Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 - 1975

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MỘNG LÀNH LỚP DH5C2 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGÀNH NGỮ VĂN SỰ THỂ HIỆN TÌNH YÊU TRONG MỘT SỐ BÀI THƠ TIÊU BIỂU GIAI ĐOẠN 1945 – 1975 Giảng viên hướng dẫn Thạc sĩ: LÊ HUỲNH DIỆU Long Xuyên, 5 / 2008 MỤC LỤC -o0o- PHẦN I: MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: ...................................................................................................1 II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: ..........................

pdf61 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 12246 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 - 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
........................................................2 III. Phạm vi nghiên cứu: ...........................................................................................4 IV. Mục đích nghiên cứu:..........................................................................................4 V. Đóng góp của đề tài: .............................................................................................4 VI. Phương pháp nghiên cứu: ..................................................................................4 VII. Kết cấu của luận văn: ........................................................................................5 PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG I: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1975 I. Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975: .. 1. Nền văn học đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phục vụ các nhiệm vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu: ............................................6 2. Văn học hướng về đại chúng: .......................................................................7 3. Nền văn học chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng sử thi: ...........................8 II. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học giai đoạn 1945 – 1975: 1. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1945 – 1954:...............10 2. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1955 – 1964:.............. 11 3. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1965- 1975: ................12 4. Quan niệm về tình yêu trong thơ kháng chiến 1945 – 1975: 4.1. Từ “cái tôi” lãng mạn trong Thơ mới đến “cái ta” lãng mạn cách mạng trong thơ tình yêu thời kì kháng chiến: ............................13 4.2. Quan niệm về tình yêu trong thơ kháng chiến (1945 – 1975): .....................................................................................14 CHƯƠNG II: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH LÃNG MẠN TRONG THƠ TÌNH YÊU THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN (1945-1975) I. Tình yêu hồn nhiên, tươi trẻ, đằm thắm giữa đạn lửa chiến tranh:................17 II. Tình yêu và nỗi nhớ vượt không gian, thời gian: ............................................20 III. Tình yêu lí tưởng vượt qua những mất mát đau thương trong chiến tranh: 1. Tình yêu lí tưởng: .......................................................................................30 2. Niềm đau xót, sự vượt lên những mất mát đau thương trong tình yêu:................................................................................................32 CHƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC, NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN I. Môtíp riêng – chung:............................................................................................40 II. Không gian nghệ thuật:......................................................................................44 III. Phương thức tự sự: ...........................................................................................46 IV. Vận dụng thể thơ tự do: ....................................................................................51 PHẦN III: KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 1 - PHẦN I: MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Tình yêu là đề tài muôn thuở của thi ca. Nhắc đến tình yêu, người đọc thường nghĩ đến Thơ mới. Hầu như trong văn nghiệp của các nhà thơ mới đều có thơ viết về tình yêu. Xuân Diệu được Hoài Thanh dành tặng danh hiệu nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, lại cũng chính là người viết nhiều về thơ tình yêu và được suy tôn là ông hoàng của thơ tình. Tuy nhiên, vấn đề mà đề tài quan tâm khám phá là thơ tình yêu ra đời trong những năm kháng chiến 1945 – 1975. Giai đoạn mà dân tộc, đất nước ta đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng đối đầu với nhiều kẻ thù xâm lược. Nền văn học giai đoạn này chủ yếu phản ánh cuộc chiến tranh thần thánh của nhân dân ta. Cảm hứng chủ đạo của văn học là cảm hứng về quê hương, đất nước về những tình cảm cộng đồng. Thơ tình yêu ra đời trong bối cảnh lịch sử đó. Mặc dù viết về tình yêu riêng tư, đời sống cá nhân nhưng thơ tình yêu giai đoạn này đã thật sự góp phần làm đa dạng nền thơ Việt Nam hiện đại. Qua cái riêng, số phận mỗi cá nhân, người đọc vẫn thấy được số phận, hoàn cảnh chung của cả cộng đồng, dân tộc. Hiện thực của cuộc chiến được tái hiện sống động trong thơ làm cho thơ tình yêu giai đoạn này có những giá trị, đóng góp nhất định. Nhà thơ Thụy Điển Nazim Hitmet từng phát ngôn: Đừng hi vọng những câu thơ anh viết sẽ làm rung động trái tim người khác nếu trước tiên nó không làm trái tim anh rung động. Quả thật, những cảm xúc nhớ thương da diết, những khát vọng hạnh phúc sum vầy, tình yêu trong đời sống cá nhân thời chiến tranh từng làm rung động trái tim người đọc. Sau những cuộc hành quân chiến đấu, đôi mắt người yêu lại hiện về trong nỗi nhớ mong khao khát, khắc khoải, đầy suy tư: Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu ( Đất nước – Nguyễn Đình Thi) Và nỗi nhớ mong yêu thương vừa trừu tượng, vừa cụ thể như có dáng hình: Rút sợi thương Chằm mái lợp Rút sợi nhớ Đan vòm xanh hay đó là nỗi đau li biệt cồn cào oặn thắt từ hình sông, dáng núi: Núi vẫn đôi mà anh mất em Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 2 - Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ nhung và cả sự mất mát chính là những góc khuất trong đời sống tinh thần của con người thời kháng chiến. Chính vì vậy, tôi đã chọn cho mình đề tài: Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975. Đề tài xuất phát từ tình hình thực tế là chưa có công trình nào nghiên cứu về thơ tình yêu trong giai đoạn này. Đề tài Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 sẽ cho chúng ta cái nhìn tổng hợp về thời đại, đất nước và con người, giai đoạn văn học, những đặc điểm của thơ tình yêu. Qua đây, ta thấy được lí tưởng sống và quan niệm về tình yêu thời kháng chiến của một thế hệ cha anh. Để từ đó, người đọc thêm yêu, đồng cảm, trân trọng họ hơn. Bởi họ đã góp cho thơ ca nói chung và thơ kháng chiến nói riêng những bản tình ca bất diệt. II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ: Cho đến thời điểm này, tôi chưa thấy một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào về thơ tình yêu giai đoạn 1945 – 1975. Các nguồn tư liệu chủ yếu là các giáo trình trình bày về giai đoạn, đặc điểm thời kì văn học, hay các bài nghiên cứu đặc điểm thơ kháng chiến nói chung, hoặc đi sâu phân tích, nghiên cứu về thơ của một tác giả tiêu biểu. Những kiến thức mà tôi thu được qua quá trình tìm hiểu các nguồn tư liệu này đã góp phần định hướng, giúp triển khai đề tài nghiên cứu. Sau đây là một vài công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan: 1. “Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại 1945 – 1975” (NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội – 1998), nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Bắc đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về nền thơ ca Việt Nam trong 30 năm. Tác phẩm được trình bày gồm 3 chương: Chương I: Những biểu trưng về Tổ quốc trong thơ ca Cách mạng Việt Nam (1945 – 1975). Chương II: Những biểu trưng về người anh hùng trong thơ ca Cách mạng Việt Nam (1945 – 1975). Chương III: Những biểu trưng về kẻ thù trong thơ ca Cách mạng Việt Nam. Ở chương II “Những biểu trưng về con người anh hùng trong thơ ca Cách mạng Việt Nam 1945 – 1975”, tác giả đã trình bày “biểu trưng về con người tình nghĩa”. Theo Nguyễn Duy Bắc, trong giai đoạn đất nước có chiến tranh, “con người vì nghĩa, vì đại nghĩa” là lẽ sống cao nhất của người anh hùng. Hạnh phúc lớn nhất của con người là hi sinh tình yêu cá nhân cho tình yêu nước, yêu giai cấp, yêu nhân dân. Tình yêu quê hương, đất nước là nền tảng để tôn thêm ý nghĩa và màu sắc mới mẻ cho tình yêu lứa đôi. Do vậy, tình yêu lứa đôi được tác giả xác định trên quan điểm hòa cái riêng vào cái chung, theo các tiêu chuẩn về lẽ sống của người anh hùng. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 3 - 2. Qua chuyên đề nghiên cứu “Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975” (in trong tác phẩm: “Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám” của nhiều tác giả, NXB đại học quốc gia, Hà Nội – 1996), giáo sư Trần Đăng Xuyền đã nêu lên một trong những đặc điểm cơ bản nhất của thơ Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 là: “Sự hồi sinh của cái tôi đời tư theo xu hướng hòa hợp với cái ta chung và sự đậm dần, mở rộng, phát triển mạnh mẽ của cái tôi sử thi” [13; 258]. Như vậy, thơ tình yêu ra đời trong giai đoạn này cũng không vượt ra ngoài đặc điểm đó, nhà nghiên cứu Trần Đăng Xuyền khẳng định: “Ngay cả đến tình yêu, một thứ tình cảm riêng tư nhất cũng được nhìn nhận theo chiều hướng hòa hợp với cái ta chung,…” [13;260]. Cái “tôi” riêng tư được đặt trong mối quan hệ thống nhất với xã hội với đời sống của đất nước, của nhân dân. Qua bài nghiên cứu này, Trần Đăng Xuyền chú trọng khám phá đặc điểm thơ ca Việt Nam chủ yếu về mặt thi pháp thể loại. 3. Với tác phẩm “Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 – 1975” (NXB Giáo dục, năm 1998), Vũ Duy Thông tập trung khám phá vẻ đẹp tính thẩm mỹ qua nghệ thuật xây dựng hình tượng về đất nước, hình tượng về Bác Hồ, hình tượng về người lính. Bên cạnh những hình tượng đó, tác giả còn khám phá hình tượng về người phụ nữ trong thơ ca cách mạng. Tác giả cho người đọc thấy sự hi sinh lớn lao của những người mẹ, người vợ, người yêu trong thời kháng chiến. Tác giả cũng đã dẫn ra nhiều dẫn chứng thơ của Nguyễn Mĩ, Hồng Nguyên, Hữu Loan, Trần Hữu Thung, Bùi Minh Quốc,…Tuy nhiên, hình tượng người phụ nữ chủ yếu chỉ được nhìn nhận trên cơ sở đại diện cho hình ảnh nhân dân anh hùng. 4. Với công trình “Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam” (NXB Giáo dục, năm 1998), nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ đã đề cập đến thơ tình yêu ra đời trong giai đoạn 1945 – 1975 qua một bài viết ngắn nói về “Tình nghĩa riêng chung”. Giáo sư chỉ ra rằng thơ tình yêu giai đoạn này cũng có sự thống nhất riêng – chung. Nhìn chung, các tư liệu vừa dẫn ở trên đều có sự thống nhất trong nhìn nhận quan niệm về tình yêu biểu hiện trong văn học và thơ ca thời kì kháng chiến là đặt cái tôi riêng tư, tình yêu đôi lứa hài hòa với cái ta chung, tình yêu Tổ quốc. Qua đây, nó tạo điều kiện cho người viết nắm vững đặc điểm biểu hiện của thơ tình yêu, vận dụng vào phân tích, khám phá triển khai. Bên cạnh những tài liệu nêu trên, người viết còn tiếp cận các giáo trình như: “Văn học Việt Nam hiện đại tập II” (từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, NXB Đại học Sư phạm – 2007) do giáo sư Nguyễn Văn Long chủ biên; “Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám”(NXB Giáo dục, năm 2001) cùng của giáo sư Nguyễn Văn Long (NXB Giáo dục, năm 2001). Hai quyển giáo trình trên đã giúp người viết có cái nhìn tổng hợp và hệ thống về giai đoạn phát triển 1945 – 1975 của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nền văn học Việt Nam thời kì này có những Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 4 - đặc điểm riêng, và quan niệm nghệ thuật về con người cũng có sự thay đổi qua từng chặng đường văn học. Tóm lại, nguồn tư liệu giúp cho việc nghiên cứu về thơ tình yêu giai đoạn 1945 – 1975 còn rất hạn chế. Dù vậy, đây vẫn là những nguồn thông tin cơ sở quý báu, làm tiền đề giúp người viết đi sâu khám phá sự thể hiện về nội dung và nghệ thuật của thơ tình yêu giai đoạn 1945 – 1975. III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu, phân tích một số bài thơ tiêu biểu viết về tình yêu lứa đôi ra đời trong giai đoạn 1945 – 1975 như: Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Nhớ, Chia tay (Nguyễn Đình Thi), Mưa rơi (Tố Hữu), Núi đôi (Vũ Cao), Vườn xưa (Tế Hanh), Quê hương (Giang Nam), Hoa chanh (Nguyễn Bao), Em phương xa (Thi Hoàng), Hương thầm (Phan Thị Thanh Nhàn), Đám cưới giữa mùa xuân (Viễn Phương), Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ), Bài thơ về hạnh phúc (Dương Hương Ly), Nhớ (Hoàng Thị Minh Khanh), Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây (Phạm Tiến Duật), Sợi nhớ sợi thương (Thúy Bắc), Những mùa trăng mong chờ (Lê Thị Mây),… IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Đề tài khám phá, phân tích một số biểu hiện về nội dung và hình thức nghệ thuật để thấy được những đóng góp, giá trị của mảng thơ viết về tình yêu ra đời trong thời kỳ kháng chiến. Trọng tâm là khám phá tiếng nói của cái tôi cảm xúc cá nhân hòa trong tình cảm cộng đồng - cái ta cách mạng. V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI: Đề tài cung cấp cái nhìn khái quát về thơ tình yêu giai đoạn 1945 – 1975. Đồng thời, thấy được những đóng góp về giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ tình yêu giai đoạn này vào nền văn học dân tộc. Bên cạnh đó, đề tài còn giúp người đọc thấy được sự thể hiện cái tôi trữ tình của thơ viết về tình yêu vừa mang những đặc điểm lịch sử, gắn với thời đại văn học, vừa có tính độc đáo riêng gắn liền với từng hoàn cảnh, đời sống đấu tranh và tài năng sáng tạo thơ ca của mỗi tác giả. VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 1. Phương pháp thống kê, hệ thống: Trên cơ sở những tư liệu đã tìm được, người viết tiến hành phân loại, thống kê để có cái nhìn bao quát về thơ tình yêu. Từ nền tảng đó, người viết Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 5 - hệ thống lại khái quát thành những biểu hiện khác nhau của thơ tình yêu về cả hai mặt nội dung và hình thức nghệ thuật. 2. Phương pháp so sánh: Luận văn có sự so sánh, đối chiếu những biểu hiện cảm xúc trữ tình trong Thơ mới với cảm hứng trữ tình trong thơ tình yêu thời chiến để thấy được những đặc điểm riêng của thơ tình yêu giai đoạn 1945 - 1975. 3. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là hai phương pháp được sử dụng thường xuyên trong luận văn. Phân tích những đoạn thơ hay, tiêu biểu để phục vụ cho việc làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu, nhằm đưa ra những lí lẽ xác đáng làm cơ sở vững chắc cho luận văn. Các phương pháp trên đây được vận dụng, phối hợp với nhau trong quá trình phân tích, đánh giá các vấn đề trong nội dung của luận văn. VII. KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN : Khóa luận được kết cấu thành ba phần chính: Phần I: Mở đầu Phần II: Nội dung Chương I: Những đặc điểm cơ bản và quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975. Chương II: Những biểu hiện của cái tôi trữ tình lãng mạn trong thơ tình yêu thời kì kháng chiến (1945 – 1975). Chương III: Một số phương thức, nghệ thuật biểu hiện. Phần III: Kết luận Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 6 - PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG I: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1975 I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1975: Để tìm hiểu sự thể hiện tình yêu qua thơ ca thời kháng chiến, trước hết chúng ta cần có cái nhìn bao quát về những đặc điểm cơ bản của nền văn học thời kì sau Cách mạng tháng Tám. Tìm hiểu nhận định về giai đọan văn học này, thống nhất với ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, có thể khái quát thành ba đặc điểm cơ bản sau đây: 1. Nền văn học đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phục vụ các nhiệm vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu: Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỉ nguyên mới cho đất nước, đồng thời cũng mở ra một thời đại mới cho nền văn học dân tộc. Trong giai đoạn lịch sử từ năm 1945 – 1975, dân tộc ta phải đối đầu với hai cường quốc xâm lược hùng mạnh: thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Do vậy, nội dung bao trùm của văn học thời kì này là phản ánh cuộc chiến đấu cho độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc, cho lí tưởng xã hội chủ nghĩa. [10;15]. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: Cuộc đấu tranh ấy do đội tiên phong của giai cấp công nhân và dân tộc là Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo. Vì thế, mọi bình diện của đời sống xã hội, từ chính trị, quân sự, đến kinh tế, văn hóa đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. [10;15] Văn học là một hình thái ý thức xã hội nên bao giờ văn học cũng phản ánh cuộc sống. Từ xưa, cụ Đồ Chiểu đã ý thức dùng văn học làm vũ khí chiến đấu. Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà (Đạo) Đến chủ tịch Hồ Chí Minh, Người cũng đã khẳng định: Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong (Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”) Nhà thơ cũng là người chiến sĩ và thơ văn của họ là thứ vũ khí sắc bén đánh gián tiếp vào quân thù. Văn học là một bộ phận của văn nghệ. Thế nên, trong “Thư gởi các họa sĩ nhân triển lãm hội họa toàn quốc năm 1951 Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 7 - ở Việt Bắc”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trước các văn nghệ sĩ: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. [10;15] Thời kì này, Đảng lãnh đạo văn nghệ được thể hiện trên nhiều phương diện: cả về tư tưởng và tổ chức. Đảng đã Nêu ra đường lối văn nghệ và mục tiêu, nhiệm vụ của văn nghệ, tạo điều kiện cho họ thâm nhập thực tế để sáng tác, chỉ đạo hoạt động phê bình và những cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ.... Sự lãnh đạo ấy nhằm đảm bảo cho văn nghệ đi đúng đường lối, thực sự trở thành vũ khí tinh thần phục vụ có hiệu quả nhất cho các mục tiêu của cuộc đấu tranh. [10;15] Văn học giai đoạn 1945 – 1975 gắn bó mật thiết với vận mệnh của dân tộc, trở thành một phần không thể tách rời của sự nghiệp đấu tranh. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng văn học hướng vào phục vụ cho những nhiệm vụ chính trị, theo sát những yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Điều này đã chi phối, quy định từ đề tài, các chủ đề chính, cảm hứng bao trùm cho đến nhân vật trung tâm của văn học ở từng chặng đường. Trong những năm kháng chiến chống Pháp rồi chống Mĩ, văn học luôn theo sát các diễn biến của cuộc kháng chiến ở tiền tuyến và hậu phương, cổ vũ lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của đông đảo quần chúng nhân dân, ca ngợi chủ nghiã anh hùng cách mạng và những tấm gương tiêu biểu trong cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam, Bắc. Do vậy, nhân vật trung tâm của giai đoạn văn học này chính là hình tượng về người chiến sĩ và quần chúng cách mạng. Những tình cảm được thể hiện phong phú và đa dạng trong văn học giai đoạn này là những tình cảm trong các quan hệ cộng đồng: tình yêu quê hương đất nước, tình đồng bào, đồng chí, tình quân dân, tình cảm giai cấp, tình cảm với Đảng và với lãnh tụ,…Đây cũng là những nguồn cảm hứng lớn, chủ đạo chi phối hầu hết các sáng tác thơ ca giai đoạn này. Những tình cảm trong các quan hệ cộng đồng nói trên được xem là nguồn cảm hứng chính của văn học và thơ viết về đề tài tình yêu trong hoàn cảnh chiến chinh của đất nước cũng có thể xem là một nguồn riêng khá đặc biệt hòa vào giữa các nguồn chung đó. Tất nhiên, cảm hứng trữ tình lãng mạn trong thơ tình yêu thời kháng chiến không tách rời mà luôn gắn liền với vận mệnh chung, tình cảm của cộng đồng dân tộc, quê hương đất nước. Thế nên, tình yêu trong văn học giai đoạn này vừa mới lạ, độc đáo mà cũng rất gần gũi, thân quen. Chúng ta sẽ đi sâu khám phá điều này ở những phần sau. 2. Văn học hướng về đại chúng: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Viết cho ai? - Viết cho đại đa số: công nông binh. Viết để làm gì? - Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần chúng.[6;52]. Như vậy, nền văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu cũng phải là nền văn học hướng về đại chúng, phục vụ đại chúng. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 8 - Đại chúng vừa là đối tượng phản ánh, vừa là công chúng văn học và là lực lượng sáng tác. Nhân dân, công – nông – binh là lực lượng chủ yếu gánh vác cả cuộc Cách mạng tháng Tám và sau đó gánh cả cuộc kháng chiến trên đôi vai lực lưỡng của mình. Cho nên, để hiểu đúng vai trò của quần chúng, văn học giai đoạn này đã trực tiếp xây dựng những hình tượng đám đông sôi nổi, đầy khí thế và sức mạnh (Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu; Đêm liên hoan của Hoàng Cầm; Ta đi tới, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu,…) hoặc xây dựng những nhân vật anh hùng kết tinh những phẩm chất cao đẹp của giai cấp, của dân tộc (Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành; Hòn đất của Anh Đức; Sống như anh của Trần Đình Vân; Người con gái Việt Nam, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt của Tố Hữu,…) Bên cạnh đó, văn học cũng phê phán cách nhìn định kiến, sai lệch về vai trò của quần chúng. Các nhà văn đã cho ra đời nhiều tác phẩm có những cặp nhân vật đối lập quan điểm, cách nhìn về quần chúng và đề cao quan điểm đúng đắn (Đôi mắt của Nam Cao) hay có những tác phẩm xây dựng những nhân vật có sự chuyển biến tư tưởng, cách nhìn quần chúng đi từ chỗ hiểu sai đến chỗ hiểu đúng (Hoa và thép của Bùi Hiển, Mẫn và tôi của Phan Tứ,…) Văn học lấy quần chúng làm đối tượng phản ánh chính và quần chúng cũng chính là độc giả đông đảo của văn học. Cho nên, những tác phẩm ra đời phục vụ quần chúng phải dễ hiểu, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của nhân dân. Trong quá trình tiếp thu, thưởng thức văn học, nhân dân cũng là người đồng sáng tạo với nhà văn, nhà thơ. Do vậy, công chúng cũng chính là nguồn bổ sung lực lượng sáng tác. Thơ viết về tình yêu ra đời trong giai đoạn 1945 – 1975 cũng được đông đảo quần chúng đón nhận. Nhiều bài thơ ra đời đã được chép tay, truyền đi và có sức sống lâu bền trong lòng nhân dân như: Màu tím hoa sim – Hữu Loan, Núi đôi – Vũ Cao, Quê hương – Giang Nam,…Dù viết về đời tư nhưng vẫn có những sợi dây liên lạc, gắn chặt với cái ta chung, như nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ đã nhận xét: Đặt tập thể cá nhân vào một thế hài hòa sinh động, thể hiện cái chung thông qua cái riêng, không gạt bỏ cái riêng, cái chung và cái riêng chuyển hóa vào nhau…[3;136] Như vậy, qua cái riêng người đọc vẫn cảm thấy cái chung. 3. Nền văn học chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn: Giai đoạn 1945 – 1975, dân tộc ta phải đối đầu với hai kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới. Do đó, vận mệnh của Tổ quốc đứng trước những thử thách gay gắt, cả dân tộc mọi người như một đều sát cánh bên nhau để thực hiện lí tưởng độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Thế nên, văn học giai đoạn này không thể là tiếng nói của cá nhân mà phải là tiếng nói của cộng đồng, nhân danh cộng đồng, dân tộc. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 9 - Những chủ đề bao trùm văn học thời kì này không ra ngoài hiện thực lịch sử và vận mệnh, hoàn cảnh của con người đang đối mặt thử thách với chiến tranh. Do vậy, nhân vật trung tâm luôn là những con người mang tính tiêu biểu cho quần chúng nhân dân, cho dân tộc và thời đại cách mạng. Họ là những người anh hùng đại diện cho sức mạnh dân tộc, giai cấp và kết tinh một cách chói lọi những phẩm chất cao quý của cộng đồng,…và nhà văn cũng trở thành người phát ngôn cho tư tưởng, lập trường, tình cảm, quan niệm của cộng đồng, nhân danh cộng đồng mà ca ngợi, lên án, kêu gọi hay cổ vũ…Đó là một nền văn học mang khuynh hướng sử thi, nó tiếp cận và phản ánh hiện thực theo quan điểm sử thi. Văn học thời kì này mang đậm tính sử thi với những tố chất riêng độc đáo: Nó tuyệt đối hóa, lí tưởng hóa câu chuyện cùng thời, kể câu chuyện cùng thời bằng thái độ chiêm ngưỡng từ xa. [2;52] Nền văn học ấy đã sáng tạo một thế giới nghệ thuật, bao gồm cả bức tranh đời sống và những hình tượng con người - mang một vẻ đẹp riêng, đậm màu sắc sử thi và chất lãng mạn. GS. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định về văn học giai đoạn 1945 – 1975 là một giai đoạn văn học chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn chính là chủ nghĩa lạc quan, là lòng tin chắc chắn ở tương lai đầy ánh sáng. Chính niềm tin ở tương lai là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn khiến cho dân tộc ta có thể vượt lên trên mọi thử thách, tạo nên những chiến công phi thường. Cảm hứng lãng mạn kết hợp với khuynh hướng sử thi tạo nên một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng. Để phản ánh hiện thực theo quan điểm sử thi, văn học đã tìm đến những thể loại, phương thức nghệ thuật như: Trường ca, tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, kịch bản sân khấu,…và giọng điệu chủ đạo lúc này là giọng ngợi ca, trang trọng, đôi lúc vút cao thành giọng hùng ca, thành lời truyền lệnh. Thơ viết về đề tài tình yêu trong giai đoạn này có sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Dù chiến tranh có khốc liệt vốn là kẻ thù số một của tình yêu thì những người yêu nhau vẫn luôn lạc quan, tin tưởng, họ luôn hướng về nhau bởi họ có niềm tin vào tình yêu, vào sự tất thắng của cách mạng. Chính niềm tin đó đã tiếp thêm sức mạnh cho những chàng trai và các cô gái vượt qua đạn lửa chiến tranh. Có thể mượn lời của GS. Nguyễn Đăng Mạnh để tổng kết lại, nêu nhận định chung về những đặc điểm của nền văn học giai đoạn này như sau: Văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu, tất nhiên trước hết phải nhằm tác động vào đại chúng công nông binh. Và để phản ánh và ngợi ca cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của cộng đồng dân tộc thì một cách tự nhiên phải tìm đến khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.[6;63] Ba đặc điểm trên đây có mối quan hệ mật thiết với nhau, nó giúp nhận diện, phân biệt giai đoạn văn học này với giai đoạn văn học trước năm 1945 và sau 1975. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 10 - II. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1945 – 1975: Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc đồng thời lại mở ra một thời đại mới trong lịch sử văn học dân tộc. Trong “Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám”, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long thì những đổi mới của văn học Việt Nam giai đoạn này có thể nhận thấy trên rất nhiều bình diện và ở những cấp độ khác nhau. Nhưng ở trung tâm và chiều sâu của những biến đổi ấy là sự thay đổi trong quan niệm về con người, là sự hình thành và vận động của quan niệm nghệ thuật mới về con người và theo ông quan niệm này mang tính thống nhất của cả nền văn học và trong suốt giai đoạn 1945 – 1975, nhưng cũng mang những nét đặc trưng của từng thời kì nhỏ trong sự phát triển của giai đoạn văn học này, cụ thể qua ba chặng đường: 1945 – 1954 ; 1954 – 1964 ; 1964 – 1975. 1. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1945 – 1954: Cách mạng tháng Tám thành công rồi sau tiếp theo đó là chín năm kháng chiến chống Pháp đã đem lại cho các nhà văn sự phát hiện lớn lao về sức mạnh quật khởi của dân tộc và con người Việt Nam - vẻ đẹp mới lạ của đời sống cộng đồng. Cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai đã đặt dân tộc ta vào tình thế muôn người như một sát cánh bên nhau cùng chống lại kẻ thù. Trong hoàn cảnh đó, nền văn học giai đoạn 1945 – 1954 đã phát hiện ra con người quần chúng. Nhà thơ và cũng là nhà hoạt động văn hóa của nước Đức Iohan Bécher đã nhận xét: Nghệ thuật không bắt đầu bằng những hình thức mới. Nền nghệ thuật mới ra đời cùng với con người mới. Như vậy, việc phát hiện ra con người mới – con người quần chúng – đã thúc đẩy nền văn học phát triển. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, các nhà văn đã phát hiện ra con người quần chúng. Và tất nhiên nhân vật trung tâm của nền văn học giai đoạn này chính là quần chúng mà cụ thể là công nông binh. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long đã chỉ ra rằng: quần chúng đã trở thành nguyên tắc xây dựng nghệ thuật và chuẩn mực đánh giá tác phẩm. Một tác phẩm thành công và có giá trị nghệ thuật phải biểu hiện được tư tưởng, tình cảm, khát vọng của quần chúng, phải học cách nói, cách thể hiện của quần chúng. Con người quần chúng là một phát hiện nghệ thuật quan trọng bậc nhất của nền văn học thời kháng chiến chống Pháp. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 11 - 2. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1955 – 1964: Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, một nửa đất nước ta từ Vĩnh Linh ra Bắc tạm thời được hòa bình. Nhân dân ta bắt tay vào khôi phục đất nước sau chiến tranh. Giai đoạn này, văn học đứng trước những yêu cầu đa dạng của xã hội: một mặt là nhu cầu tất yếu của con người trong cuộc sống hòa bình, mặt khác phải tiếp tục cuộc đấu tranh cho những mục tiêu cách mạng: thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan niệm về con người trong văn học thời kì này trở nên đa dạng. Nhìn chung, văn học giai đoạn này vẫn tiếp tục quan niệm về con người của văn học 1945 – 1954 và phát triển nó trong những điều kiện lịch sử mới và những đòi hỏi mới của cuộc cách mạng. Trước những yêu cầu và đòi hỏi của lịch sử trong giai đoạn mới, quan niệm con người trong văn học thời kì này là khái niệm con người mới. Cũng theo giáo sư Nguyễn Văn Long: Văn học những năm kháng chiến chống Pháp chưa xây dựng được những tính cách riêng mà chỉ dừng lại ở quan niệm con người tập thể. Cá nhân hòa tan vào trong tập thể. Nhưng đến giai đoạn 1954 – 1964, văn học đã chú ý đến tính cách cá nhân và ngày càng coi trọng giá trị của điển hình. Như Tố Hữu xây dựng hình tượng chị Trần Thị Lý kiên gan trước quân thù, trở thành hình tượng người con gái Việt Nam, người phụ nữ anh hùng, hình tượng mang sức mạnh tiêu biểu của toàn dân tộc trong đấu tranh: Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Không giết được em, người con gái anh hùng (Người con gái Việt Nam) Nét đặc trưng cơ bản trong quan niệm con người của văn học thời kì này là con người trong sự thống nhất riêng – chung, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân và nó đã chi phối các chủ đề cũng như nghệ thuật xây dựng hình tượng các nhân vật chính. Đồng thời quan hệ về sự thống nhất này cũng có tính biện chứng, ._.cái riêng không phải là “hòa tan” trong cái chung như văn học giai đoạn 1945 – 1954. Liên quan đến mảng thơ trữ tình, vấn đề “riêng, chung” cũng được đặt ra như một chủ đề nổi bật. Chẳng hạn, tập thơ “Riêng – Chung” của Xuân Diệu, “Ánh sáng và phù sa” của Chế Lan Viên đều thể hiện niềm vui của con người đi từ “thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” (Chế Lan Viên) hay nói như Paul Eluard là đi từ “chân trời của một người đến chân trời của tất cả”. Đó là sự hài hòa giữa cái riêng và cái chung. Thơ tình yêu giai đoạn này cũng thể hiện được mối quan hệ giữa đời sống cá nhân và tập thể. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 12 - 3. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1965 – 1975: Cuộc kháng chiến chống Mĩ giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc và thống nhất Tổ quốc là một trong những nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả đối với toàn dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn này, nền văn học có sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học chống Mĩ là sự tiếp tục của quan niệm con người trong văn học hai mươi năm trước đó, nhưng được phát triển tập trung vào một hướng lớn và đi tới đỉnh cao của nó là quan niệm con người sử thi. Theo ông Nguyễn Văn Long, con người sử thi là con người có lí tưởng cao cả cho độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, ý thức sâu sắc về tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại, là đại biểu tập trung của ý chí, khát vọng và sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, thời đai, nhân loại. Con người trong văn học chống Mĩ là con người của ý chí lớn, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Lí tưởng và nhận thức đã hiện thành ý chí và hành động, mỗi con người được thể hiện như là đại diện trọn vẹn cho sức mạnh và quyết tâm của cả dân tộc, của đất nước. Người bạn đời, người đồng chí, đồng nghiệp của Dương Hương Ly đã ngã xuống (được thể hiện qua bài thơ Bài thơ về hạnh phúc), những cô gái thanh niên xung phong trong thơ Phạm Tiến Duật đã hi sinh oanh liệt hay cô em gái mở đường trong bài thơ “Khoảng trời - Hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ đã nằm xuống để cứu con đường… Từ đó, chúng ta thấy được dù hoàn cảnh thử thách khác nhau, nhưng trước cái chết họ đều giống nhau trong sự dứt khoát, thanh thản, trong sáng và cao cả chấp nhận sự hi sinh. Đó là những con người sử thi, con người đại diện đầy đủ cho tầm vóc, sức mạnh, ý chí và khát vọng của cộng đồng, của dân tộc, đất nước. Con người của thời đại chống Mĩ là sự kết tinh của quê hương, đất nước và gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long: Chưa bao giờ như ở văn học thời kì này, cảm hứng về quê hương đất nước thể hiện đậm đặc và phong phú đến thế. [11; 43]. Có thể thấy thế giới tình cảm của con người thời chống Mĩ đã được khai thác nhiều mặt, nhưng tất nhiên nổi lên và bao trùm hơn cả vẫn là những tình cảm cộng đồng: tình yêu quê hương, đất nước. Tuy nhiên, vẫn không thiếu những tình cảm riêng: tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, chồng vợ mẹ con… nếu như trong văn học thời chống Pháp, phần đời cá nhân của con người hầu như bị bỏ qua thì văn học thời chống Mĩ lại chú trọng khai thác thế giới nội tâm và đời sống con người trong nhiều mối quan hệ tình cảm để làm nổi bật lên những vẻ đẹp tâm hồn, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, lí tưởng và tình cảm. Tóm lại, văn học của mỗi giai đoạn sẽ gắn liền với một quan niệm nghệ thuật về con người. Trong giai đoạn 1945 – 1954, văn học gắn liền với Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 13 - quan điểm con người quần chúng, tập thể gạt tình riêng để hoàn thành nhiệm vụ đối với quê hương, đất nước. Còn sang giai đoạn 1954 – 1964, quan niệm văn học về con người có sự đổi mới. Lúc này, khái niệm con người mới xuất hiện; đó là con người có sự thống nhất riêng chung. Và sang giai đoạn 1964 – 1975 thì quan niệm về con người sử thi lại chiếm địa vị độc tôn – đó là con người của cộng đồng, mang tầm vóc dân tộc và trong họ luôn có sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung. Như vậy, quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ tình yêu trong giai đoạn 1945 – 1975 không ra ngoài sự thống nhất mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung nêu trên. Và tình yêu là một thứ tình cảm riêng tư nhất cũng được nhìn nhận theo chiều hướng hòa hợp với cái ta chung, hòa quyện vào lí tưởng chung, theo hệ quy chiếu nhiệm vụ chung của cả cộng đồng. 4. Quan niệm về tình yêu trong thơ kháng chiến 1945 – 1975: 4.1. Từ “cái tôi” lãng mạn trong Thơ mới đến “cái ta” lãng mạn cách mạng trong thơ tình yêu thời kì kháng chiến: Biểu hiện của cái tôi lãng mạn trong Thơ mới là yêu hết mình, sống hết mình cho tình yêu thế nhưng lại quan niệm tình yêu mà đi đến hôn nhân trọn vẹn thì không còn mang màu sắc lãng mạn, thi vị nữa. Chẳng hạn, Nguyễn Nhược Pháp đã chú thích thêm sau phần kết thúc của bài thơ “Em đi chùa Hương” vốn rất nổi tiếng của mình như sau: “Thiên kí sự đến đây là hết. Tôi tin rằng rồi hai người sẽ lấy nhau vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều, lấy nhau rồi là hết chuyện”. Nhiều cây bút thuộc phong trào Thơ mới cũng đồng tình với quan niệm tình yêu của Hồ Dzếnh: Đời mất vui khi đã vẹn câu thề Tình chỉ đẹp khi còn dang dở ( Hồ Dzếnh ) với Lưu Trọng Lư đã yêu là phải sầu, phải khổ nếu không thì sẽ không còn thơ mộng, lãng mạn nữa: Thuyền yêu không ghé bến sầu Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng Nhà nghiên cứu, phê bình văn học GS. nghiên cứu Lê Đình Kỵ nêu nhận định: “…Tình yêu trong thơ mới trước hết là tình mộng. Hiếm hoi lắm mới thấy có tình yêu cụ thể, như cùng đi dạo với trăng, cùng đi dạo trên đường làng …Nhưng chạm vào cụ thể thì tình yêu bị “sốc” ngay”. [ 3 ;43] Như vậy, thực chất tình yêu trong Thơ mới là lãng mạn, thơ mộng, bay bổng, choáng ngợp, say men nhưng tình yêu chưa bắt nguồn từ thực tế cho nên nó dễ dàng gặp trắc trở, éo le, ngang trái và dẫn đến chia li. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 14 - Thơ tình yêu thời kháng chiến cũng lãng mạn, mơ mộng, thăng hoa tâm hồn nhưng còn có thêm sự hài hòa, kết hợp với hoàn cảnh cụ thể của đời sống. Tình yêu đậm chất lãng mạn nhưng lại rất thực, không mộng ảo. Chính điều này đã làm nên chất lãng mạn cách mạng trong thơ viết về tình yêu thời chiến. Khuynh hướng lãng mạn cách mạng khác với khuynh hướng lãng mạn trong Thơ mới bởi nó có cơ sở từ hiện thực là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, đội ngũ sáng tác cũng có sự đổi mới về tư tưởng. Họ đứng về nhân dân chứ không thuộc giai cấp tư sản, tiểu tư sản như trong phong trào Thơ mới. Tình yêu là đề tài muôn thuở của thi ca. Tình yêu luôn luôn mới và thu hút mọi người ở mọi thời đại. Tình yêu ở bất kỳ thời đại nào, vẫn xuất phát từ trái tim, nói chuyện của trái tim, vẫn có đủ những sắc thái tình cảm yêu thương, song lí tưởng của tình yêu ở mỗi thời đại lại khác nhau. Các nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới bất mãn với thời cuộc; họ đã tìm đến tình yêu. Họ trốn trong tình yêu và tự ru cái tôi của mình ở đó. Nhưng càng đi sâu vào chính bản ngã của mình thì họ càng thấy cô đơn, nhỏ bé, ích kỷ. Do vậy mà, tình yêu của họ cũng bơ vơ, lạc lõng. Đến giai đoạn 1945 – 1975, mặc dù thơ viết về tình yêu chỉ là một mảng đề tài nhỏ bên cạnh những đề tài lớn viết về quê hương, đất nước nhưng đã góp phần làm nên sự đa dạng cho nền thơ ca thời kháng chiến. Do thơ tình yêu trong thời kì này luôn có sự hài hòa đan xen các tình cảm riêng – chung; trong cái chung người ta dễ dàng tìm thấy cái riêng và trong cái riêng vẫn có sự hiện hữu của cái chung Như vậy, thơ viết về tình yêu trong giai đoạn 1945 – 1975 cũng có đầy đủ những cung bậc tình cảm, những trạng thái rung cảm yêu thương nhưng nó không xa rời hiện thực, không xa rời cuộc đấu tranh giữ nước của dân tộc. Tình yêu của nam nữ thanh niên trong giai đoạn này luôn gắn liền với nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của đất nước. Đây là nét đặc sắc làm nên đặc điểm, màu sắc riêng của thơ tình yêu giai đoạn văn học 1945 – 1975. 4.2. Quan niệm về tình yêu trong thơ kháng chiến (1945 – 1975): Bàn về chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam, giáo sư Lê Đình Kỵ đã nêu lên thành vấn đề về hai mối quan hệ riêng và chung. Theo ý kiến của giáo sư, giai đoạn đầu, âm hưởng của văn học là hướng về nhân dân, Tổ quốc; cái riêng tự quên, tự hòa vào cái chung. Nhưng càng về sau, cái riêng càng được chú ý và đặt vào mối quan hệ hài hòa thống nhất: Tập thể cách mạng không phải là tập thể của thị tộc hay của công xã nguyên thủy mà là tập thể cao của những con người có ý thức đầy đủ về bước đi của lịch sử, về nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Sự hài hòa giữa tập thể và cá nhân không thủ tiêu cái “đơn vị con người” ở mỗi thành viên mà bao gồm sự đa dạng phong phú của những đặc điểm cá nhân. [ 3; 136] Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 15 - Giáo sư còn giải thích thêm: xét trong quan hệ riêng chung, không thể bỏ qua thơ tình. Là tình yêu nên khi tiễn đưa thì lưu luyến, khi xa cách thì thương nhớ, đợi chờ, không ai phủ nhận, nhưng tình yêu bao giờ cũng gắn liền với xã hội, với quan niệm sống, với lí tưởng. Nếu tình yêu trong Thơ mới khó tìm được sợi dây liên lạc với đời nên cảm thấy bơ vơ, lạc lõng thì tình yêu trong bộ phận thơ ca cách mạng đã tìm thấy mối quan hệ mật thiết giữa tình cảm riêng tư với tình yêu lớn của dân tộc, đất nước. Qua thơ Huy Cận, tình yêu đôi lứa được ví như “cặp nhân vàng” trong “trái đêm”, như “đôi hạt giữa nghìn đôi” của hoa trái cuộc đời to rộng bát ngát: Ngoài kia sao cũng từng đôi sáng Từng cặp nhân vàng trong trái đêm Bát ngát lòng anh giữa trái đời Hai ta đôi hạt giữa nghìn đôi. (Anh viết bài thơ – Huy Cận) Hay tình yêu nỗi nhớ và lý tưởng cách mạng trong thơ Nguyễn Đình Thi đã đạt đến sự hài hòa cao đẹp: Anh yêu em như yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm, mỗi miếng anh ăn Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời (Nhớ) Tình yêu, nỗi nhớ và lí tưởng cách mạng cùng hiện diện, quyện chặt trong hành trang ra trận của người chiến sĩ. Tình yêu đã trở thành ngôi sao sáng dẫn đường, thành ngọn lửa sưởi ấm trái tim. Tình yêu và lí tưởng đấu tranh thấm sâu vào cuộc sống hằng ngày, từng miếng ăn, giấc ngủ, cả nhiệm vụ đảm đương. Vì thế, tình yêu cứ mãi lớn lên, ngày càng sâu thêm, trải dài theo thời gian kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Tình yêu đã hun đúc cho anh một sức mạnh tinh thần cao quý, anh càng mạnh mẽ, tin tưởng, sống xứng đáng hơn. Giáo sư Nguyễn Văn Long và nhiều nhà nghiên cứu, phê bình còn chỉ ra những hạn chế của nền văn học 1945 – 1975. Trong những hạn chế đó có đề cập đến: Hiện thực mà văn học quan tâm trước hết phải là những vấn đề có ý nghĩa lịch sử, quan hệ tới vận mệnh của dân tộc, nhân dân. Đời sống thế sự và riêng tư ít được quan tâm thể hiện, nếu có thì cũng phải được nhìn và đánh giá trên quan điểm của cộng đồng. [10 ;21]. Điều đó đã làm nên tính phiến diện trong việc phản ánh đời sống của văn học. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nêu lên quan niệm của mình về tình yêu trong văn học thời kì kháng chiến: “Người Việt Nam yêu để thêm được mạnh mẽ, yêu để được sống thêm hăng hái, tranh đấu thêm được vững bền, Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 16 - chứ không phải yêu để đắm đuối trong tình yêu và lãng quên cuộc sống [7;130]. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định của nhà thơ bởi yêu và được yêu là nhu cầu chính đáng của con người. Trong chiến tranh, tình yêu vẫn nở rộ, bom đạn không thể hủy diệt được tình yêu. Những bài thơ tình chân chính đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của người lính, giúp người chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn nơi chiến trường, hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và tổ chức giao phó. Chúng tôi xin được mượn lời của giáo sư Lê Đình Kỵ thay cho lời tiểu kết về quan niệm cũng như khẳng định giá trị những bài thơ tình yêu ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh: Trên thực tế, một số bài thơ tình lãng mạn bao giờ cũng được quần chúng hoan nghênh. Điều đó càng chứng tỏ văn học, đặc biệt là thơ ca trữ tình, nếu biết thông qua những cái riêng mà làm bật lên những vấn đề chung thì càng dễ làm rung lên sợi dây tình cảm,…. [ 3 ; 130 ] Thơ tình yêu giai đoạn này đã làm được điều đó. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 17 - CHƯƠNG II: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH LÃNG MẠN TRONG THƠ TÌNH YÊU THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN (1945-1975) Văn học Việt Nam 1945 – 1975 ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: dân tộc ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Thơ viết về đề tài tình yêu cũng ra đời trong trường hợp đặc biệt như vậy. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc, khắc nghiệt thì những câu chuyện tình yêu muôn thuở vẫn nồng nàn, tha thiết, tươi trẻ, đầy chất lãng mạn…vẫn thu hút những cây bút chủ lực. Những tưởng chỉ có trong thời bình, tình yêu mới có điều kiện đơm hoa kết trái, mới thể hiện đầy đủ những cung bậc yêu thương. Nhưng chính trong hoàn cảnh chiến tranh, con người phải đối mặt với sự sống còn thì tình yêu của họ vẫn thăng hoa. Có nhiều câu chuyện về tình yêu đã làm rung động người cùng thời và lưu truyền muôn đời sau. I. TÌNH YÊU HỒN NHIÊN, TƯƠI TRẺ, ĐẰM THẮM GIỮA ĐẠN LỬA CHIẾN TRANH: Máy bay giặc không ngừng thả bom, súng giặc đất rền, con người luôn sống trong ranh giới giữa tồn tại và hủy diệt. Nhưng con người vẫn lạc quan, ung dung, và các nhà thơ vẫn tìm thấy cảm hứng ngay trên mảnh đất bị chiến tranh tàn phá. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã phát hiện ra một khung cảnh tươi vui, ấm áp, tràn đầy tinh thần lạc quan. Ở nơi đó, ta bắt gặp những rung động của tình yêu tuổi trẻ, những tình cảm đầu đời: Trong ánh chớp nhoáng nhoàng cây cối ngả nghiêng Tổ công binh đứng ngồi trong trạm gác Cái cậu trẻ măng cất lên tiếng hát Khi biết trong hầm có cô bé đang nghe. (Vầng trăng và những quầng lửa) Phạm Tiến Duật thuộc lớp các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ rời đèn sách đi vào chiến trường. Giữa cuộc chiến tranh khốc liệt nhà thơ vẫn giữ cái nhìn tươi xanh. Đó là con mắt trẻ trung yêu đời, tin tưởng vào sự thắng lợi của cách mạng. Chính những rung động tình yêu, nỗi nhớ niềm thương đã chấp cánh, làm thi vị hóa thêm cho cảnh vật, đó là cái đẹp trong trẻo của tâm hồn, tình cảm: Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm Đường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây (Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây) Không phải là đóa hoa chói ngời sắc đỏ, đóa hoa của Phan Thị Thanh Nhàn trong bài thơ “Hương thầm” lại rất khiêm nhường, lặng lẽ, Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 18 - đằm thắm trong nhiệm vụ làm sứ giả cho tình yêu. Hành động “giấu” một chùm hoa, rồi “ngập ngừng” sang nhà hàng xóm vừa thể hiện tính chủ động vừa thể hiện sự phân vân trong lòng cô gái. Nhưng “Bên ấy có người ngày mai ra trận” đã thôi thúc giục giã bước chân, xua đi mọi sự lo lắng, tạo niềm tin cho cô vững bước đến với tình yêu: Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay Cô bé ngập ngừng sang nhà hàng xóm Bên ấy có người ngày mai ra trận …… Cô gái như chùm hoa lặng lẽ Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu (Hương thầm) Tình cảm thầm yêu trộm nhớ của tuổi học trò đành phải ngăn lại trước nhiệm vụ thiêng liêng của đất nước. Chẳng ai nói với ai điều gì song cả hai đều hiểu: Họ chia tay vẫn chẳng ai nói điều gì Mà hương thầm thơm mãi bước người đi Tình yêu thầm lặng mà sâu sắc, nồng nàn, cứ luôn dai dẳng, canh cánh bên lòng. Nếu nhân vật trữ tình trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn nhờ hương hoa bưởi để nói hộ tình yêu sâu kín của mình, thì nhân vật trữ tình trong bài thơ “Núi đôi” của Vũ Cao lại dùng hình tượng “núi đôi” để biểu trưng cho tình yêu sâu đậm nơi miền sơn cước. Một sự gắn kết vừa mộc mạc, vừa tình tứ sâu xa: Lối ta đi giữa hai sườn núi Đôi ngọn nên làng gọi núi đôi Em vẫn đùa anh: sao khéo thế Núi chồng, núi vợ đứng song đôi (Núi đôi) Quê hương là nơi gắn bó với những kỉ niệm tuổi thơ đáng yêu, đáng nhớ trong trẻo, hồn nhiên. Nơi có “hoa trắng ngần thơm một góc chanh”, có đôi bạn “thanh mai trúc mã” lớn lên rồi yêu bằng một tình yêu trong sáng: …Rửa chân hai buổi cầu ao Em vội cúi đầu khỏa sóng Đôi bóng người rung, khóm bèo chao động Ánh mắt thẹn thùng lặn xuống đáy sâu (Hoa chanh – Nguyễn Bao) Đó là cái thẹn rất ư tình tứ, những cử chỉ tế nhị của tình yêu đầu đời hồn nhiên, tươi trẻ, đằm thắm. Ta bắt gặp những rung cảm chân thành, khe khẽ của những người mới yêu nhau. Họ có thể chưa thổ lộ, chưa từng bày Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 19 - tỏ tình yêu, nhưng cả hai đều hiểu, đều trân trọng những tình cảm tốt đẹp đó. Chiến tranh vệ quốc diễn ra, những cuộc gặp gỡ bất ngờ làm tình yêu trong lòng của cả hai có cơ hội bày tỏ, dù chỉ là những ánh mắt lặng nhìn nhau: Cô bé nhà bên ( có ai ngờ! ) Cũng vào du kích Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn ( thương thương quá đi thôi!) Giữa cuộc hành quân không nói được một lời Đơn vị đi qua tôi ngoái đầu nhìn lại Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi (Quê hương – Giang Nam) Ngoại cảnh khắc nghiệt “mưa đầy trời” nhưng tâm hồn người chiến sĩ vẫn ấm nóng một tình yêu nồng nàn. Sức mạnh của tình yêu đã giúp người lính vượt qua những chông gai, trở ngại mà thời tiết chiến trường đem lại. Chiến tranh bùng lên, mọi người theo đuổi nhiệm vụ riêng của mình. Chàng trai ra trận, cô gái trở về luôn trong tình trạng chờ đợi, nhớ thương, trông ngóng. Do vậy, khi được tin người yêu về, cảnh vật, thiên nhiên “vầng trăng”, “hoa cau”, “mây” dường như xoắn xuýt chia sẻ niềm vui với cô: Thư anh tin ngày về Cho vầng trăng hẹn mọc Trong ngần hoa cau thơm Mây chớm màu tha thiết (Những mùa trăng mong chờ - Lê Thị Mây) Cho nên, hạnh phúc được gặp người yêu là niềm vui bất tận. Anh khoác ba lô về Đất trời dồn chật lại Em tái nhợt niềm vui Như trăng mọc ban ngày (Những mùa trăng mong chờ - Lê Thị Mây) ngòi bút của Lê Thị Mây miêu tả diễn biến tâm lí của cô gái thật tinh tế. Người yêu về, khiến cho tâm hồn cô xáo động mạnh “Em tái nhợt niềm vui như trăng mọc ban ngày”. Hạnh phúc bất ngờ làm cho cô ngây ngất như trăng mọc ban ngày (bởi trăng có bao giờ mọc ban ngày) và tưởng chừng đất trời dồn chật lại như chung hưởng niềm vui bất tuyệt của cô. Mọi sự vật trên thế giới này điều vận động và phát triển. Tình yêu không chỉ dừng lại ở những rung động, cử chỉ mà nó phát triển lên một bước cao hơn: trạng thái của tình yêu. Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Đặc biệt, trong hoàn cảnh chiến tranh, con người ít có điều kiện ở bên nhau cho nên nỗi nhớ càng mãnh liệt, dữ dội, thắm thiết, sâu sắc. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 20 - II. TÌNH YÊU VÀ NỖI NHỚ VƯỢT KHÔNG GIAN, THỜI GIAN: Cuộc chiến tranh vệ quốc đã thu hút hàng vạn, hàng triệu người ra đi vì nghĩa lớn, tất nhiên có cả những người yêu nhau. Những người yêu nhau đi vào chiến trường chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc đồng thời họ cũng mang theo nỗi nhớ niềm thương về người yêu. Trong thơ viết về đề tài tình yêu, tình cảm của nhân vật trữ tình luôn bộc lộ tối đa với nhiều cung bậc, trạng thái. Những năm diễn ra cuộc kháng chiến chống Pháp, nền văn nghệ nói chung và nền văn học nói riêng đã tìm cho mình một quan niệm nghệ thuật mới về con người. Đó là quan niệm con người quần chúng. Đây là một phát hiện nghệ thuật quan trọng của nền văn học. Chính quan niệm nghệ thuật này đã chi phối việc lựa chọn các đề tài, chủ đề đến việc xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm. Và giai đoạn này, cái riêng hầu như ít xuất hiện, ít được quan tâm. Trình bày “Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975”, nhà nghiên cứu Trần Đăng Xuyền cho rằng: Cái tôi đời tư hầu như vắng bóng trong thơ giai đoạn 1945 – 1954. Điều đó, một mặt bị qui định bởi tâm lí chung của cả cộng đồng. Khi mới đến với một lý tưởng mới, con người thường có xu hướng tuyệt đối hóa, cực đoan, muốn “gạt phăng những tình riêng nhỏ nhặt” [14;258]. Tuy nhiên trên thực tế, những bài thơ viết về tình yêu và nỗi nhớ, những khao khát hạnh phúc yêu thương, kể cả những niềm đau mất mát của tình yêu thời kháng chiến vẫn xuất hiện như một nhu cầu tất yếu phản ánh cuộc sống. Nhà thơ Thúy Bắc đã tự hỏi: Có thể nào quen nỗi nhớ lúc xa nhau Bao kỉ niệm trong ta đằm thắm mãi Như gió hút giữa ngàn lau trắng ấy Thổi qua rồi bông lá vẫn còn rung. (Không quen) Hai người đang yêu có lẽ không ai muốn có chuyện chia cách. Người xưa đã diễn tả nỗi nhớ bằng cách so sánh “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (Một ngày không gặp tựa hồ ba năm), còn dịch giả Đoàn Thị Điểm lại diễn tả nỗi nhớ chồng của người chinh phụ được tính bằng giờ, bằng khắc “Khắc giờ đằng đẵng như niên; mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa” một khắc chờ mong như một năm dài. Với nhà thơ Thúy Bắc, cô tự hỏi rồi tự trả lời “Có thể nào quen nỗi nhớ lúc xa nhau – Không quen”, tựa bài thơ đã đáp lời cho tác giả. Thế nhưng, không gian chia cách lại là một thực tế hiện hữu thường trực giữa các đôi lứa yêu nhau trong thời kháng chiến. Những Kim – Kiều của thế kỉ XX thường cảm nhận sâu sắc: “Hai đầu nỗi nhớ yêu và thương sâu hơn; giữa hai đầu nỗi nhớ nghĩa tình đằm thắm hơn”. Cho nên, nỗi nhớ Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 21 - chính là trạng thái yêu thương thường xuất hiện trong thơ tình yêu giai đoạn này. Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ trữ tình chính trị. Tố Hữu đã rạch ròi phân chia tình yêu dành cho Đảng, tình yêu dành cho thơ và tình yêu cho đôi lứa. Dù tình yêu được xếp vị trí thứ ba nhưng người yêu vẫn vui chấp nhận và còn xem đó là điều diễm phúc: …Trái tim anh đó Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ: Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều Phần cho thơ và phần để em yêu… (Bài ca xuân 1961) Song cũng có lúc nhà thơ đã cho trái tim nói lên rung cảm yêu thương, nhung nhớ cháy lòng từ dáng hình đi đứng đến chiếc khăn, tấm áo,… Mưa rơi đầm lá cọ Mái tóc em ướt rồi Đôi má em bừng đỏ Muốn hôn quá… mà thôi …… Em đi, anh nhớ dáng hình Cái khăn mỏ quạ, cái mình áo nâu Chiều nay heo hút rừng sâu Mưa nguồn suối lũ biết đâu mà tìm? Ước gì anh hóa thành chim Bay theo em, hót cho tim đỡ buồn. (Mưa rơi) Khao khát yêu thương, mong nhớ là vậy, nhưng chiến tranh đã ngăn cách tình yêu, ngăn trở đời thường. Vì thế, thời chiến tranh, thơ viết về tình yêu lại càng mãnh liệt, cuốn hút. Và thơ ca xây dựng hình tượng về tình yêu – nỗi nhớ trong sự chia xa luôn thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Điều đáng nói là ở đây nỗi nhớ người yêu không làm cho trái tim tuổi trẻ đang căng tràn lòng nhiệt huyết hiến dâng, trở nên ủy mị, mềm yếu. Chính tình yêu đã tiếp thêm sức mạnh cho họ càng hăng say chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hạnh phúc cá nhân. Tình yêu và nỗi nhớ như những cánh tay luôn vẫy gọi người chiến sĩ xốc tới, hướng về phía trước. Bài thơ “Nhớ”của Nguyễn Đình Thi thể hiện quan niệm tình yêu cao cả, chân thành, chấp nhận chia xa mà không bi lụy: Anh yêu em như anh yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm mỗi bữa anh ăn Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 22 - Lần đầu tiên trong thơ ca tình yêu lứa đôi được sánh ngang với tình yêu đất nước. Tình yêu trải qua những bước thăng trầm nhưng vẫn đẹp lung linh như hình ảnh đất nước trong mưa bom đạn lửa vẫn “tươi thắm vô ngần”. Và nỗi nhớ mong đầy tràn dường như xuất hiện mọi lúc mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của người chiến sĩ. Tình yêu đã truyền thêm sức mạnh, giúp những đôi lứa vượt qua mọi khó khăn nơi chiến trường. Vì nhiệm vụ, vì lý tưởng họ đành phải xa cách. Đây không phải là sự xa cách của hai tâm hồn chưa cảm thông mà chỉ là sự xa cách trong không gian. Mà chính có sự xa cách đó mới có thời gian bình tĩnh để hiểu tình yêu một cách sâu lắng, đúng đắn hơn (Nguyễn Xuân Nam) [4 ; 45] Cách nghìn sông núi vẫn bên nhau Em ơi đường chiến đấu dài lâu Trong gian khổ vẫn chan hòa ánh sáng Đời anh có em như ngày có nắng Yêu em anh yêu cả mọi người. (Chia tay – Nguyễn Đình Thi) Quả thật, sức mạnh của ngọn lửa tình yêu đã giúp cả thế hệ cha ông vượt qua không gian núi sông cách trở, thời gian kháng chiến dài lâu thắp sáng, tin yêu để đi tới thắng lợi cuối cùng. Là nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới, khi được lí tưởng cách mạng soi rọi, Nguyễn Bính đã hòa mình vào cuộc kháng chiến của toàn dân. Nếu như trước kia, tình yêu trong thơ Nguyễn Bính là tình yêu của một chàng trai quê rụt rè, thầm thương trộm nhớ, thu mình trong không gian nhỏ bé của làng quê thì nay trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình yêu đó đã hòa vào biển lớn, nhớ thương khát vọng hạnh phúc, nhớ mong mà không lụy, không buồn: Trời còn có bữa sao quên mọc Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em (Đêm sao sáng) Môtíp nỗi nhớ trong xa cách luôn trở đi trở lại trong thơ tình yêu thời kháng chiến. Thơ tình yêu của Chế Lan Viên trầm lắng giàu chất triết lí, suy gẫm nhưng không vì thế mà kém nồng nhiệt. Ở đó, có đủ cả các cung bậc thương yêu, nhớ mong da diết trong xa cách. Hình ảnh “chăn chia làm hai nửa” trong cái rét đầu mùa đã trở thành hình tượng thơ độc đáo viết về tình yêu và nỗi nhớ: Cái rét đầu mùa anh rét xa em Đêm dài lạnh chăn chia làm hai nửa Một đắp cho em ở vùng sóng bể Một đắp cho mình ở phía không em (Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể) Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 23 - Ta cảm nhận trong nỗi nhớ thương của người ra trận như có cả sự che chở, hi sinh, lo lắng, chăm chút cho người vợ thân yêu ở tận vùng sóng bể. Nếu qua trào lưu Thơ mới, Xuân Diệu đã từng biểu hiện nỗi nhớ người yêu cuồng nhiệt: Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh thì nay trong kháng chiến chống Mĩ, nhân vật trữ tình trong bài thơ “Em phương xa” của Thi Hoàng cũng khôn nguôi nỗi nhớ ấy: Nhớ là tiếng nói Tính là không gian Không gian cách trở, nhưng đối với tình yêu trong thơ kháng chiến dường như nó không phải là vấn đề lớn. Khoảng cách hiện tại có thể đo đếm qua không gian chiến tranh: “dặm lửa dặm xanh”, “khoảng chết quân thù”, Vậy mà họ vẫn tin tưởng “Hai trận tuyến hai đầu; đang nhích lại gần nhau”: Chúng ta cách nhau bao nhiêu dặm xanh Chúng ta cách xa bao nhiêu dặm lửa …… Ta đang cách nhau một khoảng chết của quân thù Hai trận tuyến hai đầu Đang nhích lại gần nhau. (Em phương xa – Thi Hoàng) Trải theo chiều dài của không gian xa cách chính là sợi dây tình cảm, là nỗi nhớ dâng đầy, là hình bóng người thương hiện hữu. Nỗi nhớ nối kết hai trận tuyến: Mỗi vì sao biếc có hình hai ta Hai đầu trận tuyến đâu xa (Em phương xa – Thi Hoàng) Điểm gặp gỡ cao nhất của tình yêu chính là sự đồng cảm vô hình. Một triết gia phương Tây đã nói: Khi yêu nhau thì người ta sẽ tìm thấy nhau dễ dàng ngay giữa ngàn vạn người. Người lính trong bài thơ “Em phương xa” cũng thế: Đường anh đi Nghe có cả nhịp chân em bước Hơi nước mặt sông như hơi thở dịu hiền Dù gặp những người không quen Vẫn thấy họ như từ nơi em đến Tự thẳm sâu xao xuyến Rung lên thành điệu nhạc, vang xa (Em phương xa – Thi Hoàng) Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 24 - Phải là yêu sâu sắc, nhớ da diết mới có thể hình dung được như vậy. Chiến tranh là kẻ thù của tình yêu. Tuy nhiên, sự xa cách trong khói lửa đã giúp họ càng hiểu nhau và càng yêu nhau nhiều hơn: Xa em nhiều anh càng hiểu em hơn (Thi Hoàng) Sự xa cách trong không gian đã không cản trở tình yêu của những chàng trai, cô gái. Không giống tình yêu trong thơ Xuân Diệu, sự gần gũi hòa hợp dường như không còn khoảng cách cho một sợi tóc đi qua, ấy vậy mà ông hoàng của thơ tình yêu vẫn kêu ca: “Thế vẫn còn xa lắm”. Trong thơ Xuân Diệu, tình yêu đã đạt đến sự hòa hợp về thể xác nhưng tâm hồn vẫn không hoàn toàn thuộc về nhau. Còn trong thơ kháng chiến, dù chiến tranh bom đạn luôn ngăn trở, xa cách không gian vốn hiện hữu thường trực, nhưng họ vẫn gần nhau trong ý nghĩ. Tình yêu đối với người chiến sĩ cũng rất quan trọng. Tình cảm như liều thuốc tiên làm êm dịu tâm hồn người lính giữa những tiếng gầm rú của bom rơi, đạn nổ: Anh ngủ lại trên lá rừng và đếm những bom rơi Nhưng tình yêu của em làm lòng anh yên tĩnh quá Hạnh phúc là sau những chặng đường vất vả Lại hiểu em nhiều trong muôn nẻo xa xôi. (Buổi hẹn hò lớn lao – Nguyễn Khoa Điềm) Trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, đã có biết bao bài thơ được sinh hạ ngay trên báng súng. Đó là tâm tình, là nỗi nhớ người yêu da diết, là tấm lòng sắt son chung thủy của anh chiến sĩ trẻ: Đêm liên hoan xóm làng vang tiếng hát Tối giao thừa dào dạt nhớ thương em Có cả vừng trăng, vẫn nhớ ngọn đèn Đi khắp núi sông vẫn thương về xóm nhỏ Có nửa quả tim mình…có người yêu ở đó! (Đám cưới giữa mùa xuân – Viễn Phương) Khi đất nước cần họ biết sống xa nhau. Đó là thứ tình yêu lí tưởng, cao đẹp. Dù đi đến chân trời góc bể nào thì vẫn luôn nhớ về người yêu. Theo từng bước đi của thời gian, nỗi nhớ cũng theo đó mà tăng lên: Đã bốn năm rồi mình chẳng gặp nhau Chỉ có lá thư trên trang giấy nhỏ (Viễn Phương) Thật xót xa khi những người yêu nhau không được sum họp trong giờ phút đón giao thừa thiêng liêng: Tối giao thừa dào dạt nhớ thương em Nỗi nhớ người yêu không chỉ dào dạt trong lòng các anh chiến s._. tin nhau. (Núi đôi – Vũ Cao) hay: Anh nhớ ngày đi Hai đứa nhìn nhau yên lặng Chúng mình chưa hẹn một lời (Hoa chanh – Nguyễn Bao) Mặc dù tình yêu chung lớn lao cao cả nhưng trong cái chung đó ta vẫn cảm nhận từng cái riêng ngọt ngào, ấm nóng, nồng nàn thương nhớ khôn nguôi: Hôm gặp em vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn ( thương thương quá đi thôi!) Giữa cuộc hành quân không nói được một lời Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 43 - Đơn vị đi qua tôi ngoái đầu nhìn lại Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi... (Quê hương – Giang Nam) Chiến tranh gây chia cách đau thương, niềm đau vô tận. Tình yêu riêng sống mãi trong tình yêu đất nước, tình yêu lứa đôi hóa thân vào tình yêu Tổ quốc. Hình ảnh thơ hiện ra trong sự so sánh: “ngày xưa” và “bây giờ”; xưa yêu quê hương vì ở đó có biết bao kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên trong sáng, nay càng yêu quê hương vì quê hương ấp ủ, chôn giữ thân xác người thương. Niềm đau được lý tưởng tiếp thêm sức mạnh vượt lên. Người mất đành nằm lại, người còn sống tiếp tục cầm súng đấu tranh. Hi sinh không có nghĩa là mất hết; chết để rồi hóa thân, tiếp sức cho người sống. Khuynh hướng sử thi cùng cảm hứng lãng mạn hòa chung, thơ ca ghi lại được khí thế hào hùng của dân tộc trong kháng chiến: Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm Có những ngày trốn học bị đòn, roi Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi. (Quê hương – Giang Nam) Môtíp riêng – chung được thể hiện qua giọng thơ sôi nổi, hào hùng: Thôi em nằm lại Với đất lành DuyXuyên …… Súng nổ gấp. Anh lên đường đuổi giặc Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên …… Và anh biết khi bất thần trúng đạn Em đã ra đi với mắt cười thanh thản Bởi được góp mình làm ánh sáng ban mai Bởi biết mình có mặt ở tương lai ( Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly) Có thể nói sự thể hiện môtíp riêng – chung là một đặc điểm đặc sắc của thơ tình yêu thời kháng chiến. Chính đặc điểm này đã giúp thơ ca thời kì này bộc lộ, thể hiện cái tôi trữ tình theo cách riêng, vừa lãng mạn vừa lí tưởng, vừa bi, vừa hùng; sự chia li, mất mát cũng được thơ ca thể hiện thành hình tượng với nhiều cung bậc mới. Thơ ca đã gửi gắm, giãi bày nhận thức và tình cảm của quần chúng nhân dân trước hiện thực đời sống kháng chiến. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 44 - II. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT: Từ chuyên luận “Thi pháp thơ Tố Hữu”, giáo sư Trần Đình Sử giải thích vai trò của yếu tố không gian nghệ thuật như sau: Khó mà hiểu hết đặc điểm trong quan niệm về thế giới và con người của một nhà thơ nếu không tìm hiểu không gian nghệ thuật trong sáng tác đó. Bởi vì, nếu như không gian cũng như thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, thì có thể nói, trong cuộc đời, không gian và thời gian cũng là hình thức tồn tại của con người. Khó mà hiểu được con người nếu không hiểu được không gian tồn tại của nó. [16 ; 164] Qua đề cương bài giảng “Thi pháp học hiện đại”, thạc sĩ Phùng Hoài Ngọc cũng chỉ ra rằng: Không gian nghệ thuật thuộc hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại, triển khai thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn. Mỗi tác phẩm có một không gian do tác giả lựa chọn và miêu tả.[12 ;13] Như vậy, qua những vấn đề vừa dẫn trên, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của không gian nghệ thuật trong việc tìm hiểu quan niệm của tác giả về thế giới và con người. Hay nói khác đi, không gian nghệ thuật mang quan niệm của tác giả và tìm hiểu sự biểu hiện không gian nghệ thuật của tác phẩm sẽ góp phần mở ra hướng hiểu một cách trọn vẹn về con người và thời đại văn học. Trong hoàn cảnh chiến tranh, để diễn tả nỗi nhớ trong sự xa cách, hay bộc lộ tình yêu tươi trẻ, hồn nhiên, đằm thắm, hay sự mất mát đau thương, tình yêu lí tưởng, các tác giả đã chọn cho mình những không gian riêng. Đó có thể là không gian mảnh vườn, góc phố, sân nhà gắn với không gian chia tay không ảm đạm, u hoài như trong “chinh phụ ngâm”; ở đây có “nắng vàng rực rỡ giữa vườn hoa thắm sắc”- không gian của niềm tin và ánh lên sắc màu lạc quan, sắc màu của nỗi nhớ và sự chung thủy: Trưa một ngày sắp ngả sang đông Thu bỗng nắng vàng lên rực rỡ Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa (Cuộc chia li màu đỏ - Nguyễn Mĩ) Hay là cảnh những người yêu nhau tiễn nhau đồng thời cũng thổ lộ tình yêu chưa một lần dám ngỏ. Lúc này, không gian căn nhà, góc phố - nơi chứng kiến những mối tình chớm nở - giữ vai trò trung tâm: Cửa sổ hai nhà cuối phố Chẳng hiểu vì sao không khép bao giờ Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa. …… Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm Bên ấy có người ngày mai ra trận. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 45 - (Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn) Từ không gian nơi chốn (khu vườn, ngôi nhà), không gian nghệ thuật được mở rộng ra thành không gian chiến trường - không gian xa cách. Chiến trường mênh mông đạn bom ác liệt lại là nơi chất chứa bao nỗi nhớ niềm thương, do hoàn cảnh chiến tranh con người khó có cơ hội gặp nhau. Do vậy, không gian chiến trường trở thành không gian ý niệm: xa mà gần; cách mà không ngăn; nỗi nhớ nối gần hai trận tuyến, không gian chia cách đã có nỗi nhớ và lý tưởng đấu tranh liên thông, nối kết: Vầng trăng sương muối Cơn gió đầu ngàn; Nhớ là tiếng nói Tính là không gian …… Chúng ta cách nhau bao nhiêu dặm xanh Chúng ta cách nhau bao nhiêu dặm lửa ...... Hai trận tuyến hai đầu Đang nhích lại gần nhau (Em phương xa – Thi Hoàng) Tình yêu nối liền không gian, dù xa cách muôn trùng nhưng họ vẫn gần nhau: Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm …… Từ nơi em gởi đến nơi anh Những đoàn quân trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn. (Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây) Tình yêu của đôi trai gái ở rừng Trường Sơn trở nên to lớn, nó vượt lên trên những cánh rừng đại ngàn và núi non hiểm trở, rút dần khoảng cách xa xôi, nối liền sợi dây tình cảm bằng “Những đoàn quân trùng trùng ra trận”. Họ chưa từng gặp nhau nhưng trái tim họ cùng đập chung một nhịp, họ vẫn kề vai, sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh gian khổ, từ xa mà nhớ thương lại nối gần không gian xa cách. Từ không gian thực cách ngăn trở thành không gian nghệ thuật – không gian tâm tưởng – nối kết hai tâm hồn: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây Bên nắng đốt Bên mưa quây …… Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 46 - Rút sợi thương Chằm mái lợp Rút sợi nhớ Đan vòm xanh Nghiêng sườn Đông Che mưa anh Nghiêng sườn Tây Xòa bóng mát ( Sợi nhớ sợi thương – Thúy Bắc) Không gian chiến trường là nơi chăng tơ cho những sợi dây yêu thương đồng thời cũng là nơi chứng kiến những nỗi đau li biệt. Màu sắc cảnh vật không gian ở đây thể hiện sự lạc quan: mùa xuân ở mãi, sắc trời, rừng cây vẫn xanh nguyên nơi người nằm lại: Trên mồ em có mùa xuân ở mãi Trên chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên. (Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly) Nhìn chung, không gian chia tay, không gian xa cách, không gian chiến trường gắn liền với không gian tâm tưởng,…giúp nhân vật trữ tình bộc lộ cái tôi giàu xúc cảm, cùng bao lẽ sống yêu thương. Không gian cũng là nơi con người sống hết mình vì nhiệm vụ và tình yêu của con người cũng đơm hoa kết trái. Các nhà thơ viết về tình yêu đã khắc họa thành công hình tượng không gian nghệ thuật trong thi ca. III. PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ: Khi nói đến tác phẩm trữ tình là chủ yếu nói đến sự biểu hiện tâm trạng, cảm xúc, những tưởng nó không có cốt truyện và ở đó cái tôi – nhân vật trữ tình, giữ vị trí quan trọng trong việc phản ánh thế giới nội tâm. Tuy nhiên, trên thực tế, thể loại trữ tình cũng có sự tham gia của yếu tố tự sự; ngược lại, tự sự cũng có vai trò quan trọng nhất định trong việc phản ánh cái tôi trữ tình. Thơ mới do chỉ chú trọng khám phá, biểu hiện cái “tôi”cá nhân – cá thể bằng những chất liệu nội cảm với những trạng thái đa dạng, tinh tế của tình cảm, cảm xúc, cảm giác, ấn tượng,… cho nên cái “tôi” trong Thơ mới thường đánh mất mối liên hệ với cuộc đời bên ngoài và ngày càng chìm sâu vào trong nỗi cô đơn, trống vắng. Ngược lại, thơ ca cách mạng đã tăng cường chất liệu hiện thực, được khởi đầu từ thơ kháng chiến chống Pháp và mãi đến những năm kháng chiến chống Mĩ và sau này. Tất nhiên, thơ viết về tình yêu thời kì kháng chiến cũng đậm chất tự sự do không tách rời hiện thực đấu tranh của dân tộc nên nó dễ dàng tìm được sự đồng điệu nơi người đọc. Phương thức tự sự được thể hiện bắt đầu có thể bằng việc kể. Người kể chuyện thường không phải là người đứng ngoài cốt truyện hay sự kiện. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 47 - Họ không kể chuyện của người khác một cách khách quan mà luôn luôn kể chuyện của chính mình, lời kể chính là lời bộc bạch, tâm tình về cảnh ngộ hay quan hệ nào đó của chính nhân vật, nhưng cuối cùng cũng là để biểu hiện “cảm hứng trữ tình” của họ về những cảnh ngộ đó. [ 8 ;233] “Bài thơ về hạnh phúc” của Dương Hương Ly là một minh chứng. Tác giả cũng chính là nhân vật trữ tình và anh đang kể về câu chuyện của chính cuộc đời mình. Cuộc đời kháng chiến gian khổ, vất vả nhưng rất đỗi hạnh phúc bên người bạn đời, người đồng chí, người đồng nghiệp Xuân Quý thân yêu. Nhưng tiếc thay, súng đạn quân thù không loại trừ một ai, người vợ thân thương của nhà thơ đã vĩnh viễn ra đi: Thôi em nằm lại Với đất lành Duy Xuyên Trên mồ em có mùa xuân ở mãi Trên chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên Trời chiến trường không một chút bình yên Súng nổ gấp. Anh lên đường đuổi giặc Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên Lời thơ là lời tâm tình nhẹ nhàng đau thấu tâm can “Thôi / em nằm lại” biết bao nỗi đau uất nghẹn sau từ “thôi” nhẹ nhàng đó. Trước kia, Nguyễn Khuyến cũng từng khóc bạn Dương Khuê bằng từ “thôi” nhưng đằng sau lại ẩn chứa một nỗi đau vô cùng, vô tận: Bác Dương thôi đã thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (Khóc Dương Khuê) Cũng không ra ngoài việc kể chuyện về cuộc đời mình, Hữu Loan đã trải lòng mình qua bài thơ “Màu tím hoa sim”. Tác giả bắt đầu kể: Nàng có ba người anh bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng đang xanh Tôi người vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái …… Thông qua việc kể lại chuỗi các sự việc, bài thơ cho người đọc cảm nhận được những biến động, xáo trộn trong cuộc sống của người lính. Hi sinh hạnh phúc cá nhân cho tình yêu đất nước đã trở thành lí tưởng sống của những đôi trai gái thời đó. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Hà cho rằng: tự sự thường chính là cái cớ để nhân vật thông qua chuyện mà bộc lộ tâm trạng của mình. [8 ; 233].Qua câu chuyện tình yêu dang dở, Hữu Loan kín Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 48 - đáo bộc lộ tình yêu thương vợ tha thiết, cả nỗi đau thổn thức, giày vò trong tim: Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối Không được nghe nhau nói Không được nhìn nhau một lần …… …Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim dài Trong chiều Không hết Màu tím hoa sim Tím chiều hoang Biền biệt! Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa “ Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu” (Màu tím hoa sim – Hữu Loan) Người vợ thân yêu của nhà thơ mất lúc còn rất trẻ khi “Tóc nàng xanh xanh – Ngắn chưa đầy búi” và đây cũng chính là nỗi đau tột cùng, là sự bất hạnh của người “đi” lẫn kẻ ở. Câu thơ “Nhìn áo rách vai” và “Tôi hát trong màu hoa” cho người đọc tự nhủ: Tác giả đang hát phải chăng lòng cũng đang thổn thức khi nhận ra cảnh ngộ hiện tại và gặp lại cảnh xưa! Bằng giọng kể tâm tình, nhà thơ Giang Nam đã truyền đến người đọc nỗi đau, mất mát lớn trong cuộc đời của chính mình. Bài thơ “Quê hương” ra đời từ một kí ức buồn thương. Ba mươi câu đầu kể lại quãng thời gian vui tươi, hạnh phúc của tuổi trẻ và tình yêu nhưng những câu còn lại là sự sửng sờ trước hung tin, khác gì giông tố ập đến bao phủ: Hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi quăng mất xác Chỉ vì em là du kích em ơi! Đau xé lòng anh chết nửa con người! Nếu đoạn thơ đầu giọng thơ thong thả trìu mến, với những hình ảnh thơ mộng thì đoạn sau gân guốc, quằn quại trong đau thương. Người đọc như bị thu hút, theo dõi diễn biến tâm trạng nhân vật trữ tình bởi cả bài thơ là một câu chuyện kể nhiều chi tiết vừa hấp dẫn vừa xúc động do sự đan xen, kết hợp hai yếu tố tự sự và trữ tình. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 49 - Các nhà thơ kể chuyện của đời mình mà như nghe chuyện của muôn người. Những câu chuyện tình yêu vừa lãng mạn vừa bi thương làm xúc động lòng người xảy ra giữa thời khói lửa chiến tranh. Nhân vật trữ tình trong bài thơ “Núi đôi” đang hồi tưởng lại những kỉ niệm vừa đáng yêu, vừa cay đắng, chua xót của quá khứ: Bảy năm về trước em mười bảy Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa Bữa thì em tới, bữa anh sang. …… Bỗng tới mùa chiêm quân giặc tới Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn Đâu ngờ từ đó mất tin nhau. …… Mới tới cầu ao, tin sét đánh Giặc giết em rồi dưới gốc thông ( Vũ Cao) Nỗi đau này không thể đặt tên, cách tác giả vừa hồi tưởng vừa kể dẫn dắt người đọc vào câu chuyện đồng cảm nỗi đau như không còn là nỗi đau cá nhân. Cả bài thơ (64 câu) là một câu chuyện dài về đời người: sống, chiến đấu, yêu thương dưới ánh sáng của lí tưởng cách mạng. Nhân vật nữ du kích được nhắc đến do tác giả hư cấu. Thế nhưng, hình ảnh cô gái chết khi vây đồn giặc lại có sức ảnh hưởng lớn đến những người cầm súng lúc bấy giờ. Cô là đại diện tiêu biểu cho phẩm chất anh hùng của cả một tầng lớp, các cô nữ giao liên, du kích lúc bấy giờ trên khắp mọi miền đất nước. Những bài thơ ra đời trong giai đoạn này đã đi sát cuộc chiến đấu của nhân dân hai miền Nam, Bắc, bao quát, chiếm lĩnh hiện thực chiến trường. Bằng cách khai thác riêng, các nhà thơ đã phản ánh từng mảng hiện thực. Tất cả hợp thành bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Trong những năm tháng đó, đất nước phải chịu biết bao vết thương do chiến tranh để lại. Đó là hình ảnh: Bỗng tới mùa chiêm quân giặc tới Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau …… Anh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói Núi vẫn đôi mà anh mất em! …… Từ núi qua thôn đường nghẽn lối Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 50 - Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy Sân biến thành ao nhà đổ chái Ngổn ngang bờ bụi, cánh dơi bay. ( Núi đôi – Vũ Cao) Đất đai, cây cỏ, nhà cửa tan hoang sau những trận càn. Phương thức tự sự trong thơ phát huy tác dụng vừa kể vừa tả vừa sâu lắng trữ tình. Người đọc hình dung sau cuộc chiến, mọi thứ đều tan tác, mọi nơi đều nhuốm màu tang thương. Dân tộc Việt Nam – một dân tộc anh hùng đã gánh chịu bao mất mát từ cuộc chiến tranh phi nghĩa mà thực dân Pháp và đế quốc Mĩ tiến hành. Chúng đã thả hàng ngàn, hàng triệu tấn bom trên khắp đất nước này. Vậy mà giữa đạn bom, con người vẫn đường hoàng ung dung, nghĩ suy sâu sắc, càng thêm trân trọng bao lẽ sống – tình yêu: Trong ánh chớp nhoáng nhoàng cây cối ngả nghiêng Tổ công binh đứng ngồi trong trạm gác Cái cậu trẻ măng cất lên tiếng hát Khi biết trong hầm có cô bé đang nghe. (Vầng trăng và những quầng lửa – Phạm Tiến Duật) hay: Anh ngủ lại trên lá rừng và đếm những bom rơi Nhưng tình yêu của em làm lòng anh yên tĩnh quá Hạnh phúc là sau những chặng đường vất vả Lại hiểu em nhiều trong muôn nẻo xa xôi. (Buổi hẹn hò lớn lao – Nguyễn Khoa Điềm) hay: B.52 bom nghìn tấn dội …… Giặc mới lui càn khi em vừa đến Bà mẹ già kể chuyện chặn xe tăng Quanh những bờ dương giặc san bằng Đã mở lại những chiến hào gan góc Những em bé, dưới mưa bom, vẫn đi làm đi học …… Trong một góc vườn cháy khét lửa na – pan Em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc (Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly) Hậu quả của những trận mưa bom thật khủng khiếp. Nó làm cho “cây cối ngả nghiêng”, “những bờ dương giặc san bằng”, “góc vườn cháy khét lửa na – pan” nhưng trước sự hủy diệt tàn khốc của chiến tranh, đất nước Việt Nam vẫn cứ hồi sinh. Con người Việt Nam vẫn lạc quan: ca hát, nghĩ đến người yêu nơi xa, vẫn “mở lại những chiến hào gan góc ; những em bé, dưới mưa bom, vẫn đi làm đi học” và cao hơn hết là sự sống nảy sinh từ trong cái chết “trong một góc vườn cháy khét lửa na – pan; em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc”. Chính sức mạnh tinh thần đã giúp dân tộc Việt Nam Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 51 - chiến thắng quân thù. Nếu không có lòng yêu nước thiết tha, lòng tin chắc chắn ở tương lai đầy ánh sáng của chiến thắng thì dân tộc Việt Nam làm sao có đủ sức mạnh tinh thần để vượt qua mọi thiếu thốn, mọi thử thách nặng nề của chiến tranh Nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Hà nhận định xác đáng: Nếu không có sự kiện, không có lí do bắt nguồn cho những cảm xúc, những tâm trạng thì cảm xúc tâm trạng đó cũng trở nên lênh phênh, chung chung vì thế mà có lẽ cũng mờ nhạt. Tự sự như cái mắc để treo bức tranh, như đôi bờ đất để dòng sông chảy mà nếu không có cái mắc đó thì bức tranh không thể được treo lên, không có bờ đất thì nước chẳng theo một dòng nhất định.[8 ; 232].Qua đây, chúng ta thấy được vai trò của phương thức tự sự trong việc lót nền dẫn dắt cảm xúc, làm cho cảm xúc được thăng hoa. Đồng thời, nó góp phần xây dựng hình tượng, biểu hiện sâu sắc cái tôi trữ tình trong thơ tình yêu thời kháng chiến. IV. VẬN DỤNG THỂ THƠ TỰ DO: Có nhiều phương thức biểu hiện tình yêu trong thơ ca thời kháng chiến. Ngoài những môtíp riêng – chung, vai trò của hình tượng không gian nghệ thuật, của chất tự sự còn phải kể đến hiệu quả biểu đạt của câu thơ tự do. Thơ tự do được dùng sớm nhất trong các sáng tác của Tản Đà, Phong Hoa Lạc, Nguyễn Lang Quy… Tản Đà được xem là “người của hai thế kỉ”, là người có ý thức cách tân mạnh mẽ hình thức thơ đầu thế kỉ XX. Bài thơ “Tống biệt” với những câu chữ dài ngắn không đều thích hợp thể hiện cảm xúc ngậm ngùi luyến tiếc khi rời tiên cảnh, cứ bước đi rồi lại bước dừng, hồi lâu cứ nhìn ngoái lại: Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi! Nửa năm tiên cảnh Một bước trần ai, Ước cũ duyên thừa có thế thôi. Đá mòn, rêu nhạt Nước chảy, huê trôi, Cái hạc bay lên vút tận trời! Trời đất từ đây xa cách mãi. Cửa động Đầu non Đường lối cũ Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi. ( Tống biệt – Tản Đà) Thơ tự do thực sự ra đời khi xuất hiện phong trào Thơ mới. Có thể kể đến một số bài như: “Xuân về” của Lưu Trọng Lư, “Tiếng trúc tuyệt vời” của Thế Lữ,… và hàng loạt các bài thơ khác. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 52 - Năm vừa rồi Chàng cùng tôi Nơi vùng giáp Mộ Trong căn nhà cỏ Tôi quay tơ Chàng ngâm thơ … Rồi ngày lại ngày Sắc màu: phai Lá cành: rụng Ba gian: trống Xuân đi Chàng cũng đi Năm nay xuân còn trở lại Người xưa không thấy tới. ( Xuân về - Lưu Trọng Lư) Không bị giới hạn, không bị câu thúc từ các quy định về cấu tạo của khổ thơ, câu thơ, niêm luật, thể thơ tự do có ưu thế trong việc đi sâu vào các đề tài rộng lớn của cuộc sống. Bên cạnh đó, hình thức phóng khoáng của thơ tự do đã tạo điều kiện cho các tác giả biểu lộ một cách mạnh mẽ cảm xúc, cái tôi trữ tình. Chúng ta có thể hiểu khái niệm thơ tự do như sau: Thơ tự do là hình thức cơ bản của thơ, phân biệt với thơ cách luật ở chỗ, không bị ràng buộc vào quy tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm đối… Do vậy mà nó mở ra chân trời rộng rãi cho sự sáng tạo hình thức mỗi bài thơ. [2 ; 70] Thể thơ tự do đã phát huy tác dụng mạnh làm nên thành tựu thơ ca giai đoạn 1945 – 1975. Chính mảnh đất màu mỡ của hiện thực sôi động và đời sống tình cảm phong phú của người Việt Nam thời kì này đã tạo điều kiện cho thơ tự do sinh sôi và phát triển. Để diễn tả nỗi đau li biệt, nhà thơ Hữu Loan đã sử dụng hình thức thơ tự do với cách ngắt nhịp, ngắt câu mới lạ, đột ngột tạo ra chiều sâu trong tâm tưởng – tâm trạng hụt hẫng, thất thểu, cô đơn khi bắt gặp hình ảnh những đồi hoa sim, màu hoa của kí ức, của kỉ niệm buồn đau: Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim Những đồi hoa sim dài Trong chiều Không hết Màu tím hoa sim Tím chiều hoang biền biệt… ( Màu tím hoa sim) Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 53 - Hình ảnh hoa sim “màu tím”gợi nỗi buồn, sự vô vọng, được thể hiện trên nền các câu thơ tự do, ngắt câu sáng tạo, Bài thơ như có sức ngân, vang xa dài lâu giữa không gian đất trời, vào giữa lòng người yêu thơ. Từ cách ngắt câu cuối mỗi dòng thơ 5/4/5/2/2/4/3/2 cùng thanh bằng trong từ “biền” gợi sức vang xa; thanh trắc trong từ “biệt” gợi sức chùng. Tất cả đã góp phần thể hiện sự biến động, mất cân bằng tâm lí trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Như vậy, ưu thế của thể thơ tự do được nhà thơ tận dụng triệt để. Cùng diễn tả nỗi đau thương mất mát, nhà thơ Dương Hương Ly cũng tìm đến thể thơ tự do: Anh mất em như mất nửa cuộc đời Nỗi đau anh không nói được bằng lời Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy Những viên đạn quân thù bắn em, trong lòng anh sâu xoáy …… Bên những vết đạn xưa chúng giết bao người Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc Nhưng em ạ, giây phút này chính lúc Anh thấy lòng anh tỉnh táo lạ thường Nhằm thẳng quân thù, mắt không giọt lệ vương Anh nổ súng. ( Bài thơ về hạnh phúc) Đó là nỗi đau triền miên, dai dẳng nhưng lại thôi thúc vươn tới, vùng lên một cách quyết liệt, dữ dội. Dù diễn tả cảm xúc đau đớn hay hạnh phúc, câu thơ tự do cũng góp phần hỗ trợ việc biểu đạt cảm xúc trữ tình: Anh không dám xin Cô gái chẳng dám trao Chỉ mùi hương đằm ấm, thanh tao Không giấu được. Cứ bay dịu nhẹ. (Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn) Những câu thơ không vần, cách ngắt câu tự do, giúp thể hiện sự ngập ngừng, thẹn thùng của đôi lứa yêu nhau khi thổ lộ tâm tình. Cũng có thể là sự bất ngờ hạnh phúc trong “Quê hương” – Giang Nam, cả hai đều xúc động ngậm ngùi: Hòa bình tôi trở về đây Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày Lại gặp em Thẹn thùng nép sau cánh cửa Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 54 - Vẫn khúc khích cười ( khó nói lắm anh ơi! ) Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng… (Quê hương – Giang Nam ) Một thứ tình cảm đặc biệt dịu dàng, len nhẹ vào tâm hồn họ. Nhà thơ nữ Hoàng Thị Minh Khanh và Thúy Bắc đều có những câu thơ tự do rất thành công khi diễn tả nỗi nhớ nhiều lớp, nhiều tầng, trùng trùng như sóng cồn, biển dâng: Dù anh đi đâu đến đâu dù ta xa nhau biết mấy em vẫn tin anh như từng tin Đảng vậy trong gian lao anh có mặt hàng đầu. …… Em nhớ anh không chỉ trong giấc ngủ em nhớ anh không chỉ lúc dạo chơi em nhớ anh không chỉ đêm trăng tỏ Em nhớ anh không chỉ lúc mưa rơi Mà em đã nhớ anh cả những lúc soi gương chảy tóc cả những lúc công tác bộn bề cả những lúc nghe đàn em trẻ học hay tiếng chim trời ríu rít bay đi… (Nhớ - Hoàng Thị Minh Khanh) Những dòng thơ năm chữ, sáu chữ, bảy chữ xen với các dòng thơ tám chữ, chín chữ góp phần thể hiện những biến động nhẹ nhàng nhưng không kém mãnh liệt trong tâm trạng nhân vật trữ tình. Thúy Bắc còn dùng cả thể thơ ba chữ gãy gọn, cách ngắt dòng dứt khoát để diễn tả nội tâm phức tạp của người con gái đang yêu: Em dang tay Em xòe tay Chẳng thể nào Xua tan mây Chẳng thể nào Che anh được Rút sợi thương Chằm mái lợp Rút sợi nhớ Đan vòm xanh Nghiêng sườn Đông Che mưa anh Nghiêng sườn Tây Xòa bóng mát (Sợi nhớ sợi thương) Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 55 - Với những câu thơ trần trụi, phá vỡ những niêm luật, nhịp vần, không câu thúc vào số câu, số chữ đã tạo tâm thế thoải mái cho các nhà thơ trong việc thể hiện cảm xúc, góp phần làm nên sự thành công cho mảng thơ viết về đề tài tình yêu giai đoạn 1945 – 1975. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 56 - PHẦN III: KẾT LUẬN Thơ tình yêu ra đời trong giai đoạn 1945 – 1975 đã góp phần làm phong phú, đa dạng nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ tình yêu giai đoạn này là dòng riêng giữa nguồn chung, là bông hoa đầy hương sắc góp cho vườn thơ cách mạng. Các nhà thơ đã cho ra đời những thi phẩm biểu hiện sâu sắc cảm xúc cái tôi riêng tư bên cạnh những xúc cảm về cái ta của cộng đồng, dân tộc. Hai yếu tố “riêng”, “chung” đã tạo nên đặc điểm của thơ tình yêu thời kì này. Chiến tranh là kẻ thù của muôn nhà và là kẻ thù của tình yêu. Trong hoàn cảnh khó khăn, thơ tình yêu vẫn được khai sinh như nhu cầu tất yếu phản ánh đời sống tình cảm của con người. Những Kim - Kiều của thế kỉ XX cũng rụt rè, e thẹn khi đến với tình yêu, họ cũng nhớ thương da diết, cháy lòng khi xa cách, cũng đau đớn khi mất đi người bạn đời, người yêu. Các nhà thơ đã tái hiện hiện thực đời sống, tình yêu của con người trong chiến tranh khốc liệt bằng nhiều phương thức nghệ thuật đa dạng, độc đáo: từ các môtíp riêng – chung , các yếu tố không gian nghệ thuật, phương thức tự sự đến sự vận dụng linh hoạt thể thơ tự do. Tất cả đều góp phần thể hiện thành công hình tượng nhân vật, cái tôi trữ tình lãng mạn trong thơ tình yêu giai đoạn này. Thơ tình yêu thời kháng chiến không gợi vẻ bi lụy, nhụt chí ở người đọc, không làm con người quên đi nhiệm vụ thiêng liêng, lý tưởng đấu tranh; ngược lại, tình yêu là liều thuốc xoa dịu đi mọi mất mát, đau thương tạo niềm tin yêu cuộc sống dù hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt. Qua thơ tình yêu, người đọc vẫn có thể hình dung hiện thực ác liệt, tàn khốc đang diễn ra nơi chiến trường. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nói: “Người Việt Nam yêu để thêm được mạnh mẽ, yêu để được sống thêm hăng hái, tranh đấu thêm được vững bền, chứ không phải yêu để đắm đuối trong tình yêu và lãng quên cuộc sống”. Một lần nữa quan niệm trên lại được khẳng định. Thơ tình yêu giai đoạn 1945 – 1975 đã góp phần điểm tô, làm phong phú đời sống tinh thần của người chiến sĩ, quần chúng nhân dân thời kháng chiến. Trải qua sự sàng lọc của thời gian đối với các giá trị, thành tựu văn học, chắc chắn những tác phẩm thơ tiêu biểu viết về đề tài tình yêu ra đời trong giai đoạn văn học này sẽ còn mãi sức sống, mãi hiện hữu, neo đậu lâu bền trong sự trân trọng, yêu mến cũng như đáp ứng thị hiếu, nhu cầu học tập, nghiên cứu của công chúng, bạn đọc muôn đời sau. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 57 - TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anh Ngọc. Năm 2001. Hồn Thơ thế kỉ (bình luận một số bài thơ nổi tiếng). Hà Nội: NXB Thanh niên. 2. Hoàng Kim Ngọc (Biên Soạn và tụyển chọn). Năm 2007. Những đóng góp của thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. NXB Đại học Sư phạm. 3. Lê Đình KỴ. Năm 1998. Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam. NXB Giáo dục. 4. Lê Lưu Oanh ( Tuyển chọn và giới thiệu nhà văn và tác phẩm trong nhà trường). Năm 2002. Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm. NXB Giáo dục. 5. Nhiều tác giả. Năm 2005. Giảng văn văn học Việt Nam. NXB Giáo dục. 6. Nhiều tác giả. Năm 1996. Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia. 7. Nguyễn Duy Bắc. Năm 1998. Bản sắc đân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại (1945 – 1975). Hà Nội: NXB Văn hoá dân tộc. 8. Nguyễn Đức Quyền. Năm 1987. Tiểu luận những vẻ đẹp thơ. Hội văn nghệ Nghĩa Bình. 9. Nguyễn Thị Bích Hà. Năm 2003. Tự sự trong loại hình trữ tình dân gian. Trần Đình Sử. Tự sự học (Một số vấn đề lí luận và lịch sử). NXB Đại học Sư phạm: 225 – 234. 10. Nguyễn Văn Long (chủ biên). Năm 2007. Văn học Việt nam hiện đại tập II (từ sau Cách mạng tháng Tám 1945). NXB Đại học Sư phạm. 11. Nguyễn Văn Long. Năm 2001. Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau cách mạng tháng tám. NXB Giáo dục. 12. Phùng Hoài Ngọc. Năm 2006. Đề cương bài giảng Thi pháp học hiện đại. Đại học An Giang. 13. Thơ Việt Nam 1945 – 1985. Hà Nội: NXB Văn học. 14. Trần Đăng Xuyền. Năm 1996. Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975. Nhiều tác giả. 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia. 15. Trần Đình Sử. Năm 1997. Những thế giới nghệ thuật thơ (tiểu luận). Hà Nội: NXB Giáo dục. 16. Trần Đình Sử. Năm 1995. Thi pháp thơ Tố Hữu. NXB Giáo dục. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 58 - 17. Trần Ngọc Dương. Năm 2006. Nhà thơ Hữu Loan và bài thơ Màu tím hoa sim. Tạp chí văn học và tuổi trẻ: 9 – 11 18. Văn Giá. Năm 2007. “Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy”.Tạp chí văn học và tuổi trẻ: 7 – 9 19. Việt Hùng - Thảo Trang – Nguyên Ngọc (Nhóm tuyển chọn và biên soạn). Năm 2000. Đến với những bài thơ hay. Hà Nội: NXB Văn hoá – thông tin. 20. Vũ Duy Thông. 1998. Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 – 1975. Hà Nôi: NXB Giáo dục. 21. Vũ Tiến Quỳnh. Năm 1998. Phê bình luận văn học Anh Thơ, Lâm Thị Mỹ Dạ, Vân Đài, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Văn nghệ. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1267.pdf
Tài liệu liên quan