Thực trạng của xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

LỜI MỞ ĐẦU Cà phê lá một mặt hàng nông sản nổi tiếng trên toàn thế giới với những câu chuyện như những huyền thoại về xuất xứ của cà phê.Không chỉ có vậy, với hương vị đặc trưng độc đáo và nét quyến rũ lạ thường , cà phê đã trinh phục đại bộ phận dân cư trên toàn thế giới khiến nhu cầu cà phê cần được giá trị xuất khẩu cao.Nó góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, tăng cung cấp hay xuất khẩu ngày một tăng cao cả về số lượng và chất lượng.Với những điều kiên vị trí địa lý đất đai thổ nhưỡng,n

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng của xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
guồn nhân lực dồi dào mà Việt nam đã trở thành nước có sản lưọng xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới.Xuất khẩu cà phê đã có những đóng góp lớn vào việc tăng GDP cho nền kinh tế Việt Nam.Bạn bè thế giới đã biết đến những cao nguyên trồng cà phê của Việt Nam _nguồn cung cấp khối lượng lớn cà phê ra thế giới.Xuất khẩu cà phê cũng giúp khẳng định sự phát triển của kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế.Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra những thuận lợi và không ít những khó khăn trong xuất khẩu cà phê.Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng có những biến động lớn.Chúng ta phải làm gì để nâng cao chất lượng cà phê đạt những tiêu chuẩn khắt khe của thế giới ,tạo ra những bước tiến mới vững chắc cho xuất khẩu cà phê của Việt Nam .Nội dung của đề tài giúp phân tích tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong bối cảnh, điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.Những thuận lợi cũng như thách thức khi nước ta gia nhập các tổ chức quốc tế.Từ đó, tìm ra những biện pháp khắc phục, cải tiến .Đề ra những giải pháp trước mắt lâu dài để cà phê có chất lượng tốt hơn ,có vị trí cao trên thị trường thế giới, góp phần đẩy mạnh nền kinh tế Việt Nam bước lên những bậc thang mới. Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu cà phê trong bối cảnh hội nhập 1.1. Bản chất, vai trò của xuất khẩu hàng hoá. 1.1.1,Khái niệm về xuất khẩu. Xuất khẩu (XK) là một quá trình thu doanh lợi bằng cách bán các sản phẩm hoặc dịch vụ ra các thị trường nước ngoài, thị trường khác với thị trường trong nước. 1.1.2,Vai trò nhiệm vụ của xuất khẩu. 1.1.2.1_ Vai trò của xuất khẩu. XK có vai trò tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất, nâng cao mức sống của nhân dân vì sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc có thu nhập tương đối. Ngoài ra XK còn là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế hội nhập ngày càng được khẳng định đối với Việt Nam 1.1.2.2, Nhiệm vụ của xuất khẩu. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của xuất khẩu đó là XK để thu về ngoại tệ phục vụ cho công tác nhập khẩu. Ngoài ra XK còn góp phần tăng tích lũy vốn, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền kinh tế từ những ngoại tệ thu được từ đó đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện do có công ăn việc làm, tăng nguồn thu nhập. Thông qua XK giúp cho các doanh nghiệp nói riêng và cả nước nói chung mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trên thế giới, khai thác có hiệu quả lợi thế tuyệt đối và tương đối của đất nước từ đó kích thích các ngành kinh tế phát triển. 1.1.3. Ý nghĩa của xuất khẩu. XK là hoạt động quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp, là chìa khóa mở ra các giao dịch quốc tế cho một quốc gia bằng cách sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất nước, thu về nhiều ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một phong phú của người dân. Thông qua XK, hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng, cuộc cạnh tranh này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường quốc tế. Kết quả là một số doanh nghiệp sẽ rút ra nhiều kinh nghiệm cho bản thân để làm tăng lợi nhuận, nền kinh tế của một quốc gia phát triển, quan hệ kinh tế đối ngoại cũng được mở rộng. 1.1.4. Nghĩa vụ của nhà xuất khẩu. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà xuất khẩu có trách nhiệm nặng hơn so với nhà nhập khẩu vì phải đảm bảo giao hàng đúng số lượng, chất lượng, phẩm chất, thời gian theo hợp đồng đã ký kết…, trong khi đó nhà nhập khẩu chỉ nhận hàng và trả tiền mà thôi. Nghĩa vụ của nhà xuất khẩu là phải giao hàng, giao chứng từ liên quan đến hàng và chuyển giao quyền sở hữu về hàng theo đúng quy định của hợp đồng đã ký. 1.1.4.1. Nghĩa vụ giao hàng. Giao hàng tức là người bán phải giao cho người mua quyền sở hữu hàng hoá vào một thời điểm cụ thể đã quy định trong hợp đồng 1.1.4.2. Tiêu chuẩn hang hoá xuất khẩu. Tiêu chuẩn là những quy tắc hướng dẫn hoặc quy định đặc tính kĩ thuật cho những hoạt động được lặp đi lặp lại nhằm đạt được kết quả tối ưu trong một hoàn cảnh nhất định Theo luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kĩ thuật thì tiêu chuẩn là các đặc tính kĩ thuật và yêu cầu quản lý dung làm tiêu chuẩn nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động này Theo như lý thuyết trên thì những mặt hang khác nhau,xuất khẩu vào những thị trường riêng thì sẽ có những tiêu chuẩn phù hợp để áp dụng. 1. 2. Cây cà phê ở Việt nam và vai trò xuất khẩu cà phê đối với nền kinh tế quốc dân. 1.2.1_Cây cà phê ở Việt nam. 1.2.1.1 Giới thiệu chung về cây cà phê. Cà phê đã trở thành một đồ uống phổ biến nhất trên toàn thế giới.Hàng triệu người uống cà phê ở châu phi, nam và bắc Mỹ,Châu âu,Trung đông….và cả ở việt nam.Hiện nay uống cà phê không chỉ đơn giản là thưởng thức một loại đồ uống mà nó còn thể hiện văn hoá cà phê văn hoá uống của một quốc gia nói riêng và của toàn thế giới nói chung. Nói về xuất xứ của cây cà phê chúng ta lại nhớ đến câu chuyện về sự xuất hiện đầu tiên của những hạt cà phê ở vung đất của người Ethiopia xa xôi.Câu chuyện kể rằng một ngày cũng như mọi ngày ,người chăn dê thả chúng ra một bãi cỏ để chúng có thể tha hồ nhởn nha thưởng thức món ăn ưa thích của mình.Nhưng thậtlạ là những chú dê lại mê mẩn với những chum quả chin mọng ,nom rất đặc biệt.Người chăn dê chỉ để ý đến chúng khi thật bất ngờ, đêm hôm đó đàn dê rất khoẻ mạnh,linh hoạt khác thường…và thiện ra và thức rất khuya ma không có vẻ gì mệt mỏi vào sang hôm sau.Người chăn dê lấy làm lạ và cảm thấy rất thú vị,anh ta cung thử ăn những trái mọng đó và kết quả thật đáng ngạc nhiên, anh ta cảm thấy sảng khoái,tỉnh táo hơn mọi ngày.Và từ ngày đó cây cà phê đã được phát hiện và được người dân vùng này trồng và chế biến thành những thức uống phổ biến như ngày nay. Cà phê được truyền bá từ Châu phi đến Arập, đây cũng chính là nơi đầu tiên chế biến và sử dụng cà phê như một loại thuốc, loại thức ăn trước khi trở thành thức uống được ưa chuộng như ngày nay.Người Arập giữ cà phê như một bí quyết trong nhiều năm…Sau đó thì cây cà phê đã được phổ biến ở Thổ nhĩ kỳ, Ý, Pháp ….rất nhiều đồn điền cà phê rộng lớn đầu tiên ở miền nam Mỹ và xuất khẩu ra toàn thế giới. Cây cà phê được trồng thành những bụi cây lớn ,nó có thể sinh trưởng và phát triển rất tôt với độ cao từ 3 đến 9 mét trong tự nhiên.Hoa cà phê mầu trắng tinh khiết xuất hiện trên các cành cây giống như những bông tuyết.Vài ngày sau đó,những bong hoa bắt đầu thơm ngào ngạt báo hiệu lúc những trái cà phê bất đầu xuất hiện.Trong 6 tháng những trái cà phê từ mầu xanh chuyển sang chin mọng đỏ rực. đó chính là lucá những trái cà phê được thu hoạch và chế biển.Những hột cà phê được sơ chế tẩm ướp và rang say theo phương pháp của từng nơi những vẫn luôn lưu giữ được cái mùi hương quyến rũ đặc trưng của nó.Trên thế giới hiện nay người ta trồng phổ biến hai dòng cây cà phê chính là Coffea arabica (Cà phê Arabica) – cà phê chè – và Coffea canephora (Robusta) – cà phê vối – với nhiều loại khác nhau. Chất lượng hay đẳng cấp của cà phê khác nhau tùy theo từng loại cây, từng loại hạt và nơi trồng khác nhau. Cà phê Robusta được đánh giá thấp hơn so với cà phê Arabica do có chất lượng thấp hơn và giá cả theo đó cũng rẻ hơn. Loại cà phê đắt nhất và hiếm nhất thế giới tên là Kopi Luwak (hay cà phê chồn) của Indonesia và Việt Nam. Giá mỗi cân cà phê loại này khoảng 20 triệu VND (1300 USD) và hàng năm chỉ có trên 200 kg được bán trên thị trường thế giới. 1.2.1.2_Lịch sử hình thành và phát triển cây cà phê ở Việt nam. Cây cà phê lần dầu tiên đưa vào Việt Nam từ năm 1897 và được trồng thử từ năm 1888. Giai đoạn đầu, cà phê chủ yếu trồng ở Ninh Bình, Quảng Bình… đến đầu thế kỷ 20 mới được trồng ở Nghệ An và một số nơi ở Tây Nguyên. Từ 1920 trở đi, cây cà phê mới có diện tích đáng kể đặc biệt ở Buôn Ma Thuật, Đăklăk. Khi mới bắt đầu, qui mô các đồn điền từ 200-300ha và năng suất chỉ đạt từ 400-600kg/ha. Cho đến nay, diện tích cà phê trên cả nước khoảng 500.000 ha và sản lượng có khi lên đến 900.000 tấn. Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 trên thế giới. Cà phê trồng ở nước ta có bao gồm cà phê vối (Robusta) chiếm 90% diện tích, cà phê chè (Arabica) 10% và cà phê mít (Excelsa) 1%. Do cà phê vối có hàm lượng caffeine cao (2-4%) nên hương vị không tinh khiết bằng cà phê chè (caffein 1-2%) nên giá chỉ bằng một nửa. Cây cà phê chè ưa sống ở vùng núi cao và thưòng được trồng độ cao từ 1000-1500 m, nhiệt độ từ 16-25°C, lượng mưa khoảng trên 1000 mm. Cà phê vối ưa sống ở vùng nhiệt đới, độ cao thích hợp dưới 1000 m, nhiệt độ khoảng 24-29°C, lượng mưa khoảng trên 1000 mm và cần nhiều cần nhiều ánh sáng mặt trời hơn so với cây cà phê chè. Một trong nhưng lý do diện tích cà phê vối cao hơn rất nhiều do chúng có sức sinh trưởng tốt và kháng được bệnh. Còn cà phê chè lại rất mẫn cảm với các bệnh như bệnh gỉ sắt (do nấm Hemileia vastatrix), bệnh khô cành, khô quả (do nấm Colletotrichum coffeanum và vi khuẩn Pseudomonas syringea, P. garcae), bệnh nấm hồng (Corticium salmonicolor)…   Phương pháp cổ điển nhất để chọn giống cà phê bao gồm các bước tuyển chọn quần thể hoang dại tiếp theo lai, đánh giá sản lượng, lai ngược và lai giữa các loài. Nhược điểm của phương pháp này là thời gian lâu, thường khoảng 30 năm mới chọn ra được giống mới. Ngày nay, công nghệ sinh học đã được ứng dụng rộng rãi trong cải tạo và chọn giống cà phê như nuôi cấy mô, chuyển nạp gen và đánh giá chất lượng cây giống bằng một số phương pháp sinh học phân tử cho kết quả nhanh chóng như RFLP, RAPD, SSR, STS... Theo chiến lược của ngành cà phê Việt Nam sẽ giảm diện tích cà phê vối và tăng diện tích cà phê chè tuy nhiên vấn đề giống là vấn đề quan trọng nhất. Trước đây giống cà phê chè ở Việt Nam là giống Typica, Bourbon, Caturra amarello hoặc một số giống được trồng mang tính thí nghiệm như Mundo Novo, Catuai. Hiện nay, các vùng mới trồng cà phê chè đều thuộc giống Catimor nhưng giống này có nhược điểm hương vị thiên về cà phê vối nên cần phải nghiên cứu thêm. Với nhu cầu cấp bách hiện nay là cần có giống cà phê chè mới có hương vị thơm ngon và kháng được bệnh thì cần phải ứng dụng các tiến bộ khoa học trong tuyển chọn và nhân giống cà phê từ các nguồn nhập ngoại và sẵn có ở Việt Nam. 1.2.2_Vai trò của xuất khẩu cà phê đối với nền kinh tế quốc dân Qua thực tế nhiều năm xuất khẩu cà phê ta có thể thấy rằng nó đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc ổn định và phát triển kinh tế cho Đắk lăk, Tây Nguyên nói riêng và Viêt Nam nói chung.Xuất khẩu cà phê đã phần đáng kể trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu cửa cả nước qua các năm ngày một rõ rệt.Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam. Cà phê giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam: xuất khẩu hằng năm xấp xỉ 1 triệu tấn, cà phê là nông sản có kim ngạch xuất khẩu chiếm hàng đầu, trên một tỉ đô la Mỹ.Cũng từ xuất khẩu cà phê mà ngày nay, Việt Nam đã được cả thế giới biết đến là cường quốc xuất khẩu cà phê và thương hiệu Cà phê Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí trên thị trường quốc tế. Ta có thể liệt kê một số vai trò cơ bản của xuất khẩu cà phê đói với nền kinh tế quốc dân: Một là, XK cà phê tác động đến việc mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp. Khi XKcà phê tăng, khối lượng cà phê được sản xuất ra ngày càng lớn, do đó sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô sản xuất cà phê. Mặt khác, khi XK cà phê tăng còn tạo nguồn thu lớn cho người sản xuất, từ đó họ có thể tăng vốn để tái sản xuất mở rộng, tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị hàng xuất khẩu. Hai là, xuất khẩu góp phần giải quyết tốt vấn đề công ăn, việc làm. Một trong những đặc điểm rất quan trọng của Tây Nguyên , Đắc lắc… cũng như cả nước là tốc độ tăng lực lượng lao động nhanh, từ đó việc làm luôn là vấn đề nóng và cần quan tâm của nền kinh tế. Để giải quyết tình trạng này phải tăng cầu lao động và xuất khẩu tăng cũng là một trong những biện pháp để mở rộng quy mô ngành sản xuất cà phê, từ đó tạo thêm việc làm cho người lao động. Mặt khác, XKcà phê tăng kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, từ đó nhu cầu lao động bổ sung tăng lên. Khi người lao động có việc làm, thu nhập ổn định sẽ tạo tâm lý yên tâm phấn khởi và người lao động (đặc biệt là lao động nông nghiệp) sẽ làm việc ngay tại quê hương mình, giảm tải tình trạng di cư của lao động ra các khu công nghiệp, thành thị để tìm kiếm việc làm. Ba là, XKcà phê góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nguồn lực trong nông nghiệp bao gồm: đất đai, cơ sở hạ tầng, người lao động, kinh nghiệm sản xuất… Bốn là, XK cà phê góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. CNH-HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, đưa thiết bị, công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của cà phê trên thị trường. Vì vậy, XKcà phê tạo điều kiện giải quyết tốt vấn đề đầu ra cho cà phê , thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn, điều này rất phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Mặt khác, XK cà phê còn có vai trò tích cực trong việc cung cấp thông tin cho người sản xuất, tạo ra sự phù hợp tốt hơn giữa người sản xuất và thị trường. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê. Trước hết ,,ta phải xét tới những điều kiện thuận lợi về đất đai khí hậu đã tạo điều kiện cho cà phê sinh trưởng và phát triển tốt ở Việt Nam. Điều kiện khí hậu của Việt Nam cho phép nhiều địa phương có thể trồng được cả hai loại cà phê robusta và arabica. Theo ông Nhạn, ở vùng khí hậu nóng ẩm phía Nam thích hợp để canh tác cà phê robusta trong khi ở vùng khí hậu ôn hòa miền núi phía Bắc và rải rác ở một số vùng có độ cao so với mặt biển 800-900 mét trở lên có thể trồng cà phê arabica. Thực tế hiện nay đã hình thành một số vùng sản xuất cà phê arabica phát triển tốt, có nhiều triển vọng. Đó là các vùng Tây Bắc, chủ yếu là Điện Biên và Sơn La; ở miền Trung là các tỉnh Nghệ An, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế; phía Nam có các vùng Gia Lai, Đăk Nông và đặc biệt là Lâm Đồng. Theo nhiều người rành cà phê, hương vị cà phê Bourbon ở Lâm Đồng có thể sánh ngang các loại cà phê có vị dịu của vùng Trung Mỹ. Hiện cả nước có hơn 500.000 héc ta cà phê, trong đó chủ yếu là robusta, còn arabia chỉ khoảng 20.000 héc ta. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) từ nhiều năm qua đã khuyến cáo các địa phương nên giảm bớt những diện tích cà phê robusta kém hiệu quả và mở rộng diện tích cà phê arabica ở những vùng có điều kiện sinh thái thích hợp. Bộ đặt mục tiêu trong thời gian tới, Việt Nam vẫn giữ 500.000 héc ta mà không cần tăng thêm diện tích nhưng thay đổi cơ cấu theo hướng tăng arabica lên 100.000 héc ta và robusta giảm xuống còn 400.000 héc ta. Ngoài những yếu tố về tự nhiên thì yếu tố tác động từ viêc hội nhập kinh tế quốc tế là vô cùng to lớn.Với nhu cầu cao về cà phê trên toàn thế giới,Việt nam có những thuận lợi trong xuất khẩu cà phê nhưng cũng chịu những tác động đáng kể.Ta có thể lấy những ví dụ cụ thể như: Năm 1994 do sương muối tàn phá cà phê ở Brazil đã khiến thị trường thế giới thiếu hụt cà phê rất lớn đẩy giá lên cao ngất ngưởng. Do đó, người ta đổ xô đi trồng cà phê, diện tích nhanh chóng tăng lên vượt ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Từ năm 1994-1998, cây cà phê đã che phủ tới hơn nửa triệu héc ta đất đỏ bazan màu mỡ ở Tây Nguyên, Đông Nam bộ.Hàng năm, các doanh nghiệp Việt Nam đã tung ra thị trường thế giới lượng lớn cà phê robusta, có năm đạt hơn 1 triệu tấn, tác động mạnh đến cân bằng cung cầu và giá cả. Điều đó không chỉ gây nên những khó khăn cho gần 1 triệu nông dân trồng cà phê ở Việt nam mà 25 triệu nông dân trồng cà phê trên thế giới cũng bị ảnh hưởng. Từ năm 2000 trở đi, giá cà phê thế giới tụt giảm thảm hại, có lúc chỉ còn 300 đô la Mỹ/tấn (FOB TPHCM), tức chỉ bằng một phần mười so với lúc đỉnh cao. Do giá xuống quá thấp, nhiều nơi nông dân không còn mặn mà đầu tư chăm sóc và không ít nơi người vụ 2004-2005, khi giá cà phê xuất khẩu vượt qua mốc 600 đô la Mỹ/ tấn, mức giá ít nhiều đủ để nông dân trồng cà phê cầm cự và sàng lọc các diện tích cà phê năng suất thấp, già cỗi. Ước tính diện tích cà phê Việt Nam giảm ít nhất 50.000 héc ta trong năm năm đầu thập kỷ này. Hai năm qua, giá cà phê thế giới hồi phục khá nhanh, thời điểm này mỗi tấn cà phê nhân xuất khẩu thu được hơn 1.500 đô la Mỹ, kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước năm nay vọt lên hơn 1,4 tỉ đô la Mỹ và tình trạng đua nhau trồng cà phê lại lặp lại. Tính sơ bộ ở Daklak, Lâm Đồng, Gia Lai, diện tích cà phê đã tăng thêm khoảng 30.000 héc ta. Theo xu thế hội nhập chung của thế giới ,nước ta sau khi gia nhập các hiệp hội kinh tế…đặc biệt là trở thành thành viên chính thức của WTO ,mở ra những khó khăn và thách thức mới và xuất khẩu cà phê cũng không nằm ngoài xu thế đó.Mà điển hình là khó khăn trong việc thay đổi để đạt chuẩn của Hiệp hội cà phê thế giới về chon lựa hạt cà phê. Có nhiều nguyên nhân. Trước hết, theo Luật tiêu chuẩn và qui chuẩn kỹ thuật số 68/2006/QH 11, tại khoản 1, Điều 23 qui định: “Tiêu chuẩn được áp dụng trên nguyên tắc tự nguyện”. Đến nay, vẫn chưa có văn bản qui phạm pháp luật hoặc qui chuẩn kỹ thuật bắt buộc áp dụng TCVN 4193:2005 đối với cà phê nhân. Trong thực tế, do chưa có sự vào cuộc của nhiều doanh nghiệp và người sản xuất, nên chưa có những biện pháp khắc phục khó khăn, khó áp dụng trọn vẹn TCVN 4193:2005..Do đ ó làm cho không ít doanh nghiệp còn lần khân là phần lớn các hợp đồng xuất khẩu cà phê hiện nay vẫn theo hình thức thoả thuận về chất lượng, dựa theo cách phân loại cũ, chủ yếu dựa vào 3 tiêu chí giản đơn: độ ẩm, tỉ lệ hạt đen, tỉ lệ hạt vỡ vì thế họ lo ngại nếu đồng loạt áp dụng kiểm tra chất lượng cà phê xuất khẩu trước khi thông quan ngay tại thời điểm này sẽ đảo lộn kế hoạch xuất khẩu cà phê, đặc biệt là các hợp đồng đã ký kết trước đây…Nhưng cung không phải môtj sớm một chiều mà chúng ta có thể thay đổi được tập quán canh tác của những người dân địa phương .Có thể nói đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng cà phê xuất khẩu . Nhìn nhận được tất cả những yếu tố tác động đến xuất khẩu cà phê dù trực tiếp hay gián tiếp,nó cũng giúp chúng ta tìm ra những biện pháp khắc phục để tăng chất lương và số lượng trong xuất khẩu cà phê. Chương II Phân tích thực trạng của xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 2.1. Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam những năm đầu hội nhập (số liệu của các năm 2004,2005,2006,2007, đầu năm 2008). Bảng: Kinh ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm 2004 đến 2008 STT Năm KNXK 1 2004 590 triệu USD 2 2005 700-800 triệu USD 3 2006 950 triệu USD 4 2007 1878 triệu USD 5 2008 Dự kiến trên 1800 triệu USD Bảng số liệu trên đã khái quát tình hình xuất khẩu cà phê của Việt nam trong những năm đầu hội nhập kinh tế quốc tế.Có thể nói xuất khẩu cà phê của ta đã trải qua những bước thăng trầm với những khó khăn đến đỉnh điểm và rồi ngoạn mục tăng vọt với những con số đến bất ngờ.Vào năm 2004,chịu tác động lớn của tình hình xuất khẩu cà phê trên thế giới,xuất khẩu cà phê của việt nam cũng gặp khá nhiều khó khăn.Tuy nhiên năm 2004 cũng là năm đầu tiên xuất khẩu cà phê bắt đầu có dấu hiệu hội phục sau 4 năm thua lỗ nặng nề(2000-2003) .Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong nửa đầu năm nay đã lên tới 602 triệu đô la, tăng 31,1% so với cùng Kỳ năm ngoái tuy lượng xuất khẩu có sút giảm. Bản tin hôm thứ tư của Tân hoa xã trích dẫn các số liệu của Bộ Thương mại ở Hà Nội cho biết từ tháng giêng đến tháng 6, các công ty Việt Nam đã bán ra nước ngoài 525 ngàn tấn cà phê, chủ yếu là bán cho các nước thuộc Liên hiệp Âu Châu, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Singapore. Lượng cà phê xuất khẩu đã giảm 12,4%. Tính đến giữa năm 2005, Việt Nam có khoảng nửa triệu héc ta trồng cà phê và là nước xuất khẩu cà phê lớn hàng thứ nhì thế giới. Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê ở Hà Nội, năm 2005 Việt Nam xuất khẩu 885 ngàn tấn cà phê, thu về 725 triệu đô la. Năm 2007, sau khi sụt giảm vào cuối tháng 8, trong tháng 9 giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam phục hồi mạnh. Giá trung bình tháng 9 ở mức 1738 USD/tấn, tăng 50 USD/tấn so với giá mức trung bình 1679 USD của tháng 8. Giá xuất khẩu bình quân chung 9 tháng đầu năm đạt 1.507 USD/tấn, tăng 29% cùng kỳ năm trước (khoảng 340 USD/tấn). Hiện nay cà phê xuất khẩu của Việt Nam được định giá dựa theo biến động giá trên thị trường robusta kỳ hạn tại Luân Đôn. Giá cà phê tại Luân Đôn tăng cao kéo giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam tăng theo. Nguyên nhân tăng giá do lo ngại về tình trạng thiếu hụt cung robusta trong ngắn hạn trước vụ thu hoạch mới của Việt Nam. Thu hoạch cà phê ở nước ta, nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới bắt đầu vào cuối tháng 10 trong khi những dự báo cho thấy La Nina đang hình thành ở khu vực Cao nguyên Trung bộ kèm theo mưa và lũ, có thể sẽ gây khó khăn cho việc phơi khô và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cà phê. Nguy cơ trời sẽ mưa vào giai đoạn cuối cuả vụ thu hoạch kèm theo dự báo về việc thâm hụt cà phê trên thế giới khiến giới kinh doanh trên thị trường Luân Đôn đẩy giá cà phê robusta lên cao. Thêm vào đó đà tăng giá mạnh trên thị trường arabica kỳ hạn tại Niu Yóoc trong bối cảnh mùa vụ cà phê của Braxin có thể bị thiệt hại do hạn hán kéo dài đã tác động đáng kể lên giá cà phê robusta của Việt Nam. Tại thị trường Đắk Lắk, giá cà phê nhân xô trong tháng 9 tăng so với tháng 8 nhưng biến động thất thường. Vào những ngày đầu tháng, giá cà phê đứng ở mức 25.850 đồng/kg (4/9/07) và tăng ở giữa tháng, đạt 26.900 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg so với ngày đầu tháng nhưng lại có xu hướng giảm nhẹ vào cuối tháng. Tính chung giá bình quân tháng 9 đạt mức 26.691 đồng/kg, tăng 304đồng/kg so với tháng trước và tăng 4.844 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước.Ư ơc t ính xuất khẩu cà phê tháng 9/2007 đạt khoảng 40 ngàn tấn, kim ngạch đạt 67 triệu USD, so cùng kỳ năm trước lượng giảm khoảng 17%, kim ngạch tăng gần 9%. Xuất khẩu cà phê 9 tháng đầu năm 2007 thuận lợi về giá cả và thị trường, giá cà phê tuy có biến động ngắn hạn nhưng ở xu hướng chung là tăng về dài hạn. Năm 2007 là năm đầu tiên kim ngạch XK cà phê vượt kim ngạch XK gạo với mức 13%. Ước lượng cà phê XK 9 tháng đạt 975 ngàn tấn, kim ngạch 1,47 tỉ USD. So cùng kỳ năm trước lượng tăng 45%, kim ngạch tăng 87%. Về thị trường xuất khẩu cà phê 9 tháng đầu năm: các thị trường truyền thống về cơ bản ổn định, một số thị trường được mở rộng. Trong bảng xếp hạng các nước nhập khẩu cà phê từ Việt Nam, Đức tiếp tục giữ vị trí số 1 với thị phần trên 14%, tiếp theo là Mỹ trên 10%, Ý, Tây Ban Nha, Thuỵ Sĩ với mức thị phần trên 7% mỗi nước. Tuy đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhưng giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam vẫn thấp hơn các nước sản xuất cà phê khác khoảng 50-70 USD/tấn. Theo phó chủ tịch Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam Đoàn Triệu Nhạn, nguyên nhân là do Việt Nam mua bán cà phê không theo qui trình, tiêu chuẩn của thị trường thế giới. Nông dân trồng cà phê vẫn chưa bỏ thói quen thu hái cà phê cả hạt xanh lẫn hạt chín, phơi và chế biến thủ công khiến chất lượng giảm. Cả người bán và người mua vẫn có thói quen sử dụng tiêu chuẩn cũ chỉ đánh giá chất lượng cà phê dựa trên ba tiêu chí là hàm lượng ẩm, hạt đen vỡ và tạp chất. Trong khi đó, tiêu chuẩn mới đánh giá theo số lỗi của hạt cà phê. Việc chưa áp dụng tiêu chuẩn mới phù hợp với quốc tế phản ánh những yếu kém trong quản lý chất lượng hàng hóa xuất khẩu của ngành cà phê Việt Nam. Trước sự bất cập này, Nhà nước cần đưa mặt hàng cà phê vào danh mục bắt buộc phải kiểm tra chất l ư ợng s ản ph ẩm tr ư ớc khi th ông qua. Từ cuối tháng 01/2008 đến nay, giá cà phê trên thị trường thế giới đồng loạt tăng rất mạnh. Trên thị trường London, giá cà phê robusta giao kỳ hạn tháng 3/2008 đạt mức 2.242 USD/tấn, tăng 12,78% so với trung tuần tháng 01/2007 và tăng 41,36% so với cùng kỳ năm ngoái. Trên thị trường New York, giá cà phê arabica giao kỳ hạn gần nhất đã tăng lên đến 157,2 Uscent/lb (3.462,48 USD/tấn) – mức cao kỷ lục trong 10 năm qua, tăng 16,5% so với trung tuần tháng trước và tăng 37,89% so với cùng kỳ năm ngoái. Cùng với những diễn biến trên thị trường thế giới, giá cà phê robusta xuất khẩu của nước ta tiếp tục tăng rất mạnh. Cụ thể, giá cà phê robusta loại II của nước ta đã vượt ngưỡng 2.000 USD/tấn, lên mức 2.130 – 2.150 USD/tấn, tăng 21,13% so với đầu năm 2008 và tăng 19,44% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, sau khi vượt ngưỡng 30,000 đồng/kg vào trung tuần tháng 01/2008, trung tuần tháng 02/2008, giá thu mua cà phê nhân trong nước tiếp tục tăng từ 1.500 – 2.000 đồng/kg so với cuối tháng 01/2008, lên mức 33.000 – 33.200 đồng/kg, và tăng gần 50% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo số liệu thống kê, trong 20 ngày đầu tháng 01/2008, cả nước đã xuất khẩu 108 nghìn tấn cà phê với trị giá 193,93 triệu USD, giảm 32,27% về lượng và giảm 15,45% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Giá cà phê có thể đạt mức kỷ lục !(20/02/2008 08:32)Giá cà phê trong nước đã leo lên mức cao mới: 32.000-35.000 đồng/kg. Nhiều chuyên gia dự báo, do sản lượng cà phê Việt Nam sụt giảm nên mức giá này có thể đạt mức 40.000 đồng/kg. Nhiều DN đang găm hàng, chờ giá lên cao hơn mới bán. C ó th ể n ói th ị tr ư ờng xu ất kh ẩu c à ph ê ch ưa bao gi ờ s ôi đ ộng đ ến v ậy. Nguyên nhân khiến giá cà phê leo thang ngay trong những ngày đầu năm là do sản lượng cà phê Việt Nam - nước sản xuất cà phê robusta hàng đầu thế giới, niên vụ 2007-2008 hao hụt 20-30% so với dự tính. Hạn hán đầu vụ cộng với mưa lũ trong tháng 8/2007 đã làm nhiều vườn càphê ở thủ phủ Đắk Lắk bị hư hại, chất lượng kém, năng suất giảm từ 30-70%.  Xuất khẩu cà phê của Việt Nam hiện đã vượt qua con số 1 tỷ USD và chiếm vị trí thứ 2 thế giới, đứng sau Brazil. Riêng cà phê Robusta xuất khẩu, Việt Nam còn đứng trên cả Brazil và trở thành lớn nhất thế giới. Khu vực các tỉnh Tây Nguyên là “thủ phủ” cà phê Việt Nam. Thông tin từ Bộ thương mại cho biết, hiện thời cũng như những năm sắp tới, cà phê là mặt hàng khá nhạy cảm trên thị trường, cung - cầu và giá cả dễ biến động do đó nếu không chủ động đối phó rất dễ xảy ra tình trạng năm này tăng diện tích ào ạt, năm sau lại chặt phá như đã xảy ra ở một số địa phương./. Giá cà phê thị trường thế giới và trong nước vừa qua đã bị đẩy lên rất cao.Một kg cà phê ở Gia Lai có lúc đạt 42.000 đồng/kg, mức kỷ lục. Vậy nên, thay vì bán ra, nhiều nhà vườn đã găm hàng lại. Nhiều người bắt đầu mơ về thời hoàng kim của cà phê những năm 1990. Tuy nhiên, "nhân tính không bằng trời tính", khi giá cà phê thế giới bỗng đột ngột giảm mạnh, nhiều người đã mất trắng hàng trăm triệu đồng chỉ sau một đêm chậm chân không bán ra. Lâu lắm rồi cà phê Việt Nam mới có cơ hội… “một mình một chợ”. Thời vụ thu hoạch cà phê ở phía Bắc bán cầu là từ tháng 10 đến hết tháng 12, vì vậy niên vụ tiêu thụ được tính từ tháng 10 năm trước đến hết tháng 9 năm sau. Ở phía Nam bán cầu thời vụ thu hoạch cà phê từ tháng 4 đến hết tháng 7, niên vụ tiêu thụ được tính từ tháng 4 năm trước đến hết tháng 3 năm sau. Việt Nam chiếm vị trí độc tôn về sản xuất cà phê ở phía Bắc bán cầu, trong khi các đối thủ cạnh tranh đều nằm ở phía Nam bán cầu, đây là một ưu thế của cà phê Việt Nam. Nhất là trong niên vụ 2007-2008, các nước phía Nam bán cầu bị mất mùa cà phê trong đó Brazil giảm tới 23%, Indonesia giảm 19%... Trong khi đó, nhu cầu tiêu dùng tại các nước sản xuất cà phê cũng đang tăng cao khiến một số nước như Indonesia dự kiến phải nhập khẩu khoảng 60.000 tấn cà phê trong quý 1/2008. Sản lượng thiếu cũng dẫn đến nhiều quỹ đầu tư và các nhà rang xay sẽ tăng mua để dự trữ. Là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với vị trí đầu bảng của Brazil về xuất khẩu cà phê trên thế giới với sản lượng 800.000 tấn/năm, đứng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê robusta, cà phê Việt Nam hiện đang chi phối thị trường thế giới. Việc thiếu hụt cà phê do sản lượng giảm sút mạnh trong niên vụ này đã đẩy giá thị trường cà phê thế giới lên rất cao. Đã vậy, thấy giá cao, nhiều hộ kinh doanh cà phê “găm” hàng không bán. Theo đà, giá cà phê trong nước cũng tăng lên mức kỷ lục. Tuần trước ở Tây Nguyên, giá mua vào cà phê rubusta nhân có lúc đạt mức 42.000 đồng/kg, đạt mức giá cao nhất trong 14 năm qua. Trong khi đó, giá cà phê robusta trên sàn London vào ngày 3/3 ở mức 2.757 USD/tấn, tăng 34 USD/tấn so với cuối tuần trước; giá cà phê robusta giao tại cảng Tp.HCM đạt mức 2.635 USD/tấn, tăng 30 USD/tấn so với cuối tuần trước đó. Giá cà phê như giá cổ phiếu một thời, tăng dần lên từng ngày. 2.2_ Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế đối với xuất khẩu cà phê của Việt Nam. 2.2.1_Một số thuận lợi và khó khăn trong xuất khẩu cà phê 2.2.1.1_Thuận lợi. Hội nhập kinh tế quốc tế là một đòi hỏi tất yếu, bức thiết của đất nước ta. Nhận rõ lợi thế và thách thức để chủ động hội nhập là điều hết sức cần thiết. Có vậy chúng ta mới đẩy nhanh quá trình hội nhập với quy mô rộng hơn, trình độ cao hơn… Nếu nói không sai, thì trên thực tế kinh tế Việt Nam đã hội nhập kinh tế thế giới từ lâu, nhưng vẫn ở trình độ thấp, sơ khai. Hiện nay, tuy kinh tế Việt Nam tham gia vào AFTA, ASEAN, nhưng sự tham gia đó vẫn dừng ở phạm vi hẹp, nhỏ cả về lĩnh vực lẫn quy mô, khối lượng ...Trước yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thể không đẩy nhanh tốc độ, quy mô hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX và X đều khẳng định phải “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”, với quy mô rộng hơn và trình độ cao hơn. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả thì chúng ta mới tạo ra được ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30463.doc