Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây -Thực trạng & Giải pháp

Tài liệu Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây -Thực trạng & Giải pháp: CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 1. GTGT : Giá trị gia tăng 2. KTNQD : Kinh tế ngoài quốc doanh 3. NQD : Ngoài quốc doanh 4. NSNN : Ngân sách Nhà nước 5. TNCT : Thu nhập chịu thuế 6. TNDN : Thu nhập doanh nghiệp 7. TSCĐ : Tài sản cố định 8. TTĐB : Tiêu thụ đặc biệt 9. UBND : Uỷ ban nhân dân 10. XDCB : Xây dựng cơ bản 11. XHCN : Xã hội chủ nghĩa 12. XNK : Xuất nhập khẩu PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều... Ebook Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây -Thực trạng & Giải pháp

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây -Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu nhập từ phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía sau quá trình chuyển dịch này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số thuế thu được trong hiện tại và tương lai, ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh doanh, đến động thái tiêu dùng xã hội, thuế và tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội… Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ thuế không chỉ thể hiện ra là những vấn đề kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Thuế không những đòi hỏi tính khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật định mà còn cần đến nghệ thuật tinh tế trong hành thu. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN - hàng năm số thu về thuế chiếm khoảng 80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần tu chỉnh các Luật thuế, các văn bản pháp lý khác về thuế nhằm hoàn thiện hệ thống thuế, đưa thuế ngày càng tiếp cận thực tiễn. Để phản ánh và theo kịp bước chuyển của nền kinh tế thì công tác quản lý thuế cần phải thay đổi và hoàn thiện nhằm đáp ứng tình hình phát triển kinh tế của đất nước cũng như các cam kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Qua đó khai thác tối đa những uy lực vốn có của thuế để kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh của mọi đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Ở Việt Nam, hoạt động của khu vực KTNQG đã và đang ngày càng mở rộng trên khắp các địa bàn trong từng địa phương và cả nước. Song chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn còn thực hiện tùy tiện, chưa đúng chế độ, hiện tượng khai man trốn thuế, lậu thuế còn nhiều từ đó tạo ra sự bất bình đẳng và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQG phải tiếp tục cải tiến và hoàn thiện nhằm thực hiện được mục tiêu, yêu cầu của hệ thống thuế đặt ra. Hà Tây là một tỉnh thuộc đồng bằng - trung du Bắc bộ, số thu về thuế không nhiều, chưa đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương, nhưng trong đó KTNQG đã đóng góp một phần không nhỏ vào số thu hàng năm của ngân sách địa phương. Nhiều năm qua ngành thuế tỉnh Hà Tây nói chung, thuế NQD nói riêng đã hoàn thành kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao. Nhưng với tính chất đa dạng và phức tạp của khu vực kinh tế này, công tác quản lý thuế ở tỉnh Hà Tây cần được khắc phục những mặt hạn chế và tồn tại, đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu, thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật. Xuất phát từ tình hình trên, luận văn với đề tài “Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây -Thực trạng và giải pháp” hy vọng đưa ra được một số giải pháp đáp ứng những yêu cầu bức xúc của đời sống kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay đã có không ít đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về thuế và công tác quản lý thu thuế. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau. - Vũ Công Nhĩ: "Thất thu thuế ở Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp". Luận án PTS khoa học kinh tế - 1995. - Nguyễn Thị Hiền: "Một số vấn đề về hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam". Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế - 1997. - Vũ Thị Toản: "Công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn Hà Nội". Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế - 1996. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết thiết thực, nhiều cuộc hội thảo đã được tổ chức... Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu bàn về quản lý thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây.Vì vậy, luận văn nghiên cứu là cần thiết, qua đó chỉ những nguyên nhân còn hạn chế trong quản lý thu thuế NQD, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp khả thi ở địa bàn tỉnh Hà Tây, nhằm thực hiện được mục tiêu của hệ thống thuế tại địa phương. 3. Mục đích và nhiệm vụ. - Mục đích: Làm rõ những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế NQD ở Hà Tây; đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm tăng cường, hoàn thiện quản lý thu thuế NQD trên địa bàn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của Hà Tây. - Nhiệm vụ của luận văn: + Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về thuế và quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD. + Phân tích đánh giá thực trạng quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây. + Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý thu thuế NQD tại tỉnh Hà Tây 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu: Ở Việt Nam KTNQD là một khu vực kinh tế đang hình thành và phát triển, cách hiểu về nó cũng còn nhiều vấn đề chưa thống nhất. Vì vậy, nghiên cứu về quản lý thu thuế khu vực KTNQD, đề tài chỉ tập trung tìm hiểu công tác quản lý thuế đối với các đơn vị trong các hoạt động sản xuất kinh doanh - dịch vụ gồm: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân, Hộ kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ. Cũng do điều kiện và mục đích nghiên cứu, luận văn chỉ giới hạn việc khảo sát, đánh giá khu vực KTNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong một số năm gần đây- chủ yếu là từ năm 2000, khi Luật doanh nghiệp được thực hiện đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn kết hợp sử dụng nhiều phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh để rút ra những kết luận cần thiết. 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn - Chỉ ra thực trạng, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại trong công tác quản lý thuế đối với khu vực KTNQD ở tỉnh Hà Tây. - Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1: Tổng quan về thuế và quản lý thuế ngoài quốc doanh Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây. Chương 3: Những quan điểm định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây những năm tới. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ 1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế - Khái niệm - bản chất: Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử – thuế ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Trong thời kỳ Cộng sản nguyên thuỷ, khi điều kiện lao động của con người còn thô sơ, con người lao động đủ để duy trì sự sống của mình, chưa có Nhà nước lúc đó xã hội chưa biết thuế là gì. Cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, xã hội loài người có sự phân chia thành giai cấp và đấu tranh giữa các giai cấp, Nhà nước ra đời. Để duy trì bộ máy Nhà nước, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, quốc phòng – an ninh .., đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn tài chính để chi tiêu. Nguồn tài chính này có được là do sự đóng góp của mọi thành viên trong xã hội và sự đóng góp này mang tính bắt buộc. Theo Ph.Ăngghen: “Để duy trì quyền lực công cộng cần phải có sự đóng góp của những người công dân cho Nhà nước, đó thuế má” (14, tr.552). Với tiến trình phát triển của xã hội loài người, Nhà nước xuất hiện, thuế cũng từ đó ra đời, tồn tại và phát triển Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, một khi Nhà nước chỉ làm nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ở chừng mực nhất định, xã hội ngày càng phát triển hơn nên Nhà nước có thêm nhiệm vụ điều hành, quản lý nền kinh tế thì chi tiêu của Nhà nước ngày càng nhiều hơn. Đến khi Nhà nước đảm nhận thêm công việc chăm lo đời sống, văn hoá, xã hội của cộng đồng thì thuế lại được động viên càng lớn với nhiều sắc thuế và ở tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế Như vậy, khi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng được mở rộng, đòi hỏi nguồn tài chính phục vụ cho việc chi tiêu ngày càng tăng lên. Điều đó, không thể thiếu sự đóng góp của người dân và các tổ chức kinh tế, đó là thuế. Theo phân tích trên, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và thuế ra đời khi hoạt động lao động sản xuất của xã hội loài người tạo ra sản phẩm thặng dư. Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, sự chuyển dịch giá trị sản phẩm thặng dư từ thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác rất đa dạng và phức tạp. Cho nên, đứng trên giác độ toàn xã hội, đòi hỏi phải có hệ thống thuế để điều tiết thoả đang số sản phẩm thặng dư xã hội tạo ra sao cho hợp lý và công bằng.Vì vậy, khi xã hội càng văn minh thì thuế khoá lại càng đa dạng và phát triển. Tóm lại, quá trình phát triển của Nhà nước và thuế cho chúng ta thấy, thuế và Nhà nước là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại tất yếu phải có thuế. Thuế là cơ sở vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Trên các sách báo kinh tế, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối khái niệm về thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù này. Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản: “Thuế khoá là cái vú sữa của Chính phủ” [13, tr317]. Sau này khái niệm về thuế được bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong cuốn Từ điển Kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes cho rằng: “Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản”. Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn “Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ như sau: Thuế nhà nước là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc hàng hoá, dịch vụ) của các Công ty và các hộ gia đình cho Chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hoá hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp thuế đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật” [31, tr.10]. Ở nước ta cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế. Theo một số nhà nghiên cứu: Thuế là hình thức động viên, phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo pháp luật của Nhà nước quy định, nhằm đáp ứng những khoản chi tiêu cần thiết của Nhà nước. Đó là khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức (chủ yếu là tổ chức kinh tế) và mọi thành viên trong xã hội; khoản thu này mang tính bắt buộc không hoàn trả trực tiếp [11, tr.1]. Gần đây, trong một số công trình nghiên cứu về thuế, các nhà kinh tế cho rằng, để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật các khía cạnh sau đây: Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước với pháp nhân và thể nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh Nhà nước, xét theo khía cạnh luật pháp thuế là khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định. Kết hợp những hạt nhân hợp lý của những quan niệm về thuế kể trên có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, nhằm sử dụng cho mục đích công cộng [31, tr.11]. - Đặc điểm của thuế: Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định qua từng giai đoạn phát triển. Nghiên cứu về thuế người ta thấy nó có những đặc điểm riêng để phân biệt với các công cụ tài chính khác. + Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong xã hội cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự: Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của NSNN. Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước mà kết quả của quá trình đó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác trực tiếp cho người nộp thuế. Tính chất cưỡng chế bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những lý do sau: Thứ nhất: hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu nhập phải chuyển giao. Thứ hai: trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng về hàng hoá công cộng ngày càng tăng cao. Để duy trì hoạt động đó thì thu nhập về hàng hoá công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp đủ các chi phí bỏ ra. Nhưng hàng hoá công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể phân bổ theo “khẩu phần” để sử dụng và người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo “khẩu phần”. Mặt khác, hàng hoá công cộng không có tính cạnh tranh và không thể đem trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù đắp các chi phí. Chính vì vậy trong việc cung cấp hàng hoá công cộng đã xuất hiện những “người ăn không”, nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng hàng hoá công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng hoá công cộng, Nhà nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc “người ăn không” phải chuyển giao thu nhập từ khu vực tư sang khu vực công. Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân. Từ đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính khác của NSNN như: lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt bằng tiền. Hình thức phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt tiền chỉ xảy ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích Nhà nước hoặc cộng đồng. Hình thức phí, lệ phí, công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của phí và lệ phí chỉ xảy ra khi người trả phí, lệ phí thụ hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung cấp. + Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp: Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế được biểu hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp xã hội chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thụ hưởng những dịch vụ hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế cũng không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập cho Nhà nước; mặt khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng không nhất thiết ngang bằng mức độ chuyển giao. Mức chuyển giao thu nhập nhiều hay ít chỉ căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội cũng như nhu cầu tài chính cung của Nhà nước. Thứ hai, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được hoàn trả trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được một phần các dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế và các khoản phí, lệ phí. + Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước bằng luật pháp: Đặc điểm này một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác phản ánh sự chuyển giao thu nhập không mang tính chất tuỳ tiện mà dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong các luật thuế, pháp lệnh thuế, đó là: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác. + Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất định: Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả thị trường (trong nước và quốc tế), sự biến động của NSNN, …. Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế chính trị của Nhà nước, tâm lý, tập quán của tầng lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc… Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội nên người ta thường nói đến thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp. + Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lý của Nhà nước đối với con người và tài sản: Các đạo luật về thuế chỉ có tác dụng điều tiết các hoạt động kinh tế và sự chuyển giao thu nhập trong khuôn khổ biên giới của mỗi quốc gia, nơi mà quyền lực pháp lý của nhà nước được duy trì. Điều này cũng có nghĩa là, trong các hoạt động kinh tế quốc tế, các giao dịch diễn ra ở nước ngoài phải chịu sự chi phối của luật pháp nói chung, những quy định về thuế nói riêng của nước ngoài. Chính vì điều này, trong quá trình hội nhập quốc tế, các quốc gia phải xây dựng hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế để tạo thuận lợi cho các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước. Tóm lại, những đặc điểm cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những đặc điểm đó, giúp chúng ta phân biệt thuế với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều phương diện khác nhau. 1.1.2. Vai trò của thuế + Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực cho Nhà nước: Bất kỳ một chế độ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều phải tạo cho mình một nền tài chính quốc gia vững chắc và lành mạnh, trong đó nguồn tài chính chủ yếu được động viên từ thuế và phí ở nội bộ nền kinh tế quốc dân. “Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN”. Ở nước ta từ khi có các luật thuế ra đời, nguồn thu từ thuế ngày càng tăng lên, ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu ngân sách, năm 1990 đạt 86%; năm 1997 đạt 87%, năm 1998 đạt 88%,đến nay khoảng 90% [23, tr.10]. Vai trò của thuế thực sự được nâng lên và thể hiện rõ trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, thuế được áp dụng thống nhất đối với các thành phần kinh tế không phân biệt kinh tế Nhà nước và KTNQD, nó bao quát và điều tiết các hoạt động kinh doanh, mọi nguồn thu nhập, mọi tài nguyên thiên thiên và mọi hoạt động tiêu dùng trong xã hội. Chính sách động viên về thuế có tác dụng bồi dưỡng nguồn thu vững chắc, lâu dài cho NSNN. Cơ chế thuế suất không nên quá phức tạp, quá cao mà cần nghiên cứu và tính toán dựa trên những căn cứ khoa học và sự phát triển của nền kinh tế sẽ phù hợp hơn với khả năng đóng góp của đối tượng nộp thuế, đảm bảo nguồn thu ngân sách được ổn định thường xuyên. Thuế suất được điều chỉnh giảm có thể sẽ dẫn đến phát sinh lo lắng không đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Nhưng trên thực tế nếu hệ thống thuế hợp lý, thuế suất ở mức vừa phải thì sẽ tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, đối tượng nộp thuế thấy mức thuế hợp lý sẽ tự nguyện khai báo nộp thuế tốt hơn. Diện thu thuế được mở rộng, diện miễn giảm thu hẹp, vừa được lòng dân vừa đảm bảo nhiệm vụ thu theo kế hoạch. Tỷ lệ động viên về thuế cần tính toán khoa học, đầy đủ mọi khoản đóng góp cho NSNN, bao gồm mọi khoản thuế, phí và lệ phí. Cần khắc phục tình trạng các ngành, các địa phương tuỳ tiện đặt ra các khoản thu trái với quy định của Nhà nước. Thuế tạo nguồn thu cho NSNN, nhưng nguồn thu đó được hình thành trên cơ sở nền kinh tế tăng trưởng và đạt hiệu quả cao. Đây là vấn đề luôn được các quốc gia quan tâm đúng mức trong quá trình hoạch định chính sách và tổ chức quản lý thu thuế. + Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước dùng để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một chính sách thuế đặt ra không chỉ đơn thuần tạo nguồn thu cho NSNN, mà quan trọng hơn là thực hiện chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường. Cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, cơ chế thị trường cũng là môi trường làm nảy sinh những khuyết tật vốn có của nó. Vì vậy, để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước phải sử dụng các công cụ kinh tế, tron đó đặc biệt là công cụ thuế nhằm tạo lập các cân đối vĩ mô, điều tiết thị trường, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Sự điều tiết của Nhà nước thông qua thuế gồm hai mặt: khuyến khích và hạn chế. Điều đó được thể hiện ra trong việc xây dựng cơ cấu các loại thuế và mối quan hệ giữa chúng cũng như việc xác định thuế suất, chế độ miễn - giảm thuế phù hợp với điều kiện thực tế. Khuyến khích đối với những ngành nghề những hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ cho đại đa số quần chúng nhân dân thì áp dụng thuế suất thấp. Hạn chế, thu hẹp những ngành nghề không có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hoặc những ngành nghề ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, đến sức khoẻ của nhân dân thì áp dụng thuế suất cao. Trong nền kinh tế thị trường, các thành phần tự do lựa chon ngành nghề nào mang lại lợi nhuận cao nhất mà không tính đến hậu quả để lại sau quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà nước dùng công cụ thuế để điều chỉnh và hướng các hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào con đường phát triển có hiệu quả mang lại nhiều lợi ích cho quốc kế dân sinh. Trong điều kiện hiện nay, hệ thống thuế của Nhà nước Việt Nam thể hiện rất rõ quan điểm khuyến khích các ngành nghề sản xuất hơn là các hoạt động thương mại, dịch vụ. Sản xuất các mặt hàng thiết yếu được khuyến khích hơn sản xuất các mặt hàng và dịch vụ khác. Để khuyến khích các ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu cần thiết khi trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu hay đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng không thuận lợi cho sức khoẻ, sinh hoạt người dân,… Nhà nước thường áp dụng thuế ưu đãi để thúc đẩy kinh tế phát triển một cách có hiệu quả, đồng bộ theo hướng có lợi cho quốc kế dân sinh. Hiện nay, Nhà nước ta sử dụng tổng hợp hệ thống chính sách thuế, nhằm: khuyến khích mạnh mẽ các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật; góp phần thúc đẩy việc khai thác tư nguyên liệu trong nước, tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài để mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá đẩy mạnh xuất nhập khẩu đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và tích luỹ; bào đảm lợi ích; bảm đảm lợi ích giữa Nhà nước và xã hội, lợi ích của các bên hợp tác, vừa đảm bảo sản xuất trong nước phát triển nâng cao đời sống của người dân. + Thuế góp phần điều hoà thu nhập thực hiện công bằng xã hội trong phân phối: Theo Adam Smith, nền kinh tế thị trường tự do không có sự điều chỉnh, can thiệp của Nhà nước, mà được điều tiết bởi “bàn tay vô hình”. Đó là nền kinh tế tự điều chỉnh và hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, lịch sử cũng cho thấy kinh tế thị trường tự do chứa đựng những mặt trái hay những “khuyết tật” khó tránh khỏi. Nổi bật trong những “khuyết tật” đó là vấn đề phân phối thu nhập. Trong điều kiện phân phối thu nhập của thị trường tự do, một bộ phận dân cư sẽ giàu lên nhanh chóng, trong khi đó, đại đa số lao động trở nên nghèo túng và đời sống càng khó khăn hơn. Tình trạng trên không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức, công bằng xã hội mà còn tạo nên tình trạng lũng đoạn, độc quyền và lâu dài sẽ không thể đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng được. Trong thực tế, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự đóng góp của cộng đồng, của toàn xã hội. Chính vì vậy mà thành quả kinh tế đạt được trong hiện tại và tương lai phải được phân phối trên cơ sở của cộng đồng. Cho nên, cần có sự can thiệp của Nhà nước trong quá trình phân phối thu nhập, sự phân phối này chủ yếu nhờ vào công cụ thuế để điều tiết. Nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, thì vai trò tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và người dân trong động viên điều tiết thuế và công bằng xã hội ngày càng được nâng cao hơn, bao quát hơn. Sự thành công trong việc đổi mới chính sách thuế của Nhà nước ta trong những năm qua là: hệ thống thuế mới được áp dụng chung cho các ngành nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh, không phân biệt thành phần kinh tế cũng như các tầng lớp nhân dân nhằm mục tiêu đảm bảo sự công bằng bình đẳng trong điều tiết. Sự bình đẳng, công bằng thể hiện thông qua các chính sách động viên như nhau giữa các thành phần kinh tế, chủ thể sản xuất kinh doanh và mọi tầng lớp dân cư. Thông qua một hệ thống các sắc thuế, Nhà nước điều chỉnh mức thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội, người có thu nhập cao phải đóng thuế cao và ngược lại (thể hiện thông qua hoạt động tiêu dùng chịu sự điều tiết của các sắc thuế gián thu và thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao). Tổ chức và cá nhân kinh doanh có lợi nhuận cao phải đóng góp thuế cao hơn những tổ chức và cá nhân kinh doanh có lợi nhuận thấp (thể hiện ở sắc thuế TNDN). 1.2. KHU VỰC KTNQD VÀ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI KTNQD 1.2.1. Đặc điểm của kinh tế NQD Kinh tế thị trường hình thành và phát triển trên cơ sở của sở hữu tư nhân và các loại hình kinh tế tư nhân là hình thức thống trị trong các nền kinh tế thị trường tự do. Cùng với sự gia tăng vai trò của nhà nước đối với đời sống kinh tế, kinh tế thị trường tự do đã phát triển thành nền kinh tế hỗn hợp gồm hai khu vực lớn: Kinh tế Nhà nước và kinh tế phi nhà nước hay như chúng ta nói - KTNQD. Khu vực kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở của sở hữu nhà nước chủ yếu thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công cộng, mục tiêu cơ bản là lợi ích chung của toàn xã hội - đảm bảo cho sự phát triển hiệu quả, công bằn và ổn định cho toàn bộ nền kinh tế. Khu vực KTNQD là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh bằng vốn của các tổ chức, của một số cá nhân góp lại; hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường vì mục tiêu lợi nhuận. Trong cơ cấu sản xuất xã hội, KTNQD được coi là một thực thể khách quan, gồm các thành phần kinh tế được xác định tuỳ theo đặc điểm kinh tế - xã hội và đường lối chính trị của mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn khác nhau như, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản Nhà nước… KTNQD có nhiều đặc điểm riêng biệt, nhưng có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản sau: + Dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chủ yếu, được tổ chức ở đủ loại quy mô lớn, vừa và nhỏ, nhưng đều do tư nhân quản lý và phân phối lợi nhuận. + Số lượng cơ sở rất lớn, thường xuyên biến động, tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh (chu kỳ kinh tế) và chính sách, chế độ của Nhà nước trong từng thời kỳ. + Hoạt động trong hầu hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Ở các nước phát triển, KTNQD bao gồm cả những tập đoàn kinh doanh xuyên quốc gia, có ảnh hưởng không chỉ đối với nền kinh tế trong nước mà còn chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế – tài chính quốc tế. + Số thu hàng năm chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng số thu ngân sách nhà nước (Tỷ trọng này khác nhau đối với các nước: ở các nước phát triển, thu từ khu vực KTNQD là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, ngược lại, ở các nền kinh tế đang phát triển, do khu vực KTNQD còn nhỏ bé, sự tham gia của chúng vào tiến trình tăng trưởng cũng như thu ngân sách chỉ với mức khiêm tốn hơn). + Mục tiêu của chủ doanh nghiệp trong khu vực KTNQD chính là lợi nhuận. Do vậy một mặt, các cơ sở KTNQD cạnh tranh quyết liệt với nhau trong kinh doanh; mặt khác, trong quan hệ với nhà nước, không ít cơ sở luôn tìm mọi cách, mọi sơ hở của cơ quan thuế, cán bộ thuế, chính sách, chế độ, để luồn lách, trốn thuế. Các hình thức tồn tại phát triển của khu vực KTNQD rất đa dạng với số lượng, ý thức trong việc thực hiện luật pháp với mức độ khác nhau, tuỳ theo trình độ phát triển ở mỗi quốc gia. Song rõ ràng đây là một lĩnh vực phức tạp trong quản lý thuế. Sự phát triển ở khu vực KTNQD ở nước ta những năm qua đã tạo thêm nhiều của cải vật chất cho xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần không nhỏ vào sự ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế. - Ưu nhược điểm của kinh tế NQD: KTNQD có tiềm năng lớn về trí tuệ, kiến thức, tiền vốn, lao động, sản phẩm, hợp tác, liên doanh, liên kết… + Tiềm năng quan trọng nhất của KTNQD là khả năng vô tận về trí tuệ, sáng kiến cá nhân trong đội ngũ những người lao động, trong nhân dân. Kinh nghiệm của các nước có nhiều thành công phát triển kinh tế (Hồng Kông, Đài Loan, Singapo, Nhật Bản, Hàn Quốc…) cho thấy các tiềm năng bên trong như đất đai, tiền vốn trong thời kỳ đầu của sự phát triển ở các nước này đều rất hạn chế. Nhưng nhờ phát huy được trí tuệ, sáng kiến cá nhân và đầu tư xây dựng kinh tế, đồng thời có sự quản lý đúng đắn của Nhà nước,cho nên chỉ sau một thời gian không dài đã làm nên những kỳ tích vĩ đại trong phát triển kinh tế. Đối với nước ta, khi công cuộc đổi được triển khai từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nhiều sáng kiến cá nhân của quần chúng lao động,của nhân dân đã và đang được phát huy cả trong lao động sản xuất cũng như trong việc tìm tòi các hình thức kinh tế thích hợp, năng động, từng bước đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của thị trường. + Tiềm năng về kiến thức, kinh nghiệm quản lý, nâng cao tay nghề, đặc biệt là phát huy kiến thức, bí quyết truyền thống được tích lũy qua nhiều đời là nguồn tiềm năng vô cùng to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế nếu được khởi động với những chính sách, chủ trương thích hợp. Hiện nay nguồn “chất xám” của KTNQD cũng rất đa dạng, có loại được Nhà nước đào tạo trong các trường chính quy từ công nhân, kỹ sư, nhà kinh tế đến các thạc sĩ, tiến._. sĩ, phó giáo sư, giáo sư… Có loại cá nhân tự bỏ tiền ra để học lấy một nghề nhất định ở trong hoặc ngoài nước. Có loại do doanh nghiệp NQD sau khi tuyển dụng lao động bỏ tiền đào tạo hoặc đào tạo lại. + Nguồn vốn trong khu vực KTNQD nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác đã và đang được tích luỹ ngày càng lớn. Ở hầu hết các nước có lịch sử phát triển kinh tế thị trường lâu đời, nguồn vốn đầu tư từ phía Nhà nước không đáng kể (chiếm từ 13% - 30% tổng vốn đầu tư). Các nước đều có chính sách thoả đáng để huy động nguồn lực to lớn từ nguồn vốn của KTNQD. Nếu Chính phủ có chính sách đúng đắn, tạo môi trường thuận lợi, tạo lòng tin trong nhân dân, nhất định họ sẽ sẵn sàng bỏ vốn đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tăng trưởng mạnh mẽ. + KTNQD có tiềm năng lao động to lớn và góp phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm cho xã hội. Ở nước ta hàng năm bình quân có khoảng 1,243 triệu người đến tuổi lao động, bao gồm: lực lượng thanh niên đến tuổi lao động, số học sinh tốt nghiệp dạy nghề, trung học, cao đẳng, đại học hoặc những người lao động thất nghiệp do sắp xếp lại biên chế trong các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp hoặc do sắp xếp lại sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân, những người bán thất nghiệp ở nông thôn, thành thị. Đây là nguồn lao động rất dồi dào mà Nhà nước ta chưa khai thác hết được. Nếu chỉ thông qua các doanh nghiệp Nhà nước thì sẽ không thu hút được hết những người lao động. Thực tế trong những năm qua cho thấy, ở thời điểm cao nhất kinh tế Nhà nước chỉ thu hút khoảng 2 triệu lao động. Trong khi đó riêng kinh tế NQD trong công nghiệp và dịch vụ năm 1992 đã thu hút trên 1,2 triệu lao động [5]. Chỉ thông qua KTNQD với mọi hình thức, mọi quy mô, mọi loại ngành nghề, áp dụng nhiều phương thức tổ chức, mọi quy mô, mọi loại ngành nghề, áp dụng nhiều phương thức tổ chức, sử dụng một cách linh hoạt mọi loại lao động của xã hội mới có thể tận dụng được các lực lượng dôi thừa. Ở các nước Tây Âu, hơn 70% kết quả tăng trưởng của nền kinh tế là do lao động tạo ra, 30% còn lại là do tiền vốn thiết bị. Đối với Việt Nam có đội ngũ lao động đông đảo, nếu biết cách phát huy và khai thác thì đó là một lợi thế lớn cho phát triển kinh tế. Lao động của KTNQD ở Việt Nam còn có tiềm năng quan trọng được bộc lộ rõ thông qua quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, bộ máy Nhà nước đã bành trướng quá mức. Khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ chế quản lý mới có sự quản lý của Nhà nước, chính khu vực kinh tế Nhà nước đã là nguồn cung cấp nhân lực dồi dào cho KTNQD. Theo tài liệu điều tra của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, đã có 72% giám đố các Công ty trách nhiệm hữu hạn đã từng là công chức Nhà nước, 10,4% giám đốc các Công ty này đã từng là giám đốc doanh nghiệp Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, 30% giám đốc đã từng là cán bộ công chức Nhà nước. Khi chuyển sang lĩnh vực KTNQD, không những họ đã sử dụng trình độ lành nghề trong kinh doanh mà còn có vả vốn liếng tích luỹ được (bằng tiền trợ cấp thôi việc, bằng tiền hưu trí…), thậm chí máy móc kỹ thuật từ nguồn thanh lý, giải thể của các doanh nghiệp Nhà nước. Điều này có thể lý giải phần nào tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong khi một bộ phận lớn của kinh tế Nhà nước bị thu hẹp, giải thể hoặc ngững do làm ăn thua lỗ, không thích ứng được với cơ chế kinh tế mới [5]. + KTNQD còn là môi trường thuận lợi để hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong nền kinh tế mở hiện nay, sự giao lưu với các nước phát triển mạnh về mọi mặt đó là một tất yếu khách quan. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định: Phát triển đa dạng kinh tế Nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước, ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh; chú trọng phát triển các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước, ngoài nước [32, tr.99]. Tại các nước, liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do KTNQD thực hiện vì là khu vực năng động, làm ăn có hiệu quả, thích ứng nhanh với sự biến động hoặc thay đổi của thị trường, của khách hàng. Trong khi đó ở nước ta hiện nay, các liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do kinh tế Nhà nước thực hiện. Nhiều Việt Kiều về quê hương gặp không ít khó khăn trong việc tìm đối tác liên doanh +Sự đa dạng của KTNQD tạo ra nguồn sản phẩm đa dạng, phong phú đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng của xã hội ở mọi nơi, mọi thời điểm. Thực tế nhiều năm qua ở các nước XHCN và ở Việt Nam đều cho thấy nền kinh tế chủ yếu dựa trên KTQD thì hàng hoá sẽ nghèo nàn về chủng loại, số lượng. ở Liên Xô cũ, sau 70 năm xây dựng CNXH với các doanh nghiệp Nhà nước chỉ có 10 triệu loại sản phẩm. Trong khi đó ở Nhật Bản một nước nhỏ bé hơn nhiều về dân số và diện tích có tới 1,4 triệu doanh nghiệp với hơn 50 triệu loại sản phẩm. Ở nhiều nước Đông Nam Á, KTNQD đang được đánh giá là nguồn chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu,có thể tạo thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng lên rất nhanh. Đường lối phát triển kinh tế - xã hội dựa vào KTNQD về cơ bản là một chiến lược hướng vào thị trường. KTNQD có thể quyết định và điều chỉnh nhanh chóng sản xuất cái gì, đầu tư vào đâu để có lợi nhuận nhiều nhất. Ở các nước đang phát triển, KTNQD trở thành động lực kích thích kinh tế phát triển tốt hơn so với sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quá trình kinh tế và dựa vào kinh tế Nhà nước là chủ yếu. Việt Nam, tuy KTNQD mới được công nhận và phục hồi nhưng trong những năm qua đã xác định được chỗ đứng xứng đáng, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Sự đóng góp của KTNQD không chỉ dừng lại ở việc làm tăng tổng sản phẩm trong nước, thêm nhiều hàng hoá với nhiều mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho giải quyết việc làm, nâng cao đời sống xã hội, cả cho người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Từ một số thế mạnh của KTNQD, có quan điểm muốn tư nhân hoá một cách triệt để nhằm huy động được tối đa mọi nguồn lực, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế đang tiềm ẩn trong KTNQD. Thực ra, quan điểm này chưa thấy hết được những khiếm khuyết của KTNQD. Tuy là một khu vực năng động nhưng thiếu định hướng và không bao quát hết mọi nhu cầu xã hội, tự phát theo cơ chế thị trường, trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan Nhà nước, không ít cơ sở đã hoạt động vô Chính phủ, kinh doanh trái phép buôn bán trốn lậu thuế. Điều đó càng trở lên khó khăn, phức tạp đối với một nền kinh tế sản xuất nhỏ, phân tán, chưa quen với văn minh công nghiệp, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện như ở nước ta. Việc khuyến khích KTNQD để phát triển kinh tế - xã hội không đồng nghĩa với việc buông lỏng quản lý, để mặc cho các thành phần kinh tế tự do phát triển. Ngược lại, đòi hỏi Nhà nước phải quản lý, định hướng, phải có hệ thống pháp luật được thể chế hoá đẩy đủ rõ ràng cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô, để có thể phát huy đến mức tối đa mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực của KTNQD trong cơ chế thị trường. 1.2.2. Yêu cầu và nội dung của công tác quản lý thu thuế NQD Trên thực tế, hệ thống thuế là một chỉnh thể không thể chia cắt – không quốc gia nào áp dụng riêng biệt những sắc thuế cho khu vực kinh tế nhà nước hay khu vực KTNQD. Ở các nền kinh tế phát triển, hầu hết các đơn vị kinh tế đều dựa trên sở hữu phi nhà nước và chính sách thuế của nhà nước chính là thuế đối với khu vực kinh tế này. Ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam, do đó trong tiến trình đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt chú ý tới việc xây dựng chính sách thuế đảm bảo cho sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, trong đó có việc khuyến khích sự phát triển của KTNQD. Vì vậy, trong phần này, khi nói đến yêu cầu và nội dung cơ bản của công tác quản lý thuế đối với khu vực KTNQD chủ yếu là nói trên cơ sở những quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam trong việc xây dựng và thi hành chính sách thuế. 1.2.2.1. Mục tiêu yêu cầu của quản lý thu thuế NQD: * Mục tiêu: Là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý tài chính Nhà nước, quản lý thuế không thể tách rời quản lý Nhà nước nói chung và quản lý Nhà nước về kinh tế nói riêng. Công tác quản lý thuế trong nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản sau đây: - Tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, số thu bằng thuế hàng năm chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số thu của NSNN. Vì vậy, làm tốt công tác quản lý thuế sẽ có tác dụng lớn trong việc tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN. Mặt khác, các chính sách thuế, dù trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động đến thu nhập của các tổ chức kinh tế và cá nhân, qua đó tác động đến quá trình phát triển - cơ sở tạo ra nguồn thu thuế trong tương lai. Để tăng trưởng và ổn định số thu của NSNN trong tương lai, trong công tác quản lý thuế cũng cần chú ý duy trì và phát triển các cơ sở tạo ra nguồn thu thuế. Về vấn đề này, người Pháp có câu nói rất nổi tiếng: "Hãy cắt lông cừu chứ đừng lột da nó", và câu chuyện ngụ ngôn "Con gà đẻ trứng vàng" đáng để cho chúng ta ghi nhớ. - Phát huy tốt nhất vai trò của thuế trong nền kinh tế. Vai trò của thuế mang tính toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Song, những vai trò đó không mang tính tự nó, mà là kết quả của những hoạt động của chính con người. Những hoạt động này được thực hiện thông qua những nội dung, những công việc cụ thể của công tác quản lý thuế. - Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh tế và dân cư. Trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước thông qua công cụ luật pháp để thực hiện sự tác động vào nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Ý thức chấp hành luật pháp của các tổ chức kinh tế và dân cư sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện những tác động của Nhà nước đến nền kinh tế. Qua công tác tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các luật thuế cùng với việc tăng cường tính pháp chế của các luật thuế, ý thức chấp hành các luật thuế được nâng cao, từ đó tạo thói quen "Sống và làm việc theu pháp luật" trong mọi tầng lớp dân cư. Để đạt được các mục tiêu trên, công tác quản lý thuế cần tuân chủ một số nguyên tắc cơ bản sau đây: - Nguyên tắc tập trung dân chủ. - Nguyên tắc công khai. - Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả. * Yêu cầu: - Tuyên truyền giáo dục sâu rộng chính sách, chế độ thuế: Cần tập trung mọi hình thức thích hợp tăng cường việc tuyên truyền, giải thích chính sách, chế độ thuế sâu rộng làm cho mọi người dân hiểu được thuế của ta là "của dân, do dân, vì dân", xoá bỏ ấn tượng xấu về thuế là hình thức bóc lột, bần cùng hoá nhân dân dưới thời thực dân, phong kiến ở nước ta. Từ đó từng bước nâng cao dân trí về nghĩa vụ công dân đối với thuế. Cần đưa chính sách, chế độ thuế cho dân trao đổi, quán triệt và dân chủ bàn bạc về biện pháp triển khai thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất và khắc phục được phiền hà không cần thiết đối với các nhà doanh nghiệp. Thông qua các cuộc họp, giải đáp những thắc mắc cụ thể trong các tầng lớp nhân dân, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ công tác thuế, xây dựng lực lượng hậu thuẫn vững chắc kiên quyết đấu tranh, lên án trốn lậu thuế: uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức và những sai sót trong đăng ký thuế, trong việc nghiêm chỉnh chấp hành các chế độ hoá đơn, sổ sách kế toán, kê khai, nộp thuế... Thực hiện quan điểm quần chúng của Đảng trong công tác tuyên truyền, giáo dục về thuế không chỉ là "truyền đạt" một chiều từ trên xuống mà thông qua công tác quản lý thường xuyên, cán bộ thuế phải thấy được những khó khăn thực tế phát sinh trong tổ chức thực hiện. Phải khách quan lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của các nhà doanh nghiệp, trung thực phản ánh ý kiến lên trên nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để chính sách thuế, chế độ thuế ngày càng phù hợp với trình độ và khả năng đóng góp của nhân dân. - Tranh thủ được sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp: Thuế là một trong những chính sách kinh tế lớn của Đảng và Chính phủ. Cơ quan thuế cần chủ động báo cáo các kế hoạch, chương trình công tác để cơ sự chỉ đạo điều hành của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp. Mỗi cấp uỷ, UBND coi thuế là một công tác trọng tâm của đơn vị mình. Thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện công tác thuế trong từng thời kỳ cùng với các công tác khác về quản lý kinh tế - tài chính trên địa bàn. Việc tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền không có nghĩa là khi có khó khăn mới đến kêu gọi giúp đỡ. Cơ quan thuế phải chủ động thực hiện đều đặn chế độ báo cáo để cấp uỷ và chính quyền nắm chắc được quá trình thực hiện chính sách thuế, cả thuận lợi và khó khăn. Cấp uỷ và chính quyền sẽ tăng cường công tác giám sát, đề cao pháp chế XHCN, thiết lế kỷ cương theo yêu cầu của cơ chế quản lý mới, khen thưởng, động viên những đơn vị, cá nhân chấp hành nghiêm chỉnh các luật thuế, hoàn thành tốt nghĩa vụ thuế. Đồng thời phê phán trong nội bộ hoặc sử dụng đài báo gây thành dư luận lên án trốn lậu thuế, dây dưa tiền thuế, xử lý nghiêm minh tập thể, cá nhân vi phạm chính sách thuế, pháp luật thuế, làm thất thu thuế... Mỗi cấp uỷ, UBND cần có chương trình kế hoạch cụ thể, thiết thực cho việc lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện giúp đỡ, đôn đốc, kiểm tra các tổ chức chính quyền, đoàn thể quần chúng, xã hội thực hiện tốt chương trình, kế hoạch công tác về thuế. Cử một cấp uỷ viên hoặc uỷ viên UBND có năng lực thay mặt cấp uỷ, UBND trực tiếp chỉ đạo công tác thuế trên địa bàn. - Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan và các đoàn thể quần chúng, xã hội. Thuế là một mặt trận đấu tranh gay go, phức tạp, thậm chí quyết liệt giữa lợi ích cục bộ cá nhân, tập thể với lợi ích chung của toàn xã hội... Đây không thể là công việc đơn độc của ngành thuế, của cán bộ thuế mà phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ có liên quan và các đoàn thể quần chúng, xã hội làm chỗ dựa vững chắc cho việc triển khai chính sách thuế. Một mặt cơ quan thuế sẽ có thêm nhiều thông tin chính xác, đầy đủ về hoạt động kinh doanh thực tế trong từng ngành nghề, từng địa bàn, thêm những tài liệu "sống" cho việc đấu tranh chống thất thu thuế có hiệu quả, đồng thời thêm lực lượng cưỡng chế để đảm bảo xử lý có hiệu quả về nợ đọng, dây dưa tiền thuế, chống đối, hành hung cán bộ thuế. Mặt khác, thông qua sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quần chúng, xã hội, các cơ quan thông tin tuyên truyền để giáo dục, thuyết phục các thành viên trong tổ chức, giải thích chính sách, chế độ mới một cách sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, hỗ trợ tích cực cho cơ quan thuế hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thực tiễn đã chứng minh một cách rõ ràng là ngành thuế không để khai thác tốt các nguồn thu và chống thất thu có hiệu quả (đặc biệt là trong khu vực KTNQD) nếu không phát huy được kết quả của công tác phối hợp. Việc thành lập Hội đồng tư vấn thuế phường xã bao gồm sự tham gia của Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ, Hội nông dân... đã tỏ rõ đây là tổ chức tổng hợp rộng rãi của các tổ chức quần chúng đối với nhiệm vụ thu. Hoạt động của Hội đồng tư vấn thuế phường xã không chỉ góp phần tích cực cho việc hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch thuế, tạo sự công bằng về động viên đóng góp giữa các tầng lớp dân cư, mà còn giúp cho ngành thuế giám sát, kiểm tra công tác của cán bộ thuế, chống tiêu cực, tuỳ tiện, làm trong sạch đội ngũ cán bộ thuế. Hội đồng tư vấn thuế phường xã còn là mô hình tổ chức giúp đỡ cho ngành thuế thực hiện tốt cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong công tác thuế. - Từng bước đưa việc thực hiện các quy trình, biện pháp quản lý, thu thuế vào nề nếp, kỷ cương: Yêu cầu chung đối với công tác thuế là "Phải thu đúng, thu đủ, thu kịp thời" theo đúng pháp luật. Tổng cục thuế đã nghiên cứu, ban hành các quy trình, chế độ nghiệp vụ cho từng loại đối tượng kinh doanh có thực hiện hoá đơn, sổ sách kế toán hoặc khoán thuế thuộc diện quản lý, thu thuế theo từng sắc thuế. Phải thực hiện đúng các quy trình nghiệp vụ để nắm chắc cơ sở kinh doanh thực tế, có cơ sở thu thuế đầy đủ về doanh, lợi tức phát sinh theo từng cơ sở, từng thời gian, đảm bảo được nguyên tắc lập sổ thuế, duyệt sổ thuế, thông báo thuế và thu thuế đúng với thời gian quy định và có cơ sở để giải quyết xử lý nộp chậm, dây dưa tiền thuế. Việc tách công tác quản lý thành 3 bộ phận là nhằm tạo được sự hỗ trợ trong tổ chức thuế, vừa chống được thất thu có hiệu quả, vừa khắc phục tuỳ tiện, tiêu cực trong công tác quản lý, thu thuế. Một số yếu tố cơ bản để cơ quan thuế xác định được việc thu thuế sát đúng với thực tế hoạt động sản xuất kế hoạch là phải đảm bảo được việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kê khai đăng ký thuế, chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán ở tất cả các cơ sở kinh doanh vừa và lớn. 1.2.2.2. Nội dung cơ bản của quản lý thu thuế KTNQD * Tổ chức bộ máy: Cùng với việc cải cách hệ thống chính sách thuế, ngày 7/8/1990, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 281/HĐBT về tổ chức hệ thống bộ máy ngành thuế. Theo tinh thần của Nghị định này, bộ máy quản lý thuế được tổ chức lại theo ngành dọc từ Trung ương đến các địa phương trên cơ sở hợp nhất ba bộ phận trước đây là cục Thu quốc doanh, Cục Thuế công, thương nghiệp ngoài quốc dân và vụ Thuế nông nghiệp thành Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính. Về cơ cấu tổ chức trong nội bộ của các cơ quan thuế từ Trung ương đến các địa phương, các vấn đề nghiệp vụ cụ thể trong quy trình hành thu cũng như những thay đổi nhất định trong từng thời kỳ nhằm phù hợp với sự thay đổi về hệ thống các chính sách thuế được áp dụng và các thay đổi khác. Cơ thể khái quát những nét cơ bản trong tổ chức hệ thống bộ máy ngành thuế ở nước ta hiện nay như sau: Hệ thống ngành thuế có nhiệm vụ quản lý thống nhất trong phạm vi cả nước tất cả các loại thuế, phí và lệ phí (thu nội địa) của ngân sách Nhà nước. Các loại thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu do ngành Hải quan đảm nhận. Bộ máy ngành thuế được tổ chức thành mộ hệ thống theo ngành dọc từ Trung ương đến các địa phương. Ở Trung ương có Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính. Tổng cục Thuế không trực tiếp quản lý thu thuế, mà nhiệm vụ chính của cơ quan này là nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các luật thuế; kiểm tra cơ quan thuế cấp dưới trong việc quản lý thu các loại thuế, phí và lệ phí. Ngoài các phòng ban thông thường (Phòng Hành chính, Tổ chức...) như mọi cơ quan khác, khối phòng ban chuyên môn nghiệp vụ trong Tổng cục Thuế hiện nay được tổ chức theo sắc thuế và theo đôí tượng nộp thuế (đối tượng theo ngành kinh tế). Cơ quan thuế ở các địa phương có nhiệm vụ trực tiếp quản lý thu thuế và các khoản thu khác, chịu sự lãnh đạo song trùng của cơ quan thuế cấp trên và của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Ở cấp tỉnh, thành phố có Cục thuế trực thuộc Tổng cục Thuế. Cục thuế có nhiệm vụ trực tiếp thu các loại thuế, phí, lệ phí đối với khối các doanh nghiệp, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra các Chi cục thuế trong việc tổ chức quản lý thu các khoản thu đã được phân cấp. Cơ cấu bộ máy Cục thuế hiện nay được tổ chức chủ yếu theo đối tượng nộp thuế (đối tượng theo thành phần sở hữu) và theo chức năng. Ở cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Chi cục thuế trực thuộc Cục thuế. Chi cục có nhiệm vụ trực tiếp quản lý thu từ những hộ cá thể và một số Công ty trách nhiệm hữu hạn. Bộ máy của Chi cục hiện nay được tổ chức theo đối tượng nộp thuế (đối tượng theo địa giới hành chính các phường, xã) và được chia thành từng đội thuế. * Về tổ chức quản lý thu thuế: - Quản lý đối tượng nộp thuế: Hàng năm, trên cơ sở đăng ký kinh doanh của các đối tượng sản xuất kinh doanh, cơ quan thuế phải tiến hành đăng ký đối tượng nộp thuế, trên cơ sở đó sẽ quản lý và thu thuế đối với đối tượng này. Có hai phương thức đăng ký đối tượng nộp thuế thường được áp dụng: + Phương thức thủ công: Theo phương thức này, mỗi đối tượng nộp thuế được cấp một sổ đăng ký thuế riêng, mọi thông tin cần thiết về đối tượng nộ thuế được phản ánh và lưu trữ trong sổ này. Phương thức này chỉ nên áp dụng trong trường hợp số lượng đối tượng nộp thuế ít và khá tập trung, điều kiện cho việc cơ giới hoá công tác quản lý thuế chưa thực hiện được. Khi số lượng đối tượng nộp thuế tăng lên quá lớn thì việc quản lý đối tượng nộp thuế bằng phương pháp này sẽ phức tạp, dễ bị nhầm lẫn, mất nhiều thời gian, công sức mà hiệu quả không cao. + Phương thức quản lý bằng mạng vi tính: Theo phương thức này, cần phải xây dựng một hệ thống mã số đối tượng nộp thuế thống nhất trong phạm vi cả nước. Mỗi đối tượng nộp thuế được gắn một xã số duy nhất. Mọi hồ sơ, thông tin cần thiết về đối tượng nộp thuế được nạp vào máy vi tính với một file riêng, mà tên file là mã số của đối tượng nộp thuế. Khi cần kiểm tra một đối tượng nộp thuế nào đó, chỉ cần mở file theo mã số của đối tượng đó. Đây là phương thức quản lý hiện đại đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Phương thức này giúp tiết kiệm được chi phí quản lý thuế. Đặc biệt với phương thức này, cơ quan thuế có thể nhanh chóng, dễ dàng phát hiện được các trường hợp gian lận về thuế, ngay cả khi số lượng đối tượng nộp thuế tăng lên rất nhanh. - Xây dựng và lựa chọn qui trình quản lý thu thuế: Qui trình quản lý thu thuế phản ánh trình tự các bước công việc phải làm nhằm tập trung đầy đủ, kịp thời số thu thuế vào NSNN. Có hai dạng quy trình quản lý thu thuế khác nhau như sau: + Cơ quan thuế tính và ra thông báo số thuế phải nộp. Định kỳ theo thời gian hoặc theo chuyển hàng, trên cơ sở những qui định trong các luật thuế và hoạt động sản xuất kinh doanh, các đối tượng nộp thuế phải kê khai thuế và nộp tờ khai cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế nhận tờ khai, kiển tra tờ khai và tính thuế, sau đó ra thông báo số thuế phải nộp và gửi cho đối tượng nộp thuế. Trong khoảng thời hạn theo thông báo, đối tượng nộp thuế phải có trách nhiệm nộp đầy đủ số thuế theo thông báo vào Kho bạc Nhà nước. Với phương thức này, sẽ đảm bảo được việc tính toán chính xác số thuế phải nộp của các đối tượng. Tuy nhiên, khối lượng công việc mà các cơ quan thuế phải đảm nhận sẽ rất nhiều và phức tạp, đặc biệt khi số lượng đối tượng nộp thuế lớn, mỗi đối tượng lại phải nộp nhiều loại thuế khác nhau. Do vậy, khó có điều kiện để tinh giản biên chế của bộ máy ngành thuế. + Đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính thuế và nộp thuế: Khác với qui trình trên đây, định kỳ theo thời gian hoặc theo chuyến hàng, các đối tượng nộp thuế tự kê khai, tính và nộp thuế vào KBNN. Với phương thức này, nhiệm vụ của cơ quan thuế sẽ đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, phương thức này sẽ chỉ mang lại kết quả tốt khi mọi người đã nắm vững và tự giác chấp hành nghĩa vụ thuế của mình, đồng thời tính pháp lý của các luật thuế cao và công tác kiểm tra, thanh tra thuế được thực hiện thường xuyên, có hiệu quả. Phương thức này hiện đang được áp dụng phổ biến trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. - Tính thuế: Tuỳ thuộc vào từng loại thuế và tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế, việc tính số thuế phải nộp của các đối tượng có thể được thực hiện theo các phương pháp sau đây: + Phương pháp đánh giá hành chính: Theo phương pháp này, số thuế phải nộp được tính dựa trên những căn cứ khách quan, rõ ràng, không cần phải điều tra hoặc tranh cãi nhiều. Những căn cứ khách quan này là kết quả của một sự đánh giá hành chính. Dựa vào sự đánh giá đó, người ta đưa ra những ba - rem về mức thuế tương ứng với những căn cứ khách quan này. Ví dụ: Thuế môn bài phải nộp của các đối tượng được xác định dựa vào qui mô kinh doanh. Có lúc người ta đã dựa vào số lượng lao động, số lượng máy móc thiết bị của cơ sở để xác định qui mô kinh doanh. Thuế sử dụng đất nông nghiệp được tính dựa trên diện tích đất và mức thuế qui định cho từng hạng đất (đất loại 1, loại 2...). Thuế nhà đất được tính dựa trên giá trị sử dụng đất theo đường phố loại 1, loại 2... + Phương pháp tính theo thuế khoán: Dựa trên cơ sở các yếu tố khách quan do người sản xuất kinh doanh (người nộp thuế) cung cấp và trên cơ sở các biện pháp kiểm tra của cán bộ thuế, cơ quan thuế ấn định một mức doanh thu cụ thể. Doanh thu này sẽ được cố định trong một thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian đó, số thuế mà cơ sở phải nộp được tính dựa trên doanh thu ấn định này, mặc dù tình hình sản xuất kinh doanh thực tế của cơ sở có thể có những biến động. Phương pháp này có tác dụng giúp cho người nộp thuế biến trước được số thuế mà họ phải nộp hàng tháng, hàng năm, từ đó giúp họ chủ động bố trí kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài chính của mình. Đồng thời, khuyến khích các đơn vị sản xuất kinh doanh phấn đấu mở rộng sản xuất, tăng doanh thu thực tế trong thời gian ổn định doanh thu. Đối với cơ quan thuế, phương pháp này cũng giúp họ giảm nhẹ công việc và đơn giản trong công tác quản lý thu thuế. Tuy nhiên, trong điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở phát triển nhanh, thuế khoán không báo quát hết được các nguồn thu phát sinh, tác dụng của các chính sách thuế khoán trong việc tập trung thu nhập vào ngân sách Nhà nước bị hạn chế. Trên thực tế, phương pháp này chỉ được áp dụng với các hộ kinh doanh nhỏ, chưa có điều kiện để thực hiện chế độ thống kê - kế toán. + Phương pháp tính thuế theo kê khai thực tế: Theo phương pháp này, việc tính thuế dựa trên tờ khai với các số liệu thực tế với tình hình sản xuất kinh doanh của cơ sở. Phương pháp này khá phức tạp trong việc tính toán, quản lý và theo dõi, nhưng lại đảm bảo tập trung được đầy đủ số thu vào NSNN. Tuy nhiên, để đạt được kết quả đó, cơ quan thuế cần kiểm tra các tờ khai, đối chiếu tờ khai với sổ sách kế toán và các chứng từ gốc, với thực tế sản xuất kinh doanh của cơ sở, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những trường hợp gian lận trong kê khai thuế. Muốn vậy, cần phải có những qui định rõ ràng về việc quản lý và sử dụng chứng từ, hoá đơn, sổ sách kế toán theo hệ thống tài khoản hoàn chỉnh, hiện đại hoá công tác quản lý thuế. - Tổ chức thu nộp tiền thuế: Các cá nhân, các đơn vị sản xuất kinh doanh nộp thuế cho Nhà nước qua các hình thức: + Nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước. Hình thức này được áp dụng bổ biến hiện nay. Với hình thức này, người nộp thuế trực tiếp nộ vào KBNN, bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản qua ngân hàng. Do đó khắc phục dưdợc tình trạng chiếm dụng, xâm tiêu tiền của Nhà nước. Tuy vậy, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa kho bạc, ngân hàng và cơ quan thuế trong kiểm soát thu ngân sách Nhà nước, phải có một qui chế chặt chẽ trong việc luân chuyển chứng từ giữa ba cơ quan này nhằm bảo đảm cho việc kiểm tra, đôn đốc các đối tượng nộp thuế thực hiện đúng, đủ và kịp thời nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. + Nộp bằng tiền mặt qua cơ quan thuế: Đối với số ít các đối tượng buôn bán không có cơ sở ổn định (buôn chuyến), các hộ kinh doanh nhỏ, phân tán, số tiền thuế phải nộp ít và những trường hợp không có điều kiện nộp trực tiếp vào KBNN, cán bộ thuế thu trực tiếp từ các đối tượng nộp thuế, sau đó họ nộp tiền thuế thu được vào Kho bạc Nhà nước. Tuy nhiên, hình thức này cũng tồn tại một số nhược điểm như: Bộ máy thu thuế cồng kềnh, dễ xuất hiện tình trạng tham ô, chiếm dụng tiền thuế của Nhà nước. * Thanh tra thu thuế: - Mục đích, yêu cầu của thanh tra thuế: Là một trong những nội dung quan trọng của quản lý thuế, thanh tra thuế được thực hiện, trước hết, bởi hệ thống các cơ quan thanh tra chuyên ngành về thuế. Ngoài ra, thanh tra thuế còn được thực hiện bởi sự phối hợp của các cơ quan chức năng có liên quan. Đối tượng của thanh tra thuế là các tổ chức kinh tế và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và chínhb ản thân các đơn vị tuộc ngành thuế. Mặc dù qui mô và tính chất của các cuộc thanh tra thuế không giống nhau, nhưng nhìn chung, thanh tra thuế đều nhằm hướng vào các mục đích chủ yếu sau đây: + Phát hiện để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật luế, như khai man, trốn thuế, nợ đọng thuế, chiếm dụng tiền thuế... nhằm hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước. + Đảm bảo nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế cho các đối tượng nộp thuế và cho người thi hành công vụ trong ngành thuế. + Phát hiện những nội dung không phù hợp trong các văn bản pháp qui về thuế với thực tiễn đời sống, kinh tế, xã hội của đất nước, những điểm không hợp lý về công tác tổ chức hệ thống bộ máy ngành thuế, về các vấn đề nghiệp vụ của công tác hành thu, từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung kịp thời để không ngừng hoàn thiện hệ thống thuế. Để đạt được các mục tiêu trên đây, công tác thanh tra thuế phải quán triệt một số yêu cầu cơ bản sau đây: + Phải đảm bảo tính khách quan, trung thực trong xem xét các sự việc và đưa ra các kết luận sau những cuộc thanh tra. Người làm thanh tra tuyệt nhiên không được lồng tư tưởng cá nhân, phiến diện, không bị một sức ép quyền lực nào khi xem xét, giải quyết các sự vụ trong thanh tra. + Thanh tra thuế, nhất thiết phải dựa trên tư tưởng pháp trị, có nghĩa là mọi cuộc thanh tra thuế đều phải dựa trên cơ sở các văn bản pháp quy của Nhà nước, lấy đó làm chuẩn mực cho việc đánh giá, suy xét các sự kiện, các vụ việc được than tra. + Các cuộc thanh tra phải đảm bảo tính chính xác, rõ ràng trong các kết luận về vụ việc thanh tra. - Nội dung thanh tra thuế: Nội dung thanh tra thuế đối với các tổ chức kinh tế và cá nhân là đối tượng nộp thuế, có những điểm khác biệt nhất định với nội dung thanh tra đối với các tổ chức các tổ chức được giao nhiệm vụ làm công tác quản lý, thu thuế. - Đối với các tổ chức và cá nhân là đối tượng nộp thuế: Nội dung thanh tra đối với đối tượng nộp thuế tập trung vào các vấn đề cơ bản sau đây: + Thanh tra việc chấp hành những quy định về đăng ký, kê khai nộp thuế. Việc đăng ký kinh doanh, kê khai nộp thuế, trước hết là trách nhiệm của các tổ chức kinh tế và cá nhân có thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo từng luật thuế mà có những yêu cầu khác nhau về các tiêu thức kê khai cụ thể. Song nhìn chung, các tiêu thức chủ yếu mà các đối tượng phải kê khai là: + ._.chỉ dạo công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích cho các cơ sở thực hiện. Cán bộ thuế phải nắm bắt đầy đủ, kịp thời các chế độ kế toán và hoá đơn chứng từ do Nhà nước quy định. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của cán bộ quản lý đối với các cơ sở thực hiện chế độ sổ sách kế toán. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ kế toán, nghiệp vụ quản lý thu thuế nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ mạnh về lượng và chất để đáp ứng yêu cầu quản lý ngày càng cao đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh. - Tăng cường quản lý việc sử dụng hoá đơn chứng từ Theo các quy định hiện hành của Nhà nước, tất cả các tc, cá nhân có sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế khi mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ thu tiền đều phải thực hiện chế độ quản lý sử dụng hoá đơn. Các trường hợp mua, bán hàng hoá, dịch vụ có giá trị từ 100.000đ trở lên đều phải lập và giao hoá đơn bán hàng đúng quy định. Tuy nhiên việc sử dụng hoá đơn bán hàng hiện nay chưa được thực hiện nghiêm túc. Nhiều tổ chức, cá nhân chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt nền đã tìm cách lợi dụng hoá đơn để trốn thuế, thu lợi bất chính, gây thiệt hại về tài chính công quỹ của Nhà nước thể hiện bằng các hành vi sau [6, tr. 39-40]. + Sử dụng hoá đơn in giả mẫu của Bộ tài chính để kinh doanh trốn thuế hoặc dùng để thanh toán, quyết toán tài chính trong các cơ quan - đơn vị thụ hưởng tiền từ NSNN. + In hoá đơn giả mẫu của Bộ tài chính. + Lập hoá đơn ghi liên 2 cao hơn liên 1 để chiếm đoạt tiền thuế, thanh toán, quyết toán tài chính. + Bán hoá đơn khống. + Cạo sửa hoá đơn mau hàng ghi số tiền cao hơn số tiền thực tế đẻ khấu trừ, hoàn thuế, thanh toán, quyết toán tài chính. (Gần đây có hiện tượng mua hàng hoá với giá trị thấp thu được người bán cấp hoá đơn liên 2 sau đó tẩy xoá các nội dung đã lập, ghi lại giá trị, số thuế GTGT cao hơn để đưa vào khấu trừ thuế, hoàn thuế, thanh toán, quyết toán tài chính). + Lập hoá đơn khống (thực tế là không mua, bán hàng hoá) thông đồng với đơn vị xuất khẩu để kê khai hoàn thuế GTGT hàng xuất khẩu. + Khi bán hàng hoá, dịch vụ, việclập, giao hoá đơn bán hàng của các cơ sở vẫn còn tuỳ tiện: không giao hoặc giao hoá đơn thì đòi nâng giá hàng hoặc giao hoá đơn không hợp pháp để kinh doanh trốn thuế. Đối với khách hàng khi mua hàng tiêu dùng cho gia đình thì không quan tâm đến việc đòi hoá đơn hợp pháp. Nếu mua hàng cho cơ quan - đơn vị nhiều trường hợp đã chủ động yêu cầu người bán hàng lập hoá đơn với sóo tiền cao hơn thực tế để thanh toán hoặc tự lập hoá đơn mua bán hàng cao hơn để lấy tiền, tham ô công quỹ của Nhà nước. + Lợi dụng Nhà nước tạo thuận lợi trong việc cấp giấy kinh doanh đã xuất hiện một số doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép thành lập, đã đăng ký thuế, mã số thuế và mua hoá đơn tại cơ quan thuế sử dụng nhưng mang hoá đơn đi bán. Từ tình hình thực tế nêu trên, Bộ tìài chính đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo các cơ quan bảo vệ quản lý, cơ quan thuế, cơ quan tài chính các cấp. Thứ nhất, quán triệt chỉ thị số 15/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 11/6/2001 về việc tăng cường quản lý thu và chống thất thu NSNN; Chỉ thị của Bộ tưởng Bộ tài chính số 3824/1999/CT/BTC ngày 5/8/1999 về việc thực hiện phòng chống hoá đơn giả trong mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thu tiền và thanh toán tài chính; tăng cường kiểm tra, thanh tra có trọng điểm; thực hiện đối chiếu hoá đơn đầu vào, đầu ra, hoá đơn mua hàng của các doanh nghiệp, đơn vị hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang trong thanh toán, quyết toán tài chính; phát hiện và xử lý nghiêm các đối tượng sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn không hợp pháp để kê khai khấu trừ thuế, hoàn thuế, thanh toán và quyết toán tài chính, những hành vi lợi dụng, vi phạm phải được thông báo công khai để giáo dục, ngăn chặn. Trường hợp phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ mức độ vi phạm mà xử lý theo quy định hiện hành. Thứ hai, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tự in hoá đơn theo mẫu và quy định đăng ký sử dụng theo chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn bán hàng kèm theo quyết định số 885/QĐ/BTC ngày 16/7/1998 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Trường hợp không tự in hoá đơn thì sử dụng hoá đơn do Bộ tài chính phát hành, nhưng bắt buộc tổ chức, cá nhân phải ghi đầy đủ; tên, địa chỉ, mã số thuế trên liên 2 (liên giao khách hàng) của từng số hoá đơn trước khi mang ra khỏi cơ quan thuế. Người mua hàng có trách nhiệm đối chiếu tên, mã số thuế khi nhận hoá đơn mua hàng để bảo hành hàng hoá, kê khai thuế, khấu trừ thuế, xác định chi phí hợp lý khi tính thuế theo quy định. Thứ ba, các tổ chức, cá nhân được sử dụng hoá đơn nếu sau thời hạn nộp tờ khai thuế theo quy định mà chưa nộp thì cơ quan thuế tiến hành kiểm tra tình hình quản lý và sử dụng hoá đơn. Nếu vi phạm thì xử lý theo chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn ban hành theo quyết định số 885/QĐ/BTC ngày 16/7/1998 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Thứ tư, cục thuế các tỉnh, thành phố tổ chức rà soát lại doanh nghiệp thành lập những không kinh doanh, sử dụng hoá đơn nhưng không kê khai nộp thuế để xử lý; thông báo công khai, kịp thời cho cơ quan chức năng, phối hợp chặt chẽ với cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan cấp giấy phép kinh doanh để ngăn chặn việc lợi dụng gây thiệt hại cho NSNN. Thứ năm, định kỳ 10 ngày đầu tháng sau, cơ quan tài chính, cơ quan thuế các cấp thực hiện báo cáo UBND cùng cấp các hành vi vi phạm và xử lý về sử dụng hoá đơn không hợp pháp trong thanh toán, quyết toán tài chính, kê khai thuế của tháng trước, để UBND theo dõi và chỉ đạo ngăn chặn kịp thời ở địa phương. Để thực hiện tốt những nguyên tắc đã chỉ đạo của Bộ tài chính về việc tăng cường quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ ở mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân, cần thiết UBND tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng trong tỉnh, thành phố như: Sở tài chính, cục thuế… phải phối hợp để thực hiện. Cụ thể: + Quy định Thủ trưởng các đơn vị chịu thuế trách nhiệm trong việc duyệt thanh quyết toán tài chính đối với những háo đơn bán hàng không hợp pháp; đồng thời quán triệt cho cán bộ, công chức trong đơn vị, ngành, địa phương khi mua hàng hoá, dịch vụ cho cá nhân, gia đình đều phải yêu cầu người bán cung cấp hoá đơn hợp pháp, ghi đúng giá bán thực tế thanh toán. Trường hợp người bán xuất hoá đơn yêu cầu trả thên tiền hàng thì phải kịp thời thông báo cho cơ quan quản lý thị trường, cơ quan thuế gần nhất để phối hợp xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật hiện hành. + Khi lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng kinh phí Nhà nước, các cơ quan, đơn vị thụ hưởng tiền từ NSNN phải lập bảng kê hoá đơn của hàng hoá, dịch vụ mua vào gửi cùng với báo cáo quyết toán cho cho cơ quan tài chính. Bảng kê hoá đơn phải ghi rõ ký hiệu xêri, số hoá đơn, tên hàng hoá, dịch vụ, số tiền mua hàng và tên, địa chỉ, mã số thuế của dịch vụ bán hàng. Cơ quan tài chính các cấp khi thực hiện kiểm tra, kiểm sát, thanh quyết toán tài chính phải đối chiếu hoá đơn, chứng từ để phát hiện những hoá đơn giả; hoá đơn không hợp pháp trong chi tiêu, thanh quyết toán tài chính ở các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý. Thực hiện tốt công tác kiểm sát chi NSNN. Các vi phạm về sử dụng hoá đơn, chứng từ đã phát hiện phải xử lý theo quy định của pháp luật, đồng thời thường xuyên phối hợp với cơ quan thuế để xem xét, thẩm tra, xác minh các hoá đơn có dấu hiệu vi phạm. + Ngoài ra, đối với người lãnh đạo bình thường để tăng cường quản lý hoá đơn, chứng từ, nên giao nhiệm vụ tuyên truyền vận động gia đình, cá nhân mua bán hàng hoá, dịch vụ phải thông qua chứng từ, hoá đơn cho chính quyền cấp cơ sở (các khối, tổ dân phố, thôn, xóm, bản) và xem đây là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động của mình. Là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành của nhiệm vụ chính trị được giao. + Đối với cơ quan thuế. Tổ chức thực hiện ghi (đóng dấu) tên, địa chỉ, mã số thuế trên liên 2 (liên giao khách hàng) của từng số hàng hoá ngay tại cơ quan thuế đối với hoá đơn do Bộ tài chính phát hành, khi cơ sở đến cơ quan thuế để mua hoá đơn, tránh tình trạng cho, bán hoá đơn trắng. Tăng cường công tác hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện việc quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ đúng quy dịnh; khi bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ phải xuất hoá đơn cho khách hàng, kể cả trường hợp hàng hoá có giá trị dưới 100.000đ mà người mua yêu cầu. Đẩy mạnh việc triển khai chế độ kế toán kinh doanh, đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng như: công an, quản lý thị trường định kỳ kiểm tra, xử phạt nghiêm minh, đúng pháp luật đối với những cơ sở đặt, in hoá đơn không hợp pháp, các cơ sở khi bán hàng hoá, dịch vụ không xuất hoá đơn hoặc yêu cầu khách hàng phải trả thêm tiền mới xuất hoá đơn và những trường hợp sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn không hợp pháp để kê khai khấu trừ thuế, hoàn thuế. Phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng địa phương tổ chức tuyên truyền công tác quản lý sử dụng hoá đơn cho mọi đối tượng để người bán hàng lẫn người mua hàng khi đi mua, bán hàng hoá, dịch vụ phải xuất và nhận hoá đơn, đồng thời đưa tin những vụ vi phạm điển hình về hoá đơn, chứng từ ở địa phương trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm chế độ quản lý hoá đơn, chứng từ còn phổ biến trong giai đoạn hiện nay. + UBND các cấp tăng cường trách nhiệm trong việc chỉ đạo kiểm tra tình hình sử dụng hoá đơn để thanh quyết toán kinh phí Nhà nước đối với cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp. Chỉ đạo cơ quan thuế tăng cường, củng cố, mở rộng diện hộ kinh doanh thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ trong quá trình sản xuất kinh doanh của cơ sở. + Định kỳ vào những ngày đầu tháng, quý, cơ quan tài chính, cơ quan thuế các cấp hàng hoá báo cáo bằng văn bản cho UBND cùng cấp các vi phạm và xử lý về sử dụng hoá đơn không hợp pháp trong thanh quyết toán tài chính, trong kê khai thuế để UBND theo dõi và chỉ đạo kip thời. + Ngoài ra, để thực hiện tốt chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ trong mọi hoạt động kinh tế, tạo thêm môi trường thuận lợi cho việc chống thất thu thuế có hiệu quả và hỗ trợ tích cực cho chủ trương chống tham nhũng cần có thêm những quy định sau: Có chế độ khen thưởng phù hợp đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ. Chẳng hạn, hộ kinh doanh có thể được giảm 5% - 10% số thuế khoán phải nộp trong tháng… Muốn được giảm thuế, hộ phải đăng ký với cơ quan thuế địa phương cam kết thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Hàng tháng phải kê khai doanh số hàng mua vào, bán ra kèm theo tờ khai cụ thể về hoá đơn đã có cán bộ chuyên quản kiểm tra xác nhận tờ khai trình lãnh đạo chi cục thuế xét duyệt việc giảm thuế. Đối với cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp khi mua hàng hoặc cung ứng dịch vụ có đầy đủ hoá đơn hợp lệ, có bảng kê hoá đơn (ghi rõ ký hiệu sêri, số hoá đơn, tên hàng hoá, dịch vụ, số tiền mua hàng và tên, địa chỉ, mã số thuế của đơn vị bán hàng), được cơ quan tài chính chấp nhận thanh toán đầy đủ khi quyết toán tài chính năm. áp dụng thủ nghiệm hình thức mở thưởng đối với số xêri của hoá đơn, chỉ nên áp dụng đối với khu vực người tiêu dùng hàng hoá trực tiếp cho sinh hoạt không kể các cơ quan Nhà nước vì khu vực này có thể kiểm soát dễ dàng. Có thể số tiền thưởng trong mở thưởng sẽ tiết kiệm hơn nhiều sơ với công tác kiểm tra mà hiệu qủa hơn, nhanh chóng hơn, mang tầm vĩ mô hơn, tránh được phiền hà, nhũng nhiễu… Việc mở thưởng nên thực hiện theo tháng và được thông tin đến tận người dân. Trong quá trình thực hiện sẽ mất nhiều thời gian và công sức của cán bộ, công chức và một phần số thu ngân sách nhưng dần dân từng bước với biện pháp kích thích này sẽ phát huy tác dụng tích cực và có tác dụng đòn bẩy trong quá trình quản lý thu thuế. Yêu cầu của việc mở thưởng là chọn đối tượng tham gia, điều kiện để được lãnh thưởng, số lượng quy mô giải thưởng, quá trình tổ chức mở thưởng không xảy ra sự lợi dụng, thiếu công tâm. Khuyến khích việc sử dụng hoá đơn bán hàng đối với những hộ nông dân tiêu thụ sản phẩm thường xuyên hoặc định kỳ với giá trị lớn. Đây là điều kiện thuận lợi để sản phẩm của người nông dân được tiêu thụ dễ dàng, giữ được giá bán phù hợp, không bị các tổ chức, cá nhân thu mua ép cấp, ép giá, tránh phiền hà trong quá trình vận chuyển và phản ánh đúng giá trị sản phẩm hhh bán ra, giúp cho hộ nông dân tăng tích luỹ, tái đầu tư mở rộng sản xuất. Đồng thời nâng cao đời sống vật chất cho người nông dân và làm cơ sở cho các chính sách ưu đãi đầu tư, phát triển sản xuất. Mặt khác, nhằm giảm bớt những vướng mắc, những thủ tục rườm rà, tiêu cực trong quá trình kiểm tra, kiểm soát đối với người nông dân khi mang sản phẩm đi tiêu thụ trên thị trường. Việc người nông dân khi bán sản phẩm có sử dụng hoá đơn sẽ giảm bớt việc sử dụng bản kê thu mua hàng trong việc hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh ở các huyện, hạn chế hiện tượng tiêu cực, quá trình khấu trừ, hoàn thuế GTGT, tăng cường hiệu quả của công tác quản lý thu thuế. + Ban hành mẫu hoá đơn đặc thù cho việc mua bán hàng hoá theo hình thức đặt, gửi hàng thông qua điện thoại, Fax, ký gửi phù hợp với yêu cầu thực tế phát sinh hiện tại. Loại hoá đơn này áp dụng theo phương thức hồi báo (liên2 và liên 3 được gửi kèm theo hàng, khi người mua nhận đủ hàng thì ký nhận và gửi hồ báo liên 3 cho người bán hàng làm cơ sở thanh toán), nhằm xác lập tính pháp lý rõ ràng giữa người mua, người bán, khuyến khích các đơn vị tích cực sử dụng hoá đơn bán hàng, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan chức năng dễ kiểm tra, đối chiếu xác minh, hạn chế trường hợp quay vòng hoá đơn để trốn thuế. Thực hiện được những bước công việc trên mới hạn chế được tình trạng sử dụng hoá đơn giả, mua bán hoá đơn trắng, ghi hoá đơn liên trên doanh số ít liên dưới doanh số cao hơn… góp phần xây dựng trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực tài chính, tăng cường pháp chế của Nhà nước trong quản lý kinh tế và góp phần bảo vệ công bằng xã hội. 3.2.4. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương trong quản lý thu thuế. Quản lý thu thuế được thực hiện trên cơ sở chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do đó, từng cấp uỷ Đảng, tổ chức Đảng các cấp phải có chương trình và biện pháp cụ thể để lãnh đạo cơ quan chính quyền, chuyên môn, đoàn thể triển khai tích cực và thực hiện tốt công tác lớn của Nhà nước và nhân dân. Đây đồng thời cũng là một cuộc đấu tranh quyết liệt, bởi nó đụng chạm đến lợi ích của Nhà nước, của từng đơn vị sản xuất kinh doanh và mỗi người dân trong xã hội. Trong khi chính sách thuế còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục, hoạt động của bộ máy ngành thuế còn chưa ổn định, cơ chế quản lý thuế còn nhiều sơ hở, giác ngộ về nghĩa vụ thuế của đa số các đối tượng nộp thuế còn thấp, sự phát triển của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập ngày càng mở mang đa dạng, phong phú về các phát sinh kinh tế… tất cả tạo nên sự phức tạp cao độ trong công tác quản lý thu thuế cho nên nếu không có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng và chính quyền Nhà nước các cấp thì hiện tượng thu thuế sẽ ngày càng tăng. Trong điều kiện hiện nay, chính quyền địa phương có vai trò rất quan trọng đến công tác tổ chức quản lý thu thuế. Nhưng để thực hiện tốt vai trò chỉ đạo của chính quyền các cấp. Trung ương cần quy định chức năng, quyền hạn của chính quyền địa phương trên cơ sở quán tịt luật NSNN. Xác định rõ ranh giới giữa tài chính Trung ương và tài chính địa phương để xây dựng một hệ thống ngân sách thống nhất. Trên cơ sở đó tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp đối với công tác quản lý thu thuế; UBND các cấp cần coi việc chỉ đạo điều hành công tác quản lý thu thuế trong địa phương mình là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và Nhà nước giao phó. Từ nhận thức đó để bố trí cán bộ theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc việc quản lý thu thuế, cần chỉ đạo để giúp ngành thuế phối hợp tốt với các ngành tài chính, ngân hàng, kế hoạch, đầu tư, xây dựng… để chống thất thu thuế. Cần quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của UBND các cấp trong tổ chức quản lý thu thuế. Chính quyền địa phương phải thực hiện quyền thu thuế trên lãnh thổ của mình, giúp cho chính quyền địa phương là cơ quan thuế. Tránh tình trạng chính quyền thờ ơ với công tác thuế, coi đó là nhiệm vụ riêng của ngành thuế, đồng thời cũng không được can thiệp một cách sai trái vào chính sách, pháp luật thuế. 3.2.5. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách thuế. Xây dựng các luật thuế, pháp lệnh thuế nhằm cung cấp cho cơ chế quản lý tài chính những phương tiện quản lý, làm cơ sở và đảm bảo việc ban hành các quyết định phù hợp với đối tượng quản lý. Muốn các quy phạm pháp luật thuế tác động vào đối tượng nộp thuế, cần khâu tiếp theo đó là việc áp dụng luật thuế, đảm bảo cho chủ thể quản lý tổ chức thực hiện các quy phạm pháp luật thuế đối với các đối tượng nộp thuế đối với các đối tượng nộp thuế. Các quyết định quản lý mang lại hiệu quả khi nó tác động tới đối tượng quản lý, tới những người chấp hành và thực hiện nghiêm túc. Điều đó, phụ thuộc vào khâu thực hiện luật thuế, vào tính tự giác của mỗi công dân, đồng thời phụ thuộc vào hiệu qủa của luật thuế. ở nước ta hiện nay, việc xây dựng, áp dụng và tổ chức thực hiện luật thuế còn nhiều hạn chế. Thể hiện sự coi thường pháp luật của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Để khắc phục tình trạng trên, điều quan trọng là phải tiến hành thường xuyên việc giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật là điều kiện hàng đầu để tăng cường pháp chế trong thực hiện các luật thuế. Phải giáo dục những điều sơ đẳng về chính sách thuế ngay trong ghế nhà trường tiểu học, giáo dục và phổ cập những điều cơ bản của luật cho mọi công dân hiểu biết và thực hiện tốt. Các nhà chức trách, các tổ chức, đặc biệt là cơ quan thi hành pháp luật phải có biện pháp nâng cao sự hiểu biết và hình thành một ý thức pháp luật trong quảng đại quần chúng nhân dân. Điều đó, không những là tiền đề mà còn là chỗ dựa cho việc xây dựng và thi hành các luật thuế. Cần có sự kết hợp chặt chẽ của ngành giáo dục để tuyên truyền phổ biến luật thuế. Cần tạo ra một sự chuyển biến sâu sắc trong toàn xã hội từ chỗ khuyến khích chống thuế dưới chế độ cũ sang hình thức nộp thuế là nghĩa vụ, là biểu hiện nhiệt tình yêu nước của mỗi người, niềm tự hào về mức đóng góp của mình đối với đất nước. Trốn thuế, lậu thuế đồng nghĩa với lừa đảo và ăn cắp, không những bị pháp luật trừng trị nặng, ghi vào hồ sơ cá nhân, không ai muốn thuê mướn sử dụng người đang bị án mà còn bị xã hội khinh rẻ, phê phán. Phương pháp tuyên truyền có hiệu quả nhất là thông qua các cấp chính quyền, cơ quan đoàn thể quần chúng. Cần nhận thức rằng, Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” [13, tr. 48]. Do đó, phải bằng mọi cách làm cho người dân hiểu đúng pháp luật và chấp hành pháp luật, thực hiện sự kiểm tra của nhân dân đối với cơ quan thuế. Ngành thuế và các cấp chính quyền tranh thủ kết hợp trong các cuộc họp, hội nghị tổng kết của Đảng, chính quyền, đoàn thể, quần chúng để tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách thuế. Việc cung ứng tri thức và giáo dục, tuyên truyền ý thức về pháp luật cho mỗi công dân không phải sự nghiệp riêng của ngành thuế mà là nhiệm vụ có tầm chiến lực quốc gia cầnphải đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Kinh nghiệm cho thấy, trong quá trình tuyên truyền cầm phải lưu ý quan tâm đến tâm tư của người nộp thuế. người nắm được chính sách thuế thì luôn mong đợi câu trả lời chính xác, người mua chưa nắm được trình bày và giải thích rõ hơn. Nếu làm được như vậy sẽ cải tiến được mối quan hệ giữa nhân dân và người nộp thuế và các cơ quan chức năng quản lý Nhà nước về thuế. Các địa phương cần đẩy mạnh công việc thành lập các trung tâm dịch vụ, tư vấn pháp luật về thuế (có thể thu lệ phí hoặc không thu lệ phí hướng dãn, tư vấn). Giúp đỡ, hướng dẫn thực hiện công tác kế toán, sổ sách chứng từ và khuyến khích động viên sự trung thực trong khai báo và tự giác nộp thuế. Phải đề cao trách nhiệm của Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp ở địa phương trong việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật thuế. Hàng năm, cần tiến hành tổ chức tổng kết công tác thuế với đối tượng nộp thuế trên địa bàn để rút kinh nghiệm. Coi trọng việc biểu dương khen thưởng tổ chức, cá nhân nộp thuế đúng luật và phê phán những cơ sở trốn thuế, lậu thuế để có tác dụng giáo dục. “Cần thiết phải tôn vinh và có chế độ khen thưởng phù hợp ở các đối tượng nộp thuế và doanh nghiệp kinh doanh có hiêụ quả, thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế” [14, tr. 4]. Ban tuyên giáo, các cấp uỷ cần quan tâm hơn nữa đối với công tác này phải coi đây là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của mình. Qua các phiên họp của hội đồng nhân dân các cấp, cần phải thông báo cụ thể cho nhân dân biết về tình hình vệ hiệu quả sử dụng nguồn thu thuế, nhằm tăng thêm chất lượng trong công tác tuyên truyền. Mở rộng hình thức tuyên truyền bằng tranh cổ động, áp phích thể hiện các công trình được xây dựng bằng nguồn thu thuế. KẾT LUẬN Đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong những năm qua đã có tác động tích cực thúc đẩy, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh đúng hướng, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn, xoá được đói, giảm được nghèo. Đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp ban hành, các thủ tục hành chính được cải tiến đơn giản hơn tạo ra sự thông thoáng, từ đó các thành phần kinh tế phát triển mạnh, đặc biệt là các cơ sở KTNQD phát triển nhanh chóng, đa dạng và phong phú góp phần tạo nhiều sản phẩm hàng hoá dịch vụ phục vụ nhân dân, thu hút hàng vạn lao động có việc làm, ổn định thu nhập đóng góp một phần đáng kể cho NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh quá trình phát triển thì việc thực hiện nghĩa vụ với NSNN của các cơ sở thuộc khu vực KTNQD chưa sát đúng với tình hình hoạt động của cơ sở theo pháp luật hiện hành, do đó dẫn đến sự mất công bằng trong động viên tiền thuế ở tất cả các thành phần kinh tế, hiện tượng thất thu thuế còn nhiều. Cho nên tăng cường và hoàn thiện quản lý thu thuế ở khu vực KTNQD là điều cần thiết trong tiến trình cải cách thuế hiện nay. Với 3 chương thể hiện đề tài nghiên cứu, luận văn “Quản lý thuế khu vực ngoài quốc doanh ở Hà Tây - Thực trạng và giải pháp” đã đi sâu phân tích và giải quyết một số nội dung cơ bản sau: 1. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về thuế và vấn đề quản lý thuế đối với khu vực kinh tế NQD. 2. Phân tích thực trạng công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong những năm gần đây, nhất là từ khi thực hiện Luật doanh nghiệp. Những thành công và hạn chế trong công tác quản lý thuế, từ đó rút ra những nguyên nhân chủ yếu tác động đến quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong thời gian qua. 3. Luận văn đã phân tích những quan điểm quan điểm về việc thi hành chính sách động viên đóng góp qua thuế trên cơ sở bình đẳng, công bằng, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. 4. Trên cơ sở những thực trạng quản lý thu thuế NQD ở tỉnh Hà Tây, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý thu thuế NQD trong giai đoạn hiện nay, hạn chế sự thất thu về thuếổtên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. Hy vọng rằng, cùng với những nỗ lực chung của toàn Đảng, toàn dân tỉnh Hà Tây trong tiến trình đổi mới kinh tế, ngành thuế Hà Tây cũng sẽ có những chuyển biến tích cực trong công tác quản lý thuế. Luận văn có thể đóng góp được một số giải pháp trong quản lý thu thuế ở khu vực KTNQD trên điạ bàn tỉnh Hà Tây có hiệu quả thiết thực. Qua đó góp phần đảm bảo hệ thống thuế có thể phục vụ ngày càng tốt hơn trong phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 1999, Hà Tây. Cục thuế Hà Tây (2000). 2. Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 2000, Hà Tây. Cục thuế Hà Tây (2001). 3. Báo cáo chuyên đề: Biện pháp quản lý thu thuế đối với cơ sở kinh doanh NQD năm 2000 và 6 tháng đầu năm 2001, Hà Tây. Cục thuế Hà Tây (2001). 4. Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 2001, 2002. Cục thuế Hà Tây (2002). 5. Báo cáo công tác quản lý thu thuế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ NQD, Hà Nội. 6. Báo cáo tình hình phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn (2000 - 2002). Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Tây (2002). 7. Lê Văn Chấn (2001), “Cùng trao đổi về việc xử lý quan hệ giữa cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế”, Thuế Nhà nước, (6), tr.41. 8. PGS.PTS Ngô Thế Chi - PTS Vũ Công Ty (1999), Hướng dẫn thực hành thuế và kế toán thuế, Nxb Thống kê, Hà Nội. 9. Giáo trình quản lý thuế. Trường Đại học kinh tế quốc dân. NXB thống kê 2003. 10. Nguyễn Sinh Hùng (Bộ trưởng Bộ Tài chính) (2002), “Các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế - cần được tôn vinh”, Thuế Nhà nước, (2), tr.4. 11. Luật thuế Giá trị gia tăng ban hành ngày 10/5/1997. NXB chính trị Quốc gia Hà Nội 1999. 12. Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp ban hành ngày 10/5/1997. NXB chính trị Quốc gia Hà Nội 1999. 13. Mác - Ăngghen (1962), tập 1, Nxb Sự thật Hà Nội. 14. Mác - Ăngghen (1962), tập 2, Nxb Sự thật Hà Nội. 15. Nghị định 52/NĐ-CP Chính phủ ban hành ngày 9/9/1996. 16. Nghị định số 28/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế Giá trị gia tăng ngày 11/5/1998, Hà Nội. 17. Nghị định số 30/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp ngày 13/5/1998, Hà Nội. 18. Nghị định số 79/2000/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế Giá trị gia tăng ngày 11/5/1998, Hà Nội. 19. Nghị định số 26/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp ngày 4/6/2001, Hà Nội. 20. Niên giám thống kê 1999 - 1999. Cục thống kê Hà Tây (1999). Xí nghiệp in, Công ty phát hành biểu mẫu thống kê Hà Tây. 21. Niên giám thống kê 2000 - 2002. Cục thống kê Hà Tây (2002). Xí nghiệp in, Công ty phát hành biểu mẫu thống kê Hà Tây. 22. Đào Duy Quát (2000), “Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng nhằm thực hiện thắng lợi các luật thuế mới”, Thuế Nhà nước, (5), tr.1. 23. Huỳnh Huy Quế (2000), “Thuế trong thời kỳ đổi mới”, Tài chính, tr. 10-12. 24. Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế Giá trị gia tăng, Hà Nội. Bộ Tài chính (1998). 25. Thông tư số 99/1998/TT-BTC ngày 14/7/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp, Hà Nội. Bộ Tài chính (1998). 26. Thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 hướng dẫn thi hành Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế Giá trị gia tăng, Hà Nội. Bộ Tài chính (2000). 27. Thông tư số 18/2002/TT-BTC ngày 20/2/2002 hướng dẫn thi hành Nghị định số 26/2001/NĐ-CP ngày 4/6/2001 của Chính phủ và Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp, Hà Nội. Bộ tài chính (2002). 28. Thuế Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ tài chính - Tổng cục Thuế (2001). 29. Thanh Thanh (2002), “Luật quá thoáng”, Báo Pháp luật, ngày 13/5. Hà Nội. 30. Vũ Thị Toản (1996), Công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn Hà Nội. Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 31. Thuế Nhà nước, Nxb Tài chính, Hà Nội 2000. 32. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2 3. Mục đích và yêu cầu 2 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 3 5. Phương pháp nghiên cứu 3 6. Đóng góp mới về mặt khoa học và luận văn 3 7. Kết cấu của luận văn 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUÁT VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH 4 1.1. Một số vấn đề lý luận về thuế 4 1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế 4 1.1.2. Vai trò của thuế 9 1.2. Khu vực KTNQD và quản lý thuế đối với KT NQD 12 1.2.1. Đặc điểm của kinh tế NQD 12 1.2.2. Yêu cầu và nội dung của công tác quản lý thu thuế NQD 17 1.2.2.1. Mục tiêu yêu cầu của quản lý thu thuế NQD 18 1.2.2.2. Nội dung cơ bản của quản lý thu thuế KTNQD 21 1.3. Nội dung cơ bản của một số sắc thuế đối với KTNQD ở việt nam 29 1.3.1. Thuế môn bài 30 1.3.2. Thuế GTGT 30 1.3.3. Thuế TNDN 33 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở HÀ TÂY 36 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và thực trạng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây 36 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội 36 2.1.2. Thực trạng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD) ở Hà Tây 43 2.2. Tình hình quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây những năm qua 49 2.2.1. Xây dựng bộ máy quản lý ngành thuế 49 2.2.2. Tổ chức quản lý thu thuế 54 2.2.2.1. Quản lý thu thuế các doanh nghiệp NQD 54 2.2.2.2. Quản lý thu thuế hộ cá thể kinh doanh 59 2.2.3. Công tác thanh tra chống thất thu trong quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Hà Tây 65 2.3. Đánh giá chung 67 2.3.1. Những kết quả đã đạt được 67 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 71 2.3.2.1. Những hạn chế 71 2.3.2.2. Những nguyên nhân 72 CHƯƠNG 3: NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NQD Ở HÀ TÂY NHỮNG NĂM TỚI 74 3.1. Một số quan điểm cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý thu thuế ngoài quốc doanh ở Hà Tây 74 3.1.1. Quản lý thu thuế là nhiệm vụ chung của cơ quan thuế, chính quyền địa phương và cơ quan liên quan 74 3.1.2. Bảo đảm bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế 76 3.1.3. Quản lý thuế NQD phải được đổi mới theo: ĐTNT tự tính, tự khai và tự nộp thuế 77 3.2. Một số giải pháp về tăng cường quản lý thuế đối với khu vực kinh tế NQD 78 3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác quản lý thuế đối với KTNQD trên địa bàn 78 3.2.2. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế, nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ. 81 3.2.3. Hoàn thiện chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn trong quản lý thu thuế 84 3.2.4. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương trong quản lý thu thuế 91 3.2.5. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách thuế 92 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC 97 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10748.doc
Tài liệu liên quan