Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM TRẦN THỊ ĐỊNH LỚP DH5C1 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGÀNH NGỮ VĂN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA THỜI NIÊN THIẾU Giảng viên hướng dẫn: Th.S NGUYỄN THỊ HỒNG HOA Long Xuyên, 05 / 2008 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, khoa Sư phạm và Bộ môn Ngữ Văn trường Đại học An Giang đã tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này. Ngoài những nỗ lực cá nhân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ

pdf70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 14346 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phía các thầy cô, gia đình và bạn bè. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Hồng Hoa – người đã tận tình hướng dẫn, động viên tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện luận văn này. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn! Long Xuyên, ngày 4 tháng 5 năm 2008. Sinh viên thực hiện TRẦN THỊ ĐỊNH MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài nghiên cứu........................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...........................................................................1 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................4 4. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................4 5. Phạm vi, nội dung nghiên cứu .....................................................................4 6. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................4 7. Đóng góp mới của đề tài ..............................................................................5 8. Dàn ý của khóa luận.....................................................................................5 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: TRẦN ĐĂNG KHOA - “THẦN ĐỒNG” CỦA THI CA VIỆT NAM. 1. Đôi nét về Trần Đăng Khoa và tập thơ Góc sân và khoảng trời ...............6 1.1. Về Trần Đăng Khoa .............................................................................6 1.2. Về tập Góc sân và khoảng trời ............................................................7 2. Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa ..............8 2.1. Dòng sữa văn học dân gian của quê hương..........................................8 2.2. Truyền thống gia đình...........................................................................8 2.3. Ảnh hưởng từ các nhà thơ, nhà văn bậc thầy .......................................9 2.4. Sự động viên, giúp đỡ của gia đình và thầy cô, bạn bè ........................9 2.5. Thời đại kháng chiến chống Mĩ ..........................................................10 CHƯƠNG II: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI - NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG DÀO DẠT 1. Cảm hứng từ cảnh vật thiên nhiên và hình ảnh người nông dân 1.1. Cảnh vật thiên nhiên ...........................................................................11 1.2. Hình ảnh người nông dân....................................................................19 2. Cảm hứng từ những người thân yêu ..........................................................22 3. Cảm hứng từ hoàn cảnh lịch sử của đất nước.............................................25 3.1. Số phận của những em bé Việt Nam trong chiến tranh .....................25 3.2. Lòng căm thù giặc Mĩ sâu sắc............................................................31 3.3. Tình cảm đối với Bác Hồ kính yêu ....................................................34 3.4. Tình cảm dành cho các chú bộ đội ....................................................38 3.5. Tình cảm đối với những miền quê trên đất nước................................44 CHƯƠNG III: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI – MỘT SỐ HÌNH THỨC BIỂU HIỆN NỔI BẬT 1. Giọng điệu .....................................................................................................48 1.1. Hồn nhiên, trong sáng, thiết tha............................................................48 1.2. Triết lí, suy tư .......................................................................................50 2. Trí tưởng tượng, liên tưởng phong phú.........................................................55 3. Ngôn ngữ chính xác, sáng tạo, biểu cảm và giàu nhạc điệu .......................57 4. Biện pháp tu từ.............................................................................................59 4.1. Nhân hóa ...............................................................................................59 4.2. So sánh ..................................................................................................62 PHẦN KẾT LUẬN..............................................................................................65 1 PHẦN MỞ ĐẦU 55555 1. Lí do chọn đề tài Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, so với “văn học người lớn” thì văn học thiếu nhi hình thành và phát triển một cách thầm lặng, ít được người ta quan tâm đến. Tuy vậy, bộ phận văn học này đã không bỏ cuộc mà đã tự thân phấn đấu vươn lên để ngày một phong phú, đa dạng và được đánh giá là “một bộ phận quan trọng của nền văn học dân tộc” [14;262]. Ở bộ phận văn học này có sự góp mặt của các bút danh tiếng đầy tâm huyết: Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Đoàn Giỏi, Võ Quảng, Phạm Hổ,… Họ viết cho các em với tình yêu thương, sự đồng cảm và trên hết là muốn cung cấp cho các em những câu chuyện, những vần thơ bổ ích, mang giá trị nhận thức và giáo dục cao. Đặc biệt, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã xuất hiện một loạt các em thiếu nhi làm thơ: Trần Đăng Khoa, Chu Hồng Quý, Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân,… mà tiêu biểu nhất là Trần Đăng Khoa. Tuổi thơ tôi và bạn bè tôi đã thuộc làu những câu: trong Hạt gạo làng ta, Nghe thầy đọc thơ,… Mặc dù chưa hiểu hết cái hay của những câu thơ đó, chúng tôi vẫn cảm nhận được một cái gì đó rất thân thương, gần gũi. Sau này lớn lên, tôi biết được tác giả của những vần thơ đã theo mình suốt thời thơ ấu là Trần Đăng Khoa, và càng thú vị hơn khi biết rằng những bài thơ đó được sáng tác từ khi tác giả còn rất nhỏ. Tập thơ Góc sân và khoảng trời đã nhận được không ít ý kiến đánh giá, phê bình, nhưng chỉ đơn thuần là một vài nhận định, phê bình ngắn ngủi, chung chung về tổng thể tập thơ hay cảm xúc đối với một vài bài thơ mà người viết cho là tiêu biểu. Với đề tài : “Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu”, chúng tôi sẽ góp thêm một cách nhìn, cách cảm tương đối toàn diện và có hệ thống về một nhà thơ từng được mệnh danh là “thần đồng” cũng như khẳng định lại những đóng góp của nhà thơ này. 2. Lịch sử vấn đề Tập thơ Góc sân và khoảng trời được viết từ năm 1966 đến 1973, in năm 1973 được rất nhiều người quan tâm. Tập thơ đã nhận được một số ý kiến phê bình và đánh giá về nội dung và nghệ thuật như sau: 2.1. Những ý kiến về giá trị nội dung của tập thơ Nguyễn Văn Long đã xếp thơ Trần Đăng Khoa vào bộ phận văn học thiếu nhi từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 và có những nhận xét rất hay về tập thơ Góc sân và khoảng trời cũng như về thơ của Trần Đăng Khoa nói chung: “Anh đã viết rất nhiều, rất hay về nông thôn nhỏ bé của mình. Đến với thơ anh, ta được sống trong bầu không khí rất riêng, không khí của làng quê nông thôn Việt Nam” [14;297]. Trong đó, ông nêu lên những ý kiến của nhà nghiên cứu phê bình Nguyễn Đăng Mạnh về “nhà thơ mục đồng” và khen 2 ngợi “Trần Đăng Khoa luôn cảm nhận đựơc vẻ đẹp trong trẻo, trinh nguyên, thuần nhất của vùng quê dân dã” [14;297]. Dương Thu Hương đã nhận định về thiên nhiên và cuộc sống của người nông dân trong thơ Trần Đăng Khoa: Qua đó, Trần Đăng Khoa đã bộc lộ một tình yêu quê hương sâu sắc và truyền cho người đọc tình yêu ấy. Với tất cả bạn đọc nước ngoài, qua thơ anh, họ cũng hiểu thêm phần nào về phong vị Việt Nam”[16;106]. Chính cây bút nhỏ này đã làm cho người ta chú ý nhiều hơn đến Việt Nam không chỉ vì Việt Nam là chiến trường ác liệt lúc bấy giờ mà còn do Việt Năm xuất hiện một hiện tượng thơ đáng tự hào. Gerad Gullaume đã thốt lên đầy xúc động khi nói về Trần Đăng Khoa:“Việt Nam, hồn tôi”(1) Phạm Hổ trong tiểu luận “Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa” cho rằng Trần Đăng Khoa đã không viết về những cái gì xa lạ mà viết những cái ở ngay làng quê mà ngày ngày em trông thấy và “hầu như toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa là viết bằng lòng yêu thương…” [11;887]. Hoài Thanh đã đề cập đến hình ảnh các chú bộ đội trong thơ các em thiếu nhi mà đặc biệt là trong thơ Trần Đăng Khoa: “…Hình ảnh chú bộ đội gắn liền với cảnh sắc yêu dấu, với không khí đầm ấm của quê em lại càng thêm gần gũi… ” [10;255] Trần Đăng Xuyền đã chỉ ra những nhân tố góp phần làm nên hồn thơ cũng như một và đặc điểm trong cái nhìn của Trần Đăng Khoa: nhân tố gia đình, cảnh sắc thiên nhiên ở làng quê, ảnh hưởng của nhà thơ Xuân Diệu, bạn bè, thầy cô và không khí của thời đại kháng chiến chống Mĩ. Đó là những nhân tố khách quan bên cạnh tài năng thiên bẩm của Trần Đăng Khoa. “Thơ Trần Đăng Khoa chạm đến bản chất, cái cốt lõi của làng quê” [14;19]. Quả thật, trong thơ Trần Đăng Khoa luôn có dấu ấn của thời chiến tranh khốc liệt của của cuộc kháng chiến chống Mĩ nhưng luôn giữ được vẻ trong trẻo, tươi tắn của tâm hồn trẻ thơ. Lã Thị Bắc Lý đã nêu những nội dung cơ bản của thơ Trần Đăng Khoa, trong đó nội dung hàng đầu là thiên nhiên nông thôn bởi theo tác giả thì “đây là mảng nội dung nổi bật nhất trong thơ Trần Đăng Khoa” [5;152]. Sự vật trong thiên nhiên thì hầu như ai cũng biết, cũng nhận thấy nhưng không ai có được cái nhìn như Trần Đăng Khoa. Đó là một cái nhìn ngộ nghĩnh, đáng yêu mà lại rất sâu sắc: “Thơ Trần Đăng Khoa luôn gợi cho bạn đọc cảm nhận về một thiên nhiên nông thôn thuần nhất, tinh nguyên và hết sức thơ mộng… thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa không chỉ là sự yên tĩnh thơ mộng mà còn đầy sức sống, luôn luôn vận động và phát triển” [5;155]. Bên cạnh đó, hình ảnh người nông dân được nhắc đến. Đó là những người dân lam lũ, cực nhọc, chịu thương chịu khó. Ngòi bút của Trần Đăng Khoa đã phác họa được “bức chân dung người nông dân dũng cảm, tự tin và chiến thắng”. Khi viết về điều gì, điều đầu tiên là người cầm bút phải thật hiểu rõ điều đó và cần nhất là phải có tấm lòng sâu nặng. Viết về người nông dân quê mình, Trần Đăng Khoa hội tụ đầy đủ các yếu tố đó. Khó có thể tìm thấy ở đâu có niềm vui tập thể bình dị, trong trẻo như niềm vui đồng ruộng của người nông dân như trong thơ Trần Đăng Khoa. (1)Việt Nam, hồn tôi - Gerad Gullaume (do nhà thơ Xuân Diệu dịch) 3 Qua việc miêu tả cuộc sống ở nông thôn, Trần Đăng Khoa đã ghi lại “âm vang của thời đại”. Tuy nhiên, Trần Đăng Khoa không đi sâu miêu tả cảnh, liệt kê, thống kê các số liệu lịch sử mà “dấu ấn của thời đại dội vào thơ anh đã biến thành hình tượng, thành số phận của một lớp người, một thế hệ trong chiến tranh” [5;162]. Thế hệ măng non trong chiến tranh cũng được miêu tả bằng những chi tiết rất xúc động. Các em thiếu nhi tuy ít được sự quan tâm chăm sóc đầy đủ nhưng vẫn luôn lạc quan, tin tưởng ở tương lai của dân tộc. Chính Trần Đăng Khoa đã là một ví dụ điển hình cho điều đó “Điều kì diệu là Trần Đăng Khoa nhìn cuộc chiến tranh tàn khốc, dữ dội một cách bình thản” [5;163]. 2.2. Những ý kiến về giá trị nghệ thuật của tập thơ Ngoài những ý kiến nhận xét, phê bình về nội dung còn có những ý kiến xoay quanh mặt giá trị nghệ thuật của tập thơ Góc sân và khoảng trời như sau: Lã Thị Bắc Lý đã nhận xét rằng Trần Đăng Khoa thường “sử dụng biện pháp nhân hóa để miêu tả cảnh vật” [5;165]. Trong cái nhìn “vật ngã đồng nhất” của trẻ con thì Trần Đăng Khoa đã xem chú chó vàng như một người bạn thân quý với cách gọi những sự vật bằng từ xưng hô: cái na, cu chuối, chị tre, bác nồi đồng, cậu mèo, ông trời, bà sân…Những cảnh vật thiên nhiên trong tập thơ đều chứa đựng một tâm hồn, một sự sống lúc nào cũng sẵn sàng đón nhận ánh sáng. Một đặc điểm dễ thấy nhất trong nghệ thuật của tập thơ là sự liên tưởng, tưởng tượng độc đáo. “…luôn luôn phát hiện ra những mối liên hệ của chúng hoặc liên tưởng tới những hình ảnh tương đồng khác để từ đó khái quát lên một cái gì đó cao hơn” [5;167]. Không dừng lại ở đó, tập thơ còn nhận được những nhận xét về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Anh Ngọc đã hết lời ngợi khen “thứ ngôn ngữ giản dị, chính xác và giàu hình ảnh có thể gây hiệu qủa tình cảm mạnh mẽ” [1;340]. Riêng Phạm Hổ đã nhận xét thêm về nhạc điệu trong tập thơ. “Trong nhiều bài, mỗi bài như có một nhạc điệu riêng, một âm sắc riêng” [11;890]. Các bài thơ của Trần Đăng Khoa có sự gần gũi với ca dao bởi em được ru bằng những câu hát của bà, của mẹ. Nhưng khi làm thơ thì Trần Đăng Khoa không đưa tất cả vào thơ mình mà có sự chọn lọc và sáng tạo. Chính vì thơ của Trần Đăng Khoa (đặc biệt là tập Góc sân và khoảng trời) chứa đựng những yếu tố nội dung và nghệ thuật ấy mà vào những năm 1994-1995 Phạm Hổ đã viết về Trần Đăng Khoa “thơ Trần Đăng Khoa viết lúc còn bé đã chịu sự thử thách khá dài trên dưới 30 năm với bao nhiêu những đổi thay trong cuộc sống không thể lường trước… Đến nay, đọc lại thơ Trần Đăng Khoa, tôi vẫn thấy hay, có bài còn hay hơn”[11;892]. 2.3. Những nhận xét chung Qua phần tìm hiểu những nhận định, ý kiến đánh giá, phê bình, chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết các tác giả đều khen ngợi hồn thơ Trần Đăng Khoa. Em xứng đáng được nhận những lời khen ngợi đó. Em đã học tập và rèn luyện một cách công phu, sáng tác một cách nghiêm túc chứ không phải vung bút lên là nảy ra những bài thơ hay. Các ý kiến, nhận 4 định trên là cơ sở để chúng tôi tự phát hiện và khám phá để tìm hiểu rõ hơn, sâu hơn về tâm hồn và tài năng Trần Đăng Khoa được thể hiện trong tập thơ. Trong qua trình nghiên cứu, khóa luận sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn khách quan để đánh giá chính xác những đóng góp của Trần Đăng Khoa cho bộ phận văn học thiếu nhi nói riêng và tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nói chung. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Với đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu”, chúng tôi muốn tập trung tìm hiểu thơ Trần Đăng Khoa ở góc độ thế giới nghệ thuật. Tuy tập thơ được viết từ khi tác giả còn rất nhỏ nhưng vẫn được xem xét như một chỉnh thể nghệ thuật có sự đan xen, hòa quyện và thống nhất giữa các yếu tố nội dung và hình thức. Từ đó, chúng tôi cùng người đọc khám phá được cảm nhận và những sáng tạo từ hình tượng nghệ thuật đến biện pháp nghệ thuật được Trần Đăng Khoa sử dụng trong tập thơ. 4. Đối tượng nghiến cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu. Trong phần trình bày của khóa luận, chúng tôi chủ yếu dựa trên văn bản của tập thơ Góc sân và khoảng trời được Nhà xuất bản Văn học in năm 2006. Trong đó, chúng tôi chỉ khảo sát và nghiên cứu các bài thơ được Trần Đăng Khoa viết từ năm 1966 đến 1973, in từ trang 16 đến trang 152. Những bài còn lại viết vào năm 1974 được bổ sung sau này, chúng tôi xin phép không khảo sát mà chỉ liên hệ để làm phong phú thêm ý của các vấn đề. 5. Phạm vi, nội dung nghiên cứu Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ xin được đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa qua một điển hình là tập Góc sân và khoảng trời ở góc độ các cảm hứng chủ đạo của tác giả và một số đặc sắc nghệ thuật nổi bật trong tập thơ. Trong qúa trình nghiên cứu, chúng tôi có liên hệ, so sánh, đối chiếu với thơ của Hoàng Hiếu Nhân, Cẩm Thơ, Xuân Quỳnh…để làm nổi bật thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp Đây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong đề tài của luận văn. Chúng tôi đã dựa trên một số tài liệu nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình nghiên cứu cùng sự tìm tòi, phát hiện của bản thân trên văn bản của các bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời để làm cơ sở cho việc tiếp cận và tìm hiểu tập thơ nhằm phục vụ tốt hơn cho cho đề tài. 6.2. Phương pháp so sánh Phương pháp này giúp chúng tôi có sự liên hệ, đối chiếu, so sánh những điểm giống và khác nhau giữa thơ Trần Đăng Khoa và thơ một số em nhỏ lúc bấy giờ trong cách thể hiện thế giới nghệ thuật thơ, giữa thơ Trần Đăng Khoa lúc còn là thiếu nhi và khi đã là 5 anh bộ đội. Qua đó, chúng ta sẽ có cái nhìn đúng mức về tài năng, tâm hồn Trần Đăng Khoa và những đóng góp cho nền văn học thiếu nhi qua tập Góc sân và khỏang trời. 6.3. Phương pháp thống kê Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Qua việc khảo sát tập thơ, tôi sẽ thống kê các yếu tố về nội dung và nghệ thuật có tính khái quát trong tập thơ, những hình ảnh, chi tiết được lặp lại nhiều lần nhằm tìm ra cảm hứng chủ đạo và các phép tu từ được sử dụng trong tập thơ. Trên cơ sở này, chúng tôi tìm ra những nét riêng, nét độc đáo của tài năng thơ Trần Đăng Khoa. 7. Những đóng góp mới của đề tài Đề tài của khóa luận này là một đề tài mới mẻ. Người ta biết đến Trần Đăng Khoa như là một thần đồng thơ với Góc sân và khoảng trời. Thế nhưng, mọi người lại ít quan tâm nghiên cứu tập thơ một cách toàn diện. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn khẳng định tài năng, phong cách riêng của thơ Trần Đăng Khoa. Đồng thời khóa luận sẽ cung cấp một phần kiến thức cho giáo viên cấp I cấp II khi giảng dạy thơ Trần Đăng Khoa cũng như một số phép tu từ có trong phân môn Tiếng Việt. 8. Dàn ý khóa luận Khóa luận với đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu gồm có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, nội dung là phần trọng tâm, gồm có 3 chương: Chương I: Trần Đăng Khoa - “thần đồng” của thi ca Việt Nam: Khóa luận sẽ tìm hiểu về tiểu sử và những nhân tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Trần Đăng Khoa. Bên cạnh đó, sẽ giới thiệu đôi nét nội dung của tập Góc sân và khoảng trời Chương II: Góc sân và khoảng trời - Những nguồn cảm hứng dào dạt: Chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu những cảm hứng chủ đạo được thể hiện trong tập thơ từ thiên nhiên đến cuộc sống của người dân ở làng quê Trần Đăng Khoa nói riêng và của cả nước nói chung trong không khí sôi sục của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Từ đó, chúng ta sẽ cảm nhận được cái nhìn trong trẻo, tươi sáng, tấm lòng chan chứa yêu thương của Trần Đăng Khoa dành cho quê hương, đất nước, con người Việt Nam anh hùng. Chương III: Góc sân và khoảng trời - một số hình thức biểu hiện nổi bật: Chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu một số hình thức nghệ thuật nổi bật được biểu hiện trong tập thơ như: giọng điệu, ngôn ngữ và các phép tu từ… Từ đó, chúng tôi khẳng định phong cách riêng của thi sĩ nhỏ tuổi này. 6 PHẦN NỘI DUNG 55555 CHƯƠNG I: TRẦN ĐĂNG KHOA - “THẦN ĐỒNG” CỦA THI CA VIỆT NAM 1. Đôi nét về Trần Đăng Khoa và tập thơ Góc sân và khoảng trời 1.1. Về Trần Đăng Khoa Trần Đăng Khoa (bút danh cũng là tên khai sinh) sinh ngày 26/ 04/ 1958 tại thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Bố mẹ Trần Đăng Khoa thuộc rất nhiều truyện và thơ ca cổ. Anh trai và em gái của Trần Đăng Khoa đều là những người say mê văn học. Riêng Trần Đăng Khoa, khi học hết vỡ lòng (tương đương lớp 1 bây giờ) đã ham đọc sách, đã thuộc rất nhiều ca dao và thơ ca cổ. Trần Đăng Khoa có bài thơ “Con bướm vàng” được đăng báo từ năm Trần Đăng Khoa 8 tuổi. Tập thơ đầu tiên “Từ góc sân nhà em” in ở Nhà xuất bản Kim Đồng lúc Trần Đăng Khoa tròn 10 tuổi. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết bài giới thiệu Trần Đăng Khoa trên báo (ngày 6/ 6 /1973) khi tập thơ thứ hai “Góc sân và khoảng trời” được in năm 1973. Năm 1975, đang học lớp 10 (tương đương lớp 12 bây giờ), trong đợt tổng động viên khi cuộc kháng chiến chống Mĩ bước vào giai đoạn cuối, Trần Đăng Khoa tình nguyện vào quân ngũ. Khi kháng chiến chống Mĩ giành thắng lợi, đất nước hoàn toàn giải phóng, Trần Đăng Khoa về học trường Sĩ quan lục quân, rồi tiếp tục học ở trường viết văn Nguyễn Du (khóa IV). Sau đó, Trần Đăng Khoa được cử sang Cộng Hòa Liên bang Nga học tại Học viện Văn học thế giới mang tên M. Gorki. Khi trở về nước, Trần Đăng Khoa làm việc cho Tạp chí Văn nghệ quân đội. Về sau chuyển sang công tác tại Ban văn học nghệ thuật của Đài tiếng nói Việt Nam. - Các tác phẩm chính + In ở trong nước • Từ góc sân nhà em(1968) • Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1 (tuyển 1966-1969, 1970) • Khúc hát người anh hùng (trường ca, 1975) • Kể cho bé nghe (1979) • Thơ Trần Đăng Khoa, tập 2 (tuyển 1969-1975, 1983) + In ở nước ngoài: • Tiếng hát còn tiếp tục (Pháp 1971) • Góc sân và khoảng trời của tôi (Cuba, 1973) 7 • Cánh diều no gió (CHDC Đức, 1973) • Con bướm vàng (Hunggari, 1973) - Các giải thưởng: • Giải thưởng thơ Báo Thiếu niên Tiền Phong (1968, 1969, 1971) • Giải thưởng văn học của Bộ lao động - thương binh xã hội (1975) với Trường ca Khúc hát người anh hùng. • Giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ (1981 - 1982) với bài Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn. • Giải thưởng Báo Người giáo viên nhân dân (1987) • Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (đợt I năm 2001) với tập thơ Góc sân và khoảng trời. 1.2. Về tập Góc sân và khoảng trời Theo Trần Đình Sử, thế giới nghệ thuật chính là “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (tác phẩm, sáng tác của một tác giả, trào lưu) thịnh hành trong nghiên cứu văn học hiện đại) ” [16;1660]. Như vậy, thế giới nghệ thuật là sản phẩm, là kết quả của sự sáng tạo của tác giả chỉ có trong tác phẩm nghệ thuật. Góc sân và khoảng trời là một chỉnh thể nghệ thuật có cấu trúc riêng, quy luật riêng với những cảm nhận của tác giả về thiên nhiên ở nông thôn, về cuộc sống của người nông dân, các anh bộ đội, các em thiếu nhi,… Tiếp cận thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa trong Góc sân và khoảng trời là tiếp cận hệ thống nghệ thuật hoàn chỉnh gồm hai yếu tố nội dung và hình thức thống nhất với nhau. Từ sự tiếp cận đó, ta sẽ khám phá được tư duy nghệ thuật và những sáng tạo độc đáo của nhà thơ nhi đồng Trần Đăng Khoa. Tập thơ Góc sân và khoảng trời được Trần Đăng Khoa sáng tác từ năm 1966 -1973 được Nhà xuất bản Văn học phát hành vào năm 2006 gồm 142 bài, trong đó có 9 bài được viết vào năm 1974. Góc sân và khoảng trời được sáng tác trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng của cuộc kháng chiến chống Mĩ nên chứa đựng rất nhiều yếu tố của thời đại. Trần Đăng Khoa, với lòng căm thù giặc sâu sắc, đã tố cáo tội ác của giặc nhưng không phải bằng việc kể ra những sự kiện, thống kê những con số như một nhà sử học mà như một nhà thơ với những vần thơ “mạnh hơn những tiếng bom”. Cảm hứng chủ đạo trong tập thơ là tình cảm của Trần Đăng Khoa dành cho quê hương, đất nước, con người Việt Nam. Đó là tình cảm yêu thương, gắn bó, tự hào, lạc quan và tin tưởng vào ngày toàn thắng của cách mạng. Tập thơ còn thể hiện một năng lực quan sát rất nhạy bén của Trần Đăng Khoa đối với những cảnh vật, cuộc sống ở nông thôn. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Trần Đăng Khoa đã biết sử dụng nhiều cách biểu hiện khác nhau trong tập thơ để khắc họa, miêu tả thế giới với những sự vật vô cùng phong phú, đa dạng và sinh 8 động: nghệ thuật tả cảnh, ngôn ngữ chính xác, gợi cảm khiến hình ảnh quen thuộc trở nên độc đáo và giọng thơ vừa hồn nhiên, trong sáng lại vừa triết lí, sâu sắc. Tất cả những gì Trần Đăng Khoa nhắc đến trong thơ không xa lạ, cao siêu mà ngược lại, rất gần gũi, quen thuộc, thân thương. Gần gũi, quen thuộc đến mức chúng ta không để ý, không nghĩ rằng trăng, cây lúa, con trâu, con mèo, cánh cò, những đồ vật trong nhà… lại có thể viết thành thơ với những nét vô cùng độc đáo của nó. Trần Đăng Khoa, với đôi mắt trẻ thơ, với tài năng thiên bẩm cùng với sự học tập, lao động, sáng tạo nghiêm túc đã viết nên những vần thơ thật hay. Trải qua gần nửa thế kỉ mà tập thơ của một em nhỏ Trần Đăng Khoa vẫn được đánh giá là hay, là có ý, có tình. Đây là trường hợp hiếm hoi của nền văn học nước ta từ trước đến nay. Với phạm vi nghiên cứu của một khóa luận đại học, chúng tôi xin phép chỉ đi sâu vào hai vấn đề: nguồn cảm hứng dào dạt làm nên Góc sân và khoảng trời và một số hình thức biểu hiện đặc sắc làm nên Góc sân và khoảng trời. 2. Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Trần Đăng Khoa Bất kì một sự thành danh ở lĩnh vực nào cũng phải có sự đóng góp của các nhân tố khách quan bên cạnh tài năng của chủ thể. Trần Đăng Khoa, sẽ không phải là một trường hợp ngoại lệ. Vậy, những nhân tố nào đã góp phần hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa, một hiện tượng nổi bật đến mức Trần Đăng Xuyền đã ca ngợi không tiếc lời là hiện tượng “vô tiền khoáng hậu của nền văn học Việt Nam” ? [14;16]. 2.1. Dòng sữa văn học dân gian của quê hương Tuổi thơ của Trần Đăng Khoa gắn bó máu thịt với thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn - một làng quê ven bờ sông Kinh Thầy. Chính cái cảnh sắc quê hương với hương đồng gió nội, tấm chân tình, mộc mạc của những người dân ở nông thôn Bắc bộ đã tạo môi trường thuận lợi để hồn thơ Trần Đăng Khoa đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa, kết trái. Cũng như bao trẻ em khác, ngay từ khi còn trong nôi, Trần Đăng Khoa đã được nuôi dưỡng bằng những dòng sữa ngọt ngào của văn học dân gian qua những điệu chèo Lưu Bình- Dương Lễ, Quan âm Thị Kính…của bà ngoại, qua những lời kể về tích Hoàng Trừu, Tống Trân - Cúc Hoa… của mẹ. Đặc biệt hơn, mẹ của Trần Đăng Khoa có thể đọc ngược Truyện Kiều. 2.2. Truyền thống gia đình Trần Đăng Khoa xuất thân trong một gia đình có truyền thống Trần Đăng Khoa bảng và văn học. Nguyễn Hà (ông bác của Trần Đăng Khoa) kể: “Có năm, triều Cảnh Thịnh, trong Lục bộ mà mấy anh em họ Trần - các cụ tổ Trần Đăng Khoa - đã chiếm bốn, trong đó, cụ Trần Nhuận Minh Phủ là nhà thơ” [8; 217]. Từ đó đến đời cha Trần Đăng Khoa thì không thấy xuất hiện trên văn đàn. Đến đời Trần Nhuận Minh (anh ruột Trần Đăng Khoa) đã có năng khiếu làm thơ văn nhưng khá khiêm nhường, bật lên trong thời kì đổi mới mà sau này trong một cuộc trả lời phỏng vấn với báo chí, Trần Đăng Khoa đã cho đó là một sự “lột xác”. Và đến Trần Đăng Khoa thì 9 đột ngột xuất hiện một giọng thơ mới “hồn nhiên, trong trẻo đến mức khó tin” [14; 16]. Thời ấy, người ta liên tục kéo đến nhà xem cho biết mặt mũi đứa trẻ ấy ra sao, có giống như người bình thường không. Thậm chí, có một số nhà xuất bản đã cử hẳn người đến nhà Trần Đăng Khoa trong thời gian dài để kiểm chứng sự thật tài năng của cậu bé Khoa (Nguyễn Nghiệp đã theo lời Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đến nhà Trần Đăng Khoa cùng sống, cùng đi cất vó, câu cá, cùng đến trường, cùng dự các buổi sinh hoạt…và chứng kiến những vụ sát hạch của các thầy ở ty giáo dục Hải Hưng và các vị khách vãng lai). Rồi tất cả đều công nhận “thần đồng thơ Trần Đăng Khoa” là sự thật chứ không phải là tin đồn. 2.3. Ảnh hưởng từ các nhà thơ, văn bậc thầy Một điều may mắn là trong quá trình sáng tác, Trần Đăng Khoa đã được gặp và tiếp xúc với các bậc thầy văn thơ như: Tố Hữu, Huy Cận, Tô Hoài, Chế Lan Viên,… Những nhà văn, nhà thơ ấy đã dìu dắt rất tận tình để Trần Đăng Khoa vượt qua sự ấu trĩ mà phát triển tư duy nghệ thuật, nhanh chóng trưởng thành trong việc sáng tác thơ. Đặc biệt hơn, ngay từ năm 1968, sau khi gặp nhà thơ Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa mới có ý thức được sự vất vả của việc làm thơ. Đó không phải là một cuộc rong chơi nhàn nhã mà đó chính là “một công việc sáng tạo cực nhọc, nếu không muốn nói là nghề lao động khổ ải”. Trần Đăng Khoa đã hiểu đựơc rằng: Thơ cần có tính chân thực nhưng không phải là sự sao chép nguyên vẹn, thô thiển mà phải được sáng tạo một cách công phu, linh hoạt. Hầu như, các bài viết của Trần Đăng Khoa đều được nhà thơ Xuân Diệu đọc trước và đóng góp ý kiến. Trong cuộc đời sáng tác, Trần Đăng Khoa chịu ảnh hưởng sâu sắc của người thầy nghiêm khắc này. 2.4. Sự động viên, giúp đỡ của gia đình và thầy cô, bạn bè Từ khi biết đọc, biết viết, Trần Đăng Khoa đã hết sức tận dụng tủ sách của anh Trần Nhuận Minh. Anh là người rất thích làm thơ, ham đọc sách. Anh đã tạo cho mình một “thư viện nhỏ” ở trong nhà. Trong “thư viện” ấy, có rất nhiều sách như: Bỉ Vỏ (Nguyên Hồng), Giông tố, Số đỏ ( Vũ Trọng Phụng), truyện ngắn của A. Sekhov, Đỏ và đen (Stendhal),… Trần Đăng Khoa đã đọc rất nhiều khi chỉ là học sinh cấp I, II. Bấy giờ, Trần Nhuận Minh là một thầy giáo, một nhà thơ được nhiều người ngưỡng mộ ở vùng đất mỏ Hồng Gai. Trần Đăng Khoa rất khâm phục tài năng “xuất khẩu thành thơ” của anh trai mình. Để bù đắp những cái mình không được như thế, Trần Đăng Khoa đã bí mật làm rất nhiều bài thơ. Người đầu tiên được thưởng thức thơ Trần Đăng Khoa là bé Thuý Giang. Được anh Trần Đăng Khoa đọc thơ cho nghe, bé Giang rất thích và cứ đọc đi đọc lại cho bạn bè nghe. Khi mọi người biết chuyện, hỏi ra thì mới biết những câu thơ đó là của Trần Đăng Khoa. Và, một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm cho thơ Trần Đăng Khoa ngày một hay hơn chính là nhờ thầy cô, bạn bè. Những người thầy, người bạn này đã hết lòng động viên, khuyến khích và bình phẩm, sửa chữa thơ Trần Đăng Khoa. Thầy giáo Lê Thường (1) đã cho rằng chính tập thể đã phát hiện, cổ vũ và bồi dưỡng tài năng thơ Trần Đăng Khoa. (1) “Vai trò của tập thể thiếu niên xã Quốc Tuấn với năng khiếu thơ văn Trần Đăng Khoa” (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 27, tháng 9/ 1973) 10 2.5. Thời đại kháng chiến chống Mĩ Một điều không thể thiếu trong những những yếu tố làm nên những trang văn thơ có giá trị cho đời là yếu tố thời đại mà tác giả đang sống (tất nhiên, tài năng của họ là chủ yếu). Một Nguyễn Du sống trong xã hội phong kiến nhiễu nhương với những quan niệm hẹp hòi đã để lại tác phẩm bất hủ là “Truyện Kiều”. Một Hồ Chí Minh trong những ngày tháng bị giam cầm ở nhà tù Tưởng Giới Thạch chứng kiến nhiều sự bất công tàn bạo đã viết nên “Ngục trung nhật kí”,… Chúng tôi không dám sánh Trần Đăng Khoa với Nguyễn Du, Hồ Chí Minh,… mà chỉ muốn nói rằng, hồn thơ Trần Đăng Khoa được hình thành và phát triển cũng là nhờ một phần vào yếu tố thời đại. Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ đặt dân tộc ta trước những thử thách gay gắt. Đó là một thời đại mà vận mệnh của đất nước, tự do và độc lập dân tộc đứng trước nguy cơ một mất một còn. Đó là một thời đại mà đời sống mà số phận của mỗi người phải gắn chặt với cuộc chiến đấu của dân tộc như lời của Chế Lan Viên: “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt. Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ như nhau”. Đó là một thời đại mà với tính chất gay go, quyết liệt của cuộc chiến đấu chống Mĩ, dân tộc ta phải huy động và phát huy cao độ tất cả ._.sức mạnh vật chất và tinh thần, phải gắn kết tất cả lại với nhau, không phân biệt tầng lớp, lứa tuổi, giới tính, tôn giáo,… để tiến hành công cuộc vệ quốc vĩ đại, khẳng định chính nghĩa, tinh thần và sức sống bất diệt của đất nước và con người Việt Nam. Trong thời “đất nước đứng lên” như thế, hồn thơ trẻ của Trần Đăng Khoa bỗng vụt sáng như một hiện tượng lạ chưa từng có trong lịch sử văn học nước nhà. Hồn thơ đó đã nói lên tiếng nói chung của cả dân tộc, được mọi người đồng tình, ủng hộ và ngưỡng mộ. Tóm lại, nếu không có những yếu tố như trên thì hồn thơ của Trần Đăng Khoa sẽ không được hình thành và phát triển. Hoặc là, nếu có hình thành và phát triển cũng không thể gây được tiếng vang như ngày hôm nay. 11 CHƯƠNG II: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI - NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG DÀO DẠT 1. Cảm hứng từ cảnh vật thiên nhiên và hình ảnh người nông dân Cũng giống như các cây bút thiếu nhi thời kháng chiến chống Mĩ, Trần Đăng Khoa viết về nhiều đề tài mang âm hưởng thời đại: Lòng yêu mến và tự hào về đất nước anh hùng, niềm kính yêu Bác Hồ, thương mến bộ đội, căm thù giặc, chán ghét chiến tranh…Nhưng, khác với các bạn, Trần Đăng Khoa dành sự quan tâm đặc biệt cho cảnh sắc quê nhà với những bài thơ viết về góc sân, khoảng trời, cánh đồng, dòng sông,… nơi Trần Đăng Khoa sinh ra và lớn lên để rồi đóng góp thêm cho nền thơ ca Việt Nam một “nhà thơ mục đồng” (theo Nguyễn Đăng Mạnh). Có thể nói, những bài thơ viết về nông thôn đã góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật của thơ Trần Đăng Khoa ngay từ thuở nhỏ. Viết về nông thôn Bắc bộ, trước Trần Đăng Khoa đã có các nhà thơ tiền bối: Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, Nguyễn Bính - nhà thơ chân quê, Anh Thơ – người đã vẽ nên “bức tranh quê” bằng thơ, Đoàn Văn Cừ - ca sĩ của đồng quê,… Vậy mà khi đánh giá về thơ Trần Đăng Trần Đăng Khoa viết về làng quê, Nguyễn Đăng Mạnh đã đặt Trần Đăng Khoa chỉ ở sau tên Nguyễn Khuyến. Nghĩa là, thơ Trần Đăng Khoa viết về nông thôn được đánh giá cao hơn các nhà thơ còn lại? Ông cho rằng: Những nhà thơ của phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) viết về nông thôn nhưng thực ra, chỉ mới là sự vay mượn đề tài, cảm xúc chứ thực tế họ chưa nhập thân vào hiện thực đó. Nhận định này có phần chủ quan của nhà phê bình. Chúng ta có thể đồng tình hoặc không đồng tình. Mỗi người có một cảm nhận riêng khi thưởng thức văn học. Người viết nêu ra chỉ để nhấn mạnh rằng những bài thơ viết về quê hương trong Góc sân và khoảng trời rất chân thực, chan chứa, dào dạt niềm yêu thương và nghệ thuật cũng không kém phần sắc sảo, dù tác giả của các bài thơ đó còn rất ít tuổi. Cảm hứng về quê hương trong tập Góc sân và khoảng trời là cảm hứng về cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của những người dân lao động nghèo ở nông thôn. 1.1. Cảnh vật thiên nhiên Đây là mảng đề tài được Trần Đăng Khoa thể hiện nhiều nhất trong thơ mình. Là một người con được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên Trần Đăng Khoa có tấm lòng yêu thương, gắn bó sâu nặng đối với thôn Điền trì, xã Quốc Tuấn. Trước khi đi tìm những nét đẹp của thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, ta nên biết nhà thơ được mệnh danh là “thần đồng” đã bắt đầu sự nghiệp sáng tác như thế nào. Bài thơ đầu tiên của Trần Đăng Khoa là “Con bướm vàng”. Con bướm vàng hiện ra rất thật và sống động với đôi cánh chập chờn. Lúc ấy, Trần Đăng Khoa đang ngồi đun bếp. Nhìn thấy cánh bướm, Trần Đăng Khoa đã đuổi theo hệt như một thi nhân xúc động trước cái đẹp và muốn nắm bắt cho kì được khoảnh khắc tuyệt vời này. Kết quả của việc chạy theo chú bướm ấy là nồi cơm bị trương, Trần Đăng Khoa bị mẹ mắng. Trần Đăng Khoa chỉ 12 đứng im, không dám bảo là tại làm thơ. Cánh bướm vàng ấy bay là một hoạt động bình thường như các loài vật khác vận động, bắt mồi,... lại chính là tác nhân khơi dậy một hồn thơ còn đang ẩn giấu bên trong một thân hình bé con của cậu bé lớp một. Hồn thơ Trần Đăng Khoa đi lên từ bài thơ đầu tiên “Con bướm vàng” là như vậy đó. Mãi sau này, Trần Đăng Khoa mới tiết lộ ban đầu viết là “Con bướm vàng – Bay nhẹ nhàng – Trên bờ rào…” Trần Đăng Khoa thấy gì ghi nấy, hoàn toàn chưa biết thế nào là ý đồ nghệ thuật. Con bướm vàng chao trên bờ rào là thật chứ không phải là bờ cỏ. Làm gì có “bờ cỏ” ở vườn nhà. Người dân quê, nhất là những người ở miền Bắc đời sống rất khó khăn, chủ yếu là trồng trọt nên họ rất quý đất, có miếng nào là tận dụng cho bằng hết, dù chỉ miếng đất cạnh chân rào, hay ô đất bé bằng bàn tay bên vại nước, không trồng cây thì họ cũng gieo một ít rau thơm hay rau húng láng. Từ sự gắn bó, từ lòng yêu thương cảnh sắc thiên nhiên của quê nhà, Trần Đăng Khoa đã đưa vào thơ mình những hình ảnh hết sức quen thuộc của làng quê Việt Nam. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, không chỉ các em nhỏ mà tất cả chúng ta đều nhận ra sự quen thuộc ấy. Ở đâu mà chẳng có góc sân, cây trầu, khoảng trời, cánh đồng, cánh cò bay,… Ở đâu mà chẳng có chẳng có trò chơi thả diều, chọc ếch, câu cá, … Những hình ảnh đó trong cái nhìn trong trẻo, tinh khiết của trẻ thơ bỗng trở nên có hồn, có thần và đầy chất thơ. Tuy giống đấy mà lại khác đấy. Khác bởi cảm nhận của mỗi người không ai giống ai. Đối với một số người, cây bàng, cây dừa, cây lựu, vườn cải hay chiếc máy cày, cái nồi đồng, cây chổi,… chỉ là những cây, những đồ vật vô tri vô giác. Nhưng đối với Trần Đăng Khoa tất cả là bạn bè, tất cả đều có hồn, có hành động, tất cả đều ngộ nghĩnh, đáng yêu. Cảnh sắc làng quê trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại thường được miêu tả và cảm nhận trong dáng vẻ của làng quê nông nghiệp cổ truyền. Nguyễn Duy đã viết bài thơ “Hơi ấm ổ rơm” làm cho chúng ta rất xúc động bởi khi đọc lên, từ những dòng thơ tỏa ra một sự ấm nồng lạ lùng làm cho những ai đang sống ở quê hương thì càng thêm yêu mến, những ai đang xa quê thì nhớ thương da diết nơi chôn nhau cắt rốn của mình: Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta, Riêng cái ấm nồng nàn như lửa. Cái mộc mạc lên hương của lúa, Đâu dễ chia cho tất cả mọi người. Xuân Quỳnh cũng có cùng cảm xúc như thế trong Cỏ dại: Trong cuộc đời bình yên tự ngàn xưa, Gần gũi nhất vẫn là cây lúa. Trần Đăng Khoa của chúng ta chưa từng trải nghiệm trong cuộc sống nhưng đã có bài thơ mà nhiều người nằm lòng: Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy 13 Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy... (Hạt gạo làng ta) Không một chút cầu kì mà rất chân thật. Dưới sự khắc nghiệt của khí hậu, những con vật, cỏ cây như ngừng hoạt động trong khi con người vẫn phải đối mặt: Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy… Sinh ra và lớn lên ở nông thôn, gắn bó với ruộng đồng nên hơn ai hết, Trần Đăng Khoa hiểu rằng hạt gạo trong cuộc sống có một vị trí vô cùng quan trọng. Trong những năm tháng chiến tranh thì giá trị của nó càng tăng lên gấp bội. Để có được hạt gạo, người nông dân đã rất vất vả, phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Và như đã nói, trong chiến tranh thì có biết bao người nông dân đang làm đồng đã chết vì bom Mĩ. Thế nên, hạt gạo “gửi ra tiền tuyến – gửi về phương xa” lại kết tinh thêm tình cảm thiết tha, sâu nặng của hậu phương đối với tiền tuyến. Tố Hữu khi nhận định về thi ca, đã viết: “Bài thơ hay làm cho người ta không thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người”. Với bài thơ này, Trần Đăng Khoa đã làm cho chúng ta cảm nhận được tình người đó. Trần Đăng Khoa đã khiêm nhường cho rằng bài thơ của mình hay là nhờ được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Không khó khăn để tìm ra những em bé có những câu, những ý như Trần Đăng Khoa viết “hạt gạo làng ta” nhưng mãi mãi chúng ta sẽ không tìm được ai khác ngoài Trần Đăng Khoa với câu “hạt vàng làng ta”. Cánh đồng làng Điền Trì cũng được Trần Đăng Khoa nói đến. Đó là nơi sản xuất, trồng trọt của xóm làng. Đó là nơi tuổi thơ để mặc cho cánh diều thỏa sức tung bay. Ngày ngày đứng trước sân nhà nhìn thấy cánh đồng nên nó trở nên quen thuộc với tất cả những người nơi đây. Riêng Trần Đăng Khoa với giác quan tinh tế, nhạy cảm đã phát hiện: Cánh đồng làng Điền Trì Sớm nay sao mà rộng Sương tan trên mũi súng Trên sừng trâu cong veo (Cánh đồng làng Điền Trì) Trần Đăng Khoa ngạc nhiên trước sự đổi thay cánh đồng bởi sau khi gặt hái xong thì người dân bắt đầu cấy mạ cho một vụ mùa khác. Từ một cánh đồng chỉ trơ gốc rạ nay bỗng nhiên tươi màu xanh của mạ trong sương sớm chưa tan. Hình ảnh đơn sơ làm sao mà cũng đẹp làm sao. Trong con mắt yêu thương thì tất cả sự vật đều trở nên đáng yêu, cho dù sự vật đó đối với người khác là bình thường. 14 Bên cạnh góc sân, cánh đồng thì dòng sông Kinh Thầy là nơi Trần Đăng Khoa hết lòng thương mến. Chính dòng sông này đã tắm mát cho Trần Đăng Khoa. Chính dòng sông này đưa nước vào tưới mắt cho đồng ruộng, cây trái. Sông Kinh Thầy trong thơ Trần Đăng Khoa có “Hàng chuối lên xanh mướt – Phi lao reo trập trùng”. Vậy thôi, nhưng người đi xa vẫn nhớ hoài, vẫn mong có ngày được trở về đi dọc bờ sông, vùng vẫy trong dòng nước mát như thuở ấu thơ. Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa còn có cả thế giới loài vật, đồ vật. Chúng hiện ra với một dáng vẻ vô cùng sinh động, đáng yêu. Trần Đăng Khoa có thể trò chuyện thân mật với con trâu – người bạn vô cùng thân thiết của nông dân: Trâu ơi, ăn cỏ mật Hay là ăn cỏ gà Đừng ăn lúa đồng ta… Trâu ơi, uống nước nhá… Trâu cứ chén cho no Ngày mai cày thật khỏe Đừng lo đồng nứt nẻ… (Con trâu đen lông mượt) Những con vật trong thơ của một em bé đều có những nét đáng yêu: con mèo (Đánh tam cúc), con gà (Nói với con gà mái, Ò ó o…), con chó (Sao không về Vàng ơi), chim (Tiếng chim chích chòe, con chim hay hót),... Trong bài Buổi sáng nhà em, tất cả hiện lên thật sinh động trong cái nhìn và sự liên tưởng của trẻ thơ. Mèo dậy rửa mặt trong tư thế hết sức đỏm dáng “cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng”. Cái Na, cu Chuối nghịch ngợm đứng vỗ tay cười. Chị Tre “chải tóc bên ao”, nàng Mây thì “ghé vào soi gương” trong khi bà Sân đã “vấn chiếc khăn hồng đẹp thay” từ khi “Ông trời nổi lửa đằng đông”. Con người và sự vật gắn bó, giao hòa với nhau, cùng nhau bắt đầu ngày mới. Không chỉ riêng nhà Trần Đăng Khoa mà mọi nhà đều như thế, tất cả tạo nên một không khí nhộn nhịp, sôi động. Bài thơ mang đậm nét hồn nhiên, trẻ thơ đã làm cho chúng ta vừa đọc vừa nở nụ cười trên môi. Cười vì không ngờ sự liên tưởng, ví von của một em nhỏ lại hay và đúng bản chất của sự vật như thế. Cười vì đọc bài thơ này ta như sống dậy một cảm giác yêu mến cuộc sống lạ lùng. Chợt nhận ra những ngây thơ, hồn nhiên của tuổi thơ đã rơi rớt trên bước đường ta tìm kiếm công danh, địa vị. Tự nhủ lòng sáng mai sẽ dậy sớm để lắng nghe âm thanh của cuộc sống… Hình ảnh con cò từ lâu đã được thơ ca Việt Nam biểu hiện như là một dấu hiệu về làng quê nông nghiệp với những con người lam lũ, vất vả nơi đồng ruộng mà hồn hậu, trắng trong. Trong cảm nhận của Trần Đăng Khoa, con cò có lúc hư ảo như trong ca dao thần thoại: Xưa mẹ ru em Cũng tiếng võng này 15 Cánh cò trắng muốt Bay - bay - bay - bay... (Tiếng võng kêu) Nó cũng đáng thương, nhỏ bé trước cuộc đời: Trong giấc mơ em Có gặp con cò Lặn lội bờ sông (Tiếng võng kêu) Nhưng con cò ở đây có thêm những nét mới. Nó “đánh nhịp bay vào bay ra” như những “chớp trắng trên sông Kinh Thầy”. Nó không còn đơn côi một mình trong đêm tối mà trong bầy đàn, trong số đông và xuất hiện vào ban ngày, trong nắng đẹp của trời quê yên ả. Và nếu trước kia tác giả dân gian thấy “con cò đi đón cơn mưa” trong “tối tăm mù mịt” với vẻ cam chịu, thụ động, mệt mỏi, chẳng biết “ai đưa cò về” thì đối với Trần Đăng Khoa: Con cò Trắng muốt Bay ra đón cơn mưa... Mừng đón cơn mưa (Con cò trắng muốt) Với một thái độ chủ động, tự tin, những con cò này trở thành tượng trưng cho tư thế cứng cỏi, dũng cảm, cho tâm hồn trong trắng, thanh cao và ngay thẳng của con người, làng quê Việt Nam đang vượt lên trên những thử thách khắc nghiệt. Nó góp phần làm cho thiên nhiên ở làng quê Việt Nam tự ngàn xưa đã đẹp, hữu tình nay càng thêm đẹp, thêm hữu tình hơn. Đối với người lớn, thiên nhiên được miêu tả và cảm nhận chủ yếu bằng kinh nghiệm, bằng lí trí và đôi lúc là cảm nhận bằng tâm trạng, nỗi niềm riêng của mình. Còn trẻ con thì không thế. Đối với chúng, thiên nhiên chứa đựng những điều kì diệu, bí ẩn, thú vị và chúng rất muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Chính thiên nhiên với tất cả sự phong phú, đa dạng của những sự vật đã giúp cho trẻ em nhận thức, hình thành tư duy và từ đó phát triển trí tưởng tượng, làm giàu tâm hồn của các em. Các em sáng tác một cách ngẫu hứng, không chủ ý, không theo một đề tài nhất định. Hãy đọc một số bài thơ của các em nhỏ, ta sẽ nhận ra một điều trùng hợp ngẫu nhiên là các em miêu tả rất nhiều về thiên nhiên. Bên cạnh việc miêu tả, các em cảm nhận được sự thay đổi của cảnh vật, thời tiết cho dù sự thay đổi đó rất nhỏ mà đôi khi chúng ta không để ý đến. Ánh trăng được Trần Đăng Khoa nhắc đến rất nhiều trong thơ mình (hơn 10 lần). Trẻ em ở nông thôn ngày ấy rất thích chơi trước sân nhà vào những ngày trăng sáng. Các trò chơi mang đậm tính dân gian: xỉa cá mè, mèo đuổi chuột,… Với Trần Đăng Khoa, 16 trăng không chỉ là một người bạn thân thiết cùng em chơi, chia sẻ bao điều suy nghĩ mà còn là một người bạn thơ. Vẻ đẹp của trăng làm cho mọi vật như lặng đi: Hàng cây cau lặng đứng Hàng cây chuối đứng im Con chim quên không kêu Con sâu quên không kêu Chỉ có trăng sáng tỏ Soi rõ sân nhà em… (Trăng sáng sân nhà em) Thực ra, chính Trần Đăng Khoa người đứng lặng trước ánh sáng huyền diệu ấy. Trong tư thế đó, Trần Đăng Khoa cảm giác như tất cả mọi vật xung quanh cũng đều như thế. Ánh trăng mênh mông, bát ngát như rải thảm xuống nhân gian làm rung động một tâm hồn bé nhỏ. Không chỉ có một lần mà còn nhiều lần khác nữa: Tiếng đàn bầu và đêm trăng, Trông trăng, Trăng ơi… từ đâu đến... Trăng gợi cho Trần Đăng Khoa biết bao liên tưởng, so sánh, mỗi liên tưởng, so sánh là một điều bất ngờ, thú vị, ngộ nghĩnh mà lại rất hợp với trẻ con: Trăng như cái mâm con Ai treo ông cao thế Ông nhìn đàn em bé Muốn khoe cái mặt tròn (Trông trăng) Trăng hồng như quả chín Lửng lơ trước sân nhà… Trăng tròn như mắt cá Không bao giờ chớp mi Trăng bay như quả bóng Bạn nào đá lên trời… (Trăng ơi… từ đâu đến) Đó là những lúc trăng tròn. Còn khi trăng khuyết thì: Ông trăng cười những lợi Răng chẳng chiếc nào còn (Trăng đầu tháng) Không chỉ có trăng mà tất cả cảnh vật ở làng quê ấy đều gợi cho chúng ta một cảm giác thanh thản, bình yên khi đọc lên những vần thơ được viết từ tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, sâu sắc của Trần Đăng Khoa. Nhà thơ nhỏ này không chỉ quan sát mà còn hòa lòng mình với thiên nhiên nên lắng nghe được mọi âm thanh, phát hiện được sự vận động của sự vật như trong bài Chớm thu: Nửa đêm nghe ếch học bài 17 Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây Nghe trời trở gió heo may Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau. Dường như thời khắc nửa đêm gây cho người ta niềm xúc động mạnh mẽ. Lúc này con người sẽ được trở về sống với chính mình chứ không phải cho kẻ khác. Và, chỉ những người nào có những nỗi niềm, trăn trở mới phải thức đến lúc này. Chú bé Trần Đăng Khoa, có lẽ, chỉ giật mình thức giấc nhưng trong cái se lạnh của gió heo may cùng tiếng mưa khẽ rơi và hương thơm thoang thoảng của hoa cau đã không tài nào ngủ tiếp được. Cảnh vật thiên nhiên đã không vận động, biến đổi một mình mà còn có một con người bé nhỏ đang lặng theo dõi. Nằm trong nhà mà nghe được nhiều sự vật như thế, hẳn không chỉ Trần Đăng Khoa có thính giác tinh nhạy mà chính là nhờ vào vốn hiểu biết của mình. Kiểu mưa nhẹ nhàng điểm xuyết thêm cái rét mướt của gió heo may báo hiệu một mùa Đông sắp đến chỉ có ở đồng bằng Bắc bộ mà thôi. Một bài thơ ngắn nhưng nắm bắt được khoảnh khắc tuyệt vời của đất trời. Em nhỏ sống ở miền Nam không thể viết được những câu thơ như thế. Trần Đăng Khoa còn nghe được rất nhiều âm thanh mà không phải ai cũng nghe được nếu như không có sự tinh nhạy của giác quan, đặc biệt là tâm hồn yêu thiên nhiên sâu đậm: Tiếng sương đọng mật Đọng mật trên cành tre Nghe ri rỉ tiếng sâu Nó đang thở cuối tường Nghe rì rầm rặng chuối Há miệng đòi uống sương (Nửa đêm tỉnh giấc) Đọc những câu như thế, chúng tôi không thể không xuýt xoa bởi phát hiện tinh vi của Trần Đăng Khoa và tự nhủ: Thì ra giọt sương, rặng chuối, sâu cũng có âm thanh nữa đấy. Nhưng chắc gì chúng ta nghe được nếu không có một tâm hồn như Trần Đăng Khoa. Cái tài, cái tình của Trần Đăng Khoa còn thể hiện ở việc cảm nhận được một âm thanh mà mình không thể gọi tên, và không biết có thực hay không: Một tiếng gì không rõ Xôn xao cả đất trời… Sẽ không quá lời khi Dương Thu Hương đã mượn lời của Pautôpxki nhận xét về Anđecxen để nói tâm hồn nhạy cảm của Trần Đăng Khoa: “ Có tài nhìn thấy trong đêm tối tiếng quang xa của tường vi giống ánh lấp lánh của đêm trăng, (…) có tai nghe thấy tiếng càu nhàu của một gốc cây bị dẫn lưu cữu trong rừng” [11;110]. Nếu như ở bài Chớm thu và Nửa đêm tỉnh giấc, tác giả đã gợi cho chúng ta một không gian, thời gian thật thơ mộng, bình yên của làng quê thì ở bài Ò ó o… là một cảnh 18 ồn ào, náo nhiệt của làng quê vào buổi sớm: Tiếng gà – Giục quả na – Mở mắt – Tròn xoe - Giục hàng tre – Đâm măng – nhọn hoắt – Giục buồng chuối – Thơm lừng – Trứng cuốc – Giục hạt đậu – Nảy mầm – Giục bông lúa – Uốn câu – Giục con trâu – Ra đồng – Giục đàn sao – Trên trời – Chạy trốn,… Tất cả như hối hả, như bừng tỉnh sau một giấc ngủ. “Tiếng gà đánh tan âm khí nặng nề, ở hoàn cảnh nước ta đang có giặc Mĩ xâm lược…” (Một em nhỏ làm thơ – Xuân Diệu). Tiếng gà như một hiệu lệnh báo hiệu cho một ngày mới bắt đầu, sự vật thì sinh sôi, nảy nở, chuyển đổi liên tục còn con người thì lao động sản xuất phục vụ cho công cuộc vệ quốc vĩ đại. Nhịp điệu bài thơ thật sôi nổi, rộn ràng như chính cuộc sống của những năm tháng chống Mĩ “tất cả tất cả cho tiền tuyến”. Người đọc thích và khen ngợi thơ Trần Đăng Khoa không chỉ ở cách miêu tả thật hay, chân thật mà còn ở chỗ các sự vật đều có hồn, đều biến chuyển, vận động như con người. Trẻ em thường lầm tưởng những điều chúng trông thấy thực sự và những điều chúng tưởng tượng từ thực tế ấy. Bởi thế, thơ của chúng miêu tả về sự vật vừa quen mà cũng vừa lạ lùng, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Những chuyển đổi âm thầm của vạn vật được Trần Đăng Khoa cảm nhận một cách tinh tế: trời trở gió heo may, sắp mưa, tiếng gió trở mình trăn trở trong đêm thu, nhịp thở của cái ngõ nhỏ, tiếng sâu, tiếng hạt sương đọng mật, “tiếng cây lách cách đâm chồi” và tuyệt vời hơn nữa là tiếng rơi của chiếc lá đa “tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Câu thơ này đã được mọi người hết lời khen ngợi. Nghiêng gợi tả hình dáng nhiều hơn nên khi mới đọc ta cứ nghĩ rằng người viết đã trông thấy chứ không phải nghe thấy. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, ta như được sống với những hình ảnh dung dị nhất về một miền quê yên bình, ấm áp tình người. Tất cả những sự vật, sự việc, con người dưới con mắt trẻ thơ thông minh, đầy sáng tạo đã đi vào thơ đong đầy kỉ niệm. Một phút đứng ở bờ ao nhìn hoa khế rụng, nghe tiếng chim hót, một lần sang nhà bạn thấy chú bù nhìn, một mầm hoa dại ven đường,… cũng gợi cho Trần Đăng Khoa niềm thương mến thiết tha. Tất cả hồn quê được Trần Đăng Khoa lưu giữ bằng thơ để những ai mỗi khi nhớ quê hương đọc lên cảm thấy mình đã tìm được một đồng hương, một tri âm. Viết về thiên nhiên thành công như thế, phải thừa nhận rằng bên cạnh tâm hồn, tài năng của mình Trần Đăng Khoa còn học tập rất nhiều từ văn học dân gian và các nhà văn, nhà thơ bậc thầy. Những học tập đó được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Trong bài Đám ma bác Giun ta thấy thấp thoáng hình bóng ca dao: Con cò mắc dò mà chết Mẹ con bìm bịp đổ thóc nếp ra xay Cà cuống uống rượu la đà Con cóc, con ngóe nhảy ra chia phần Từ nhà văn Tô Hoài, Trần Đăng Khoa đã học để viết “Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu” (Gửi bạn Chi-lê) dựa vào “Dế mèn phiêu lưu kí” và “Hạt mẩy uốn cong – Chim ngói bay theo đàn” dựa vào đoạn văn “Tháng năm chim gáy đi ăn đôi, tháng mười chim gáy về 19 theo đàn”. Từ nhà văn Anđecxen, Trần Đăng Khoa viết “Chim co chân ngủ - Lim dim cành tre” dựa vào hình ảnh con cò “đứng một chân vững ra phết”, “Cô gió chăn mây trên đồng” dựa vào hình ảnh của cô bé chăn cừu trong truyện. Từ nữ sĩ Anh Thơ, Trần Đăng Khoa viết “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp – Đội cả trời mưa” dựa vào bài Chiều xuân: “Ngoài đường lội, một vài người về chợ - trĩu gánh hàng như trĩu cả quang mưa”. 1.2. Hình ảnh người nông dân Bên cạnh thiên nhiên thì con người cũng được Trần Đăng Khoa miêu tả chân thực, sinh động. Chủ yếu là những người nông dân với đời sống nhọc nhằn, vất vả mà tâm hồn trong trắng, mộc mạc và giàu nghĩa tình. Người nông dân mà Trần Đăng Khoa gần gũi và yêu thương nhất chính là bố mẹ của mình. Là con nhà nông, Trần Đăng Khoa am hiểu tường tận công việc bố mẹ làm hàng ngày. Những vần thơ em viết về bố mẹ cũng chính là viết về người nông dân nói chung ở quê hương mình. Hạt gạo làng ta như một khúc hát yêu thương, ca ngợi những người nông dân. Ai cũng biết rằng để có được hạt gạo thì người nông dân phải làm lụng rất vất vả: “ Giọt mồ hôi sa – Những trưa tháng sáu –Nước như ai nấu – Chết cả cá cờ - Cua ngoi lên bờ - Mẹ em xuống cấy…”. Ta thấy có sự đối lập giữa hai hình ảnh Cua ngoi lên bờ và Mẹ em xuống cấy. Từng nhánh mạ tươi non, thẳng đều tăm tắp đều có giọt mồ hôi của mẹ nhỏ xuống. Người viết sống ở miền Nam, quanh năm đối mặt với cái nóng cứ ngỡ rằng miền Bắc cũng chẳng hơn gì. Nhưng khi đọc bài Ao nhà mùa hạn mới biết mình đã sai: Mùa mưa mà mưa chẳng đến Đáy sâu nẻ toác khi nào Rêu nằm mơ những sấm sét Rồi khô trên cọc cầu ao… Cái nắng như muốn hủy diệt tất cả. Rêu là loại thực vật dễ sống, chỉ cần không khi hơi ẩm cũng đủ để chúng tồn tại. Thế nhưng thời tiết khắc nghiệt, mưa chỉ còn là niềm mơ ước. Và chúng đã chết khô. Trong khi đó con người, nhất là người nông dân vẫn phải ra đồng lao động. Người đọc như được Trần Đăng Khoa truyền sang nỗi thấm thía, xúc động mạnh mẽ xen lẫn cảm thông, biết ơn những con người ngày đêm lao động, cống hiến thầm lặng cho cuộc sống này. Những câu thơ “chạm vào bản chất của nông dân quê hương” [14; 19]. Giọt mồ hôi gợi cho ta liên tưởng đến câu ca dao: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Nếu như mẹ em đứng cấy bất chấp cả cái nắng gay gắt, dữ đội của mùa hè Bắc bộ thì bố em là người hùng trong cơn mưa: “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp – Đội cả trời mưa…”. Bức chân dung của người nông dân không bị mưa gió làm nhạt nhòa mà ngời sáng như một tâm điểm của đất trời. Nắng mưa hay thậm chí là những thiên tai nào khác là điều mà người nông dân phải chống chọi, phải vượt qua. Sức mạnh của họ không phải là 20 sức mạnh thần thánh mà chính là sức mạnh đã trải qua những năm tháng lao động vất vả cùng với niềm tin bất diệt: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta sẽ chiến thắng, đất nước ta sẽ thống nhất hoàn toàn. Niềm tin đó là động lực thúc đẩy họ lao động và chiến đấu trong lạc quan. Trên cánh đồng lúc nào cũng có tiếng nói, tiếng cười: Nơi này mấy bác cày Đâu nghiêng nghiêng chiếc nón… Nơi kia là mấy chị Thì thòm tát gầu dai… Nơi ấy mấy cô cấy Ngửa tay phí mặt trời Mạ bén hàng thẳng đứng Hồn nhiên trong tiếng cười (Cánh đồng làng Điền Trì) Đời sống tinh thần của người nông dân rất đơn giản, bình dị. Niềm vui của họ là niềm vui được lao động, được cống hiến, được gặt hái những bông lúa vàng tươi sau một vụ mùa: Chị chủ nhiệm rũ rơm Anh dân quân đập lúa Thóc nở bung như sao Nhuộm vàng cả trời sao. (Thôn xóm vào mùa) Trần Đăng Khoa viết nhiều về người nông dân không chỉ trên đồng ruộng mà còn trên sông nước, trong các công việc kiến thiết nước nhà. Đó là bác chài ngồi “buông câu trong bóng chiều” (Bên sông Kinh Thầy). Đó là các chị đi sửa đường hò vang theo từng vòng bánh xe lăn trên đường (Chiếc ngõ nhỏ). Đó là các chị thanh niên xung phong (Đi tàu hỏa). Đó là bác kéo xe chở vật liệu về xây dựng trường học (Lọc cà lọc cọc)… Người nông dân trong thơ Trần Đăng Khoa là con người mới, tuy vất vả, khó nhọc nhưng năng động và yêu đời, say mê nghệ thuật khác hẳn người nông dân lầm lũi trong ca dao xưa. Miền Bắc là cái nôi văn hóa nghệ thuật, người dân xem sân khấu và âm nhạc là hơi thở, là lẽ sống của mình. Thế nhưng kẻ thù đến, mang theo bom đạn ngày đêm gào thét. Tiếng đàn, tiếng hát, những tuồng chèo,… bỗng trở nên quý báu, là niềm khao khát của con người Việt Nam. Những khi đoàn văn công đến làng thì vui như hội. Tất cả bà con đều tập trung quanh các anh văn công Quân giải phóng để lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát: Chị dân quân lái máy cày Ngón chân cái vết bùn non còn lấm Cụ già mấy lần tiễn cháu con ra trận Đông nhất là trẻ em lên chín, lên mười Trong tiếng đàn bầu 21 Tất cả bỗng thành thi sĩ (Tiếng đàn bầu và đêm trăng) Cũng có khi làng tự tổ chức đêm văn nghệ. Thế là những nông dân lam lũ hàng ngày bỗng trở thành diễn viên. Họ đã sống hết mình với vai diễn: Kìa cô Thị Mầu lên chùa Đỏng đảnh dáng đi, mắt liếc Ngắm cái tay cô phẩy quạt Tưởng mình sống đã trăm năm (Cô Thị Mầu) Những người xem cũng chỉ biết có cô Thị Mầu đỏng đảnh: Người xem thoáng như quên chị Chiều nay gánh lúa trên đồng Tảo tần nuôi em, nuôi mẹ Mười năm ròng rã chờ chồng… Cả cuộc đời gắn bó với ruộng đồng, với lũy tre làng, cây đa, bến nước… nhưng khi đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng lên đường chiến đấu, không một chút đắn đo, do dự. Hình ảnh chú dế mèn điềm nhiên vuốt râu (trong Gửi bạn Chi-lê) là tư thế của người nông dân ung dung, sẵn sàng ra chiến trường chiến đấu bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau cho quê hương, đất nước mình. Để rồi có người ngã xuống ở vùng đất xa xôi nào đó của Tổ quốc, có người trở về với thân thể không còn nguyên vẹn, lại tiếp tục làm bạn với cái cuốc, cái cày, con trâu, tiếp tục lao động, tiếp tục cống hiến. Ở thời kì sau (1975 đến nay), thơ của các em thiếu nhi vẫn viết về thiên nhiên, về con người, nhất là những người thân xung quanh mình nhưng không có được cái không khí khẩn trương, sôi nổi như Trần Đăng Khoa và các bạn của mình đã viết trong thời đại kháng chiến chống Mĩ. Tình cảm của con người và cảnh vật nơi đồng ruộng được Trần Đăng Khoa thẩm thấu và đưa vào bài Khi mùa thu sang. Cảnh vật không lạ nhưng ăm ắp tình làm cho Trần Đăng Khoa muốn kêu to lên “Thu sang rồi đấy! Thu sang!”. Chúng tôi nghĩ, thơ hay không chỉ ở các con chữ đọc lên nghe mượt mà, êm dịu mà cốt ở cái tình của tác giả đối với đối tượng được thể hiện. Nếu tác giả không xúc động, không có cái tâm mà chỉ muốn phô diễn sự lạ thì làm sao có thể thổi hồn vào các con chữ được? Chúng tôi rất tán đồng ý kiến cho rằng Trần Đăng Khoa đã sáng tác “không chỉ bằng tâm hồn của một cậu bé lớn lên cùng những trò chăn trâu, thả diều, bắt cá mà thực sự còn bằng máu thịt của người nông dân” [5; 153]. Ai đã hòa nhịp thở của mình với từng thay đổi rất nhỏ của của vạn vật mới có thể cảm nhận được: “Mùi bùn đang ngấu – Mùi phân đang hoai – Vôi chưa tan hẳn - Còn hăng rãnh cày…” để rồi say sưa, ngây ngất: “Trời đất đêm nay – Như chim mới hót – Như rượu mới cất – Như mật mới đong… Thịt da ta cũng – Tỏa hơi ruộng đồng…” (Hương đồng). Thiên nhiên và con người hòa làm một: Đất trời cách một gang mây 22 Và tôi cùng với luống cày tỏa hương… (Đồng chiều) 2. Cảm hứng từ những người thân yêu Khi bàn về thơ thiếu nhi, giáo sư Vân Thanh cho rằng: “Tình cảm gia đình trong thơ các em viết chưa nhiều. Thực ra lỗi không phải ở các em. Các em làm thơ vì một nhu cầu tự nhiên của tâm hồn, những gì các em không sống, không biết hay chưa thể nghiệm sâu thì các em chưa nói đến” [17b; 50]. Đối với Trần Đăng Khoa thì khác. Bên cạnh thiên nhiên, cuộc sống lao động ở nông thôn và những tình cảm đối với Bác Hồ, bộ đội thì Trần Đăng Khoa viết khá nhiều về người thân của mình. Những người gắn bó với Trần Đăng Khoa nhất thì phải nói đến: Bà, bố mẹ, anh Minh, bé Giang và cháu bé Minh Hà (gọi Trần Đăng Khoa bằng chú). Tất cả những người này đã góp phần hình thành và nuôi dưỡng hồn thơ Trần Đăng Khoa. Trong cả tập thơ chỉ có một bài Mưa là Trần Đăng Khoa viết về bố. Điều này không có nghĩa là Trần Đăng Khoa không yêu bố mà là một hiện tượng tâm lí bình thường. Người bố cho dù có thương con mức nào cũng ít thể hiện, vẻ ngoài thường lạnh lùng, nghiêm khắc. Thế nên, trong ca dao dân ca hay trong văn học viết cũng ít đề cập đến bố. Trong khi đó, mẹ là cảm hứng vô tận của thơ, nhạc, họa…Trong các loại hình nghệ thuật đó, mẹ được ví với cái cao cả, lớn lao như sông dài, như biển rộng, như núi cao,… Trần Đăng Khoa viết về mẹ không như những người lớn đã viết. Bằng tấm lòng yêu thương tha thiết, Trần Đăng Khoa nhận thức được những vất vả, gian lao mà mẹ phải trải qua từ khi cưu mang con cho đến khi con trưởng thành. Mẹ của Trần Đăng Khoa là hình ảnh của những bà mẹ trong các cuộc kháng chiến. Hạt gạo làng ta làm bao người xúc động về tính chân thật, sức gợi cảm của từ ngữ qua hình ảnh người mẹ phải đối mặt với cái nắng hè như đổ lửa trên lưng, phải ngâm chân trong “nước như ai nấu” để cấy mạ, để làm ra hạt gạo làng ta. Trần Đăng Khoa còn nhận thức được những vất vả của mẹ: Áo mẹ mưa bạc màu Đầu mẹ nắng cháy tóc Mẹ ngày đêm khó nhọc Đó là nguyên nhân sâu xa làm cho “mẹ ốm”: Nắng mưa từ những ngày xưa Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan Hiểu được điều đó nên Trần Đăng Khoa luôn chăm chỉ làm các công việc nhà để bố mẹ đỡ mệt nhọc. Thực tế thì Trần Đăng Khoa đã làm rất nhiều việc: luộc khoai, thổi cơm, nhổ cỏ vườn, quét sân (Khia mẹ vắng nhà), ru em ngủ (Tiếng võng kêu),… Những việc làm tuy nhỏ nhưng đã thể hiện lòng yêu thương của một đứa con hiếu thảo. Hơn thế,._.hoa. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, ta thấy rất nhiều câu thơ mang màu sắc triết lí tạo cho câu thơ thêm chiều sâu lẫn chiều rộng mà nhà thơ Xuân Diệu đã gọi là “bút pháp người lớn”. Nhìn Bàn chân thầy giáo, Trần Đăng Khoa đã thốt lên những lời thơ đầy suy tư, triết luận: Ôi, bàn chân In lên cổng trường những chiều giá buốt In lên cổng trường những đêm mưa dầm Dấu nạng hai bên như hai hành lỗ đáo Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo Như nhận ra cái chưa hoàn hảo Của cuộc đời mình Bài thơ này Trần Đăng Khoa làm vào năm 1972, nghĩa là em chỉ mới 14 tuổi. Vậy mà câu thơ lại già dặn như thế. Từ xưa, ông bà ta đã đúc kết được một điều “nhân vô thập toàn” - câu nói ấy là chân lí của mọi thời đại. Phàm là con người thì không ai được trọn vẹn tất cả. Thầy giáo đã gửi lại một phần cơ thể ở vùng đất đầy máu lửa của Tổ quốc. Với những gì còn lại của cơ thể và một tấm lòng trọn vẹn với phấn trắng, bảng đen, với đàn trò nhỏ ngây thơ, thầy đã tiếp tục những tháng ngày cống hiến cho đất nước. Khi xưa và hiện tại, thầy đều cống hiến tất cả cho cuộc đời, cho đất nước. Trần Đăng Khoa đã nhận ra những cống hiến đó và cả sự nỗ lực phi thường ẩn trong con người đáng kính đó. Từ nhìn nhận này mà sau đó ba năm (năm 1975), Trần Đăng Khoa đã tình nguyện vào bộ đội để chiến đấu, để xứng đáng hơn với thầy, với các cha anh của mình. Có thể lắm chứ! Khi chúng ta nhận thức sâu sắc một người nào đó có những nghĩa cử cao đẹp, bất chợt chúng ta sẽ nhìn lại mình xem có được như người ấy chưa. Nếu chưa, chúng ta luôn muốn được như vậy. Trần Đăng Khoa cũng như thế. Trần Đăng Khoa đã từng lăn lộn nhiều năm ở chiến trường Campuchia và ở quần đảo Trường Sa đầy nắng, gió và sóng biển. Bài thơ Sao không về Vàng ơi người đọc cảm động sâu sắc trước nỗi buồn, nỗi đau của một em bé bị mất đi một con vật mà em yêu thương. Trẻ em rất yêu các vật nuôi trong nhà. Trong mắt các em, những con Vàng không là con vật mà là một người bạn thân thiết. Đâu chỉ có thế, chúng ta còn nhận ra một điều: từ nỗi hoảng sợ của một con chó đã tố cáo và khinh bỉ chiến tranh. Thì ra, tiếng bom rùng dữ dội là thế mà chỉ làm cho một con chó 54 hoảng sợ. Tiếng bom ấy chỉ có tác dụng đe dọa được con vật, còn người thì không. Loài vật hoảng sợ vì chúng không có sức mạnh tinh thần. Ẩn bên trong con người trên mảnh đất diều kì Việt Nam từ bao đời nay luôn sục sôi tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Thơ Trần Đăng Khoa viết hồn nhiên, trong sáng, đó là đặc điểm của thơ thiếu nhi. Hồn nhiên nhưng khá suy tư và đôi khi chạm vào nỗi đau nhân thế. Các bài: Cháu làm bà còng, Con cò trắng muốt, ao nhà mùa hạn, Bến đò, Cơn dông,… thể hiện sâu sắc điều đó. Trần Đăng Khoa miêu tả những điều trông thấy nhưng Trần Đăng Khoa không phải trông thấy cái xác mà thấy cả cái hồn. Mọi người đồng cảm với Trần Đăng Khoa một điều: Ai cũng chỉ có một lần Cái thuở thơ ngây… (Bến đò) Ta nghe như giọng nói của một nhà hiền triết. Chẳng biết khi viết câu thơ này Trần Đăng Khoa có biết đến câu nói nổi tiếng của Hecralit “Không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông” hay chưa. Những câu như thế quả là rất già so với tuổi 14 của tác giả. Hình ảnh quả bòng trong cơn dông rụng xuống ao nhưng lại “chẳng chịu chìm” gợi cho Trần Đăng Khoa tư thế hiên ngang, bất khuất của một con người. Trong bài Ghi chép về ngọn đèn dầu, Trần Đăng Khoa đã dùng chất liệu đơn sơ và với bốn câu ngắn gọn đã nêu được suy nghĩ, cảm xúc của mình: Đứng giữa nhà mà cháy Mà tỏa sáng xung quanh Chỉ thương cây đèn ấy Không sáng nổi chân mình… Trần Đăng Khoa chỉ nói một điều giản đơn rằng cây đèn có thể tỏa sáng cho mọi vật xung quanh nhưng nó không soi sáng cho bản thân mình được. Dưới chân nó luôn là bóng tối. Bài thơ có tựa đề là ghi chép chứ không phải là sáng tác nhưng chất thơ, chất triết luận đã xuất hiện. Hai câu thơ cuối làm chúng tôi suy nghĩ thật nhiều. Cây đèn dầu gợi sự liên tưởng đến những con người trong cuộc sống. Cả cuộc đời họ chỉ biết sống, cống hiến và hi sinh chứ chưa hề, không hề nhận hay mong được nhận một sự đền đáp nào. Nhưng đến lượt họ thực sự cần một sự giúp đỡ từ người khác thì đâu phải lúc nào cũng được. Thế nên, cuộc sống cần rất nhiều những cây đèn dầu sẵn sàng tỏa sáng cho nhau. Mỗi người chúng ta hãy là một cây đèn dầu thì cuộc đời sẽ sáng bởi nghĩa tình của chúng ta dành cho nhau: Có gì đẹp trên đời hơn thế Người yêu người sống để yêu nhau. (Tố Hữu) 2. Trí tưởng tượng, liên tưởng phong phú Người ta nói rằng tâm hồn của con người thuở hồng hoang với tâm hồn của một đứa trẻ con có một sự gắn bó rất đặc biệt mà chúng ta khó có thể giải thích được. Đó là sự đồng điệu về cách nhìn và cách cảm thế giới. Người xưa không thể giải thích được các hiện 55 tượng tự nhiên xã hội nên họ lí giải bằng trí tưởng tượng nhiều màu sắc thần thánh. Trẻ con cũng thế, khi chúng bắt đầu biết quan sát sự vật vật xung quanh thì mọi cái trong mắt chúng đều là lí thú và bí ẩn. Một trong những yếu tố làm cho thơ Trần Đăng Khoa có những nét không thể lẫn lộn với thơ của các em thiếu nhi khác là trí tưởng tượng rất phong phú, mạnh mẽ, rất riêng của mình. Những liên tưởng của Trần Đăng Khoa thật lạ lẫm, gây cho người đọc cảm giác bất ngờ, thú vị. Nhìn một tượng đá trong ngôi đền Bãi Cháy, em chợt nhận ra một điều: Và em bỗng hiểu ngôi đền Hiểu ai tạc tượng người hiền cầm gươm (Ngôi đền Bãi Cháy) Thì ra, Trần Đăng Khoa liên tưởng đến hình ảnh chú bộ đội. Gương mặt hiền lành gợi cho em biết bao tình cảm tốt đẹp. Gương mặt đó có những nét gì quen thuộc, dễ thương dễ mến lạ lùng. Bộ đội ta khi chiến đấu với kẻ thù thì dũng cảm, hiên ngang nhưng khi trở về cuộc sống đời thường, bên cạnh người thân quen thì rất hiền lành, chất phác. Việc cầm vũ khí là một việc không hề mong muốn. Nhân dân Việt Nam không nuôi mộng bá vương, không khát máu mà chỉ mong muốn cuộc sống hòa bình, tự do. Sự liên tưởng phong phú ở nhiều bài thơ mang chất lãng mạn: Vườn xanh biêng biếc tiếng chim Dơi chiều khua chạng vạng Ai dắt ông trăng vàng Thả chơi trong lùm nhãn (Hương nhãn) Người đọc có thể nghĩ sao cũng được. Màu xanh có thể là của lá cây trong vườn, cũng có thể tiếng chim làm cho khu vườn thêm sức sống, thêm xanh hơn. Cánh dơi bay trên bầu trời đang sẫm tối như khua tất cả ánh sáng cất vào một nơi, cả ông trăng cũng đang thập thò trong lùm nhãn. Một đêm có trăng nhưng không sáng vằng vặc như đêm mười sáu cũng có nét huyền diệu trong con mắt của Trần Đăng Khoa. Ngay cả ánh trăng đã trở nên thân thiết với mình, Trần Đăng Khoa cũng liên tưởng đến nhiều hình ảnh khác nhau. Trăng có khi giống như một quả chín tròn mộng: Trăng hồng như quả chín Lửng lơ lên trước nhà… Có khi lại giống như: Trăng tròn như mắt cá Chẳng bao giờ chớp mi Lúc thì lại giống như quả bóng mà Trần Đăng Khoa và các bạn thường chơi: Trăng bay như quả bóng Bạn nào đá lên trời… (Trăng ơi… từ đâu đến…) 56 Trần Đăng Khoa có sự liên tưởng rất lạ. Khi nhắc đến con cò, mọi người hay nghĩ đến người mẹ chịu thương chịu khó hay người nông dân lam lũ. Chỉ riêng Trần Đăng Khoa nói về ý nghĩa hình ảnh con cò trong Con cò trắng muốt: “Khi mưa đến, lúa, Trần Đăng Khoai cau đều hả hê hứng giọt mưa rơi, ếch nhái mở hội, cá múa tung tăng thì con cò lại đứng trên cành cây ướt lông, chịu rét. Cháu nghĩ tới những anh bộ đội đã hi sinh”. Việc gì đối với em Trần Đăng Khoa cũng mới mẻ bởi sự liên tưởng ngộ nghĩnh, vô tận của mình. Nhìn cánh diều bay liệng trên bầu trời lộng gió, Trần Đăng Khoa nghĩ đến nhiều hình ảnh khác nhau: Sao trời trôi qua Diều thành trăng vàng… Diều hay chiếc thuyền Trôi trên sông Ngân… Diều là hạt cau Phơi trên nong trời… Diều em - lưỡi liềm Ai bỏ quên lại… (Thả diều) Trong thơ ca, cơn mưa thường phảng phất nét buồn buồn. Thế nhưng, cảnh mưa trong thơ Trần Đăng Khoa lại khác hẳn. Cơn mưa làm cho cây lá thêm xanh tốt, đất trời như tăng thêm sức sống. Mọi vật hối hả trong cơn mưa làm cho Trần Đăng Khoa nghĩ đến trò chơi đánh trận giả với đầy đủ hình ảnh của người dũng sĩ nơi trận mạc, các binh lính,…: “Ông Trời - Mặc áo giáp đen - Ra trận - Kiến - Hành quân - Đầy đường…”. Đọc Cơn dông, người ta cứ cảm thấy thú vị khi thấy Trần Đăng Khoa cũng biết chơi chữ nữa: Quả bòng chết chẳng chịu chìm Ao con mà sóng nổi lên bạc đầu Chơi chữ nhưng và có vẻ triết lí. “Ao con” là chiếc ao nhỏ thì phải vui đùa hồn nhiên với những đợt sóng lăn tăn. Chỉ có biển lớn, sông sâu mới có những con sóng “bạc đầu”. Hình ảnh trong cơn dông trái với lôgic thông thường, Trần Đăng Khoa đã tinh ý nhận ra điều đó. Thật ra, cái gọi là tinh ý của Trần Đăng Khoa chúng ta cũng đã đôi lần bắt gặp, nhưng có khi nào ta liên tưởng như Trần Đăng Khoa, có khi nào ta cảm thấy bứt rứt không yên với hình ảnh mình bắt gặp và viết thành những vần thơ? Sự liên tưởng xuất hiện nhiều trong thơ Trần Đăng Khoa bởi vì em còn đang tuổi thiếu nhi, mà thiếu nhi thì trí tưởng tượng vô cùng tận. Những ý nghĩ rất người lớn ấy là do hoàn cảnh sống đã tạo nên một Trần Đăng Khoa vừa hồn nhiên đáng yêu lại vừa sâu sắc, tinh tế. 3. Ngôn ngữ chính xác, sáng tạo, biểu cảm và giàu nhạc điệu Tuy còn nhỏ nhưng Trần Đăng Khoa làm thơ rất có cân nhắc, lựa chọn theo suy nghĩ của mình. Trong bài Mẹ ốm có câu “Cánh màn khép lỏng cả ngày” Trần Đăng Khoa 57 dùng rất chính xác. Tại sao khép lỏng mà không khép chặt ? Khép lỏng vì đằng sau cánh màn luôn có sự hiện diện của em bé đang ngồi túc trực bên mẹ. Khép lỏng vì mẹ luôn được mọi người vào ra thăm hỏi. Chỉ một chữ thôi, Trần Đăng Khoa đã cho chúng ta cảm nhận được lòng yêu thương sâu đậm của chú bé dành cho mẹ, nghĩa tình láng giềng dành cho nhau. Một trong những ý nghĩa của thơ là làm cho con người hiểu nhau, yêu thương nhau. Trần Đăng Khoa đã làm được điều đó. Trong lời hát ru cho đứa cháu nhỏ, Trần Đăng Khoa dùng từ rất đắt: “Đất đang chín thóc - Trời đang chín trăng” (Cháu ngủ đi rồi…). Không thể tìm được một từ nào khác thay thế từ chín mà Trần Đăng Khoa đã sử dụng. Với từ này, mặt đất và bầu trời có mối quan hệ tương hỗ về màu sắc. Trăng chiếu ánh vàng xuống mặt đất làm cho thóc thêm rực rỡ, ngời sáng và phản chiếu ngược trở lại làm cho trăng thêm lung linh, lấp lánh. Trong Thôn xóm vào mùa: Thóc mặc áo vàng óng Thở hí hóp trên sân Trần Đăng Khoa đã không đồng ý khi ban biên tập sửa lại “Thóc mặc áo vàng óng – Nhảy nhót mãi trên sân”. Xuân Diệu hiểu được điều đó: “ Nhân vật chính là thóc, âm nhạc chính là thóc, múa nhảy chính là thóc… hạt thóc gồm hai mảnh trấu quặp lại thành cái vỏ nên khi thóc văng ra, thóc mệt, thở hí hóp như con cá có hai mang bị nằm trên cạn” (Một em nhỏ làm thơ). Nhạc điệu trong thơ Trần Đăng Khoa rất phong phú, đã số các bài đều có nhạc điệu, âm sắc riêng: Trăng sáng sân nhà em, Đánh thức trầu, Vườn em, Mưa, Ò ó o..., Khi mẹ vắng nhà, Buổi sáng sân nhà em, Sao không về vàng ơi, Tiếng võng kêu, Đêm Côn Sơn, Trăng ơi…từ đâu đến... Nhạc điệu ở các bài ấy rất gần với ca dao, đồng dao của dân tộc ta. Đó là do Trần Đăng Khoa được sinh ra trong một làng quê, một gia đình có truyền thống về văn học dân gian và bản thân em cũng luôn cố gắng vận dụng, sáng tạo. Những câu thơ có sử dụng các câu ca dao, đồng dao, nhưng Trần Đăng Khoa không lấy toàn bộ mà chỉ lấy ý hay một vài từ rồi viết theo cách nghĩ, cách cảm của mình. Cho nên đọc thơ Trần Đăng Khoa, chúng ta vừa có cảm giác quen quen mà cũng vừa có cảm giác thích thú vì một em bé nhỏ tuổi như thế mà lại biết vận dụng linh hoạt văn học dân gian để biến cái chung thành cái riêng của mình. Thơ thiếu nhi do các em viết hay do người lớn viết cho các em thì thường sử dụng câu gồm bốn hoặc năm chữ. Một câu thơ ngắn tạo nên ngữ điệu đơn giản, nhịp nhàng các em sẽ dễ tiếp thu hơn, bởi tư duy, cảm xúc của trẻ em chưa trưởng thành như người lớn. Điều này giải thích vì sao trong các trò chơi dân gian của trẻ em có rất nhiều bài đồng dao. Trần Đăng Khoa trong tập Góc sân và khoảng trời đã viết nhiều bài gồm các câu thơ bốn, năm chữ: Hạt gạo làng ta, Tiếng võng kêu, Hà Nội, Chụp ảnh, Chiếc ngõ nhỏ, Lọc cà lọc cọc,... Đặc biệt hơn, bài “Ò ó o...” chủ yếu sử dụng các câu thơ chỉ có hai, ba chữ: 58 Ò... ó... o... Ò... ó... o... Tiếng gà Tiếng gà Giục quả na Mở mắt Tròn xoe Giục hàng tre Đâm măng Nhọn hoắt.... Câu thơ có tác dụng khác là có nhiều vần liên tiếp nhau hơn nên dễ đọc, dễ nhớ và âm vang hơn bởi tính nhạc. Hãy đọc lại các bài thơ vừa nêu, nhất là bài “Ò ó o...” sẽ thấy rõ điều đó. Bài thơ liên tục chuyển nhịp từ 3/ 2/ 2 đến 3/ 2, sau đó trở lại 3/ 2/ 2 và kết thúc bằng nhịp điệu 3/ 2 gợi cho người đọc cảm giác cuộc sống với những âm thanh và nhịp điệu thúc giục mọi người mọi, vật hãy cùng hoạt động, cùng chung sức hát lên khúc nhạc yêu thương, cùng lao động hết mình phục vụ cho công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. Âm thanh tiếng gà lan xa, vận động được Trần Đăng Khoa sử dụng để tác động đến các vật khác, làm cho nó cũng vận động theo (na mở mắt, tre đâm măng, hạt đậu nảy mầm, buồng chuối tỏa hương...). Na, tre, buồng chuối, hạt đậu,... thực sự có vận động nhưng rất chậm, không nhìn thấy được. Nhưng ở đây, cả hai vận động như cuốn phim quay chậm và hình như sự vận động ấy hòa nhịp với âm thanh tiếng gà. Đem cái động và âm thanh cho cái tĩnh, cái yên lặng làm cho sự vật thú vị, kì ảo. Dường như, tất cả tập trung trong một hoạt động rộn ràng, nhịp nhàng bên nhau. Trần Đăng Khoa không sử dụng nhiều từ mới lạ, phức tạp mà là những từ có sẵn, đơn giản nhưng với sự sáng tạo, cái nhìn độc đáo, sự liên tưorng mới mẻ, biết vận dụng các phép chuyển nghĩa bài thơ có một sức hấp dẫn kì lạ. Các động từ sử dụng trong bài thơ là động từ mạnh như thúc giục sự vật vận động và phát triển. Trong cái nhìn của trẻ con, sự vật vốn rất quen thuộc đối với mọi người lại trở nên mới lạ, hấp dẫn như lần đầu tiên ta nhìn thấy con cò trắng “khiêng nắng qua sông...”. Cái nón là đồ vật nhỏ bé gần gũi. Đội nón là một việc bình thường. Mấy ai trong chúng ta quan tâm đến điều đó. Vậy mà nhà thơ nhỏ tuổi đã thấy được cái hay của việc đội nón đấy. Thế là Trần Đăng Khoa tạo điều kiện để thay đổi cái nón cụ thể, nhỏ bé bằng khoảng không gian rộng lớn, sôi động với âm thanh, hình ảnh đầy biến động trong Mưa: Bố em đi cày về Đội sấm Đội chớp Đội cả trời mưa... Trần Đăng Khoa đã thay chiếc nón lá cọ bằng sấm, chớp trong cơn mưa và người bố - một nông dân bình thường - trở nên vĩ đại như một vị tướng oai hùng dám đối đầu với 59 thiên nhiên. Hình ảnh này Trần Đăng Khoa đã trông thấy nhiều lần. Bằng tình cảm yêu quý dành cho bố Trần Đăng Khoa đã viết về bố rất đẹp. Người nông dân Việt Nam vất vả lao động trên cánh đồng, dầm mưa dãi nắng là việc rất đỗi bình thường, quen thuộc. Cả bài thơ chỉ có hơn một trăm tiếng mà tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc quang cảnh, cảm giác mát mẻ lạ thường của đất trời, cây cỏ, loài vật và con người. Với bài thơ này, Trần Đăng Khoa không chỉ riêng dành để ca ngợi, cảm ơn bố mà còn dành tình cảm đó cho tất cả những người đã ngày ngày chăm lo cho để mọi người yên tâm lao động, chiến đấu và để Trần Đăng Khoa tiếp tục viết nên những bài thơ như “hạt gạo làng ta”. Và đây nữa, âm thanh của tiếng võng ngân lên theo từng nhịp điệu bài thơ: Kẽo cà kẽo kẹt Kẽo cà kẽo kẹt …Kẽo cà kẽo kẹt Kẽo cà… kẽo kẹt… Chúng ta hình dung được cảnh một em bé đang say giấc nồng và âm thanh của tiếng võng gợi nhớ về một thuở ấu thơ mà ai cũng từng trải qua. Nhịp thơ 2/2 gợi vẻ đong đưa của nhịp võng đều đặn. Bài thơ kết thúc với “kẽo cà – kẽo kẹt…” mà âm thanh võng đưa sao còn ngân vang mãi. 4. Biện pháp tu từ 4.1. Nhân hóa Tập thơ Góc sân và khoảng trời có rất nhiều sự vật, con vật được miêu tả với các nét tính cách, hành động của con người. Đó là con mèo hiếu thắng cứ dỏng tai, xanh mắt “ngoao ngoao” đến khi bé Giang chịu nhường phần thắng trong trò chơi đánh tam cúc. Ếch là cậu học trò chăm chỉ học bài râm ran trong đêm. Cào cào, cóc tía, chích chòe,… đều có đặc điểm hình dáng, tính cách riêng biệt. Thế giới loài vật trong cảm nhận của trẻ thơ sao mà đáng yêu lạ. “Hay nói ầm ĩ - Là con vịt bầu - Hay hỏi đâu đâu - là con chó vện - Hay chăng dây điện - Là con nhện con…” (Kể cho bé nghe). Trong bài Mưa, tác giả có cái nhìn rất ngộ nghĩnh. Bầu trời nhiều mây đen báo hiệu sắp mưa được nhân hóa thành dũng sĩ oai hùng “Mặc áo giáp đen - Ra trận”. Những cây mía là các tướng sĩ đang “múa gươm”. Tiếng sấm không làm cho Trần Đăng Khoa sợ mà còn thích thú vì tiếng cười “khanh khách” - tiếng cười nghe rất sảng khoái. Ngọn mồng tơi thì “nhảy múa” vui tươi. Tất cả sự vật hào hứng, sẵn sàng đón nhận cơn mưa. Bài thơ chỉ hơn trăm chữ mà miêu tả được cùng lúc nhiều sự vật trong cơn mưa. Mỗi sự vật có những thể hiện khác nhau làm cho người đọc bất ngờ, thích thú vì cái nhìn ngộ nghĩnh, đáng yêu. Đây là hình ảnh đàn kiến lũ lượt đưa ma bác Giun: Cầm hương, Kiến Đất bạc đầu Khóc than Kiến Cánh khoác màu áo tang Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng Kiến Kim chống gậy, Kiến Càng nặng vai… 60 (Đám ma bác giun) Bài thơ như một bức tranh nhuốm màu u buồn của một đám đưa ma thực sự. Trong đám ấy, kiến không còn là côn trùng nữa mà giống như con người với sự đa dạng về hình dáng và tính cách. Kiến Kim thì chống Gậy đi một cách bệ vệ, Kiến Cánh thì mặc áo tang vật vã khóc,… Trong khi kiến Đen đi ngất ngưởng vì đã say rượu, say thịt, kiến Gió lại tranh thủ chia phần về mình. Đám ma tưởng như có vẻ tang thương, bi ai lắm nhưng thực chất lại không phải như thế. Giun và Kiến nào có họ hàng gì đâu. Thế nên, khi loài kia chết đi thì loài còn lại được dịp hưởng lợi, cớ sao phải buồn? Rõ ràng trong cuộc sống vẫn có cảnh tượng như thế. Nhà thơ Trần Đăng Khoa kể lại khi trông thấy các con kiến bâu quanh một con giun đất, Trần Đăng Khoa đã chăm chú quan sát và chợt nảy ra ý định rủ các bạn sau buổi học đi bắt các loại kiến. Bài thơ đã ra đời như thế đấy. Trong nỗi nhớ thầy giáo đã đi bộ đội, Trần Đăng Khoa tưởng như cả con đường cũng biết nhớ, biết thương như con người với lời tâm sự: Đường rằng: Tao nhớ lắm thay Khoa ơi, thầy giáo của mày đã xa Bao giờ thống nhất nước nhà Thầy về dạy học lại qua đường này… (Hỏi đường) Trong Buổi sáng nhà em, các sự vật cũng được Trần Đăng Khoa thổi vào linh hồn: Ông Trời nổi lửa đằng đông Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay… Cậu Mèo đã dậy từ lâu Cái tay rửa mặt cái đầu nghiêng nghiêng Mụ Gà cục tác như điên Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi Cái Na đã tỉnh giấc rồi Đàn chuối đứng vỗ tay cười vui sao Chị Tre chải tóc bên ao Nàng Mây áo trắng ghé vào soi gương Bác Nồi Đồng hát bùng bong Bà Chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà… Trần Đăng Khoa gọi các con vật, đồ vật trong nhà mình bằng các từ xưng hô mật thiết: Ông Trời, bà Sân, cậu Mèo, cái Na, Chị Tre, bác Nồi Đồng,… Những sự vật, con vật tưởng chừng không có gì đặc biệt lại trở nên sống động và ngộ nghĩnh trong cái nhìn trẻ thơ. Trần Đăng Khoa miêu tả các con vật rất hợp với tính cách của chúng. Này là chú Mèo đỏm dáng trong tư thế rửa mặt. Này là thằng Gà Trống ưỡn ngực gáy vang. Này là chị Tre duyên dáng như một thiếu nữ đang chải tóc,… Một ngày mới đến với tất cả âm thanh, màu sắc và hành động của sự vật và con người. Ta thấy đằng sau câu chữ là hình ảnh một chú bé tinh nghịch đang nhìn ngắm mọi vật với niềm vui tươi, yêu mến. Có điều đặc biệt là Trần Đăng Khoa nhìn một sự vật không phải bao giờ cũng giống nhau. Lúc thì Trần Đăng Khoa trông cây dừa giống như một người chiến sĩ đứng gác: 61 Đứng canh trời đất bao la Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi Lúc lại như một người bạn cùng Trần Đăng Khoa đùa nghịch trong mưa: Cây dừa Sải tay Bơi (Mưa) Cây tre có khi là người con gái đẹp với mái tóc dài: Chị Tre chải tóc bên ao (Buổi sáng nhà em) Tần ngần Gỡ tóc (Mưa) Có khi giống như những cậu bé chăm chỉ học tập “Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học” (Em kể chuyện này). Các con gà kiếm mồi trong sân cũng khơi dậy trong lòng Trần Đăng Khoa niềm yêu thương tha thiết. Trần Đăng Khoa không xem chúng là những con vật mà xem chúng cũng có tình cảm như người vậy: Mày tớp mồi, nhằn nhường con tất cả Diều con no kềnh, diều mày vẫn lép không (Nói với con gà mái) Chính vì thế, khi gà con bị chết vì bom Mĩ, gà mẹ giận dữ, đau xót: Trong mắt vằn những tia máu đỏ Cái nhìn cháy như hai hòn lửa …Máu tóe rồi, những ngón chân rách nát …Lối rộng không đi, cứ lao vào vách đất Tiếng mày gọi con, tiếng con tiếng mất… Và, hòn than trong thơ Trần Đăng Khoa biết yêu người thợ mỏ, muốn làm thơ để: Ca ngợi Vịnh Hạ Long Có màu xanh từ thuở Ngô Quyền Con sống vẫn reo trên xác giặc Ca ngợi bác công nhân Sớm sơm lên tầng (Lời của Than) 4.2. So sánh Một điều dễ thấy trong thơ thiếu nhi là các hình ảnh được các em so sánh ví von theo cách nhìn nhận của mình. Chưa thể giải thích, gọi tên được các sự vật nên các em lấy sự vật này để so sánh với sự vật kia. 62 Tập thơ Góc sân và Khoảng trời có đến rất nhiều bài thơ có sử dụng biện pháp so sánh. Trong mỗi bài lại có nhiều sự vật được so sánh: Hạt gạo làng ta, Lời của Than, Đi tàu hỏa, Bà và cháu, Điều anh quên không kể,… Trần Đăng Khoa hay dùng từ “như” để so sánh sự vật này với sự vật kia: Hoa lựu như lửa lập lòe Nhớ khi em tưới, em che hàng ngày… (Hoa lựu) Trăng hồng như quả chín… (Trăng ơi… từ đâu đến…) Cao cao ụ pháo như người đứng canh… (Trận địa bỏ không) Đôi khi Trần Đăng Khoa không dùng từ so sánh nhưng ta vẫn hiểu được: Diều em - lưỡi liềm Ai bỏ quên lại (Thả diều) Cùng một sự vật nhưng Trần Đăng Khoa lại so sánh với nhiều hình ảnh khác nhau: Thả diều, Ngắm hoa, Trông trăng, Trăng ơi…từ đâu đến… Ánh trăng được Trần Đăng Khoa miêu tả nhiều trong thơ mình. Nhìn trăng, Trần Đăng Khoa liên tưởng và hay so sánh trăng với các vật khác nhau. Khi so sánh Trần Đăng Khoa lại thường xuyên biến đổi trong cách nhìn. Lúc trông vào hình dạng: “Trăng tròn như mắt cá - Chẳng bao giờ chớp mi”, “trăng như cái mâm con”, lúc trông màu sắc thì trăng vừa “hồng như quả chín” (trăng mới nhú) vừa “nở vàng như xôi” (trăng đã lên cao),… Trần Đăng Khoa còn so sánh cánh diều như chiếc thuyền trôi trên dòng sông Ngân Hà, như hạt cau phơi trên nong trời, như lưỡi liềm ai bỏ quên lại sau mùa gặt hái,… Nước của Hồ Gươm xanh trong được Trần Đăng Khoa ví như “pha mực”(Hà Nội). Đoàn tàu “như những con cá to” (Em về Hồng Gai). Bàn tay Bác Hồ thì “mát như kem sữa” (Em gặp Bác Hồ),… Những gì Trần Đăng Khoa so sánh mới ngây thơ và đáng yêu làm sao! Có những sự vật chúng ta thấy bình thường nhưng qua cái nhìn trẻ thơ và cách so sánh ví von của Trần Đăng Khoa, chúng ta bỗng thấy mới lạ, đôi lúc lại trầm ngâm suy nghĩ. Mặt bão, bàn chân thầy giáo, Ngôi đền Bãi Cháy,… là những bài như thế. Ai cũng biết khi cơn bão đi qua nơi nào là nơi đó bị tàn phá, bao nhiêu sức người trở thành cát bụi. thế nhưng, có ai trong chúng ta nghĩ đến khuôn mặt cơn bão? Trần Đăng Khoa đã làm điều đó. Bão trong cái nhìn của Trần Đăng Khoa làm chúng ta nhạc nhiên: Bão đến ầm ầm Như đoàn tàu hỏa Bão đi thong thả Như con bò gầy (Mặt bão) 63 Chỉ với hai hình ảnh: đoàn tàu hỏa và con bò ốm yếu, gầy guộc chúng ta hình dung được khuôn mặt của bão. Nó đến với sức mạnh hung hăng rồi bị suy yếu dần sau khi đã tàn phá những công sức mà con người vất vả tạo ra. Bài thơ chỉ có tám câu thôi nhưng ai chưa trải qua thực tế, chưa cảm thấy thấm thía sự mất mát do thiên tai gây ra thì không thể nào viết được những câu như thế. Thường thì trẻ em hay so sánh những cái trừu tượng, khó hiểu, khó diễn tả với những cái cụ thể, dễ hiểu, dễ diễn tả. Ở một số bài trong tập thơ Trần Đăng Khoa không làm như thế. Nghĩa là, từ một điều cụ thể, Trần Đăng Khoa so sánh với điều trừu tượng. Từ những âm thanh của đoàn người đến gõ cửa Diêm vương, Trần Đăng Khoa cảm nhận: Như thiên nhiên đang tạo sông dựng núi Như trái đất đang hình thành… Trần Đăng Khoa không dùng động từ mạnh để diễn tả âm thanh này, vậy mà chúng ta vẫn cảm nhận được sự quyết liệt, thôi thúc. Câu thơ so sánh gợi ra trước mắt chúng ta một cảnh hỗn loạn, ngổn ngang của vô số người đến Diêm Vương đòi công lí. Không cần nói ra số lượng, tự chúng ta biết được rằng: một vài người thì không làm tạo ra được cảnh đó. Đế quốc Mĩ với tội ác của chúng đã bị vạch trần. Hình ảnh so sánh lạ còn xuất hiện khi Trần Đăng Khoa ngây ngất trước Hương đồng: Trời đất đêm nay Như chim mới hót Như rượu mới cất Như mật mới đong… Bông hoa mà em Giang ngắm cũng khơi dậy trong Trần Đăng Khoa niềm xúc động: Màu đẹp hơn tranh Càng nhìn càng thắm Như màu của nắng Như màu của mưa Dịu dàng non tơ… (Ngắm hoa) So sánh như vậy, Trần Đăng Khoa đã truyền cho người đọc cái cảm giác ngây ngất của mình. Những hình ảnh trong thơ rất tinh khiết, gợi cảm. Không ai bắt tác giả phải giải thích rõ nắng mưa màu gì, tiếng chim mới hót nghe làm sao,... Chúng tôi nghĩ rằng, đây là một trong những nét khác biệt giữa thơ Trần Đăng Khoa và thơ của các em thiếu nhi khác. Chính cái cảm nhận tinh tế, sâu sắc và lạ lẫm đã thôi thúc Trần Đăng Khoa dày công tìm từ diễn đạt hết ý của mình. Nếu chú ý hơn, chúng ta sẽ nhận thấy rằng ngoài biện pháp nhân hóa và so sánh, trong tập thơ còn có cả phép ẩn dụ. Những phép tu từ mà Trần Đăng Khoa sử dụng thường 64 được kết hợp tuyệt vời với khả năng nghe, khả năng giao cảm đặc biệt với vạn vật trong đất trời: À uôm Ếch nói ao chuôm Rào rào Gió nói cái vườn rộng thênh Âu âu Chó nói đêm thanh Te... te... Gà nói sáng banh ra rồi Vi vu, Gió nói Mây trôi Thào thào Trời nói xa vời Mặt Trăng... (Tiếng nói) Qua ngòi bút của Trần Đăng Khoa, người ta thấy không gian nông thôn mới yên ả làm sao với cái mùi ngây ngây của bùn, hương nồng nàn của đất,... Bình dị là thế nhưng chính nơi đây đã trở thành máu thịt của con người, trong đó có Trần Đăng Khoa. 65 PHẦN KẾT LUẬN 55555 Với cảm hứng từ thiên nhiên Trần Đăng Khoa đưa vào thơ mình những hình ảnh quen thuộc, gần gũi và thổi hồn vào cảnh sắc đó làm cho ta như được sống trong một làng quê Bắc bộ yên ả, thanh bình. Tâm hồn thi sĩ trong con người bé nhỏ rất nhạy cảm, tinh tế, lắng nghe và thấu hiểu mọi sự thay đổi, vận động của vạn vật dù là rất khẽ. Thế giới bên ngoài bình thường, quen thuộc bước vào thơ Trần Đăng Khoa mang nhiều nét mới lạ, độc đáo, ngộ nghĩnh. Trong thế giới đó, tất cả đều là bạn bè, đều có có niềm vui, nỗi buồn, đều mang hơi thở của riêng mình và của mọi người, mọi vật xung quanh. Người nông dân trong thơ Trần Đăng Khoa vẫn lao động vất vả, khó nhọc nhưng năng động, yêu đời chứ không an phận như người nông dân trong ca dao xưa. Số phận của những em bé trong chiến tranh qua ngòi bút của Trần Đăng Khoa thật đáng thương. Những câu thơ của Trần Đăng Khoa không hoa mĩ, kiểu cách mà rất chân thành, sâu sắc, đầy ắp tình thương mến và tin tưởng. Trần Đăng Khoa nhìn sự vật bằng trí tưởng tượng, liên tưởng phong phú, độc đáo làm cho mọi sự vật, sự việc đã quen thuộc với mọi người trở nên mới mẻ, hấp dẫn, sinh động. Trần Đăng Khoa biết cách lựa chọn và nghiêm túc trong việc từ ngữ nên ngôn ngữ sử dụng trong thơ rất chính xác, giàu hình ảnh và gợi cảm. Trần Đăng Khoa nhìn mọi vật bằng cái nhìn của một em nhỏ nên các con vật, đồ vật đều có hồn, có hành động, tính cách. Cùng một sự vật nhưng mỗi thời điểm, tâm trạng khác nhau Trần Đăng Khoa có lối so sánh, nhân hóa khác nhau. Sự vật trong thơ Trần Đăng Khoa luôn vận động, sinh sôi, nảy nở chứ không tĩnh tại, im lặng. Nhạc điệu trong tập thơ rất phong phú. Mỗi bài có một nhạc điệu riêng phù hợp với đối tượng miêu tả, Tác giả biết vận dụng và vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt ca dao, đồng dao Việt Nam, biến cái chung của mọi người thành cái riêng của mình. Giọng thơ vừa hồn nhiên, trong sáng, thiết tha, vừa già dặn, triết lí gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ, suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời. Với phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp đại học, người viết không có tham vọng tìm hiểu tất cả về thơ của Trần Đăng Khoa. Bằng tấm lòng yêu mến nhà thơ cùng những hiểu biết, tìm tòi của mình, người viết muốn khẳng định giá trị của tập thơ, những đóng góp của nhà thơ Trần Đăng Khoa cho nền văn học nước nhà. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anh Ngọc. 2001. Hồn thơ thế kỉ - Nxb Văn hóa thanh niên – Hà Nội. 2. Bùi Công Hùng. 2000. Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại – Nxb Văn hóa thông tin – Hà Nội. 3. Cao Đức Tiến. 2007. Văn học (Tài liệu đào tạo giáo viên) - Nxb Đại học SP, NXB Giáo dục. 4. Hoài Thanh.1999. Hoài Thanh toàn tập – Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 5. Lã Thị Bắc Lý. 2003. Giáo trình văn học trẻ em – Nxb Đại học sư phạm. 6. Ngân Hà. 2003. Thơ Xuân Quỳnh và những lời bình – Nxb văn hóa thông tin. 7. Nguyễn Duy Bắc. 1998. Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại (1945 – 1975), Nxb Văn hóa dân tộc. 8. Nguyễn Hữu Đảng. 2000. - Giai thoại văn học – Nxb văn hóa dân tộc – Hà Nội. 9. Nguyễn Văn Long. 2007. Giáo trình văn họcViệt Nam hiện đại, tập II - Nxb Đại học sư phạm. 10. Nhà thơ Việt Nam hiện đại. 1984. Ủy ban KHXH Việt Nam, Viện Văn học, Nxb KHXH – Hà Nội. 11. Phạm Hổ. 2003. Tuyển tập Phạm Hổ - Nxb Văn học – Hà Nội. 12. Toàn văn di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh. 1999. Nxb trẻ. 13. Trần Đăng Khoa. 2006. a. Góc sân và khoảng trời – Nxb Văn hóa dân tộc – Hà Nội. . 1974. b. BáoTiền phong (ngày 16 /04/ 1974) 14. Trần Đăng Xuyền. 2003. Tạp chí Văn học (số 4). 15. Trần Đình Sử. 2004. Từ điển văn học bộ mới – Nxb Thế giới . 16. Trần Đức Ngôn (chủ biên).1994. Văn học thiếu nhi Việt Nam –Trường ĐH Sư phạm Hà Nội – Hà Nội. 17. Vân Thanh. 1973. Tạp chí Văn học (số 2/ 1973). 18. Võ Gia Trị. 1999. Nghệ thuật văn chương và chân lí – Nxb văn học. 19. Xuân Diệu. 1991. Tạp chí Tác phẩm mới (số tháng 5, 6/1991). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1270.pdf
Tài liệu liên quan