Thực trạng hạch toán hoạt động đầu tư vào Công ty con ở Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, mở cửa và hội nhập quốc tế,hình thức đầu tư hình thức sở hữu doanh nghiệp vì thế ngày càng đa dạng. Mô hình công ty mẹ- công ty con là mô hình tiên tiến được nhiệu nước trên thế giới thực hiện, và ngày càng được phổ biến ở Việt Nam. Hình thức này thể hiện ở mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc giữa công ty mẹ và công ty con về cơ bản phụ thuộc vào yếu tố vốn và là nút liên kết. Thông qua việc nắm giữ và chi phối về vốn đầu tư mà công ty mẹ có v

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hạch toán hoạt động đầu tư vào Công ty con ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị trí, vai trò quan trọng trong việc quyết định chiến lược phát triển của mình và công ty con, các công ty con phụ thuộc công ty mẹ về mục tiêu hoạt động nhằm thực hiện chiến lược chung. Để đất nước ngày càng phát triển hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là khi chúng ta đã gia nhập tổ chức WTO, chúng ta cần phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu, nhằm thu hút vốn đầu tư từ các nguồn khác nhau: trong và ngoài nước, góp phần làm mạnh thêm nền kinh tế nước nhà. Chúng ta cần tìm hiểu kỹ loại hình này và cách thức hạch toán nó, nhằm giúp cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư tìm cho mình hướng đi đúng đắn trong việc quản lý và đầu tư. Đồng thời hoàn thiện hơn chế độ hạch toán các khoản đầu tư vào công ty con. Bài viết này chỉ dựa trên những hiểu biết còn rất hạn chế, vì thế còn nhiều thiếu sót. Mong nhận được ý kiến đóng góp của cô để bài viết này hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên: Vũ Thị Phượng I.Những vấn đề chung về các khoản đầu tư vào công ty con. 1. Những khái niệm cơ bản. 1.1) Khái niệm công ty mẹ. Có rất nhiều khái niệm về công ty mẹ trong một tập đoàn kinh tế. Song, khái niệm sau đây được thừa nhận và sử dụng nhiều hơn cả: "Công ty mẹ trong một tập đoàn kinh tế là một doanh nghiệp được thành lập và đăng ký theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, có khả năng trong một hoặc một số lĩnh vực liên quan đến hoạt động kinh doanh đủ mạnh để kiểm soát hoặc chi phối các công ty khác trong tập đoàn và được các công ty thành viên trong tập đoàn chấp nhận sự kiểm soát, chi phối đó theo những nguyên tắc và phương thức nhất định". Khái niệm trên cho thấy, không phải bất kỳ doanh nghiệp nào trong tập đoàn cũng có thể trở thành công ty mẹ theo một ý chí chủ quan nào đó. Công ty mẹ chỉ thực sự là "mẹ" và bền vững khi nó hơn hẳn các công ty khác trong tập đoàn về một hoặc một số điều kiện quan trọng đối với hoạt động kinh doanh. Vì vậy, tùy theo lĩnh vực mà công ty mẹ có thể chi phối, kiểm soát được các công ty khác trong tập đoàn. Có thể phân chia công ty mẹ thành các loại sau: Công ty mẹ quyền lực chi phối, kiểm soát các công ty khác trong tập đoàn theo quyền lực hành chính tự có. Công ty mẹ loại này xuất hiện khi có sự tham gia của Nhà nước. Bằng một văn bản pháp quy, Nhà nước chỉ định một công ty trong tập đoàn là công ty mẹ và trao cho công ty này một quyền lực đặc biệt để chi phối, kiểm soát các công ty khác trong tập đoàn. Công ty mẹ loại này thường không bền vững. Công ty mẹ sở hữu vốn chi phối, kiểm soát các công ty khác trong tập đoàn theo tỷ lệ vốn góp vào các công ty khác. Đây là loại công ty mẹ phổ biến hiện nay. Và, chỉ khi công ty mẹ chiếm tỷ lệ vốn góp lớn nhất trong các công ty khác thì mới chi phối, kiểm soát được các hoạt động của các công ty khác trong tập đoàn. Công ty mẹ công nghệ thực hiện quyền chi phối, kiểm soát các công ty khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua bí quyết về công nghệ. Công ty mẹ loại này xuất hiện khi một công ty sở hữu một bí quyết công nghệ có vị trí quyết định trong tập đoàn. Vì vậy, các công ty khác trong tập đoàn chấp nhận sự chi phối, kiểm soát của công ty mẹ để được sử dụng bí quyết về công nghệ đó. Công ty mẹ thị trường chi phối, kiểm soát các công ty khác trong tập đoàn về thị trường tiêu thụ. Trong trường hợp này, các công ty khác trong tập đoàn chấp nhận sự chi phối, kiểm soát của công ty mẹ để được tiêu thụ sản phẩm qua công ty mẹ. Công ty mẹ thương hiệu chi phối, kiểm soát các công ty khác trong tập đoàn thông qua việc sử dụng thương hiệu. Đó là trường hợp công ty mẹ đã tạo được một thương hiệu nổi tiếng trên thị trường, do đó, các công ty khác trong tập đoàn chấp nhận sự chi phối, kiểm soát của công ty mẹ để được sử dụng thương hiệu phục vụ tiêu thụ hàng hóa. Tuy nhiên, sự phân loại chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế, ngay trong một tập đoàn, công ty mẹ chi phối, kiểm soát những công ty con khác nhau theo những thế mạnh khác nhau. Chẳng hạn, công ty mẹ chi phối, kiểm soát một hoặc một số công ty con theo tỷ lệ vốn góp, đồng thời, chi phối, kiểm soát một hoặc một số công ty con khác theo công nghệ, thị trường hoặc thương hiệu... Thông qua việc nắm giữ và chi phối về vốn đầu tư, công ty mẹ có vị trí, vai trò quan trọng trong việc quyết định chiến lược phát triển của các công ty con nhằm thực hiện mục tiêu chung của cả tập đoàn. Quyền sở hữu đem lại cho công ty mẹ khả năng chi phối đối với công ty con, thông qua việc quyết định về tổ chức, quản lý, nhân sự chủ chốt, thị trường cũng như những vấn đề quan trọng khác. Mức độ sở hữu vốn của công ty mẹ trong công ty con quyết định nội dung của mối quan hệ trên. Công ty con được công ty mẹ góp 100% vốn thì mối quan hệ với công ty mẹ sẽ hết sức chặt chẽ, thể hiện ở việc công ty mẹ có quyền quyết định hoàn toàn những vấn đề quan trọng của công ty con. Các công ty con mà công ty mẹ giữ cổ phần hoặc vốn góp chi phối sẽ có mối quan hệ ít chặt chẽ với công ty mẹ. Tuy nhiên, với tỷ lệ vốn góp giành được quyền chi phối, các công ty mẹ vẫn đủ sức kiểm soát và định hướng cho công ty con hoạt động nhằm phục vụ lợi ích, chiến lược của công ty mẹ. 1.2) Khái niệm công ty con. Hiện nay có khá nhiều khái niệm về công ty con. Song, theo khái niệm được sử dụng nhiều nhất là: "công ty con là những doanh nghiệp trong tập đoàn được thành lập và đăng ký theo quy định của pháp luật, có một công ty mẹ chi phối, kiểm soát và tự nguyện chấp nhận sự chi phối, kiểm soát của công ty mẹ theo những nguyên tắc và phương thức nhất định". Tùy theo mức độ bị chi phối, kiểm soát, có thể phân loại công ty con: Công ty con phụ thuộc toàn phần bị công ty mẹ chi phối, kiểm soát toàn bộ từ tổ chức, bộ máy đến hoạt động kinh doanh, mặc dù nó vẫn có tư cách pháp nhân độc lập. Công ty con loại này xuất hiện trong quan hệ công ty mẹ sở hữu 100% vốn của công ty con hoặc bị chi phối, kiểm soát do quyền lực hành chính nhà nước. Công ty con phụ thuộc từng phần chỉ bị công ty mẹ chi phối, kiểm soát trong một số lĩnh vực nhất định như hoạt động tín dụng, thị trường hoặc công nghệ. Công ty con loại này xuất hiện khi công ty mẹ không sở hữu 100% vốn của công ty con hoặc không đầu tư vào công ty con mà chỉ chi phối, kiểm soát công ty con qua công nghệ, thị trường hoặc thương hiệu... Ngoài ra, giữa các công ty con lại có mối quan hệ ràng buộc với nhau, phụ thuộc vào sự điều tiết của công ty mẹ nhằm phục vụ mục tiêu chung của tập đoàn. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, các công ty con vẫn hoàn toàn độc lập và tự chủ trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của mình. 1.3) Tập đoàn. Bao gồm công ty mẹ và các công ty con hoặc tổng công ty. 1.4) Báo cáo tài chính hợp nhất. Báo cáo tài chính hợp nhất: là báo cáo tài chính của một tập đoàn được trình bày như báo cáo tài chính của một doanh nghiệp. Báo cáo này được lập trên cơ sở hợp nhất báo cáo của công ty mẹ và các công ty con theo quy đinh. 2) Quyền hạn, trách nhiệm của công ty mẹ, công ty con. 2.1) Quyền hạn, trách nhiệm của công ty mẹ. (Theo luật doanh nghiệp của Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005) Điều 147. Quyền và trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con 1. Tuỳ thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con, công ty mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là thành viên, chủ sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công ty con theo quy định tương ứng của Luật này và pháp luật có liên quan. 2. Hợp đồng, giao dịch và quan hệ khác giữa công ty mẹ và công ty con đều phải được thiết lập và thực hiện độc lập, bình đẳng theo điều kiện áp dụng đối với các chủ thể pháp lý độc lập, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này. 3. Trường hợp công ty mẹ can thiệp ngoài thẩm quyền của chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ đông và buộc công ty con phải thực hiện hoạt động kinh doanh trái với thông lệ kinh doanh bình thường hoặc thực hiện hoạt động không sinh lợi mà không đền bù hợp lý trong năm tài chính có liên quan, gây thiệt hại cho công ty con thì công ty mẹ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó. 4. Người quản lý của công ty mẹ chịu trách nhiệm về việc can thiệp buộc công ty con thực hiện hoạt động kinh doanh quy định tại khoản 3 Điều này phải liên đới cùng công ty mẹ chịu trách nhiệm về các thiệt hại đó. 5. Trường hợp công ty mẹ không đền bù cho công ty con theo quy định tại khoản 3 Điều này thì chủ nợ hoặc thành viên, cổ đông có sở hữu ít nhất 1% vốn điều lệ của công ty con có quyền nhân danh chính mình hoặc nhân danh công ty con đòi công ty mẹ đền bù thiệt hại cho công ty con. 6. Trường hợp hoạt động kinh doanh như quy định tại khoản 3 Điều này do công ty con thực hiện đem lại lợi ích cho công ty con khác của cùng một công ty mẹ thì công ty con được hưởng lợi đó phải liên đới cùng công ty mẹ hoàn trả khoản lợi được hưởng đó cho công ty con bị thiệt hại 2.2) Quyền hạn, trách nhiệm của công ty con. (Theo Nghị định 153/2004/NĐ-CP quy định) Công ty con có các quyền và nghĩa vụ: quản lý và sử dụng linh hoạt số vốn do công ty mẹ đầu tư, chịu trách nhiệm trước công ty mẹ về hiệu quả sử dụng vốn và các nguồn lực; có quyền tự chủ kinh doanh trên cơ sở sử dụng tối ưu các nguồn lực của công ty, phù hợp với nhu cầu thị trường và các mục tiêu, phương án phối hợp kế hoạch kinh doanh chung của công ty mẹ; tham gia các hình thức đầu tư hoặc được công ty mẹ giao tổ chức thực hiện các dự án đầu tư… 3. Những vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính hợp nhất. (Theo luật doanh nghiệp của Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005) Điều 148. Báo cáo tài chính của công ty mẹ và công ty con 1. Vào thời điểm kết thúc năm tài chính, ngoài báo cáo và tài liệu theo quy định của pháp luật, công ty mẹ còn phải lập các báo cáo sau đây: a) Báo cáo tài chính hợp nhất của nhóm công ty theo quy định của pháp luật về kế toán; b) Báo cáo tổng hợp kết quả kinh doanh hằng năm của nhóm công ty; c) Báo cáo tổng hợp công tác quản lý, điều hành của nhóm công ty. 2. Người chịu trách nhiệm lập báo cáo quy định tại khoản 1 Điều này chưa được lập và đệ trình các báo cáo đó nếu chưa nhận được đầy đủ báo cáo tài chính của các công ty con. 3. Khi có yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của công ty mẹ, người đại diện theo pháp luật của công ty con phải cung cấp các báo cáo, tài liệu và thông tin cần thiết như quy định để lập báo cáo tài chính hợp nhất và báo cáo tổng hợp của nhóm công ty. 4. Trường hợp không biết hoặc không nghi ngờ về việc báo cáo do công ty con lập và đệ trình có thông tin sai lệch, không chính xác hoặc giả mạo thì người quản lý công ty mẹ sử dụng các báo cáo đó để lập báo cáo tài chính hợp nhất và báo cáo tổng hợp của nhóm công ty. 5. Trong trường hợp người quản lý công ty mẹ đã áp dụng các biện pháp cần thiết trong phạm vi thẩm quyền mà vẫn không nhận được báo cáo, tài liệu và thông tin cần thiết như quy định từ công ty con thì người quản lý công ty mẹ vẫn lập và trình báo cáo tài chính hợp nhất, báo cáo tổng hợp của nhóm công ty. Báo cáo có thể gồm hoặc không gồm các thông tin từ công ty con đó, nhưng phải có giải trình cần thiết để tránh hiểu nhầm hoặc hiểu sai lệch. 6. Các báo cáo, tài liệu quyết toán tài chính hằng năm của công ty mẹ, của các công ty con và các báo cáo tài chính hợp nhất, báo cáo tổng hợp của cả nhóm công ty phải được lưu giữ tại trụ sở chính của công ty mẹ. Bản sao của các báo cáo, tài liệu quy định tại khoản này phải có ở các chi nhánh của công ty mẹ trên lãnh thổ Việt Nam. 7. Đối với các công ty con, ngoài các báo cáo, tài liệu theo quy định của pháp luật, còn phải lập và đệ trình báo cáo tổng hợp về mua, bán và các giao dịch khác với công ty mẹ. II. Hạch toán các khoản đầu tư vào công ty con theo chế độ hiện hành. 1.Tài khoản sử dụng. 1.1) Tài khoản sử dụng. - Tài khoản này không phản ánh số vốn đầu tư mà công ty mẹ đầu tư vốn trực tiếp hoặc gián tiếp vào các công ty con. Các khoản đầu tư này được phản ánh ở TK 221 - Đầu tư vào công ty con. (2) Tài khoản 221 - Đầu tư vào công ty con a) Đổi tên Tài khoản 221 “Đầu tư chứng khoán dài hạn” thành Tài khoản 221 “Đầu tư vào công ty con”. b) Nội dung, kết cấu, phương pháp kế toán của Tài khoản 221 “Đầu tư vào công ty con”. Tài khoản 221 dùng để phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động khoản đầu tư vốn vào công ty con. Khoản đầu tư vào công ty con bao gồm: (1). Cổ phiếu doanh nghiệp là chứng chỉ xác nhận vốn góp của công ty mẹ vào công ty con hoạt động theo loại hình công ty cổ phần. Cổ phiếu có thể gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. Công ty mẹ là chủ sở hữu cổ phiếu thường tại Công ty con có quyền tham gia Đại hội cổ đông, có thể ứng cử và bầu cử vào Hội đồng quản trị, có quyền biểu quyết các vấn đề quan trọng về sửa đổi, bổ sung điều lệ, phương án kinh doanh, phân chia lợi nhuận theo quy định trong điều lệ hoạt động của doanh nghiệp. Công ty mẹ là chủ sở hữu cổ phiếu được hưởng cổ tức trên kết quả hoạt động kinh doanh của công ty con, nhưng đồng thời chủ sở hữu cổ phiếu cũng phải chịu rủi ro khi công ty con thua lỗ, giải thể (hoặc phá sản) theo điều lệ của doanh nghiệp và Luật phá sản doanh nghiệp. (2). Khoản đầu tư vốn vào công ty con hoạt động theo loại hình công ty Nhà nước, công ty TNHH một thành viên, công ty cổ phần Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác. 1.2) Kết cấu và nội dung của tài khoản 221- Đầu tư vào công ty con. Bên Nợ: Giá trị thực tế các khoản đầu tư vào công ty con tăng. Bên Có: Giá trị thực tế các khoản đầu tư vào công ty con giảm. Số dư bên Nợ: Giá trị thực tế các khoản đầu tư vào công ty con hiện có của công ty mẹ. Tài khoản 221 - Đầu tư vào công ty con, có 2 tài khoản cấp 2: - Tài khoản 2211 - Đầu tư cổ phiếu: Phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động của các loại cổ phiếu đầu tư vào công ty con của công ty mẹ. -Tài khoản 2212 - Đầu tư khác: Phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động của các loại đầu tư khác vào công ty con của công ty mẹ. 1.3) Hạch toán Tài khoản 221 - Đầu tư vào công ty con cần tôn trọng một số quy định sau (1). Vốn đầu tư vào công ty con phải được phản ánh theo giá gốc, bao gồm giá mua cộng (+) các chi phí mua (nếu có), như: Chi phí môi giới, giao dịch, lệ phí, thuế và phí Ngân hàng... (2). Kế toán phải mở sổ chi tiết theo dõi khoản đầu tư vào từng công ty con theo mệnh giá, giá thực tế mua cổ phiếu, chi phí thực tế đầu tư vào các công ty con... (3). Phải hạch toán đầy đủ, kịp thời các khoản thu nhập từ công ty con (lãi cổ phiếu, lãi kinh doanh) của năm tài chính vào báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ. Cổ tức, lợi nhuận được chia từ công ty con được hạch toán vào doanh thu hoạt động tài chính hàng năm của công ty mẹ. 2. Phương pháp hạch toán một số các nghiệp vụ đầu tư vào công ty con. (Theo thông tư hướng dẫn thực hành chuẩn mực số 21) (1) Khi công ty mẹ mua cổ phiếu hoặc đầu tư vào công ty con bằng tiền theo cam kết góp vốn đầu tư, hoặc mua khoản đầu tư tại công ty con, căn cứ vào khoản tiền thực tế đầu tư vào công ty con, ghi: Nợ TK 221 - Đầu tư vào công ty con Có TK 111 - Tiền mặt; hoặc Có TK 112 - Tiền gửi Ngân hàng Có TK 341 - Vay dài hạn. Đồng thời mở sổ chi tiết ngoài Bảng cân đối kế toán để theo dõi từng loại cổ phiếu theo mệnh giá (nếu đầu tư vào công ty con bằng mua cổ phiếu của công ty con). (2) Nếu có chi phí phát sinh về thông tin, môi giới, giao dịch mua, bán trong quá trình mua cổ phiếu, hoặc thực hiện đầu tư vào công ty con, ghi: Nợ TK 221 - Đầu tư vào công ty con Có các TK 111, 112, ... (3) Trường hợp chuyển khoản đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh, công cụ tài chính thành khoản đầu tư vào công ty con, ghi: Nợ TK 221 - Đầu tư vào công ty con Có TK 222 - Vốn góp liên doanh, hoặc Có TK 223 - Đầu tư vào công ty liên kết Có TK 228 - Đầu tư dài hạn khác Có TK 121 - Đầu tư chứng khoán ngắn hạn khác. (4) Cuối năm tài chính nhận được thông báo chia cổ tức, lãi kinh doanh, hoặc nhận được tiền về các khoản lãi được chia từ công ty con, ghi: Nợ TK 111, 112 Nợ TK 131 - Phải thu khách hàng; hoặc Nợ TK 221 - Đầu tư vào công ty con (Trường hợp lãi được chia để lại tăng vốn đầu tư vào công ty con - nếu có) Có TK 515 - Doanh thu hoạt động tài chính. (5) Khi chuyển đổi khoản đầu tư vào công ty con thành khoản đầu tư vào công ty liên kết, hoặc trở thành khoản đầu tư là công cụ tài chính, ghi: Nợ TK 121 - Đầu tư chứng khoán ngắn hạn Nợ TK 223 - Đầu tư vào công ty liên kết Nợ TK 228 - Đầu tư dài hạn khác Có TK 221 - Đầu tư vào công ty con. (6) Khi thu hồi, thanh lý vốn đầu tư vào công ty con, phát sinh lỗ về thu hồi vốn đầu tư, ghi: Nợ các TK 111, 112 Nợ TK 131 - Phải thu khách hàng Nợ TK 635 - Chi phí tài chính (đối với các khoản lỗ đầu tư không thể thu hồi) Có TK 221 - Đầu tư vào công ty con. (7) Khi thu hồi, thanh lý vốn đầu tư vào công ty con, phát sinh lãi về thu hồi vốn đầu tư, ghi: Nợ các TK 111, 112 Nợ TK 138 - Phải thu khác Có TK 221 - Đầu tư vào công ty con Có TK 515 - Doanh thu hoạt động tài chính (đối với các khoản chênh lệch lãi đầu tư thu hồi) III. Thực trạng hạch toán hoạt động đầu tư vào công ty con ở Việt Nam và một số kiến nghị. 1. Thực trạng hoạt động đầu tư vào công ty con. Hiện nay, trên thế giới, mô hình công ty mẹ - con không phải là điều gì mới mẻ. Nhiều tập đoàn đa và xuyên quốc gia lớn đều áp dụng mô hình này do những ưu điểm của nó. Các nước trên thế giới áp dụng theo 2 dạng mô hình về công ty mẹ - con: Thứ nhất là, công ty mẹ chỉ đầu tư cho công ty con về tài chính (holding company). Theo dạng này thì mối liên hệ giữa công ty mẹ và công ty con chỉ thông qua đầu tư tài chính. Tuy nhiên phải thấy rằng sự sản sinh của mô hình công ty mẹ và con không phải do luật pháp hoặc những quyết định hành chính, dựa trên ý muốn chủ quan của nhà nước hay một yêu cầu quản lý duy ý chí. Một doanh nghiệp kinh doanh ở một mức độ chín muồi nào đó thường có nhu cầu mở rộng kinh doanh hoặc phát triển theo chiều sâu nào đó. Nó hoặc là có nhu cầu mở rộng mặt hàng, mở rộng thị trường, hoặc muốn tham gia nhiều hơn vào các công đoạn tạo ra giá trị của một mặt hàng (như khai thác nguyên liệu, vận tải hoặc phân phối). Có những ví dụ rất thực tế về vấn đề này.  Lấy nước Mỹ làm thí dụ. Những năm từ 1880 trở đi ở đó đã có rất nhiều công ty hoạt động trong những ngành công nghiệp khác nhau. Họ là nguồn cung trong nền kinh tế. Khi số cung nhiều thì giá hàng sẽ giảm và lợi tức sẽ ít đi. Để chống lại mối nguy này, các công ty sản xuất các công đoạn khác nhau của một sản phẩm (dầu khí) kết hợp lại với nhau theo các loại hợp đồng để lập nên một sự phối hợp hành chính hầu giảm phí tổn và mở rộng sản xuất. Đó là sự tập trung theo hàng dọc mà mục đích cuối cùng là dẹp bớt các doanh nghiệp khác. Riêng các công ty khác nhau cùng kinh doanh một mặt hàng (thực phẩm, thuốc lá) họ cũng ký kết hợp đồng nhằm kiểm soát giá cả và lượng hàng bán ra. Đó là sự tập trung theo chiều ngang. Xin hình dung hai loại kết hợp này như những đường thẳng và chúng dính với nhau như những chữ “T” mà sẽ được áp đặt trên nền kinh tế. Tập trung như thế là “hạn chế kinh doanh” và luật pháp của Mỹ bèn đánh vào chúng. Khi bị đánh, các đường thẳng kia, mỗi loại, bèn uốn cong lại thành một hình tròn và trở thành công ty mẹ con. Vậy là sự phát triển sản xuất tạo nên các công ty mẹ con. Quá trình từ đường thẳng thành đường tròn đã diễn ra như  thế này : một người có uy tín trong các công ty thẳng hàng lập ra một công ty mới, hay là chính họ biến đổi đi, họ rủ các công ty khác đứng trong hàng bán cổ phần cho nó; nó thành mẹ; sau đó nó bỏ tiền mua cổ phần của các công ty đã góp vốn vào; thế là có con. Điều diễn ra thực sự là sự chuyển dịch tài sản trên giấy tờ, còn mỗi công ty vẫn hoạt động như cũ nhưng với một tên mới. Công ty mẹ chỉ có tiền bỏ vào các công ty con; không có máy móc gì, chẳng sản xuất chi, nên luật pháp không thể đánh nó được. Thế nhưng nó phối hợp được công việc kinh doanh của các công ty con. Một kỳ tích của sự lách luật! Và công ty mẹ được gọi là “holding company”. Về sau luật lệ cho phép loại công ty này ra đời. Ngày nay, công ty holding được lập theo hai cách. Một là thành lập ngay từ đầu theo luật, với chức năng là góp vốn vào các công ty khác. Hai là một người đầu tư mua lại một công ty sản xuất đang hoạt động; sau đó sáp nhập nó với một công ty cùng ngành để mở rộng ra. Khi có thừa tiền, thay vì trả cổ tức cho cổ đông thì công ty bỏ tiền vào các công ty hoạt động trong các ngành khác. Tiếp theo nó có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán để có tiền mua vốn của nhiều công ty khác nữa, biến tất cả thành công ty con. Lúc này công ty mẹ vừa sản xuất, vừa bỏ tiền đầu tư. Một ngày nào đó, nó bán phần sản xuất đi và trở thành công ty holding. Đây là trường hợp của Công ty Berhshire Hathaway của ông Warren Buffet ở Mỹ. Giống như Vinamilk đang làm hiện nay. Khi công ty mẹ góp vốn vào thì có quyền quản trị ở công ty con. Quyền kia nhiều hay ít tùy theo số tiền bỏ vào. Mẹ có thể bỏ theo hai cách: một là trên 51% số vốn của con; hai là khoảng 5-49%. Để phân biệt hai cách bỏ vốn, hoặc  nắm quyền này, thì người ta gọi công ty con mà có 51% vốn của mẹ là “subsidiary” còn loại kia là “associate”. Do nhu cầu phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường, phục vụ cho việc chuyên môn hoá sâu, hợp tác rộng ở Việt Nam hiện nay đã hình thành khá nhiều công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ-con, tuy vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Mô hình công ty mẹ- công ty con ở Việt Nam rất đa dạng về hình thức. Có thể là công ty mẹ sở hữu 100% vốn của công ty con, hoặc công ty mẹ có quyền chi phối ở công ty con thông qua cổ phấn hoặc vốn góp… ngoài ra ở Việt Nam hiện nay có nhiều tổng công ty nhà nước đang chuyển đối sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con và đã đạt được những kết quả ban đầu rất khả quan, góp phần quan trọng vào việc khẳng định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Điển hình là sự thành công của các Tổng công ty chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ- công ty con như: Công ty Dệt May Hà Nội (Hanosimex), Tổng công ty hoá chất Việt Nam, Tổng công ty Hóa chất (VINACHEM), Tổng Công ty Bia-Rượu- Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco)… Ở Tổng Công ty Bia-Rượu- Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco). Sau một năm chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con, Sabeco đã đạt kỷ lục cả về doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách Nhà nước; các chỉ tiêu này đều tăng bình quân từ 15,52% đến 18,65% so với kế hoạch. Theo ông Văn Thanh Liêm, Phó Tổng giám đốc phụ trách kinh doanh của Sabeco, tính ưu việt của mô hình này là chuyên ngành hơn. Trước kia, mạnh ai nấy sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ nên dẫn đến cạnh tranh lẫn nhau trong nội bộ. Nay công ty mẹ quản lý đầu ra; các công ty con tự chủ, bình đẳng trong kinh doanh, giảm được phí trung gian, chất lượng sản phẩm ổn định... Công ty Xây lắp điện 3, sau khi chuyển sang hoạt động theo mô hình mẹ-con, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 23,8%, doanh thu các hoạt động kinh doanh khác tăng 78%; hoàn thành đúng tiến độ, yêu cầu các công trình lớn như đường dây 500 KV Phú Mỹ-Nhà Bè-Phú Lâm, Pleiku-Phú Lâm... Vinamilk, sau hơn một năm cổ phần hóa có hiệu quả, đã được bán tiếp 15% phần vốn Nhà nước tại DN, dự kiến huy động thêm được 500 tỉ đồng vốn; thí điểm thành công mô hình phân phối mới, sản lượng sản phẩm bán ra tăng 30%... Chính phủ đã ban hành những nghị định 111/2007/NĐ-CP về tổ chức, quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty Nhà nước, công ty nhà nước độc lập, công ty mẹ là công ty nhà nước hoạt động theo hình thức công ty mẹ-công ty con hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Nghị định này thay thế Nghị định 153/2004/NĐ-CP ngày 9/8/2004 của Chính phủ về tổ chức, quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập theo mô hình công ty mẹ- công ty con. Một trong những điểm mới của Nghị định 111/2007/NĐ-CP là không quy định công ty liên doanh là đơn vị thành viên do tổng công ty nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối. Theo đó, khoản 3 Điều 6 quy định, các đơn vị thành viên do tổng công ty nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối chỉ gồm: công ty cổ phần, công ty TNHH có cổ phần, vốn góp chi phối của tổng công ty hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và các doanh nghiệp do tổng công ty giữ cổ phần, vốn góp chi phối được thành lập ở nước ngoài, tổ chức và hoạt động theo pháp luật của nước sở tại. So với Nghị định 153/2004/NĐ-CP, Chương III của Nghị định 111/2007/NĐ-CP quy định rõ hình thức công ty mẹ-công ty con đối với công ty mẹ là công ty nhà nước (mục 1) khác với công ty mẹ là công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu (mục 2). Cụ thể, quy định về hình thức công ty mẹ-công ty con với công ty mẹ là công ty nhà nước chỉ áp dụng đối với các tổng công ty nhà nước, công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập đã chuyển đổi sang hình thức công ty mẹ-công ty con theo Nghị định 153/2004/NĐ-CP. Các quy định tại mục này chủ yếu không thay đổi so với các quy định tại Chương III, Nghị định 153/2004/NĐ-CP. Theo đó, công ty mẹ có cơ cấu quản lý gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và bộ máy giúp việc. Khác với quy định cũ, căn cứ vào đặc điểm, quy mô, số lượng công ty con hoạt động tại các địa bàn trong và ngoài nước, chủ sở hữu công ty quyết định cơ cấu tổ chức quản lý của công ty mẹ theo mô hình Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc (Giám đốc), Kiểm soát viên hoặc mô hình Chủ tịch công ty, Giám đốc, Kiểm soát viên (Mục 2, Chương III, Nghị định 111/2007/NĐ-CP). Theo quy định cũ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án chuyển đổi của các Tổng công ty, công ty sau khi có ý kiến đề nghị của Hội đồng thẩm định (Điều 35, Nghị định 153/2004/NĐ-CP). Khác với quy định trên, Điều 41, Nghị định 111/2007/NĐ-CP quy định: người quyết định thành lập tổng công ty, công ty nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty là người phê duyệt đề án chuyển đổi, quyết định lộ trình, việc chuyển đổi tổng công ty, công ty và phê duyệt điều lệ công ty mẹ. 2. Thực trạng công tác hạch toán đầu tư vào công ty con. Trước hết phải nói đến phương pháp kế toán khoản đầu tư vào công ty con trên báo cáo tài chính của công ty mẹ, vì báo cáo tài chính (BCTC) là báo cáo quan trọng của công ty mẹ, công ty con trong mô hình này. Trên thực tế luôn luôn tồn tại một số phương pháp kế toán các khoản đầu tư vào công ty con, đó là phương pháp giá vốn và phương pháp vốn chủ sở hữu. Theo phương pháp giá vốn, giá phí hợp nhất kinh doanh được phản ánh trên tài khoản đầu tư vào công ty con và giữ nguyên không thay đổi cho đến khi thanh lý toàn bộ hoặc một phần vốn đầu tư vào công ty con hoặc khi có sự giảm giá (tổn thất) đáng kể đối với khoản đầu tư này. Doanh thu hoạt động tài chính do đầu tư vào công ty con trên BCTC của công ty mẹ được xác định trên cơ sở số cổ tức được công ty con chính thức công bố phân phối và tỷ lệ quyền lợi kinh tế của công ty mẹ trong vốn chủ sở hữu của công ty con. Như thế, số lợi nhuận thuần hoặc số lỗ trong kỳ của công ty con không ảnh hưởng trực tiếp đến số doanh thu của hoạt động đầu tư vào công ty con được ghi nhận trên sổ sách kế toán của công ty mẹ trong kỳ đó. Theo phương pháp vốn chủ sở hữu, giá vốn hợp nhất kinh doanh được phản ánh trên tài khoản đầu tư vào công ty con. Sau đó, tài khoản này được điều chỉnh tăng lên hoặc giảm xuống tuỳ thuộc vào số lợi nhuận thuấn hoặc số lỗ của công ty con trong kỳ, số phân bổ chênh lệch giữc giá hợp lý và giá ghi sổ tài sản-nợ phải trả của công ty con tại thời điểm hợp nhất, số phân bổ lợi thế thương mại phát sinh, số lợi nhuận hoặc lỗ chưa thực hiện phát sinh từ những nghiệp vụ nội bộ trong tập đoàn phân bổ cho công ty mẹ và số cổ tức công ty mẹ được hưởng trong kỳ. Như thế, phương pháp này ghi nhận doanh thu hoạt động tài chính do đầu tư vào công ty con theo số lợi nhuận được công ty con thực hiện chứ không phải số cổ tức được công ty này phân phối hay công bố phân phối trong kỳ; do đó, phương pháp vốn chủ sở hữu phù hợp với phương pháp kế toán dồn tích. Ưu, nhược điểm của các phương pháp. Phương pháp giá vốn dựa tên cơ sỏ mối quan hệ pháp lý giữa công ty mẹ và công ty con. Cả công ty mẹ và công ty con là những thực thể pháp lý riêng biệt, doanh thu hoạt động đầu tư vào công ty con được ghi nhận trên sổ kế toán của công ty mẹ chỉ khi công ty con công bố chính thức phân phối cổ tức. Điều đó có nghĩa là khi gắn trách nhiệm pháp lý về việc phân phối cổ tức của công ty con đối với công ty mẹ thì doanh thu hoạt động tài chính đầu tư vào công ty con mới được công ty mẹ ghi nhận. Ngoài ra, phương pháp này đơn giản, giảm bớt công việc ghi chép trên sổ kế toán của công ty mẹ do loại bỏ các bút toán điều chỉnh theo yêu cầu của phương pháp vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, phương pháp giá vốn tồn tại hai nhược điểm cơ bản. Thứ nhất, phương pháp này không phản ánh thực chất kinh tế của công ty con vì số lợi nhuận thuần hoặc lãi trong kỳ của công ty con không được phản ánh trực tiếp trên BCTC của công ty mẹ trong kỳ đó. Do công ty mẹ có khả năng kiểm soát hoạt động kinh doanh và cả chính sách tài chính của công ty con nên công ty mẹ có thể phóng đại doanh thu tài chính từ hoạt động đầu tư vào công ty con bằng nhiều cách khác nhau; chẳng hạn, công ty mẹ có thể tạo sức ép với công ty con trong việc phân phối số cổ tức lớn cho dù lợi nhuận thuần trong kỳ của công ty này nhỏ hoặc công ty mẹ không phản ánh số lỗ mà công ty con phải gánh chịu trong kỳ. Nhược điểm này của phương pháp giá vốn bị chỉ trích ở chỗ nó không cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin kinh tế để đánh giá khả năng sinh lời và bức tranh tài chính có liên quan đến khoản đầu tư vào công ty con. Thứ hai, khi BCTC hợp nhất được lập rất nhiều thủ tục kế toán liên quan phải được thực hiện để xác đính số lợi nhuận theo phương pháp vốn chủ sở hữu. Phương pháp vốn chủ sở hữu cho phép các nhà đầu tư đánh giá được khả năng sinh lời và bức tranh tài chính có liên quan đến khoản đầu tư vào công ty con. Phương pháp này còn cho phép nhân viên kế toán lập BCTC hợp nhất tự kiểm tra số liệu được lập có chính xác hay không. Tuy nhiên, phương pháp vốn chủ sở hữu không thể hiện được mối quan hệ có tính pháp lý giữa công ty mẹ và công ty con trong m._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36111.doc
Tài liệu liên quan