ thuế là một công cụ tích cực trong quản lý TTCK. Chế độ thuế phù hợp có thể khuyến khích đầu tư vào chứng khoán, làm tăng cầu chứng khoán, là động lực cho TTCK phát triển. Nhiều quốc gia áp dụng chế độ hạch toán kinh tế độc lập cho các SGDCK, tạo nguồn thu nhập cho các SGDCK, để chính các SGDCK này duy trì được vai trò tự quản và thực hiện được những chương trình khoa học, áp dụng được những công nghệ cần thiết cho quản lý. Như vậy, biện pháp kinh tế có tác dụng rất lớn trong lĩnh vực QLNN đối với TTCK. Biện pháp này có ưu điểm là không áp dụng những chỉ thị, mệnh lệnh trực tiếp của chủ thể quản lý nhưng có tác động rất thiết thực và sâu rộng. 6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động QLNN đối với TTCK: Hoạt động QLNN đối với TTCK chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm: - Các nhân tố kinh tế: quá trình QLNN đối với TTCK chịu ảnh hưởng chi phối của các yếu tố kinh tế như: quy mô kinh tế, trình độ phát triển nền kinh tế,…Sự đa dạng về hình thức tồn tại và tính phức tạp trong hoạt động của các thành phần kinh tế tham gia TTCK sẽ đặt ra yêu cầu đối với công tác QLNN là phải có các chính sách, biện pháp phù hợp để dung hoà lợi ích của các thành phần này khi khai thác tối đa thế mạnh của họ. Cơ cấu kinh tế theo vùng miền phản ánh vị thế và xu hướng phát triển của các vùng, miền. Từ đó sẽ chi phối định hướng và xây dựng các SGDCK, TTGDCK. Quy mô và trình độ phát triển của nền kinh tế vừa là xuất phát điểm để xây dựng các chính sách QLNN đối với TTCK, vừa ảnh hưởng đến mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển TTCK của mỗi quốc gia. - Các nhân tố về chính trị và thể chế Nhà nước: thể chế chính trị và đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền của một nước chi phối đến mục tiêu, phương hướng xây dựng và phát triển TTCK nước đó. Bên cạnh đó, sự ổn định hay bất ổn về mặt chính trị sẽ có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình phát triển của TTCK, từ đó có tác động đến nội dung và biện pháp QLNN đối với TTCK, cấu trúc và chức năng của hệ thống. Cơ quan quản lý về chứng khoán và TTCK được thiết lập theo mô hình nào và đặt ở vị trí nào thường chịu ảnh hưỏng bởi mô hình hệ thống tổ chức thiết chế Nhà nước. - Môi trường pháp lý: công tác QLNN đối với TTCK bị chi phối và phụ thuộc vào năng lực hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bên cạnh đó, vấn đề này còn phụ thuộc cả vào tính chặt chẽ, đầy đủ, nhất quán của các quy định pháp luật cũng như ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế. - Thực trạng phát triển TTCK: trong mỗi hệ thống quản lý, chủ thể quản lý sử dụng các công cụ và phương thức quản lý tác động nên đối tượng quản lý theo mục tiêu đề ra. Ngược lại, đối tượng và khách thể của quản lý cũng phản ứng trở lại đối với chủ thể quản lý. TTCK là đối tượng QLNN cho nên thực trạng phát triển của TTCK có tác động đến việc ban hành và triển khai các chính sách quản lý phát triển thị trường này. Thực trạng TTCK vừa là cơ sở để Nhà nước ban hành các chính sách, biện pháp khắc phục những tồn tại của TTCK, vừa là căn cứ để Nhà nước đề ra các biện pháp thúc đẩy thị trường phát triển theo định hướng và mục tiêu đề ra. - Xu thế hội nhập quốc tế: hiện nay thì hội nhập quốc tế đang diễn ra khá mạnh mẽ trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, trong đó có TTCK. Việc mở cửa TTCK hội nhập quốc tế sẽ đem lại những lợi ích thiết thực cho một quốc gia, song cũng nảy sinh những rủi ro và thách thức không nhỏ. Điều này tác động đến các chính sách quản lý và phát triển TTCK của các nước. Chính sách QLNN không chỉ chỉ phải giải quyết các vấn đề nảy sinh do có sự xuất hiện của các yếu tố quốc tế trên TTCK, mà còn phải tìm ra hướng hội nhập sao cho vừa đảm bảo an toàn, vừa khai thác tốt nhất các lợi ích mà hội nhập mang lại - Các nhân tố khác: hoạt động QLNN đối với TTCK còn chịu tác động bởi các nhân tố khác như: trình độ ứng dụng tin học trong quản lý, truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc, trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý trong ngành chứng khoán và các ngành có liên quan, lịch sử phát triển kinh tế và TTCK…Trong đó yếu tố lịch sử thường đặt ra các vấn đề về cải cách và hoàn thiện mô hình và tổ chức quản lý… CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QLNN ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM: 1. Quá trình hình thành TTCK Việt Nam: Sau gần hai mươi năm tiến hành đổi mới nền kinh tế chuyển đổi sang nền KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế-xã hội của nước ta đã có những chuyển biến sâu sắc và đạt được những thành công đáng ghi nhận, đánh dấu và khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình thực hiện phát triển kinh tế-xã hội, mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt kế hoạch, nhưng nhìn chung Chính phủ đã đạt được những mục tiêu lớn đặt ra. Nền kinh tế đã có những bước phát triển mới về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự thay đổi về tỷ trọng giữa các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ với các ngành nông lâm nghiệp. Hoạt động tài chính, tiền tệ đã đạt được những thành tựu lớn, có tác động tích cực đến cân đối Ngân sách Nhà nước và ổn định giá trị của nội tệ. Các định chế tài chính ngày càng được hoàn thiện, tạo cơ sở cho các doanh nghiệp cải thiện tình hình tài chính, mở rộng hoạt động sản xuất, phát triển sản xuất kinh doanh. Song, cũng quá trình phát triển này mà nền kinh tế đã nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc. Một trong những vấn đề đó là nguồn vốn đầu tư dài hạn vào thị trường vốn. Các doanh nghiệp rất cần vốn đầu tư dài hạn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Mọi nhu cầu về vốn đầu tư đều phải phụ thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng. Trong khi đó, các Ngân hàng chủ yếu chỉ huy động được nguồn vốn tín dung ngắn hạn, không thể dùng nguồn vốn này để tài trợ cho mục đích đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp. Nếu có chăng nữa thì chỉ là các giải pháp tạm thời nhỏ bé. Theo ước tính của các nhà kinh tế, số tiền nhàn rỗi trong dân cư vẫn còn rất lớn, lên đến hàng tỷ USD và hàng ngàn tỷ VND. Vậy làm thế nào để có thể huy động được số tiền này thành nguồn vốn đầu tư dài hạn cho các doanh nghiệp? Đây là một bài toán nan giải mà nền kinh tế nước ta phải tìm cách giải quyết. Trong xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá nền kinh tế, bất kì đất nước nào muốn phát triển phải có sự hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo quy luật chung, nền KTTT phải tuân thủ các định chế tài chính đã được hình thành ở các nước có nền kinh tế phát triển. Một trong những định chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường đó là TTCK. Không có TTCK thì nền kinh tế đó không thể có nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư vào những mục tiêu kinh tế mang tính chiến lược và tạo đà vững chắc cho các ngành nghề trong xã hội. TTCK được lựa chọn là công cụ tối ưu nhất để giải quyết vấn đề này. Đó là công cụ hữu hiệu để đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Từ năm 1992, Ban thị trường vốn thực thuộc NHNN Việt Nam được thành lập với nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu, tạo tiền đề để thành lập TTCK ở Việt Nam. Trên cơ sở đề xuất của Ban thị trường vốn, ngày 28/11/1996, Chính phủ đã chính thức ra quyết định thành lập UBCKNN là cơ quan QLNN trực tiếp đối với các hoạt động của TTCK Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, UBCKNN dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đã khẩn trương phối hợp với các Bộ, ngành để xây dựng khuôn khổ pháp lý, các tổ chức tài chính trung gian, chuẩn bị hàng hoá và các điều kiện cần thiết khác liên quan đến CK & TTCK cho việc đưa TTGDCK vào hoạt động như Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về CK & TTCK, Quyết định 127/1998/QĐ-TTg ngày 1/8/1998 về quy chế tổ chức hoạt động của TTCK và các quy chế tổ chức thành viên, tổ chức hoạt động của CtyCK. Việc TTGDCK Tp.HCM ( nay là SGDCK Tp.HCM) đã chính thức khai trương hoạt động vào ngày 20/7/2000 và TTGDCK HN cũng chính thức đi vào hoạt động vào ngày 8/3/2005 đã đánh dấu một bước phát triển của thị trường tài chính ở Việt Nam. Mặc dù quy mô thị trường còn nhỏ bé song bước đầu đã thu hút được sự quan tâm của công chúng đầu tư trong và ngoài nước. 2. Thực trạng TTCK Việt Nam: Qua hơn 7 năm kể từ ngày khai trương hoạt động, TTCK Việt Nam còn đang ở trong giai đoạn đầu hình thành, quy mô còn nhỏ bé nhưng đã hoạt động ổn định, có bước phát triển nhanh, bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng, thể hiện ở các mặt sau: 2.1.Về quy mô hoạt động: Ngày đầu khai trương TTGDCK Tp.HCM thì thị trường mới chỉ có 2 CtyNY là SAM và REE. Tính đến ngày 1/10/2007, trên thị trường có tổ chức đã có 775 loại chứng khoán được niêm yết và ĐKGD, với tổng khối lượng là hơn 4.304,72 triệu chứng khoán và tổng giá trị là hơn 147.761,97 tỷ đồng. Trong đó, số cổ phiếu niêm yết và ĐKGD là 207 ( TTGDCK HN là 91 DNNY và ĐKGD, SGDCK Tp.HCM là 116 DNNY) với tổng khối lượng niêm yết khoảng gần 3.082,37 triệu cổ phiếu và giá trị niêm yết là khoảng hơn 30.823,697 tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 566 loại TPCP và TPDN ( 159 trái phiếu niêm yết tại TTGDCK HN và 407 trái phiếu niêm yết tại TTGDCK Tp.HCM) với tổng khối lượng niêm yết khoảng 1.122,35 triệu trái phiếu và tổng giá trị niêm yết khoảng 155.938,27 tỷ đồng. Có thể nhận xét rằng, năm 2006 là một năm đánh dấu sự bùng nổ của TTCK Việt Nam. Đến cuối năm 2006, giá trị vốn hoá của thị trường đạt mức tương đương 22,4% so với GDP, tăng khoảng 20 lần so vơí năm 2005. Tổng giá trị thị trường trong năm 2007 đến thời điểm này có những ngày đạt mức cao, tương đương với 38% so với GDP. Chỉ số VN-Index từ mức 307,5 điểm vào cuối năm 2005 đã tăng đạt mức kỷ lục 809,86 điểm trong phiên ngày 20/12/2006 và bứt phá đạt mức kỷ lục mới là 1.174,22 điểm trong phiên ngày 12/3/2007[24]. Chỉ số HASTC-Index cuối tháng 12/2006 dừng ở mức 242,89 điểm và đạt kỷ lục 459,36 điểm trong phiên ngày 19/3/2007, tăng gấp 3 lần chỉ trong có 3 tháng[25]. Tổng số vốn huy động được qua TTCK năm 2005 đạt trên 7.000 tỷ đồng, sau một năm đã tăng gấp 4 lần, trong đó có trên 18.000 tỷ đồng là trị giá cổ phần của DNNN được đấu giá sau khi CPH[24]. Bên cạnh đó, cũng gần 500 loại TPCP đã được huy động và niêm yết trên TTCK với tổng giá trị hơn 81.000 tỷ đồng, chiếm 8,4% GDP năm 2006. Sự xuất hiện của các CCQĐT với tổng giá trị 1000 tỷ đồng và 3.550 tỷ đồng trái phiếu của các ngân hàng Vietcombank và BIDV đã làm cho hàng hoá trên TTCK càng thêm phong phú. Kể từ tháng 7/2002 đến hết quý II/2007, TTGDCK Tp.HCM đã tổ chức được 1570 phiên giao dịch và ở TTGDCK HN là 403 phiên giao dịch an toàn và liên tục.[2] Bảng1: Quy mô khối lượng và giá trị giao dịch chứng khoán niêm yết trên toàn thị trường tính đến ngày 1/10/1007. Tỷ trọng Tổng Cổ phiếu Trái phiếu CCQĐT Ck khác Khối lượng niêm yết TTGDCK HN 1.746.156.937 1.134.850.978 611.305.968 0 0 TTGDCK Tp.HCM 2.558.564.700 1.947.517.830 511.046.870 100.000.000 0 Tổng 4.304.721.646 3.082.368.808 1.122.352.865 100.000.000 0 Tỷ trọng 100% 71,6% 26,08% 2,32% 0% Giá trị niêm yết (triệu đồng) TTGDCK HN 72.479.099,47 11.348.509,87 61.130.589,60 0 0 TTGDCK Tp.HCM 75..282.874,87 19.475.187,87 54.807.687,00 1.000.000,00 0 Tổng 147.761.947,34 30.823.697,74 115.938.276,60 1.000.000,00 0 Tỷ trọng 100% 20,86% 74,46% 0,68% 0% Nguồn: Tổng kết từ SGDCK Tp.HCM và TTGDCK HN Trong những tháng đầu năm 2007, tổng giá trị chứng khoán đạt mức gần 40.000 tỷ đồng, tăng trên 3 lần so với tổng giá trị giao dịch của cả năm 2006. Huy động vốn tăng mạnh từ đầu 2007. Trong 3 tháng đầu năm, trị giá huy động vốn đã đạt được trên 7.000 tỷ, bằng khoảng 1/4 giá trị huy động trong năm 2006. Tính đến tháng 3/2007, nhà ĐTNN nắm giữ hơn 778 triệu cổ phiếu ( giá trị thị trường khoảng 14.000 tỷ đồng) chiếm khoảng 30% tổng khối lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường.[24] Với tốc độ phát triển và những chỉ tiêu cơ bản trên, TTCK Việt Nam được đánh giá là tăng trưởng nhanh nhất Châu á và đang thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư.[24] Ngoài hai TTGDCK dành cho chứng khoán niêm yết, sàn chứng khoán thứ cấp giành cho cổ phiếu chưa niêm yết (OTC) cũng đã chính thức mở cửa ngày 14/7/2005 với 6 doanh nghiệp tham gia giao dịch cổ phiếu trên Sàn. Ngay sau phiên giao dịch đầu tiên, tổng số lượng cổ phiếu được đem bán là 1.420 tỷ đồng, giá trị chuyển nhượng mua bán cổ phiếu của 6 doanh nghiệp này đạt 8,3 tỷ đồng. Đến nay, các giao dịch cổ phiếu, trái phiếu diễn ra trên thị trường này khá sôi động. Ước tính đến hết quý II/2007, có khoảng 350 loại cổ phiếu và trái phiếu của 30 NHTM, gần 340 doanh nghiệp… với tổng giá trị vốn hoá khoảng 500.000 tỷ đồng đang được giao dịch. [25] 2.2.Về hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán: Về hoạt động của các CtyCK: tính đến 1/10/2007, trên thị trường đã có 62 CtyCK được UBCKNN cấp phép hoạt đông. Trong thời gian đầu, các CtyCK chủ yếu làm nghiệp vụ môi giới thì đến nay, hầu hết các CtyCK đã triển khai nghiệp vụ tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn tài chính. Hiện nay có 43 CtyCK được cấp phép kinh doanh cả 4 nghiệp vụ trên. [45] Về hoạt động của các CtyQLQ: hiện nay UBCKNN đã cấp giấy phép hoạt động cho 20 CtyQLQ ( trong đó có 4 CtyQLQ liên doanh và 2 CtyQLQ thuộc các công ty Bảo hiểm nhân thọ nước ngoài). Ngoài ra còn có các công ty liên doanh quản lý quỹ giữa Ngân hàng BIDV và công ty Partner của Mỹ; các CtyQLQ nước ngoài tham gia vào hoạt động trên TTCK TTCK Việt Nam như Dragon Capital, Mekong Capital, PXP, Finasa, Indochina…[24] Về quỹ đầu tư chứng khoán: tính đến hết quý II/ 2007, có 54 quỹ ĐTNN tham gia TTCK Việt Nam với quy mô vốn gần 4,0 tỷ USD và gần 50 tổ chức ĐTNN mở tài khoản hoặc quản lý uỷ thác đầu tư trên TTCK Việt Nam. Trong số đó có các tổ chức tài chính, Ngân hàng, tiền tệ hàng đầu thế giới như JP Morgan, Merrill Lynch, City Group, Nomura Securities,… [25] Về Ngân hàng giám sát: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam – Vietcombank là NHTM đầu tiên triển khai dịch vụ giám sát quỹ đầu tư chứng khoán, cụ thể là quỹ VF1. Để triển khai dịch vụ này, Vietcombank đã thực hiện bảo quản lưu ký chứng khoán, các hợp đồng kinh tế, các chứng từ có liên quan đến tài sản của quỹ VF1, thực hiện định giá tài sản ròng của Quỹ VF1 và Cty QLQ VF1. [25] Về Ngân hàng lưu ký: tính đến nay, có 6 NHTM được cấp giấy phép hoạt động Ngân hàng lưu ký chứng khoán, trong đó có 2 NHTM trong nước và 4 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. [25] Về nghiệp vụ thanh toán chứng khoán: hiện nay mới chỉ có Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) được UBCKNN lựa chọn làm Ngân hàng chỉ định thanh toán. Ngân hàng thực hiện việc mở tài khoản thanh toán bằng tiền cho TTGDCK và các thành viên lưu ký nhằm phục vụ cho việc thanh toán bằng tiền cho các giao dịch chứng khoán. Doanh số thanh toán bù trừ qua Ngân hàng thanh toán trong 6 năm qua, tính đến tháng 6/2007 ước tính đạt hơn 350.000 tỷ đồng. BIDV đã triển khai dịch vụ cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán cho khách hàng, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư quay vòng vốn nhanh hơn và tăng tính thanh khoản cao cho thị trường với doanh số khoảng 1.000 tỷ đồng. [25] 2.3. Về nhà đầu tư chứng khoán: Năm 2005, trên thị trường có tổ chức đã có trên 31.000 tài khoản giao dịch, ở thời điểm cuối năm 2006, con số này đã là 106.393 tài khoản. Tính đến hết qúy II/ 2007, TTCK có khoảng 243.809 tài khoản, tăng 2,3 lần so với năm 2006 (106.393 tài khoản), trong đó có 242.624 ._.hình thức này thực chất cũng là việc chào bán chứng khoán ra công chúng song lại được thực hiện theo những quy định riêng trong Nghị định 187 và chịu sự quản lý thống nhất của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp. Trong khi đó, các trường hơp PHCK ra công chúng thì phải chịu sự quản lý và giám sát của UBCKNN theo quy định trong Luật Chứng khoán. Như vậy xẩy ra tình trạng UBCKNN là cơ quan QLNN đầu ngành nhưng lại không được quyền quản lý và giám sát một trong các hoạt động này. Nếu chậm quản lý công ty đại chúng thì sẽ thiếu động lực thúc đẩy các công ty đại chúng sớm đưa cổ phiếu vào giao dịch trên thị trường chính thức. Bên cạnh đó, thu hẹp dần được hoạt động của thị trường tự do, tránh rủi ro cho nhà đầu tư tham gia TTCK. - Các tổ chức tham gia hoạt động bảo lãnh phát hành cần có sự liên kết phối hơp thành các tổ hợp bảo lãnh phát hành để có thể giải quyết được yêu cầu của các đợt bảo lãnh có giá trị cao, tăng cường chất lượng và kết quả của đợt bảo lãnh. 2.2. Giải pháp đối với hoạt động niêm yết và GDCK: - Ban hành thêm các cơ sở pháp lý cho các hoạt động mới nảy sinh như giao dịch các chứng khoán phái sinh (chứng quyền, quyền mua cổ phiếu…). Các hoạt động Repo cổ phiếu, trái phiếu, cầm cố cổ phiếu để đi vay là những hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro cho thị trường. Do vậy các hoạt động này phải được quy định, quản lý, giám sát chặt chẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của các chủ thể có liên quan, duy trì tính ổn định của thị trường đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan QLNN có được căn cứ pháp lý cần thiết để triển khai có hiệu quả các chức năng quản lý và giám sát các hoạt động trên thị trường. - Mở rộng việc sử dụng các biện pháp kinh tế, hành chính để đưa doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ cổ phần lên niêm yết. - Đầu tư, hiện đại hoá hệ thống giao dịch của SGDCK, TTGDCK. Hệ thống GDCK ở SGDCK Tp.HCM hiện nay đã lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được quy mô giao dịch đang ngày càng tăng, Chính phủ cần triển khai đầu tư hệ thống GDCK hiện đại. Hệ thống này phải đảm bảo cho phép thực hiện giao dịch không sàn trong tương lai không xa khi chúng ta chuyển sang hình thức giao dịch tiên tiến này, cho phép việc thực hiện việc giám sát các giao dịch một cách tự động, cho phép truyền, lưu trữ các giữ liệu một cách tự động. Bên cạnh hệ thống giao dịch, các hệ thống khác như hệ thống niêm yết, hệ thống lưu ký…cũng phải được đầu tư một cách đồng bộ. Kết nối mạng diện rộng giữa hệ thống giao dịch của SGDCK, TTGDCK với các thành viên, đảm bảo các hoạt động được diễn ra thông suốt và nhanh chóng. - Tăng cường giám sát toàn bộ quy trình giao dịch. Trong thời gian qua đã có một số sự sai sót trong hoạt động giao dịch như nhà đầu tư không đảm bảo tỷ lệ kí quỹ, vừa đặt lệnh mua, vừa đặt lệnh bán cùng một loại chứng khoán, xuất hiện hoạt động giao dịch nội gián, cố ý nhập sai lệnh để tác động tới giá chứng khoán,… gây bất bình đối với nhà đầu tư, làm giảm tính công khai, minh bạch trên thị trường. Do vậy, hoạt động của cơ quan QLNN là cần phải tăng cường việc giám sát và thanh tra trên toàn bộ TTCK. Cơ quan QLNN cần đưa ra các cảnh báo công khai và xử lý nghiêm các trường hợp các CtyCK, các nhà môi giới vi phạm các quy định về giao dịch chứng khoán như không thực hiên đúng quy trình GDCK, tham gia giao dịch nội gián…để tăng cường hiệu quả của công tác giám sát, cơ quan quản lý cần phải đẩy mạnh tin học hoá hoạt động này. 2.3. Đối với hoạt động CBTT: - Quy định trách nhiệm CBTT của các đối tượng tham gia TTCK cao hơn, đặc biệt với các CtyCK, CtyNY. Thông tin công bố phải đảm bảo minh bạch và dễ dàng tiếp cận, giúp các chủ thể tham gia thị trường có thể có được nhận được các thông tin chính xác và kịp thời. UBCKNN và các SGDCK, TTGDCK cần đa dạng hoá các thông tin trên các trang web, đảm bảo tính cập nhật của thị trường về các thông tin liên quan đến hoạt động của TTCK, các văn bản pháp quy, các mục tiêu, định hướng phát triển thị trường. Các phương tiện thông tin đại chúng cũng được coi là một trong các phương tiện phổ biến và truyền đạt thông tin khá phổ biến và hiệu quả. Hình thức này cũng cần được khai thác đẩy mạnh, tăng hiệu quả hơn nữa để có thể đưa CK&TTCK đi sâu hơn vào đời sống hàng ngày. - Tăng cường giám sát hoạt động CBTT của các chủ thể tham gia và liên quan đến TTCK. Trên TTCK, tính minh bạch và độ nhạy về thông tin luôn được các nhà đầu tư coi trọng. Chỉ khi nào các đối tượng có trách nhiệm thực hiện đầy đủ, kịp thời và đúng quy định nghĩa vụ CBTT thì nhà đầu tư mới có thông tin cần thiết, chuẩn xác và kịp thời đưa ra các quyết định mua, bán chứng khoán. Thực tế hiện nay còn có xuất hiện một số tổ chức chưa thực hiện đúng nghĩa vụ về CBTT, CBTT chậm chễ, có hiện tượng rò rỉ thông tin trong quá trình công bố…Một trong những nguyên nhân của hiện tượng này bởi do quá trình CBTT hiện nay phải trải qua một số công đoạn khá dài, thông tin từ doanh nghiệp sẽ được chuyển về SGDCK, TTGDCK để SGDCK và TTGDCK duyệt công bố, thời gian cho quá trình này có thể kéo dài từ 4-5 ngày, có nhiều đối tượng sẽ tiếp xúc được với thông tin trong qúa trình này vì thế dễ gây rò rỉ. Các cơ quan chức năng của Nhà nước mà trực tiếp là UBCKNN và SGDCK, TTGDCK cần tăng cường giám sát sự tuân thủ quy định về CBTT, điều tra, xác minh, phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm để bảo vệ nhà đầu tư. Một mặt, cần phải đẩy nhanh quá trình xử lý thông tin, phân loại thông tin thường và thông tin có độ nhạy cảm cao để có thể đưa thời gian xử lý và ưu tiên công bố cho phù hợp. Mặt khác, Chính phủ cần tăng mức độ xử phạt với các hành vi lợi dụng ưu thế về thông tin, giao dịch nội gián, CBTT sai lệch để thao túng, gây rối loạn thị trường. UBCKNN và SGDCK, TTGDCK cần phải chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ giám sát TTCK cho các cán bộ, nhân viên chuyên trách. Bên cạnh đó đẩy mạnh sự phối hợp với các cơ quan quản lý doanh nghiệp như Thuế…để nhanh chóng phát hiện kịp thởi phát hiện, ngăn ngừa và và xử lý vi phạm, tạo niềm tin cho công chúng. - Có các quy định cụ thể để bảo hộ nhà đầu tư trước các hành vi vi phạm của các đối tượng phải công bố thông tin như đề ra các quy định về đền bù tổn thất về vốn cho nhà đầu tư, xác định rõ các căn cứ để tính mức độ tổn thất, hình thức đền bù, thời hạn đền bù, đối tượng được đền bù và các biện pháp cưỡng chế thực thi các quyết định xử lý đền bù. 2.4. Giải pháp đối với hoạt động đăng kí, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán: - Nhà nước cần chú trọng đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, lực lượng nhân sự quản lý và vận hành TTLKCK để đáp ứng yêu cầu về lưu ký tập trung và thực hiện các hoạt động hỗ trợ cần thiết cho hoạt động của TTGDCK,SGDCK. Do đặc thù tổ chức hoạt động ban đầu của TTLKCK nên một số hoạt động nghiệp vụ giữa trụ sở chính và chi nhánh của TTLKCK chưa được đồng bộ. TTLKCK cần phải nghiên cứu, xây dựng một hệ thống quy trình chuẩn cho toàn bộ hệ thống. - Thời gian thanh toán các giao dịch cũng cần rút ngắn hơn nữa để để tăng tính hấp dẫn của TTCK. Để làm được điều này, bên cạnh việc chú trọng về công nghệ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, thì cũng cần phải cải cách các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hơn. - Yêu cầu các CtyCK phải mở tài khoản lưu ký của khách hàng tách riêng ra tài khoản của CtyCK, tài khoản của mỗi khách hàng được tách riêng chứ không gộp chung lại thành một tài khoản như hiện nay để cơ quan QLNN có thể dễ dàng quản lý và giám sát các hoạt động giao dịch của nhà đầu tư. - Nghiên cứu chuyển đổi TTLKCK sang mô hình công ty TNHH hoặc CtyCP theo quy định của Luật Chứng khoán nhằm tăng tính linh hoạt và tự chủ trong hoạt động, đồng thời tạo điều kiện cho các thành viên tham gia sâu hơn vào hoạt động của TTLKCK và cũng là để phù hợp hơn với các thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, công việc này phải được cơ quan QLNN thực hiện dựa trên việc đánh giá thấu đáo về tác động đối với mọi khía cạnh theo một lộ trình chuyển đổi khả thi và hợp lý. 2.5. Giải pháp đối với các hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán: * Đối với các hoạt động kinh doanh chứng khoán: - Khuyến khích thêm nhiều loại hình tài chính được thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán và ĐTCK chuyên nghiệp. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự đa dạng, phong phú, kinh nghiệm và hiệu quả trong hoạt động của các tổ chức trung gian trên thị trường giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển vững chắc của TTCK. Trước yêu cầu phát triển và lộ trình hội nhập của TTCK thì Chính phủ phảI thực hiện chính sách đa dạng hoá các loại hình tổ chức được phép hoạt động kinh doanh dịch vụ và đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, trong đó cần quan tâm đến việc xây dựng các cơ sở pháp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các loại hình công ty định mức tín nhiệm. Với loại hình cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm tương đối chặt chẽ của các công ty này, nhà đầu tư và công chúng có thể đánh giá dễ dàng chất lượng và độ tin cậy của các hoạt động giao dịch trên TTCK. - Nâng cao năng lực cạnh tranh của các trung gian tài chính thông qua việc yêu cầu, khuyến khích các tổ chức này phải đảm bảo được các yêu cầu về cơ sở vật chất, ứng dụng khoa học công nghệ trong giao dịch trực tuyến, đảm bảo sự kết nối đồng bộ, tương thích với SGDCK, TTGDCK và TTLKCK; áp dụng các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với các nhân viên hành nghề theo thông lệ quốc tế. Việc nâng cao chất lượng phục vụ của nhà đầu tư vừa để có thể cung cấp được các dịch vụ chứng khoán mang tính cạnh tranh khi có sự tham gia của các yếu tố nước ngoài, đồng thời cũng là để thực hiện các mục tiêu kích cầu cho TTCK. Bên cạnh đó, các CtyCK phải thực hiện một nhiệm vụ cơ bản trong vai trò của một nhà tạo lập thị trường. UBCKNN cần phải đưa ra các quy định bắt buộc các CtyCK thành viên phải hoạt động như là nhà tạo lập thị trường cho một số chứng khoán nhất định, góp phần điều tiết thị trường. * Đối với hoạt động ĐTCK: - Khuyến khích phát triển các nhà đầu tư trong nước làm nòng cốt, đảm bảo tính ổn định cho TTCK. Để làm được như vậy thì cần phải chú trọng hoạt động đào tạo, trang bị kiến thức cho nhà đầu tư trong nước về kĩ năng đầu tư, về rủi ro và các biện pháp phòng ngừa, cũng như khả năng phân tích dự báo tình hình biến động của TTCK. Thực tế hiện nay cho thấy, nhà đầu tư ở trong nước, nhất là rất ít các nhà đầu tư cá nhân có hiểu biết về kĩ năng đầu tư trên TTCK. Họ thường đầu tư theo tâm lý “ đám đông”, nhất là đầu tư theo các nhà ĐTNN. Do đó, khi thị trường phát triển hay đảo chiều thì họ ồ ạt mua vào hay bán ra làm ảnh hưởng đến tình hình giao dịch của thị trường. Khi đó tâm lý và kĩ năng của nhà đầu tư là rất quan trọng. - Có các chính sách để thúc đẩy sự ra đời của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như các quỹ đầu tư cá nhân và tập thể, quỹ hưu trí, và sự tham gia của các công ty bảo hiểm nhằm tăng cường yếu tố đầu tư dài hạn, khắc phục xu hướng đầu tư ngắn hạn nhằm mục đích đầu cơ. - Xây dựng và công bố lộ trình mở cửa cụ thể để các nhà ĐTNN chủ động tham gia TTCK theo hướng đảm bảo phù hợp với luật pháp Việt Nam và các cam kết WTO. Khi xây dựng lộ trình mở cửa TTCK, chúng ta có thể thực hiện theo hướng là quy định tỷ lệ giới hạn sở hữu của nhà ĐTNN theo từng nhóm ngành nghề khác nhau theo các mức độ khác nhau. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước thường thực hiện những lộ trình mở cửa TTCK một cách khá thận trọng với những công cụ bảo hộ đầu tư trong nước và kiểm soát đầu tư nước ngoài klá chặt chẽ. Bên cạnh đó, bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997 xảy ra khi nhà ĐTNN rút vốn ồ ạt trên thị trường buộc chúng ta phải cân nhắc lộ trình mở cửa cho phù hợp. Trước yêu cầu của tiến trình hội nhập, Chính phủ phải tiếp tục mở cửa TTCK, song điều quan trọng là cách thức và lộ trình như thế nào để vừa đảm bảo an toàn, vừa đáp ứng được đòi hỏi của tiến trình hội nhập. KẾT LUẬN: Qua tìm hiểu, nghiên cứu thực tế về QLNN đối với TTCK Việt Nam có thể nhận xét rằng vai trò của QLNN trong việc xây dựng, quản lý và điều hành TTCK ở nước ta là rất lớn. Từ khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế theo định hướng kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhận thức được sự cần thiết và tính tất yếu khách quan phải xây dựng và phát triển TTCK, Nhà nước đã có các động thái tích cực để chuẩn bị các điều kiện kinh tế-xã hội cần thiết để hình thành TTCK. Mô hình bộ máy tổ chức quản lý đối với TTCK đã có những thay đổi cần thiết cho phù hợp với tình hình mới; thông qua UBCKNN, Nhà nước vẫn thực hiện được chức năng quản lý, điều hành của mình. Các cơ quan QLNN đã xây dựng được một khung pháp lý làm cơ sở cho mọi hoạt động trên TTCK, có các quy định để tổ chức, quản lý và giám sát các hoạt động phát hành, niêm yết, đăng kí giao dịch, CBTT, các hoạt động đăng kí, lưu kí, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các hoạt động kinh doanh, đầu tư chứng khoán…với mục tiêu đảm bảo một thị trường an toàn, công bằng và minh bạch cho tất cả các chủ thể tham gia trên thị trường. TTCK vẫn là một thị trường mới mẻ ở Việt Nam, vì vậy, trong quá trình quản lý và vận hành TTCK của cơ quan QLNN cũng tồn tại không ít những hạn chế như chưa thống nhất được các văn bản pháp lý có liên quan, mô hình tổ chức bộ máy quản lý tạo ra một số chậm trễ trong việc đưa ra các quyết định quản lý của các cấp thẩm quyền, công tác thanh tra, giám sát các hoạt động trên thị trường còn yếu nên xuất hiện nhiều sai phạm gây ảnh hưởng không tốt tới nhà đầu tư và sự ổn định, minh bạch của toàn TTCK. TTCK đang ngày càng được mở rộng và phát triển, đóng vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, đưa đất nước phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Do đó, những hạn chế còn tồn tại trong công tác QLNN đối với TTCK Việt Nam cần sớm được các cơ quan quản lý ngành CK&TTCK có các biện pháp khắc phục để triển khai thực hiện được tốt các mục tiêu, định hướng đã đề ra. Xuất phát từ thực trạng công tác QLNN đối với TTCK Việt Nam, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước, tuân thủ các quy tắc quản lý TTCK của IOSCO đồng thời gắn kết với chiến lược phát triển TTCK Việt Nam mà Chính phủ đã phê duyệt, luận văn đã đề cập một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao vai trò QLNN với TTCK Việt Nam như hoàn chỉnh hệ thống khung pháp lý và tổ chức bộ máy QLNN; các giải pháp đối với các hoạt động phát hành, niêm yết, đăng kí giao dịch, hoạt động giao dịch, lưu kí chứng khoán, các hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán cùng một số giải pháp chung khác. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được nhận được sự góp ý của các thầy cô để luận văn được hoàn chỉnh hơn. Cuối cùng, em xin được cảm ơn tới cô giáo, T.S Nguyễn Thị Việt Hoa đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em thực hiện và hoàn tất luận văn này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Danh mục các văn bản pháp luật, các sách, báo, tạp chí: [1] Ban hợp tác quốc tế(2006), 30 nguyên tắc quản lý thị trường chứng khoán của IOSCO, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 11. [2] Ban phát triển thị trường(2007), Giải pháp phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 7. [3] Ban pháp chế(2007), Xây dựng khuôn khổ pháp lý cho thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 7. [4] Ban pháp chế(2007), Hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý cho TTCK, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 1+2. [5] Th.S Tạ Thanh Bình(2007), Quan niệm về pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán ở một số nước trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7. [6] Th.S Tạ Thanh Bình(2007), Vai trò tự quản trong quản lý thị trường chứng khoán, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 3. [7] TS Thái Bá Cẩn( chủ biên), Lê Xuân Hiếu, Trần Nguyên Nam(2005), Thị trường chứng khoán Việt Nam-5 năm hình thành và phát triển, NXB Tài chính, Hà Nội. [8] TS.Trần Thị Minh Châu(2003), Thị trường chứng khoán và những điều kiện kinh tế xã hội hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. [9] Chính phủ, Các văn bản pháp luật về Chứng khoán và TTCK. [10] Hoàng Chương(2006), Nhìn nhận những vấn đề phát sinh từ đấu giá cổ phần- Một số đề xuất cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 4. [11] Nguyễn Đình Cung(2005), Luật Doanh nghiệp thống nhất- kiểm soát giao dịch giữa các bên liên quan trong công ty cổ phần, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 1+2. [12] Trần Văn Dũng(2005), Khai trương sàn giao dịch thứ cấp tại TTGDCK HN- một bước phát triển của TTCK, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 7. [13] Vũ Xuân Dũng(2007), Một số giải pháp nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Thương mại. [14] Nguyễn Minh Đức(2006), Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế chuyển đổi, NXB Tài chính, Hà Nội. [15 ] La Hằng(2007), Thực trạng và giải pháp nâng cao hoạt động đấu thầu TPCP, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 10. [16] Khánh Hạ(2006), Tăng cường quản lý thị trường giao dịch phi chính thức, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 4. [17] Nguyễn Thị Thu Hiền(2007), Hoạt động quản lý thị trường chứng khoán của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 4. [18] Nguyễn Thị Liên Hoa(2006), Quản lý và giám sát thị trường chứng khoán- bài học kinh nghiệm của Cộng hoà Séc và Ba Lan, Tạp chí Chứng khoán số 4. [19] Th.S Nguyễn Thị Liên Hoa(2007), Phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Tài chính số tháng 4. [20] Vũ Thị Kim Liên(2005), Đâu là chức năng chính của UBCKNN- Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 1+2. [21] Vân Linh(2006), Trung tâm lưu kí chứng khoán-một bước tiến quan trọng trong tiến trình hoàn thiện cấu trúc hạ tầng của thị trường chứng khoán Việt Nam, Bài phỏng vấn ông Nguyễn Đoan Hùng, phó chủ tịch Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Tạp chí Chứng khoán số5. [22] Nguyễn Hạnh Nam(1998), Quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán ở các nước mới nổi, bài học áp dụng đối với việc xây dựng thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án Thạc sĩ kinh tế, Đại học Ngoại Thương. [23] Th.S Nguyễn Văn Phụng(2006), Thuế đối với chứng khoán: nhưng cần phải cân nhắc kĩ lưỡng, Tạp chí Tài chính số tháng 6. [24] Th.S Nguyễn Văn Phụng(2007), Quản lý, giám sát và thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh và đúng hướng, Tạp chí Tài chính số tháng 5. [25] TS. Hoàng Xuân Quế(2007), Thị trường chứng khoán Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Thương mại số 27. [26] Nguyễn Sơn, Nguyễn Quốc Việt(2000), Thị trường chứng khoán Việt Nam , mô hình và bước đi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội [27] TTGDCK HN(2007), TTGDCK Hà Nội qua hai năm hoạt động, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 7. [28] TTLKCK(2007), Trung tâm lưu kí chứng khoán-kết quả hoạt động và nhiệm vụ năm 2007, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 1+2. [29] Lê Văn Tề, Trần Đắc Sinh, Nguyễn Văn Hà(2005), Thị trường chứng khoán tại Việt Nam, NXB Thống kê,Tp. Hồ Chí Minh. [30] Hồng Thắng(2007), Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Chứng khoán- Tạo khung pháp lý đồng bộ thực thi Luật Chứng khoán, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 1+2. [31] TS. Phạm Thị Giang Thu(2004),Một số vấn đề về pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. [32] TS.Lê Thị Thu Thuỷ, TS.Nguyễn Anh Sơn(2004),Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán ở Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội. [33] ThS. Nguyễn Hải Thập(2004), Một số vấn đề về quản lý và quản lý thị trường chứng khoán, Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 8. [34] Nguyễn Hải Thập(2005), Quá trình hình thành và quản lý thị trường chứng khoán ở một số nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Ngoại Thương. [35] PGS.TS Đinh Văn Tiến(2007), Một số vấn đề về quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 137. [36] Đinh Xuân Trình, Nguyễn Thị Quy(1998), Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Giáo dục, Hà Nội. [37] GS,TS.Nguyễn Thanh Tuyền( Chủ biên), TS.Nguyễn Đăng Dờn, Th.S.Bùi Thị Kim Yến, Th.S Thân Thị Thu Thuỷ, TS. Vũ Thị Minh Hằng(2004), Thị trường chứng khoán, NXB Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh. [38] Uỷ ban chứng khoán Nhà nước(2007), Chương trình hành động của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước để phát triển thị trường chứng khoán năm 2007, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 4. [39] SBV(2007), Cho vay để đầu tư kinh doanh chứng khoán, thực trạng và giải pháp phòng ngừa rủi ro, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 14. 2. Các trang Website: [40] [41] [42] [43] [44] [45] [46] [47] [48] [49] [50] www.hastc.org.vn [51] [52] PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: Các văn bản pháp lý liên quan đến CK&TTCK được ban hành năm 2007: Số/ Kí hiệu Ngày ban hành Trích yếu nội dung 14/2007/NĐ-CP 19/1/2007 Nghị định số 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán 36/2007/NĐ-CP 8/3/2007 Nghị định 36/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán 63/2007/QĐ-TTg 10/5/2007 Quyết định 63/2007/QĐ-TTg về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của UBCKNN thuộc Bộ Tài chính 559/QĐ-TTg 11/5/2007 Quyết định 559/QĐ-TTg chuyển TTGDCK Tp.HCM thành SGDCK Tp. HCM 128/2007/QĐ-TTg 2/8/2007 Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 17/2007/TT-BTC 13/3/2007 Thông tư số 17/2007/TT-BTC ngày 13/3/2007 Hướng dẫn Hồ sơ đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng 13/2007/QĐ-BTC 13/3/2007 Quyết định số 13/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 về ban hành mẫu Bản cáo Bạch 12/2007/QĐ-BTC 13/3/2007 Quyết định số 12/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 ban hành Quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết trên SGDCK/TTGDCK 18/2007/TT-BTC 13/3/2007 Thông tư số 18/2007/TT-BTC ngày 13/3/2007 hướng dẫn việc mua, bán lại cổ phiếu và một số trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của công ty đại chúng 15/2007/QĐ-BTC 19/3/2007 Quyết định số 15/2007/QĐ-BTC về việc ban hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên SGDCK/TTGDCK 38/2007/TT-BTC 18/4/2007 Thông tư số 39/2007/TT-BTC Hướng dẫn về việc công bố thông tin trên TTCK 27/2007/QĐ-BTC 24/4/2007 Quyết định 27/2007/QĐ-BTC về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động CtyCK 35/2007/QĐ-BTC 15/5/2007 Quyết định 35/2007/QĐ-BTC về việc ban hành kèm theo quy chế Tổ chức và hoạt động của CtyQLQ 45.2007/QĐ-BTC 5/6/2007 Quyết định 45/2007/QĐ-BTC ban hành kèm theo quy chế thành lập và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán 97/2007/TT-BTC 8/8/2007 Thông tư 97/2007/TT-BTC hướng dẫn về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK 115/QĐ-UBCK 13/2/2007 Quyết định 115/QĐ-UBCK Ban hành quy chế mẫu về bán đấu giá cổ phần tại TTGDCK 25/QĐ-TTGDHCM 17/4/2007 Quyết định về việc ban hành Quy chế giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Tp.HCM Nguồn: UBCKNN PHỤ LỤC 2: Sơ đồ 4: Sơ đồ tổ chức của UBCKNN ở Việt Nam: Bộ Tài chính UBCKNN Chủ tịch Phó chủ tịch Phó chủ tịch Ban phát triển TTCK Ban quản lý PHCK Ban quản lý KDCK Ban kế hoạch tài chính Ban pháp chế Ban hợp tác quốc tế Ban tổ chức cán bộ Thanh tra Tạp chí CKVN Văn phòng UBCKNN SGDCK Tp.HCM TTGDCK HN TTLKCK TT NCứu&ĐTạo CK TT Tin học & thốngkê Nguồn: UBCKNN DANH MỤC CHỮ VIẾT TĂT: CBTT Công bố thông tin CtyNY Công ty niêm yết CtyCP Công ty cổ phần CtyCK Công ty chứng khoán CtyQLQ Công ty quản lý quỹ CCQĐT Chứng chỉ quỹ đầu tư CK&TTCK Chứng khoán và thị trường chứng khoán CPH Cổ phần hóa DNNN Doanh nghiệp Nhà nước ĐKGD Đăng kí giao dịch ĐTNN Đầu tư nước ngoài ĐTCK Đầu tư chứng khoán GDCK Giao dịch chứng khoán HĐQT Hội đồng Quản trị NHTM Ngân hàng thương mại NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần PHCK Phát hành chứng khoán QLNN Quản lý Nhà nước TTLKCK Trung tâm lưu kí chứng khoán TTCK Thị trường chứng khoán TCNY Tổ chức niêm yết TCPH Tổ chức phát hành TCTD Tổ chức tín dụng TNHH Trách nhiệm hữu hạn TPCP Trái phiếu Chính phủ TPCQĐP Trái phiếu chính quyền địa phương TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán TTGDCK HN Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội TTGDCK Tp.HCM Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh SGDCK Sở giao dịch chứng khoán SGDCK Tp.HCM Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh UBCKNN Uỷ ban chứng khoán Nhà nước DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ 1. Danh mục các bảng biểu: Bảng 1: Quy mô khối lượng và giá trị chứng khoán niêm yết trên toàn thị trường tính đến ngày 1/10/2007 Bảng 2: Quy mô giao dịch toàn thị trường qua các năm tại TTGDCK Tp.HCM Bảng 3: Giá trị thị trường và doanh thu của một số nước trong khu vực trong năm 2005 2. Danh mục các sơ đồ: Sơ đồ 1: Mô hình dòng vốn đầu tư vào ngân sách các doanh nghiệp. Sơ đồ 2: Mô hình ban đầu về tổ chức bộ máy QLNN và tổ chức TTCK Việt Nam. Sơ đồ 3: Mô hình hiện nay về tổ chức bộ máy QLNN và tổ chức TTCK Việt Nam. Sơ đồ 4: Sơ đồ tổ chức của UBCKNN ở Việt Nam. MỤC LỤC MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu 2 2.1. Mục đích nghiên cứu 2 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2 2.4. ý nghĩa của việc nghiên cứu 3 2.5. Kết cấu của luận văn 3 CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TTCK VÀ QLNN ĐỐI VỚI TTCK 4 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TTCK 4 1.Tính tất yếu khách quan của sự hình thành và phát triển của TTCK trong nền kinh tế thị trường 4 2. Khái niệm về TTCK 7 3. Đặc điểm của TTCK 7 3.1. Hàng hoá trao đổi trên TTCK là những hàng hoá đặc biệt 7 3.2. Phương thức giao dịch trên TTCK khá đặc thù 8 3.3. TTCK mang tính cạnh tranh khá hoàn hảo 8 4. Chức năng của TTCK 8 4.1. TTCK tạo ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế 8 4.2. TTCK tham gia phân phối lại thu nhập quốc dân 8 4.3. TTCK là kênh giao lưu vốn trong nước và nước ngoài 9 4.4. TTCK điều hoà phân bổ vốn đầu tư xã hội giữa các lĩnh vực, ngành nghề doanh nghiệp 9 4.5. TTCK cung cấp một chỉ báo và một môi trường điều tiết vĩ mô 9 4.6. TTCK cung cấp tính thanh khoản cho nhà đầu tư 9 4.7. TTCK có chức năng định giá thị trường doanh nghiệp có phiếu giao dịch 10 5. Phân loại TTCK 10 5.1. Căn cứ vào sự luân chuyển của nguồn vốn 10 5.1.1. Thị trường sơ cấp hay thị trường phát hành (Primary market) 10 5.1.2. Thị trường thứ cấp hay thị trường lưu hành chứng khoán (Secondary market) 10 5.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động 11 5.2.1. TTCK tập trung (SGDCK, TTGDCK) 11 5.2.2. Thị trường phi tập trung 11 5.3. Căn cứ vào hàng hoá trên TTCK 12 5.3.1. Thị trường cổ phiếu (The stock market) 12 5.3.2. Thị trường trái phiếu (Bond market) 12 5.3.3. TTCK phái sinh 12 II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TTCK 12 1. Khái niệm cơ bản về quản lý và QLNN đối với TTCK 12 2. Vai trò của việc quản lý TTCK 14 3. Chức năng của quản lý TTCK 14 4. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý TTCK 15 4.1. Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị và kinh tế 15 4.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ 16 4.3. Nguyên tắc kết hợp giữa các lợi ích kinh tế 17 4.4. Nguyên tắc hiệu quả 18 5. Các biện pháp quản lý TTCK 18 5.1. Biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng 20 5.2. Biện pháp hành chính luật pháp 20 5.3. Biện pháp tổ chức và chỉ đạo 21 5.4. Biện pháp kinh tế 22 6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động QLNN đối với TTCK 22 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG QLNN ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM 25 I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM 25 1. Quá trình hình thành TTCK Việt Nam 25 2. Thực trạng TTCK Việt Nam 26 2.1. Về quy mô hoạt động 26 2.2. Về hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán 29 2.3. Về nhà đầu tư chứng khoán 30 II. THỰC TRẠNG QLNN ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM 30 1. Khung pháp lý 30 2. Mô hình tổ chức QLNN đối với TTCK ở Việt Nam 32 2.1. Mô hình trong giai đoạn ban đầu 33 2.2. Mô hình hiện tại 36 3. Thực tiễn QLNN đối với TTCK Việt Nam trong thời gian vừa qua 40 3.1. Hoạt động phát hành chứng khoán 40 3.1.1. Quản lý đối với việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP 40 3.1.2. QLNN đối với hoạt động PHCK của các doanh nghiệp 42 3.2. QLNN đối với hoạt động niêm yết và ĐKGD 48 3.3. QLNN đối với hoạt động GDCK 52 3.4. QLNN đối với hoạt động CBTT 55 3.5. QLNN đối với hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán GDCK 58 3.6. Hoạt động tổ chức thị trường GDCK, kinh doanh và đầu tư chứng khoán 60 3.6.1. Hoạt động tổ chức thị trường GDCK 60 3.6.2. Quản lý các hoạt động kinh doanh chứng khoán 61 3.6.3. Quản lý, giám sát đố với các hoạt động ĐTCK 63 III. Đánh giá hoạt động QLNN đối với TTCK Việt Nam 66 1. Kết quả đạt được 66 Chương III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN đối với TTCK Việt Nam 71 I. Bài học kinh nghiệm từ mô hình quản lý TTCK của một số nước và những bài học cho QLNN đối với TTCK Việt Nam 71 1. Mô hình quản lý TTCK Thái Lan 71 1.1. Mục tiêu quản lý TTCK Thái Lan 72 1.2. Cơ quan quản lý TTCK 72 1.3. Phương thức quản lý của TTCK Thái Lan 73 1.4. Nội dung quản lý TTCK Thái Lan 73 1.5. Các tiêu chí đánh giá hoạt động quản lý TTCK Thái Lan 73 2. Mô hình quản lý TTCK của Ba Lan 74 2.1. Một số nét về thị trường vốn 74 2.2. Hoạt động QLNN đối với TTCK Ba Lan 74 3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 76 II. Mục tiêu, định hướng, cơ hội và thách thức đối với TTCK Việt Nam 78 1. Mục tiêu định hướng phát triển TTCK Việt Nam 78 1.1. Mục tiêu cơ bản 78 1.2. Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến 2010 78 2. Cơ hội và thách thức đối với TTCK Việt Nam 79 2.1. Cơ hội 79 2.2. Thách thức 79 III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN đối với TTCK Việt Nam 80 1. Các giải pháp chung 80 1.1. Hoàn thiện khung pháp lý CK & TTCK 80 1.2. Hoàn thiện bộ máy QLNN đối với TTCK 82 1.3. Một số giải pháp chung khác 84 2. Các giải pháp riêng 86 2.1. Giải pháp đối với hoạt động phát hành ra công chúng 86 2.2. Giải pháp đối với hoạt động niêm yết và GDCK 87 2.3. Đối với hoạt động CBTT 89 2.4. Giải pháp đối với hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trù và thanh toán chứng khoán 90 2.5. Giải pháp đối với các hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán 90 Kết luận 93 Danh mục tài liệu tham khảo 95 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT033.doc
Tài liệu liên quan