Thực trạng & Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho phát triển cơ sở hạ tầng GTVT

Mục lục Lời nói đầu Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã đạt được nhũng thành tựu hết sức quan trọng. Từ một nền kinh tế khép kín dưới chế đô tập trung quan liêu bao cấp, Việt Nam đã chuyển sang một nền kinh tế mở, tăng cường quan hệ giao lưu kinh tế với tất cả các nước, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Đây là một nền tảng hết sức quan trọng để chúng ta đưa nền kinh tế ngày một phát triển trở thành một nước công nghiệp

doc109 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1009 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho phát triển cơ sở hạ tầng GTVT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên để phát triển, nền kinh tế Việt Nam phải vượt qua nhiều tồn tại và bất cập, trong đó sự yếu kém của cơ sở hạ tầng (CSHT) đã và đang là rào cản lớn cho sự phát triển kinh tế. Theo nguyên tắc của sự phát triển: Muốn có một nền kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước và phát triển với một nhịp độ cao hơn nhịp độ phát triển chung của nền kinh tế. Đứng trước thực tế này, yêu cầu cấp bách đặt ra cho chúng ta là phải đầu tư cho CSHT, tạo điều kiện cho CSHT phát triển. Một trong những lĩnh vực được ưu tiên hiện nay là đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Hiểu rõ tầm quan trọng của CSHT GTVT và vốn đầu tư cho lĩnh vực này, Chính phủ Việt Nam đã đặc biệt ưu tiên cho mọi hình thức để phát triển nhanh lĩnh vực này. Tuy nhiên với đặc điểm là những dự án đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, lợi ích đem lại là lợi ích công cộng, khó bù đắp kinh phí đầu tư... thì nguồn vốn trong nước sẽ không đủ để đầu tư. Trong điều kiện vốn ngân sách hạn hẹp như vậy thì việc kết hợp nguồn vốn trong nước và ngoài nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một trong những trợ thủ đắc lực cho sự nghiệp phát triển CSHT GTVT. Nguồn ODA đầu tư cho xây dựng công trình giao thông ngày càng lớn đã phát huy vai trò và tính tối ưu của nó trong quá trình nâng cấp phát triển hệ thống CSHT Việt Nam đặc biệt là CSHT GTVT. Vốn ODA ngày càng có vị trí xứng đáng trong việc củng cố và phát triển nền kinh tế xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên việc quản lý và xây dựng còn xuất hiện nhiều vướng mắc cần tháo gỡ để sử dụng có hiêụ quả nguồn vốn ODA đầu tư vào ngành giao thông vận tải Việt Nam. Chính vì vậy, em chọn đề tài “Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải” Chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận chung. Chương II: Thực trạng sử dụng nguồn vốn ODA trong phát triển CSHT GTVT Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ODA trong phát triển CSHT GTVT. Do sự hạn chế về kinh nghiệm và kiến thức, bài viết đã không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Chương I : Một số vấn đề lí luận chung I. Lí luận chung về đầu tư 1. Khái niệm về đầu tư Thuật ngữ “đầu tư” có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Chẳng hạn, trên góc độ tài chính đầu tư là chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư thu về một chuỗi các dòng thu và sinh lời. Trên góc độ tiêu dùng, đầu tư được hiểu là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được một mức tiêu dùng lớn hơn trong tương lai... Tất cả những hành động bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động trên đây đều nhằm mục đích chung là thu được lợi ích nào đó về tài chính, về cơ sở vật chất, nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức... trong tương lai lớn hơn những chi phí bỏ ra. Và vì vậy nếu xét trên góc độ từng cá nhân hoặc đơn vị thì các hành động này đều được gọi là đầu tư. Tuy nhiên nếu xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hành động trên đây đêù đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Ví dụ như các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các hoạt động này thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền, quyền sở hữu cổ phần từ người này sang người khác, do đó chỉ làm số tiền thu về của người đầu tư lớn hơn số tiền mà họ bỏ ra tuỳ thuộc vào lãi suất tiết kiệm, lợi ích cổ phần hoặc giá hàng vào dịp tết... Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp. Như vậy đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hi sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra những tài sản mới cho nền kinh tế và ta coi đó là hoạt động đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là quá trình sử dụng vốn đầu tư để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kĩ thuật thông qua các hoạt động xây dựng nhà cửa, kiến trúc hạ tầng, mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị, các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí phục vụ cho sự phất huy tác dụng trong một chu kì hoạt động của các cơ sở vật chất kĩ thuật này. 2. Đặc điểm của đầu tư phát triển Xuất phát từ khái niệm và bản chất của đầu tư phát triển, ta thấy hoạt động này có những đặc điểmkhác biệt với các loại hình đầu tư khác. Thứ nhất, do đây là hoạt động chủ yếu tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế nên bao giờ cũng đòi hỏi một lượng vốn lớn, lao động lớn và lượng vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, không sinh lời. Song song với chi phí về vốn là chi phí về lao động. Lao động ở đây cũng đòi hỏi số lượng lớn, có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn và để đáp ứng yêu cầu này đòi hỏi phải có chi phí. Hậu quả sẽ không tránh khỏi nếu đầu tư không hiệu quả, kế hoạch đầu tư không rõ ràng. Thứ hai thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành quả của nó phát huy tác dụng thường kéo dài trong nhiều năm tháng có khi là vĩnh viễn và trong khoảng thời gian này việc thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều biến động. Một dự án đầu tư có lượng vốn lớn, qui mô lớn thì cũng cần lượng thời gian đủ lớn để hạn chế những yếu điểm của dự án, tối thiểu hoá chi phí, tránh thất thoát về mọi mặt và hơn hết là đảm bảo chất lượng công trình. Thứ ba, sản phẩm của đầu tư phát triển thường là sản phẩm công cộng, lợi ích là lợi ích công cộng vì thế sản phẩm của đầu tư phát triển cần thời gian hoạt động để thu hồi vốn bỏ ra và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, chính trị, kinh tế xã hội... Điều này lí giải tại sao có những công trình công cộng vĩnh viễn không có khả năng thu hồi vốn. Hơn nữa, các công trình này là sản phẩm phục vụ lợi ích công cộng nên nó còn có thêm đặc điểm nữa đó là các thành quả của nó có giá trị sử dụng lâu dài, có khi là vĩnh viễn. Thứ tư, các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ tồn tại ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, cá điều kiện địa lí, địa hình tại đó sẽ có ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như quá trình vận hành kết quả đầu tư Thứ năm, do thời gian thực hiện và vận hành kết quả đầu tư thường kéo dài nên đầu tư phát triển bao giờ cũng chịu một mức rủi ro cao, những rủi ro này là không thể tránh khỏi vì có thể là do chủ quan, có thể là do khách quan. Chính vì vậy, kết quả, thành quả hoạt động đầu tư có độ trễ về mặt thời gian tức là đầu tư tại thời điểm này nhưng sau một thời gian mới phát huy tác dụng, mang lại những ảnh hưởng vừa tiêu cực vừa tích cực đến dự án. Trên đây là những đặc điểm cơ bản nhất của đầu tư phát triển, nó vừa là ưu điểm vừa là nhược điểm. Do vậy, để đảm bảo cho công cuộc đầu tưđạt hiệu quả cao thì cần phải đầu tư theo dự án. 3. Vai trò của đầu tư phát triển Xuất phát từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lí thuyết kinh tế (bao gồm lí thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lí thuyết kinh tế thị trường) đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của đầu tư phát triển qua một số mặt sau: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế : Thứ nhất, đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ tổng cầu của nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng thế giới: Đầu tư chiếm từ 24-28% trong tổng cơ cấu cầu của tất cả các nước trên thế giới. Trên góc độ tổng cầu thì tác động của đầu tư là ngắn hạn. Trong thời gian thực hiện đầu tư và trong khi cung chưa thay đổi (các kết quả đầu tư chưa phát huy tác dụng), sự tăng của cầu làm cho sản lượng cân bằng tăng theo và giá cả của các đầu vào tăng. Về mặt cung: Tác động của đầu tư phát triển là dài hạn: khi các thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên và do đó giá cả sản phẩm giảm xuống. Thứ hai, đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định nền kinh tế. Bất cứ một vấn đề nào có liên quan đến lĩnh vực kinh tế bao giờ cũng có hai mặt của nó, mặt tiêu cực và mặt tích cực: + Tăng đầu tư: góp phần tạo việc làm, nâng cao đời sống của người lao động, giảm thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội. Nhưng tăng đầu tư quá mức sẽ gây ra lạm phát, giá cả nguyên vật liệu tăng cao sẽ làm cho sản xuất bị đình đốn, trì trệ. + Giảm đầu tư: Giảm lạm phát, giá cả đi vào ổn định. Nhưng giảm đầu tư sẽ giảm việc làm, thất nghiệp tăng lên, gây nhiều tệ nạn xã hội. Thứ ba, đầu tư tác động đến tăng trưởng (tăng GDP). Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức độ trung bình, tỷ lệ của đầu tư so với GDP phải đạt từ 15-25% tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước (ICOR là sức đầu tư tính cho một đơn vị GDP tăng thêm). Nếu hệ số ICOR là không đổi thì mức tăng GDP phụ thuộc vào vốn đầu tư. ICOR của mỗi nước khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, trình độ sử dụng vốn đầu tư (trình độ áp dụng công nghệ tiên tiến, sử dụng lao động có tay nghề...). Những nước phát triển có ICOR lớn: 5-7 là do thừa vốn thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Đối với những nước chậm phát triển, ICOR thấp chỉ từ 2-3. Đây là những quốc gia thiếu vốn thừa lao động nên phải sử dụng nhiều lao độngthây thế vốn, công nghệ được sử dụng kém hiện đại giá rẻ. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, ICOR phụ thuộc nhiều vào cơ cấu kinh tếvà hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ và hiệu quả của các nền kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu là do tận dụng năng lực sản xuất sẵn có nên ICOR thấp. ở các nước phát triển nếu đầu tư ít thì tốc độ tăng trưởng thấp. Đối với các nước đang phát triển, vấn đề phát triểnvề bản chất được coi là vấn đề bảo đảm nguồn vốn đầu tư đủ để đạt mức tăng trưởng dự kiến và trong hầu hết các nước này đầu tư đóng một vai trò như một cú huých ban đầu tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế. Thứ tư, đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh tế của các nước trên thế giới cho thấy để có thể đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế như mong muốn (9-10%) cần tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu công nghiệp và dịch vụ vì những ngành này có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao nhờ sử dụng những tiềm năng và trí tuệ (vô hạn). Đối với công nghiệp và dịch vụ, để đạt tốc độ 15-20% là không khó khăn, nhưng đối với nông, lâm, ngư nghiệp, do điều kiện hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 5-6% là rất khó khăn. Do đó, để dịch chuyển cơ cấu kinh tế, tập trung cho các ngành có tốc độ tăng trưởng cao thì phải có vốn đầu tư. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa cá vùng lãnh thổ, đưa các vùng kém phát triển thoát khỏi cảnh nghèo đói, phát huy tối đa lợi thế so sánh về kinh tế, chính trị, tài nguyên của các vùng có khả năng phát triển nhanh hơn làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác phát triển. Thứ năm, đầu tư tác động đến việc tăng cường khả năng công nghệ và khoa học của các nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư lầ điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ thế giới, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế kỉ so với cá nước trên thế giới và trong khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thành 7 giai đoạn thì năm 1990, trình độ công nghệ Việt Nam đứng ở giai đoạn 1 và 2. Việt Nam là một trong 90 quốc gia kém phát triển nhất về công nghệ trên thế giới. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, chúng ta cần đề ra chiến lược phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Để phát triển công nghệ có hai con đường tự nghiên cứu và chuyển giao công nghệ: + Nếu tự nghiên cứu, chúng ta sẽ được độc quyền công nghệ của mình trên thế giới. Tuy nhiên, để tự nghiên cứu chúng ta cần phải có thời gian, phương tiện, nhân tài, đặc biệt là có vốn và độ mạo hiểm của con đường này là rất cao. + Nếu mua cộng nghệ sẵn có trên thị trường thế giới, chúng ta sẽ nhanh chóng có được công nghệ mà mình mong muốn. Song theo con đường này, trình độ công nghệ của chúng ta sẽ phải dưới tầm của người khác, phải chịu sự khống chế của bên bán, công nghệ chưa phải hiện đại nhất do đó hàng hoá sản xuất ra bị cạnh tranh, kém hiệu quả. Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đầu tư quyết định ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đối với cơ sở sản xuất vô vị lợi: Cơ sở vô vị lợi là các tổ chức không hoạt động vì lợi ích cá nhân của đơn vị mình. Các cơ sở vô vị lợi đang tồn tại để duy trì sự hoạt động bình thường, ngoài việc phải định kì tiến hành sửa chữa lớn các cơ sở vật chất kĩ thuật này. Đối với cơ sở vô vị lợi, những chi phí thường xuyên được tính vào vốn đầu tư. II. Khái niệm về cơ sở hạ tầng và vai trò của việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng 1. Khái niệm và phân loại cơ sở hạ tầng 1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng ngày càng được sử dụng nhiều hơn với thuật ngữ khoa học trong các công trình nghiên cứu và các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội cao cấp. Nhìn nhận một cách tổng quát chúng ta có thể hiểu cơ sở hạ tầng theo quan niệm sau: Cơ sở hạ tầng là một hệ thống các công trình vật chất kỹ thuật được tổ chức thành các đơn vị sản xuất và dịch vụ, các công trình sự nghiệp có chức năng đảm bảo các luồng thông tin, các luồng vật chất nhằm phục vụ nhu cầu có tính xã hội của sản xuất và đời sống của dân cư. Cơ sở hạ tầng chủ yếu được phân thành hai nhóm chính: - Cơ sở hạ tầng kỹ thuật. - Cơ sở hạ tầng xã hội Cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm các công trình và phương tiện là điều kiện vật chất cho sản xuất vật chất và sinh hoạt của xã hội. Đó là các công trình của hệ thống giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, cung cấp điện nước, công viên cây xanh, xử lý ô nhiễm môi trường, phòng cháy chữa cháy, thiên tai bão lụt... Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các công trình và phương tiện là điều kiện để duy trì và phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện (các cơ sở giáo dục đào tạo, các cơ sở khám chữa bệnh, văn hoá nghệ thuật, phòng chống dịch bệnh...) và đảm bảo đời sống tinh thần của các thành viên trong xã hội (các cơ sở đảm bảo đời sống tinh thần của các thành viên trong xã hội (các cơ sở đảm bảo an ninh xã hội, nhà tù, cơ sở tang lễ...) 2. Khái niệm cơ sở hạ tầng giao thông vận tải Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải là một lĩnh vực có phạm vi nghiên cứu rộng và phức tạp do đó trong thời gian hạn hẹp không thể trình bày hết những vấn đề có liên quan. Vì vậy theo định nghĩa trong bản luận văn: CSHT GTVT là một hệ thống các công trình và phương tiện vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của xã hội bao gồm các công trình và phương tiện của mạng lưới giao thông vận tải đường bộ, đường biển, đường sông, giao thông nông thôn, giao thông đô thị. Hiện nay, CSHT GTVT là một trong những nhân tố giúp cho Việt Nam duy trì và đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế với tốc độ cao, cân đối với các vùng. Giao thông vận tải là một ngành dịch vụ sản xuất, là sự tiếp tục của quá trình sản xuất trong lĩnh vực lưu thông. 3. Vai trò của cơ sở hạ tầng trong việc phát triển kinh tế Cơ sở hạ tầng chi phối tất cả các giai đoạn phát triển, làm cơ sở cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai trò của nó được thể hiện qua các mặt sau: + Quyết định sự tăng trưởng và phát triển nhanh của các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Kết cấu hạ tầng cung cấp dịch vụ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các yếu tố đầu vào và đầu ra, đảm bảo cho qui trình sản xuất của đất nước được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục với qui mô ngày càng mở rộng. Trên cơ sở đó làm tăng ngân sách và đưa nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, bế tắc, đi đến tăng trưởng và phát triển. + Tạo ra sự thay đổi căn bản trong cơ cấu của nền kinh tế. Cơ sở hạ tầng hiện đại là điều kiện cơ bản cho nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển, đặc biệt trong sản xuất công nghiệp và trong hoạt động dịch vụ. Sự phát triển của nông thôn trong những năm gần đây là một minh chứng rõ ràng. Trước đây, ở nông thôn không phát triển, điện thiếu thốn, hệ thống thông tin liên lạc lạc hậu... nên mọi hoạt động sản xuất ở nông thôn chậm phát triển. Những năm gần đây, nhờ hiện đại hoá cơ sở hạ tầng ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp được thay đổi theo chiều hướng tích cực, làm cho cơ cấu nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên. + Tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong nước. Nước ta có 7 vùng kinh tế lớn: vùng trung du miền núi phía bắc, vùng ĐBSH, khu bốn cũ, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, đồng bằng Nam bộ, và ĐBSCL. Trong số này có những vùng có đô thị lớn, có cơ sở hạ tầng tốt thì phát triển nhanh, còn những vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, cơ sở hạ tầng thiếu thốn thì phát triển chậm làm mất cân đối nền kinh tế của cả nước. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, chúng ta chỉ có thể giảm bớt chứ không thể xoá bỏ sự phát triển không đồng đều giữa các vùng. + Tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong những năm trở lại đây có rất nhiều dự án nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đa số các dự án đầu tư vào các thành phố lớn có cơ sở hạ tầng tốt như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng... Muốn thu hút thành công đầu tư nước ngoài thì chúng ta cần phải tạo môi trường đầu tư trong đó có cơ sở hạ tầng là một yếu tố quan trọng. ở có mối liên hệ tác động qua lại, xây dựng và tạo ra cơ sở hạ tầng tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng chính vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho các ngành sản xuất vật chất hoạt động có hiệu quả hơn. + Tạo điều kiện để giải quyết việc làm nâng cao thu nhập cho người dân từ đó làm tăng tích luỹ cho nền kinh tế. Cơ sở hạ tầng phát triển cho phép chúng ta tạo ra nhiều cơ sở sản xuất vật chất mới, tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế văn hoá giữa các khu vực, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời phân bố nguồn lao động hợp lý. Hơn nữa, sự xuất hiện của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới với công nghệ kỹ thuật cao sẽ hoạt động hiệu quả hơn, mang lại nhiều lợi nhuận hơn, mang lại thu nhập cao hơn cho người lao động. III. Vốn đầu tư 1. Khái niệm Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền huy động của dân và vốn huy động từ các nguồn khác nhau như liên doanh, liên kết hoặc tài trợ của nước ngoài... để: - Tái sản xuất các tài sản cố định để duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nền kinh tế, cho các ngành hoặc các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, cũng như thực hiện các chi phí cần thiết, tạo điều kiện cho sự bắt đầu hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật mới được bổ sung hoặc mới được đổi mới. - Tạo ra tài sản lưu động lần đầu gắn liền với sự tạo ra các tài sản cố định vừa mới tạo ra ở trên. 2. Các nguồn vốn có thể đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông vận tải Trên cơ sở phân loại nguồn vốn đầu tư, qui định của nghị định 42/CP, 92/CP về quản lý đầu tư, các văn bản của chính phủ và chiến lược huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển cơ sở hạ tầng ta có các nguồn vốn có thể đầu tư cho cơ sở hạ tầng GTVT như sau: 2.1. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước: Sử dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch của Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh mà không có khả năng thu hồi vốn hoặc thu hồi vốn chậm. Còn các công trình giao thông được ưu tiên sử dụng vốn ngân sách là các dự án giao thông quan trọng ở các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn, các khu công nghiệp và ưu tiên vốn đối ứng cho các dự án có vốn vay nước ngoài. 2.2. Vốn tín dụng ưu đãi từ Nhà nước: Nguồn vốn này do Nhà nước huy động từ vốn vay dân cư, thu nợ cũ và một phần từ nguồn vốn ODA cho vay lại. Dùng để đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, các dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước và một số dự án khác của ngành có khả năng thu hồi vốn đã được xác định trong cơ cấu kế hoạch của Nhà nước. Bộ GTVT được Chính phủ cho phép sử dụng vốn tín dụng ưu đãi với lãi suất quy định từng năm và thời hạn cho vay 5-10 năm tuỳ tính chất dự án. 2.3. Vốn thuộc quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các qũy khác của Nhà nước dùng cho đầu tư phát triển như Quỹ hỗ trợ quốc gia phát triển giao thông... 2.4. Vốn do chính quyền địa phương cấp tỉnh, huyện huy động từ sự đóng góp của các tổ chức cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của địa phương trên nguyên tắc tự nguyện. 2.6. Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI): là vốn của các cá nhân hay tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới dạng trực tiếp. Hiện nay, theo qui định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức sau: - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Doanh nghiệp liên doanh. - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 2.7. Vốn thuộc các khoản vay tín dụng với lãi suất thấp của các nguồn viện trợ quốc tế dành cho đầu tư phát triển. Trong vài năm gần đây, nguồn vốn này đóng góp phần lớn vào phát triển GTVT trong điều kiện vốn ngân sách quá hạn hẹp. Vì vậy, ta nên tập trung nguồn vốn để đầu tư khôi phục, nâng cấp các công trình có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước như các trục xuyên quốc gia, các trục giao thông đối ngoại, cơ sở hạ tầng các khu kinh tế trọng điểm. Trong thời gian qua, nguồn vốn ODA đã tăng dần lên, tập trung chủ yếu cho việc tăng cường thể chế, phát huy nguồn nhân lực, phục hồi và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Do đó, để nghiên cứu về nguồn vốn ODA ta đã phải hiểu rõ bản chất của nó. IV. Một số vấn đề về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA) 1. Khái niệm và phân loại nguồn vốn ODA ODA (oficial Development assistance) là một dạng đầu tư gián tiếp dưới hình thức viện trợ phát triển của các nước công nghiệp phát triển cho các nước đang phát triển. Vốn ODA thường là những khoản đầu tư lớn nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. ODA bao gồm ODA không hoàn lại và ODA vay ưu đãi có yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25% trị giá khoản vay. ODA là nguồn quan trọng của ngân sách Nhà nước và được ưu tiên sử dụng cho những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. - ODA không hoàn lại được ưu tiên sử dụng cho các công trình và dự án thuộc các lĩnh vực: y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình, giáo dục đào tạo, các vấn đề xã hội (xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn và miền núi, cấp nước sinh hoạt...), bảo vệ môi trường môi sinh, nghiên các chương trình dự án phát triển, hỗ trợ phát triển ngân sách nhà nước và một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. - ODA cho vay ưu đãi được ưu tiên sử dụng cho các dự án và chương trình xây dựng hoặc cải tạo cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội thuộc lĩnh vực: năng lượng, GTVT, thông tin liên lạc, thuỷ lợi , cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, xã hội (các công trình phúc lợi công cộng, y tế, giáo dục và đào tạo, cấp thoát nước, bảo vệ môi trường...) và một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Trong một số chương trình dự án cụ thể có thể kết hợp sử dụng một phần ODA không thời hạn và một phần ODA Cho vay ưu đãi. Vay ưu đãi thể hiện: Lãi suất thấp (hoặc không phải trả lãi mà phải trả phí dịch vụ); thời hạn trả dài, có thời gian ân hạn ( thời giân này chỉ phải trả lãi mà không phải trả gốc). Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần GDP từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Đại hội đồng Liên hợp quốc kêu gọi các nước phát triển dành 1% GDP để cung cấp ODA cho các nước đang phát triển và chậm phát triển. 2. Đặc điểm của ODA 2.1. Với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ hình thức nào. Vốn ODA có thời gian cho vay dài, có thời gian ân hạn dài. Vốn ODA cuâ ngân hàng thế giới và ngân hàng phát triển châu á có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. Thông thuờng, trong ODA có một phần là viện trợ không hoàn lại. đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Yếu tố cho không được xác định vào thời gian ân hạn và so sánh với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tín dụng thương mại trong tập quán quốc tế. Cho vay ưu đãi còn gọi là cho vay mềm. Các nhà tài trợ thường áp dụng nhiều hình thức khác nhau để làm mềm khoản vay, chẳng hạn kết hợp một phần ODA không hoàn lại với một phần tín dụng gần với điều kiện thương mại tạo thành tín dụng hỗn hợp. Tính ưu đãi của ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho các nước phát triển và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Thông thường ở các nước cung cấp viện trợ đều có chính sách riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng. Đồng thời mục tiêu ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy nắm được xu hướng ưu tiên của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết. 2.2 Các nước viện trợ nói chung đều không quên mưu cầu lợi ích của mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa đem lại lợi nhuận cho hàng hoá dịch vụ tư vấn trong nước. Bỉ, Đức, Đan mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá và dịch vụ của nước mình, Canada yêu cầu cao nhất khoảng 65%. Thuỵ Sỹ yêu cầu 1,7%, Hà Lan 2,2% - đây là hai nước có tỷ lệ yêu cầu thấp. Thấp hơn cả là Niudilân với 0%. Nhìn chung 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ. Ngoài ra mỗi nước viện trợ đều có ràng buộc riêng nhiều khi cũng rất chặt chẽ (Nhật yêu cầu vốn ODA của họ đều phải thực hiện bằng đồng Yên Nhật). Kể từ khi ra đời cho đến nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm đói nghèo ở những nước đang phát triển. Động cơ nào thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này? Bản thân các nước phát triển thấy được lợi ích của mình trong việc hỗ trợ và giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với điều kiện kinh tế. Mỹ cũng như nhiều nhà tài trợ khác quy định phải dùng khoản viện trợ của họ để mua hàng hoá của mình hoặc trực tiếp lấy hàng hoá dư thừa của Mỹ thay thế cho các khoản viện trợ. Mỹ còn đòi các nước nhận viện trợ cung cấp vật tư trọng yếu, dành cho Mỹ những điều kiện ưu đãi đầu tư thuân lợi. Xét về mặt lâu dài các nhà tài trợ sẽ có lợi về mọi mặt an ninh kinh tế, chính trị khi các nước nghèo tăng trưởng. Mối quan tâm mang tính cá nhân được kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như sự bùng nổ dân số, bảo vệ môi trường, dịch bệnh, các cuộc xung đột sắc tộc và tôn giáo... đòi hỏi sự hợp tác nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế không phân biệt nước giàu nước nghèo. Mục tiêu thứ hai là tăng cường lợi ích chính trị cho các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh hưởng của mình tại các nước các khu vưc tiếp nhận ODA. Mỹ là một trong những nước như vậy. Chính sách viện trợ của Mỹ một mặt nhằm một mặt dùng viện trợ kinh tế để bày tỏ sự thân thiện tiến tới gần gũi thân thiết về chính trị. Mặt khác tiếp cận với quan chức cấp cao của nước sở tại để mở đường cho hoạt động ngoại giao trong tương lai. Mỹ lái các nước nhận viện trợ theo một lập trường nào đó của Mỹ trong ngoại giao và tác động can thiệp vào sự phát triển chính trị tại nước đang phát triển. Viện trợ kinh tế cũng là thủ đoạn chính trong việc tiến hành thâm nhập văn hoá tư tưởng đối với nước nhận viện trợ. Chẳng hạn, đòi các nước nhận viện trợ đề cao vai trò kinh tế tư nhân, tiếp nhận tư tưởng, lối sống của các nước tài trợ. Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là trợ giúp hữu nghị mà là công cụ lợi hại để kiếm lời cả về kinh tế lẫn chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ gò ép các nước nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước nhận nên cân nhắc kĩ lưỡng các điều kiện của các nhà tài trợ. Không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất lợi ích lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hoà bình. Nhật bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài trợ biết sử dụng ODA như là công cụ ngoại giao lợi hại. Hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật đưa lại lợi ích cho nước nhận đồng thời mang lại lợi ích tốt nhất cho nước Nhật. Rơi vào tình trạng kiệt quệ sau chiến tranh và là nước nghèo tài nguyên thiên nhiên. Nhật đã đẩy mạnh con đường phát triển kinh tế bằng đẩy mạnh xuất khẩu. Do vậy, Nhật rất muốn mở rộng thị trường ra nước ngoài để thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước phát triển và tăng quan hệ bị gián đoạn trong chiến tranh, đặc biệt là khu vực Đông Nam á. Thời kỳ đầu viện trợ của Nhật chủ yếu bằng hàng hoá. Như vậy thông qua chiến tranh Nhật đã thu được những lợi ích to lớn để phát triển kinh tế. Cho vay bằng hàng hoá là cách giới thiệu tốt nhất về hàng hoá của mình trên thị trường nước ngoài. Hiện nay, Đông Nam á là thị trường tiêu thụ sản phẩm hết sức an toàn cho Nhật. 2.3. Bản chất của ODA phải ghi nhớ rằng đó là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường không thấy ngay. Một số nước do sử dụng không có hiệu quả nên có thể tạo ra sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần, do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu, trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất kh._.ẩu thu ngoại tệ. Do đó trong khi hoạch định chính sách phải phối hợp với các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. Theo ngân hàng thế giới và quỹ tiền tệ quốc tế, xác định một quốc gia có khả năng trả nợ nước ngoài là khi nước nàycó thể thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trả nợ nước ngoài hiện tại và tương lai mà không cần dựa vào việc giảm hay bố trí lại lịch trả hoặc chồng chất thêm nợ và không làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy có rất ít các nước đang phát triển thoả mãn yêu cầu này, thông thường các nước này đang phải đối mặt với gánh nặng trả nợ trong hàng chục năm tới thậm chí là không có khả năng trả nợ. Có ý kiến cho rằng bình quân mỗi người châu Phi nợ phương Tây 379$ và trung bình cứ 10 đồng đô la thì có 9 đồng đô la quay trở lại dưới dạng trả nợ. Tuy tương quan 1-9 này chưa phải là tính toán chính thức nhưng nó cũng khiến các nước nhận viện trợ phải thận trọng mỗi khi nhận một khoản ODA. 3. Hình thức tiếp nhận ODA 3.1. Hỗ trợ cán cân thanh toán Thường có nghĩa là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ). Nhưng đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hoá). Ngoại tệ, hàng hoá chuyển vào trong nước qua hình thức cán cân thanh toán có thể chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách (chủ yếu cho chính phủ). 3.2. Viện trợ chương trình (viện trợ phí dự án): Là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với một mục đích nhất định. 3.3. Hỗ trợ thực hiện dự án: Là hình thức chủ yếu của ODA, hình thức này có liên quan tới hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật (trên thực tế thường có hai yếu tố này). Các dự án cần phải được chuẩn bị hết sức chi tiết trước khi thực hiện. 2.4. Hỗ trợ kỹ thuật: Thường chủ yếu tập trung chuyển giao công nghệ, tăng cường có cơ sở lập kế hoạch, tư vấn, nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu khi đầu tư quy hoạch, lập các nghiên cứu khả thi...,chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý thống kê... 4. Các đối tác cung cấp ODA. Cho đến gần đây, trên thế giới có bốn nguồn cung cấp ODA chủ yếu : Các thành viên của uỷ ban hỗ trợ phát triển (DAC). + Liên Xô (cũ) và các nước đông âu. + Một số nước ảrập. + Một số nước đang phát triển: Nhật Bản gồm có nguồn vốn JBIC và JICA, Đức, Anh... Trong các nguồn trên, ODA từ các nước thành viên của DAC là lớn nhất. Năm 1992 DAC cung cấp 62,711 tỷ USD chiếm 0,34% GNP của các nước này. Năm 1997 DAC cung cấp 48,324 tỷ USD bằng 0,22% tổng GNP. Bên cạnh việc cung cấp ODA trực tiếp (đóng vai trò của nhà tài trợ song phương), các nước cung cấp ODA còn chuyển giao cho các nước đang phát triển thông qua các tổ chức viện trợ đa phương. Các tổ chức đó là : Các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc như : Chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP), Quỹ nhi đồng liên hợp quốc (UNICEF), Chương trình lương thực thế giới(WFP), Quỹ dân số liên hợp quốc(UNFPA), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tổ chức nông nghiệp và lương thực (FAO)...Hầu hết viện trợ của các tổ chức này đều được thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, ưu tiên cho các nước đang phát triển có thu nhập thấp và không có điều kiện chính trị ràng buộc một cách lộ liễu. Liên minh châu âu (EU). Là các tổ chức có tính chất kinh tế xã hội của 12 nước công nghiệp phát triển châu Âu chủ yếu là Tây-Bắc Âu. Lĩnh vực mà EU quan tâm là dân số , bảo vệ môi trường, phát triển dịch vụ. Qui chế viện trợ của EU phức tạp thường gắn ODA với các vấn đề chính trị nhân quyền. Các tổ chức phi chính phủ (NGOs). Trên thế giới có hàng trăm NGO hoạt động theo mục đích tôn chỉ khác nhau (từ thiện, y tế, tôn giáo ...). Vốn của các NGO thường nhỏ chủ yếu tập trung vào nguồn quyên góp hoặc sự tài trợ của các chính phủ. Hiện nay có 145 NGO thiết lập quan hệ với các tổ chức, chính phủ Việt Nam. Các tổ chức tài chính quốc tế gồm: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). IMF là tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế rất quan trọng, hiện có 173 thành viên. Việt Nam thừa kế thành viên từ chính quyền Sài Gòn năm 1976 (chính quyền Sài Gòn gia nhập IMF năm 1956 với cổ phần đóng góp ban đầu là 20 triệu USD. Cổ phần của Việt Nam hiện nay tại quỹ là 241 triệu USD/ tổng vốn của quỹ là 150 tỷ USD).Các loại tín dụng của IMF đều được thực hiện bằng tiền mặt và không bị ràng buộc vào thị trường mua sắm. Ngân hàng thế giới (WB) bao gồm : Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRN) hiện có 160 nước thành viên với số vốn 170 tỷ USD. Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA) hiện có 142 nước hội viên với số vốn là 12 tỷ USD. Hai tổ chức này cung cấp tín dụng theo các chương trình dự án phát triển các nước hội viên. IBRN chỉ cho các nước đang phát triển (có thu nhập dưới 790 USD) và các nước bị ảnh hưởng của chiến tranh. Còn IDA chỉ dành cho các nước nghèo (thu nhập quốc dân 1135 USD/ người), song thực tế chỉ các nước nghèo nhất (thu nhập dưới 610 USD/ người) được vay tín dụng với điều kiện “mềm” (thời gian hoàn trả vốn 40 năm, có 10 năm ân hạn, không phải trả lãi suất nhưng phải trả phí dịch vụ 0,75%/ năm). Công ty tài chính quốc tế (IFC) hiện có 146 nước thành viên cấp các khoản tín dụng với thời gian hoàn vốn và lãi suất như IBRN. Tổ chức bảo hiểm đầu tư đa biên (MIGA) hiện có 5 nước thành viên là các thành viên chính thức. MIGA khuyến khích đầu tư tư nhân vào các nước đang phát triển , đảm bảo cho các nhà đầu tư tránh được rủi ro thương mại cung cấp dịch vụ, trả vốn đầu tư Ngân hàng phát triển châu á (ADB). Là tổ chức tài chính quốc tế gồm 52 thành viên (36 nước thuộc khu vực Châu á - Thái Bình Dương, 16 nước là các nước công nghiệp và xuất khẩu tư bản ở Tây Âu, Bắc Mỹ, Châu úc). Hoạt động của ADB nhằm vào việc cung cấp các khoản cho vay và hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển hội viên (DCM) cũng như khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế trong khu vực. ADB đặc biệt chú ý đến các nước kém phát triển, ưu tiên cao cho các chương trình, các dự án phát triển vùng, tiểu vùng và dân tộc ít người để tạo ra sự phát triển hài hoà của toàn vùng. Lĩnh vực hoạt động của ADB là năng lượng, giao thông, thông tin, liên lạc... Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) : gồm 13 nước khai thác và xuất khẩu dầu mỏ quan trọng. Ngoài viện trợ không hoàn lại, quỹ hỗ trợ của các tổ chức OPEC dành nguồn tín dụng dài hạn, ưu đãi để hỗ trợ cho các nước kém phát triển. Thời hạn hoàn trả vốn 17-20 năm, 5 năm ân hạn, lãi suất và phí dịch vụ 3%/ năm. Ưu tiên cho vay của quỹ là các lĩnh vực năng lượng, vận tải, công nông nghiệp. Quỹ Cô-Oét : quỹ cũng dành cho các nước đang phát triển vay tín dụng ưu đãi dài hạn tương tự như quỹ OPEC. Tuy không “mềm” lắm nhưng thực hiện thuận lợi cấp tiền 100%, không bị ràng buộc bởi thị trường mua sắm thiết bị vật tư , chuyên gia tư vấn, không phải qua thủ tục đấu thầu quốc tế 5. Vai trò của ODA 5.1. Vai trò của ODA đối với sự phát triển kinh tế Hơn mười năm qua do có sự chuyển đổi đối tác, lượng ODA vào Việt Nam không nhiều nhưng đã có ý nghĩa quan trọng và có tác dụng tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta. ODA đã thực sự trở thành nguồn vốn quan trọng, đáp ứng những nhu cầu cấp bách về cân đối ngân sách, cán cân xuất nhập khẩu, đầu tư phát triển và một phần tiêu dùng thường xuyên. Trước năm 1990, khi nền kinh tế còn chưa tích luỹ nội bộ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhìn chung chủ yếu dựa vào viện trợ từ Liên xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Ngoài ra viện trợ từ các nước SEV còn đáp ứng một phần các nhu cầu thường xuyên. Tính riêng đối với viện trợ từ Liên Xô, lượng ODA dùng để nhập siêu hàng năm thường lớn gấp hai đến ba lần lượng viện trợ dưới hình thức thiết bị toàn bộ. Đối với ODA của các nhà tài trợ mới cũng vậy, bên cạnh vai trò là nguồn vốn phát triển, ODA còn giúp trả nợ cũ, cân đối ngân sách và đáp ứng được nhu cầu vật chất. Chỉ tính riêng số ODA vào ngân sách Nhà nước, tỷ trọng thu viện trợ không hoàn lại và vay nước ngoài trong tổng chi của ngân sách Nhà nước các năm 1991-1995 như sau: năm 1991 chiếm 15,9%; năm 1992 chiếm 11,3%; năm 1993 chiếm 15,9%; năm 1994 chiếm 7,5%; năm 1995 chiếm 6,7%.Trị giá ODA trong thời kì này của các dự án đầu tư lên tới trên 760 triệu USD, trợ giúp ngân sách hoặc cán cân thanh toán trên 930 triệu USD, ODA ở dạng viện trợ lương thực và cứu trợ khẩn cấp đạt gần 170 triệu USD. Nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng của chủ nghĩa xã hội đã và đang được hình thành bằng nguồn vốn ODA. Trước năm 1990, các công trình như nhà máy thuỷ điện Trị An, nhà máy giấy Bãi Bằng, nhà máy xi măng Hoàng Thạch... được hình thành kịp thời đã đáp ứng nhu cầu bức xúc lúc bấy giờ. Từ năm 1991 trở lại đây có sự chuyển trọng tâm sử dụng ODA, tập trung vào nhưng lĩnh vực ưu tiên của chính phủ và các nhà tài trợ, là cải tạo nâng cấp và phát triển kết cấu hạ tầng. Cùng với việc thực hiện nguồn vốn ODA, một số ngành kinh tế, khoa học kỹ thuật đã được tạo lập, có ý nghĩa lâu dài cho việc phát triển đất nước. Trước đây, là một số ngành cơ khí, hoá chất, thuỷ điện và gần đây là ngành thông tin liên lạc. Số cán bộ khoa học kỹ thuật do các nước XHCN đào tạo trước đây tỏ ra là một lực lượng có trình độ chuyên môn cao, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu do sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đặt ra có khả năng tiếp thu công nghệ mới của thế giới. Ngoài ra, ODA có tác dụng tích cực đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương và vùng lãnh thổ. Như vậy vốn ODA giúp giải quyết tình trạng cơ sở hạ tầng lạc hậu và phân bố không đồng đều ở nước ta. ODA có tác động rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế xã hội cũng như thu hút đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước, cải thiện sinh hoạt và chênh lệch trong phân phối lợi tức ngày càng tăng giữa các vùng đô thị với nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa giúp xoá đói giảm nghèo. ODA đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển của Việt Nam. Văn kiện đại hội Đảng lần IX đã chỉ rõ: “Tranh thủ thu hút nguồn tài trợ phát triển chính thức ODA đa phương và song phương, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, quản lý đồng thời dành một phần vốn tín dụng đầu tư cho ngành nông lâm ngư nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những vùng chậm phát triển. Các dự án sử dụng vốn vay phải có chương trình trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. Phải sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả và kiểm tra, quản lý chặt chẽ, chống lãng phí tiêu cực. 5.2. Vai trò của ODA trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. a. Vai trò của giao thông vận tải. Đối với nền kinh tế quốc dân: GTVT chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế quốc dân. Từ xưa đến nay, nhu cầu vận chuyển hàng hoá và con người là nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống. Tuy nhiên, mức độ quan tâm đến phát triển GTVT trong mỗi thời kì, mỗi nền kinh tế là rất khác nhau. Nền kinh tế phong kiến tự cung tự cấp khép kín trong mỗi vùng, từng khu vực sản xuất thì nhu cầu vận chuyển là hạn chế dẫn đến GTVT không phát triển mạnh. Ngược lại nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thì không thể tồn tại và phát triển nếu thiếu sự hỗ trợ của GTVT. Chính vì lẽ đó, xây dựng cơ sở hạ tầng GTVT ngay từ khi bắt đầu chuyển từ nền kinh tế phong kiến sang tư bản chủ nghĩa đã được quan tâm và tập trung đầu tư về mọi phương diện để phát triển. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về giao thông vận tải càng tăng lên do mức sản xuất công nghiệp, nông nghiệp có năng suất cao lên, khối lượng hàng sản xuất tăng nhanh, xây dựng mạng lưới cơ sở hạ tầng GTVT chính là tiền đề giúp cho sự phát triển cân bằng về nền kinh tế giữa các vùng trong nước, góp phần xóa đói giảm nghèo. Thêm vào đó, GTVT còn đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách, giao lưu văn hoá giữa các vùng trong nước và quốc tế. GTVT có vai trò rất quan trọng đối với an ninh quốc phòng và toàn dân. Tóm lại, đối với nền kinh tế quốc dân, GTVT luôn luôn giữ vị trí vô cùng quan trọng, GTVT là một ngành dịch vụ sản xuất và có quan hệ hữu cơ với sự phát triển đáp ứng được nhu cầu vận tải và lưu thông phân phối, ngược lại giao thông vận tải phát triển, lưu thông thuận tiện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước: Mục tiêu của đại hội đảng IX đặt ra từ nay đến năm 2020 phải đưa nước ta thành nước có nền kinh tế phát triển trên cơ sở phát triển theo hướng CNH-HĐH. Trong sự nghiệp đó, việc phát triển GTVT là một khâu cực kì quan trọng. Nó vừa là điều kiện vừa là nội dung cơ bản trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Muốn CNH-HĐH đất nước phải khôi phục cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng, trong đó cơ sở hạ tầng giao thông, điện , nước, trường học phải đi trước một bước tạo tiền đề cho kinh tế phát triển. Để đạt được như vậy ta phải xác định thống nhất về vị trí, vai trò và yêu cầu phát triển của ngành GTVT trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Cơ sở vật chất kĩ thuật của GTVT là khâu quan trọng nhất của kết cấu hạ tầng, là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành tư liệu cho lao động của toàn xã hội. Hầu hết các nước đang phát triển từ chỗ cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh để trở thành nước phát triển thì điều trọng tâm đầu tiên là xây dựng cơ sở hạ tầng GTVT. Nước ta trong thời điểm hiện nay, việc khôi phục, phát triển cơ sở hạ tầng với tốc độ cao, tiêu chuẩn phù hợp, tạo cơ sở quan trọng cho sự tăng trưởng, đổi mới nền kinh tế đất nước, vừa là điều kiện vừa là nội dung căn bản trong sự nghiệp CNH-HĐH thời kì tới. Sự yếu kém của cơ sở hạ tầng GTVT hiện nay vừa là hậu quả của chiến tranh, của nền công nghiệp chậm phát triển vừa là nguyên nhân quan trọng hạn chế sự phát triển kinh tế toàn xã hội. Phát triển cơ sở hạ tầng GTVT không những tạo tiền đề cho những ngành kinh tế khác phát triển mà còn thúc đẩy các quá trình giao lưu kinh tế và văn hoá, phát triển các phân bố lực lượng sản xuất trên toàn lãnh thổ, là cầu nối để mở rộng quan hệ quốc tế, trước hết là những nước láng giềng và trong khu vực. Nước ta với lãnh thổ dài và hẹp, dài gần 2000 km từ Bắc vào Nam, bờ biển dài gần 3200km. Ta có hệ thống vận tải rộng lớn và toàn diện bao gồm đủ các phương tiện vận tải: đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển... Dọc biên giới đất liền, ta có hàng chục cửa khẩu đường bộ, đường sông, đường sắt nối với các láng giềng. Do vị trí địa lí, ta là cửa ngõ ra biển của cá trục đường liên tiểu vùng như trục hành lang Đông Tây nối từ Đông Bắc Thái Lan – Quốc lộ 9 Lào – cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị), nối quốc lộ 9 Việt Nam – quốc lộ 1 – cảng Đà Nẵng. Trục đường xuyên á nối từ Phnompênh – cửa khẩu Mộc Bài – quốc lộ 22 – thành phố Hồ Chí Minh...Hệ thống sông Hồng ở miền Bắc và sông Mê kông ở Miền Nam không những phục vụ đắc lực cho vận tải thuỷ nội địa nước ta mà còn có ý nghĩa liên vận quốc tế đã được các tổ chức quốc tế nghiên cứu đầu tư. Hệ thống đường sắt của ta cũng đã được xem xét là một bộ phận của đường sắt xuyên á nối từ Singapore – Malaysia – Bangkok – Thành phố Hồ Chí Minh – Lạng Sơn – Trung quốc. Phát triển cơ sở hạ tầng GTVT đi trước một bước trong thời điểm hiện nay là phương tiện, động lực để phát triển kinh tế, chính trị, mở cửa ra thế giới để hội nhập với khu vực và quốc tế ngắn khoảng cách của một nước đi sau so với các nước đã có nhiều thập kỷ phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Trong nước, một hệ thống GTVT đồng bộ và hiện đại sẽ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các vùng và lãnh thổ, giảm sự chênh lệch về mức sống và dân trí giữa các khu vực và dân cư, đưa nước ta tiến từng bước vững chắc lên CNH-HĐH. Tại các đô thị, các khu vực trung tâm kinh tế và văn hoá, hệ thống GTVT hiện đại sẽ làm đất nước văn minh hơn, đảm bảo trật tự và sinh hoạt đô thị hiện đại. Báo cáo đánh giá đường nhánh nối với các thị trường, cơ sở y tế, giáo dục và các hoạt động xã hội khác là trung tâm cho sự tăng trưởng ở các khu vực nông thôn. Cũng như vậy, các công trình được khôi phục nâng cấp kịp thời và có kế hoạch tốt của GTVT đô thị sẽ tăng cường khả năng sản xuất của khu vực đô thị và tránh được sai lầm tốn kém trong phát triển đất đai đô thị, đảm bảo hệ số đi lại cho những người nghèo ở đô thị. Việc phát triển GTVT đô thị và GTVT quốc tế là không thể thiếu được nhằm hoà nhập mạng lưới khu vực và địa phương vào hệ thống mạng lưới quốc gia và quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hoá, hành khách trong nước và liên kết các thị trường trong nước và quốc tế. b. Vai trò của ODA trong quá trình phát triển cơ sở hạ tầng GTVT: Như chúng ta đã biết để có thể phát triển được cơ sở hạ tầng GTVT chúng ta cần phải có một lượng vốn khổng lồ, trong khi đó nguồn vốn trong nước không có khả năng đáp ứng được nhu cầu phát triển. Vì vậy chúng ta cần sử dụng triệt để nguồn vốn nước ngoài đặc biệt là nguồn vốn ODA. Nguồn vốn ODA đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp đối với sự phát triển của tất cả mọi mặt hoạt động kinh tế xã hội. Đối với các ngành và lĩnh vực còn lại, ODA đóng góp bằng cách hoặc là tạo điều kiện huy động các ngành khác hoặc là góp vốn, chuyển dịch vốn đầu tư xã hội mà lẽ ra phải sử dụng ở các ngành, lĩnh vực có vốn ODA sang các ngành và lĩnh vưc này. Khác với vốn đầu tư trực tiếp FDI, mức độ sử dụng ODA có phần bị hạn chế, tuỳ thuộc vào kết quả thương lượng với bên tài trợ và những qui định điều kiện tài trợ. Trong thời kỳ 2001-2010, cần định hướng các nhà tài trợ vào ba lĩnh vực sau: *Hỗ trợ tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thể chế. *Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. * chuyển giao công nghệ. Thứ nhất, nguồn ODA được ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng GTVT đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cải tạo cơ sở hạ tầng GTVT còn yếu kém ở nước ta. Thứ hai, trong kế hoạch 10 năm 2001-2010, trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, ODA sẽ được sử dụng để hỗ trợ để xây dựng các tuyến đường trục ở quốc gia, tiếp tục xây dựng và cải tạo đường vành đai ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, một số tuyến đường miền Trung và Tây nguyên. Dành ODA để phát triển giao thông nông thôn, nhất là các tỉnh biên giới, miền núi các tuyến đường đến trung tâm các huyện vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra, một phần ODA cũng sẽ được dùng để cải tạo và xây dựng mới một số cảng biển ở ba miền, phát triển vận tải đường sông ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long và cải tạo cảng Cần Thơ. Thứ ba, nguồn ODA cung cấp cho các nước nhận viên trợ được hiểu; và sự trợ giúp bằng vật tư, thiết bị, chuyển giao công nghệ, chuyển giao tri thức dưới các hình hức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi nên nguồn ODA là một trong những nguồn quan trọng sử dụng cho các mục tiêu ưu tiên của công tác xây dựng và phát triển kinh tế xã hội trong đó có lĩnh vực cơ sở hạ tầng GTVT. Qua đó tạo môi trường điều kiện thuận lợi để thu hút các nguồn vốn khác. Đối với một quốc gia, để phát triển kinh tế thì GTVT phải đi trước một bước, đặc biêt khi nước ta bước vào CNH- HĐH, nhu cầu hàng đầu phải có cơ sở hạ tầng vững mạnh, đủ điều kiện để phục vụ nền kinh tế và thu hút đầu tư. Muốn thực hiện được chủ trương đó, Nhà nước phải quan tâm đúng mức, phải có chính sách để tạo điều kiện thực hiện. Như vậy, ODA đã đóng góp một phần quan trọng cho phát triển cơ sở hạ tầng GTVT. Hiện nay nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng ngoài vốn ngân sách Nhà nước thì chủ yếu là vốn ODA. Nguồn vốn ODA tập trung vào việc xây dựng, cải tạo một bước cơ sở hạ tầng ở các vùng trọng điểm. Chương II : Thực trạng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải Việt Nam và tình hình sử dụng ODA trong phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải I.Tình hình thu hút và sử dụng vốn tại Việt Nam trong những năm gần đây 1. Môi trường tài trợ ODA nói chung 1.1. Thuận lợi: Trong tình hình quốc tế hoá đời sống kinh tế, môi trường kinh tế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, nhu cầu vốn đầu tư để phát triển kinh tế ngày càng gia tăng thì chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư từ nhiều nhà tài trợ trên thế giới. Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa, Việt Nam đã dần dần hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới. Chúng ta đã có quan hệ ngoại giao và ngoại thương với tất cả trên 100 quốc gia, tạo mối quan hệ thân thiện và sẵn sàng là bạn với tất cả các nước. Trong những năm qua, chúng ta đã tham gia vào các tổ chức hợp tác quốc tế khu vực và thế giới như ASEAN, APEC và đang chuẩn bị để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Đặc biệt chúng ta đã ký hiệp định thương mại với Mỹ vào tháng 7/2000 và đã loại bỏ được nhưng rào cản thương mại và giúp ta tiếp cận với nhiều nhà đầu tư. Bên cạnh đó, môi trường đầu tư ở Việt Nam đã được cải tạo thông thoáng hơn rất nhiều. Luật đầu tư sửa đổi cho thấy những chính sách ưu đãi của Chính phủ đối với các nhà đầu tư như vấn đề về thuế, về thủ tục đã được đơn giản hoá rất nhiều. Chúng ta đã có cơ hội giới thiệu mình với bạn bè quốc tế, các nhà tài trợ đều ủng hộ các chương trình phát triển của Việt Nam. Đó là chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đặt trọng tâm vào con người, nó vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển nhanh và bền vững. Mặt khác, trong quá trình đổi mới, Việt Nam đã dần dần cải thiện được tình hình kinh tế trong nước, đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên, an ninh chính trị ngày càng được giữ vững và ổn định. Vì vậy mức độ cam kết ngày càng cao và chúng ta ngày càng dành được nhiều sự ủng hộ, quan tâm của cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã thực hiện được phần lớn các định hướng phát triển của đất nước, đặc biệt trong công tác phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng điện, cũng như các vùng kinh tế khó khăn. 1.2. Khó khăn: Thứ nhất kể từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ cùng với các nước Đông Âu và kéo theo nguồn cung cấp ODA ở những nước này không còn nữa. Điều này đã gây cho Việt Nam không ít khó khăn vì đây là nguồn viện trợ chủ yếu đối với chúng ta giai đoạn trước đây. Thứ hai, hiệu quả hoạt động của các tổ chức đa phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho các nhà tài trợ ngần ngại đóng góp cho các tổ chức này. Vì vậy, viện trợ đa phương có xu hướng giảm. Cụ thể, tỷ trọng ODA ký kết giảm dần qua các năm: 52% (1993-1997), 47% (1998), 43% (1999), 40% (2000), 38%(2001). Thứ ba, hiện nay các nước trong khu vực gặp khó khăn về tài chính do cuộc khủng hoảng tài chính Châu á (1997) nên cũng đã cắt giảm nguồn viện trợ ODA cho các nước đang phát triển. Chẳng hạn, Nhật Bản phải thực hiện quyết định của quốc hội là cắt giảm 10% tổng viện trợ ODA cho các nước đang phát triển kể từ năm 1998. Hay như Hàn Quốc là nước cung cấp ODA lớn thứ ba đối với nước ta nhưng do lâm vào khủng hoảng nên khó có khả năng thực hiện các cam kết đối với các công trình đang thực hiện cũng như đối với các dự án mới. Các nước cung cấp kỹ thuật như Thái Lan, Malaixia, Xingapo cũng không thực hiên được nhiều thoả thuận như đã cam kết. Thứ tư, tổ chức liên hiệp quốc đã có kiến nghị các nước phát triển cần hỗ trợ nhiều hơn cho các nước nghèo và đang phát triển, cụ thể cần trích 0.7-1% GNP của các nước này cho các nước nghèo và nước đang phát triển. Nhưng trên thực tế, hiện nay các nước giàu chỉ đang hỗ trợ khoảng từ 0,3- 0,35%GNP, nghĩa là thấp hơn so với yêu cầu 2- 3 lần. Cũng có một số nước hỗ trợ hơn 1% như Thuỵ Điển, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch... song khối lượng tuyệt đối của các nước này không lớn. Thứ năm, các điều kiện cung cấp ODA đang có khuynh hướng giảm bớt tính ưu đãi, tỷ lệ không hoàn lại giảm đi và tăng phần vốn vay, mức lãi suất ưu đãi cũng có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ không hoàn lại cao nhất là 90,1% ODA thực hiện vào năm 1993 và đã giảm dần vào năm 1998; và tương ứng tỷ lệ vốn vay vào năm 1993 chỉ ở mức 9,9%, sau đó tăng dần và đạt ở mức 58% vào năm 1998. Điều này chứng tỏ tình trạng thu hút sử dụng ODA ngày càng trở nên khó khăn hơn cho chúng ta, đòi hỏi phải có cách sử dụng hợp lý tránh tình trạng nợ nần chồng chất sau này. Thứ sáu, sự cạnh tranh giữa các nước có nhu cầu ODA đang gia tăng. Các nước mới dành được độc lập và đang trong quá trình phát triển tăng lên nhiều, do đó có nhu cầu về vốn ODA tăng lên rất lớn. Ví dụ như Liên Xô tan rã hình thành nên một loạt các nước tự trị mới, các nước châu á đang trong quá trình chuyển mình như Xingapo,Thái lan, Malaixia... và Nam Tư cũ sau cuộc nội chiến cũng đòi hỏi sự hỗ trợ quốc tế, đòi hỏi một lượng ODA đáng kể để xây dựng nền kinh tế. Gần đây Nhật và ôxtrâylia có xu hướng dành nhiều quan tâm hơn cho Inđônêxia, Thái lan, Malaixia, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới việc cung cấp ODA của hai nhà tài trợ này cho các nước khác. Và cuối cùng, các vấn đề về chiến tranh, vấn đề tỵ nạn, tình trạng nghèo đó ở các quốc gia Châu Phi,... cũng đang đòi hỏi một nguồn ODA rất lớn. Theo lời cảnh báo của tổng giám đốc UNICEF là nếu tình trạng teo dần của khoản viện trợ phát triển ODA theo hướng như hiện nay thì sẽ không còn khái niệm về ODA vào năm 2012. Do đó về mặt chủ quan, ở Việt Nam chúng ta cũng cần khắc phục tình trạng yếu kém về vấn đề năng lực cán bộ, về thủ tục,về việc đền bù, di dân giải phóng mặt bằng, về khả năng tiếp nhận vốn... để có thể thu hút và sử dụng tốt hơn, tiết kiệm hơn nguồn vốn ODA đang ngày càng có xu hướng giảm. 2. Tình hình thu hút Sau khi nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế, qua 9 hội nghị nhóm tư vấn, từ năm 1993 đến hết năm 2001, nguồn vốn ODA cam kết dành cho Việt Nam mỗi năm một tăng, đạt 21,096 tỷ USD, trong đó viện trợ không hoàn lạikhoảng 15% và vốn vay ưu đãi khoảng 85%. Số vốn ODA đã giải ngân là 9,726 tỷ USD, chiếm 46,1% tổng nguồn vốn ODA cam kết. Bảng1 : Cam kết và giải ngân ODA thời kỳ 1993 – 2000. Năm Đơn vị 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Cam kết Tr USD 1810 1940 2260 2430 2400 2700 2800 2400 2356 Giảingân Tr USD 413 725 737 900 1000 1242 1350 1650 1711 Tỷ lệ giải ngân % 22,82 37,37 32,61 37,03 41,67 46 48,21 68,75 72,62 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư. Trong tình hình cạnh tranh nguồn vốn ODA như hiện nay, so với các nước đang phát triển khác, mức cung cấp ODA cho Việt Nam như vậy vẫn ở mức độ cao, trên 2 tỷ USD mỗi năm, giải ngân tính trung bình một năm đạt trên 1 tỷ USD. Mức cam kết ODA tăng liên tục qua các năm, tăng mạnh kể từ năm 1995. Năm 1996 là 2,43 tỷ USD gấp 1,34 lần so với năm 1993, năm 1997 là 2,4 tỷ USD và đến năm 1999 thì mức cam kết là 2,8 tỷ USD tăng 0,99 tỷ USD và gấp 1,55 lần so với năm 1993. Riêng năm 2001, mức cam kết ODA giảm xuống còn 2,3 tỷ USD. Tuy nhiên tỷ lệ giải ngân còn thấp chứng tỏ Việt Nam chưa thưc sự khai thác được tối đa tiềm năng nguồn vốn ODA trong khi mức cung cấp cho ta cao hơn những nước đang phát triển khác. Để sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ điều ước quốc tế về ODA đã được ký kết có giá trị khoảng 14,3tỷ USD (vay 12tỷ USD, viện trợ 2,3 tỷ USD), giá trị này đạt gần 82% tổng giá trị đã cam kết trong giai đoạn 1993-1999. Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay có 25 đối tác hợp tác phát triển song phương, 19 đối tác phát triển đa phương và hơn 350 các tổ chức phi chính phủ (NGO) đang hoạt động tại Việt Nam. So với con số 24 nhà tài trợ vào năm 1996 thì số nhà tài trợ hiện nay đã tăng gấp đôi. Điều này thể hiện mức tiến triển trong hoạt động tài trợ cho Việt Nam của các nhà tài trợ quốc tế, thể hiện sự đồng tình, ủng hộ của các nhà tài trợ về chiến lược kinh tế xã hội, đường lối cũng như chính sách chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Không những cung cấp một khối lượng tài chính quan trọng, góp phần cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam những năm qua, các nhà tài trợ đã và đang hỗ trợ cho chính phủ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực quản lý kinh tế vĩ mô, cải cách ở môt số lĩnh vực cụ thể trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Ngoài những hỗ trợ cho chuyển đổi cơ cấu, làm lành mạnh cán cân thanh toán, các dự án kết cấu hạ tầng đang được tập trung cải thiện; các dự án hỗ trợ nông nghiệp nông thôn thuỷ lợi, xoá đói giảm nghèo đã góp phần phát triển ổn định nông thôn, tạo động lực cho một nền nông nghiệp hàng hoá ở Việt Nam. 3.Tình hình sử dụng 3.1. Tình hình giải ngân ODA. Giải ngân nguồn vốn ODA được coi là thước đo năng lực tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn hỗ trơ phát triển chính thức. Bảng 2 : Tỷ lệ giải ngân ODA thời kỳ 1993 – 2001 Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tỷ lệ giải ngân 22,82 37,37 32,61 37,03 41,67 46 48,21 68,75 72,62 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư. Qua đó ta thấy giải ngân ODA liên tục tăng qua các năm, năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt tỷ lệ và mức giải ngân liên tục tăng từ năm 1996- 2001. Năm 1995 tuy mức tuyệt đối cao hơn năm 1994, song tỷ lệ so với mức cam kết lại giảm xuống. Mức giải ngân thời kỳ 1996 – 2001 đạt 49 % tăng gấp 1,58 lần so với thời kỳ 1993-1995 chỉ đạt 31,16%. Chiều hướng giải ngân tăng nhanh chủ yếu do việc thực hiện dự án đã ngày càng tiến bộ hơn về mọi mặt. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể mức giải ngân vẫn còn thấp so với kế hoạch, mức giải ngân bình quân hàng năm chỉ khoảng 70% so với kế hoạch dự kiến, tính đến thời điểm hiện nay chỉ có trên 9,768 tỷ USD, trong đó hơn 50% là các dự án cơ sở hạ tầng. Điều này cho thấy năng lực tiếp nhận ODA của Việt Nam còn kém, chưa thực sự khai thác hết các cơ hội mà các nhà tài trợ dành cho chúng ta. Xung quanh vấn đề tốc độ giải ngân đối với các dự án sử dụng vốn ODA có rất nhiều ý kiến khác nhau. Theo đánh giá của các chuyên gia WB thì tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA như vậy là chậm, do đó chương trình tài trợ của WB dành cho Việt Nam đang từ 500 triệu USD năm 1996 xuống còn 431 triệu USD vào năm 1999. Tuy nhiên từ khía cạnh người sử dụng vốn ODA, cụ thể là các chương trình dự án ở Việt Nam thì phải thừa nhận rằng tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA trong những năm qua là rất chậm. Sự chậm trễ này không những do phía Việt Nam gây ra (như công tác công tác lập dự án, công tác đấu thầu, công tác giải phóng mặt bằng...) mà còn ở phía các nhà tài trợ. Từ năm 1993 đến nay, Việt Nam đã tiếp nhận nguồn vốn ODA của 45 nhà tài trợ khác nhau, trong khi môi trường pháp lý của chúng ta chưa đồng bộ, năng lực cán bộ còn hạn chế mà còn phải tiếp cận với 45 quy định khác nhau về quy định thủ tục giải ngâ._.n của ngành GTVT Viện chiến lược phát triển của Bộ KH-ĐT đã lập các phương án phát triển kinh tế- xã hội tương lai dựa trên các dư kiến khác nhau về tăng trưởng GDP và các yếu tố biến đổi khác cụ thể dự kiến tăng trưởng giai đoạn 2000-2010 là 10,7%. Do môi trưòng kinh tế châu á không ổn định, những dự kiến này dường như quá lạc quan bởi theo dự kiến của ngân hàng thế giới, tăng trưởng thực của GDP từ năm 2001 đến 2005 là 5% (Nguồn WB, Việt Nam – chiến lược phát triển quốc gia của nhóm ngân hàng thế giới 1999-2002). Nhưng nếu có dự kiến ở mức tăng trưởng thấp hơn thì dự kiến phân bổ theo khu vực và theo ngành cũng không bị ảnh hưởng do đây chủ yếu là những sản phẩm có xu hướng dài hạn. Với qui hoạch tổng thể Phát triển Công nghiệp và cơ sở hạ tâng cho giai đoạn 2001-2010, Bộ giao thông đã lập danh sách các dự án đầu tư cho giai đoạn này, tổng chi phí ước tính đạt khoảng 13,888 tỷ USD. Bảng 13 : Các đề suất cho phần cơ sở hạ tầng GTVT đến năm 2010 Nguồn vốn ODA (Triệu USD) Trong đó 2001-2005 2006-2010 Ngân sách chính phủ 11042 5058 5934 Trong nước 2785 1317 1468 ODA 8357 3741 4666 BOT 2051 1048 1103 Các nguồn khác 296.2 132 214 Tổng 13492.2 6241 7251 Nguồn : Bộ GTVT 2001 Qua bảng trên có thể thấy mức vốn chi cho xây dựng cơ bản được đề xuất dường như không được duy trì lâu dài do giới hạn về mặt tài chính và khả năng tiếp nhận hạn chế về mặt hành chính. Đồng thời, dự kiến về các hỗ trợ từ các nhà tài trợ và khả năng cấp vốn của chính phủ quá lạc quan. Bên cạnh đó, việc phân bổ chi tiêu theo từng lĩnh vực GTVT cũng không tăng cường được chính sách của Chính phủ về phát triển nông thôn. Với đề xuất 39,178% cho đường bộ liên tỉnh, 25,396% cho GTVT đô thị 15,308% cho cảng, 8,235% cho sân bay, 6,205% cho đường sắt, 1,455% cho giao thông nông thôn, 1,427% cho giao thông đô thị trừ khi có dự kiến vốn cho CSHT GTVT được chuyển từ trung ương về địa phương. Bảng 14 : Các đề xuất đầu tư cho từng lĩnh vực GTVT giai đoạn 2000-2010 Lĩnh vực ODA (Tr USD) Tỷ lệ % Trong đó 2001-2005 2006-2010 Đường bộ 5438 40.3 2515 2923 Đường sắt 861.2 6.38 398.2 463 Cảng biển 2125 15.75 982.8 1142 Đường thuỷ 198 1.467 92 106 Sân bay 1143 8.47 529 614 GTĐT 3525 26.13 1630 1895 GTNT 202 1.5 94 108 Tổng 13492.2 100 6241 7251 Nguồn : Bộ GTVT/ 2001 Trong chiến lược kinh tế xã hội 10 năm, Chính phủ đã đưa ra các kế hoạch nhiều kỳ vọng để nâng cấp và cải tạo ngành giao thông vận tải bao gồm đường bộ, đường sắt, đường hàng không, cảng, hệ thống giao thông đường thuỷ. Trong ngành GTVT Chính phủ đã đặt mục tiêu nâng cao khả năng nối liền với các nước láng giềng bằng cách tăng cường hệ thống đường bộ, bao gồm biên giới và xây cầu qua sông; nâng cấp đường sắt và nhiều đường giao thông liên kết với các trung tâm kinh tế; cải tạo hệ thống cảng biển và tăng thêm mạng lưới cảng biển trong nước; phát triển hệ thống vận tải đường thuỷ và nâng cao năng lực cảng biển; HĐH các sân bay quốc tế và nâng cấp các sân bay nội địa. Song những kế hoạch dài hạn này lại cần có vốn đầu tư rất lớn. Bên cạnh nguồn vốn ngân sách, vốn xây dựng cơ bản, vốn trong nước, vốn BOT... Thì nguồn vốn đóng góp của cá nhà tài trợ khả quan hết sức quan trọng bởi nó cho phép đánh giá toàn bộ nguồn tài chính tiềm năng cho GTVT. Hiện nay chính phủ đang tìm kiếm nguồn tài trợ cho kế hoạch này phần lớn từ phía chính phủ Nhật Bản. Do tầm quan trọng về sự phát triển tương lai của ngành, sự tham gia của cộng đồng các nhà tài trợ và sự chuẩn bị là cần thiết. Phương hướng, mục tiêu huy động và sử dụng ODA trong kế hoạch 10 năm đến 2019 ở Việt Nam: Định hướng sử dụng vốn ODA tới năm 2010 và phương hướng phát triển CSHT-GTVT Việt Nam trong các thập kỷ tới 1. Định hướng sử dụng vốn ODA tới năm 2010 1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Nước ta tiếp tục đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá: * Tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt khoảng 9,7- 10,7%. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 870 – 930 USD. * Tạo sự chuyển hoá cơ bản và toàn diện cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng công nghiệp – xây dựng chiếm khoảng 47-49% GDP. 1.2. Nhu cầu và khả năng huy động vốn: Mức tăng trưởng GDP thời kỳ này là 52,7 tỷ USD. Nền kinh tế cần đầu tư là 174 tỷ USD. Cần 59-60 tỷ USD vốn đầu tư từ nước ngoài, trong đó ODA cần huy động 22- 23 tỷ USD (bình quân một năm từ 2 – 2,5 tỷ USD). Đây là co số tương đối hiện thực vì số ODA đã kí hiệp định (1996-2000) nhưng chuyển qua thực hiện (2001-201) là 15 tỷ USD. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ 21 viện trợ không hoàn lại giảm đáng kể, ước khoảng 1 –1,5 tỷ USD trong 10 năm. Riêng đối với vốn ODA vay ưu đãi, có thể phải vay với mức lãi suất bình quân thường gắn với mức lãi suất thị trường. Dự báo một số chỉ tiêu quan trọng (2001-2010) về khả năng trả nợ: *Tỷ số tổng nợ/GDP mỗi năm có khả năng thấp hơn 50% là giới hạn cho phép. * Hệ số dịch vụ trả nợ/doanh số xuất khẩu giảm dần từ 5% xuống còn 1,8% năm 2010. *Tỷ lệ giữa dịch vụ trả nợ và ngân sách giảm dần từ 10,7% năm 2001 xuống còn 9,6% năm 2010. Dự kiến cả năm huy động vốn ODA cho thời kỳ 2001-2010 co thể huy động tới 25-26 tỷ USD. Trong đó, Ngân hàng thế giới 7 tỷ USD, ADB 5 tỷ USD, IMF 0,5 tỷ USD, Nhật bản 0,7 tỷ USD, Mỹ 2 tỷ USD, Đức 1 tỷ USD, Pháp 0,7 tỷ USD, các nhà tài trợ song phương khác 0,2 tỷ USD, các tổ chức liên hợp quốc 0,5 tỷ USD, các tổ chức phi chính phủ 0,2 triệu USD. Về cơ cấu sử dụng ODA đầu tư cho khu vực cơ sở hạ tầng tăng lên có thể lên tới 25% (5,5-5,7 tỷ USD), trong đó trọng tâm là GTVT, năng lương... tiếp tục đầu tư với tỷ lệ cao. Nguồn : Sách “Nguồn vốn ODA trên thế giới và Việt Nam –Hội KHKT Việt Nam” 2. Phương hướng phát triển CSHT GTVT Tai hội nghị khoa học quốc tế cầu đường lần thứ ba- HN tháng 9/1999, Bộ trưởng bộ GTVT đã có bài phát biểu vế phương hướng phát triển CSHT GTVT của Việt Nam trong thập kỷ tới như sau: 2.2. Trục xuyên quốc gia. Hoàn thành, nâng cấp và tiếp tục mở rộng QL1A. Xây dựng và nối thông các đoạn đường đang khai thác, hình thành từng bước tuyến đường xuyên Việt thứ hai từ Hà Nội tới TP HCM, khôi phục nâng cấp đường sắt Thống Nhất, đường sắt Hà Nội- Lào Cai cho phù hợp với tiêu chuẩn đường xuyên á. 2.1. Hệ thống giao thông đối ngoại. Hệ thống giao thông đối ngoại của Việt Nam bao gồm các tuyến đường năm trong mạng đường sắt xuyên á, đường bộ xuyên á, các hành lang Đông –Tây và tới các nước thuộc tiểu vùng sông Mê Kông, các cảng biển quôc tế, sân bay quốc tế... Hệ thống này sẽ được nâng cấp cải tạo và xây dựng mới với tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước trong khu vực và quốc tế. 2.3. Khu vực phía Bắc. Các trục giao thông quan trọng nối liền các trung tâm kinh tế thuộc tam giác kinh tế Hà Nội- Hải Phòng-Quảng Ninh như QL5, QL10, QL18, đường cao tốc Nội Bài- Hạ Long, đường sắt Hà Nội- Hải Phòng, Hà Nội- cảng Cái Lân, các tuyến đường sông khu vực. Các đầu mối giao lưu hàng hải, hàng không quốc tế như cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân, sân bay Nội Bài, các trục đường nan quạt từ hà Nội đi các cửa khẩu quốc tế trên bộ và đi các thành phố, các tuyến vành đai phía Bắc như QL4, QL279, QL37, các tuyến đường sông chủ yếu... 2.4. Khu vực miền Trung. Ngoài các tuyến QL1A, đường HCM, đường sắt thống Nhất, trọng tâm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông khu vực miền trung là: Các cảng biển quốc tế phục vụ trực tiếp cho khu vực miền Trung và các nước láng giềng như cảng Nghi Sơn, Cửa Lò, Vũng áng, Cụm cảng Tiên Sa- Liên Chiểu, Cụm cảng Dung Quất, Quy Nhơn, Khánh Hoà. Các tuyến hành lang Đông –Tây nối các cảng biển Việt Nam với các cảng biển của nước ngoài. Các tuyến đường ngang nối vùng Tây Nguyên với các cảng biển, các tỉnh duyên hải miền Trung, nâng cấp các sân bay Đà Nẵng, Chu lai (Quảng Nam). 2.5. Khu vực phía Nam. Trọng tâm phát triển CSHT GTVT khu vực vận tải phía Nam: Các trục giao thông quan trọng nối liền các trung tâm kinh tế thuộc tam giác kinh tế trọng điểm Sài Gòn-Biên Hoà-Vũng Tàu; Các đầu mối giao lưu hàng hải, hàng không quốc tế như cảng Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, Long Thành sẽ được phát triển thêm trong tương lai. Các trục đường nan quạt đi thành phố Hồ Chí Minh đi các cửa khẩu quốc tế và đi các tỉnh; Các tuyến đường bộ chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long, các tuyến đường thuỷ Sài Gòn Kiên Lương, Sài Gòn Cà Mau, cảng Cần Thơ và các cảng sông chủ yếu trên sông Tiền và sông Hậu. 2.6. Giao thông đô thị. Phát triển GTVT đô thi ở các thành phố lớn của Việt Nam là một vấn đề cấp bách được ưu tiên. Trước mắt phải có các giải pháp hữu hiệu để chống ùn tắc giao thông ở HN và TP HCM, đồng thời cải tạo nâng cấp các cơ sở hạ tầng đô thị hiện có, xây dựng mới các đường vành đai, đường xuyên tâm, các nút giao cắt lập thể. Những nơi có sông kênh chảy qua phải xây dựng hệ thống công trình, đảm bảo co sự giao lưu trong thành phố được liên tục thông suốt, an toàn, tiện lợi, ít ô nhiễm môi trường và giải quyết chống lũ lụt cho thành phố Hà Nội. Trong tương lai gần sẽ phát triển CSHT GTVT đô thị theo hướng đa dạng hoá các phương thức vận tải. Bên canh hệ thống đường bộ sẽ phát triển hệ thống đường sắt trên cao, tiến tới xây dựng đường tàu điện ngầm, phát triển mạng xe vận tải hành khách công cộng. 2.7. Giao thông nông thôn. Xây dựng mạng lưới đường giao thông nông thôn đến các xã, nối liền mạng lưới GTNT với mạng lưới GTQG. Trước mắt tập trung xây dựng nâng cấp đường nối từ trung tâm huyện tới trung tâm xã, cụm xã đảm bảo đi lại thông suốt. Từng bước thay thế cầu khỉ bằng những cầu dân sinh có kết cấu và vật liệu bền vững, đi lại tiện lợi an toàn hơn. 2.8. Các vấn đề khác. Bên cạnh việc đầu tư phát triển CSHT GTVT, công tác bảo trì hệ thống đã có cũng phải được chú trọng hơn. Hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý và tạo nguồn vốn cho các công tác này là hai vấn đề mấu chốt. Bảo đảm an toàn giao thông và bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng và khai thác GTVT cũng là những vấn đề rất quan trọng. Như đã nói ở trên, để có thể thực hiện được những phương hướng đã đặt ra trong giai đoạn tới chúng ta cần có một nguồn vốn lớn đặc biệt là vốn ODA song việc thu hút và sử dụng thế nào cho có hiệu quả lại không đơn giản. Một số giải pháp chủ yếu sử dụng có hiệu quả vốn ODA cho GTVT 1. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA nói chung. 1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý. Hiện nay chúng ta đang có khá nhiều văn bản quy định về việc quản lý, điều phối và thực hiện các dự án ODA như Nghị định 87CP năm 1997 về việc ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, thay thế cho nghị định 20/CP 1994, thông tư số 12 hướng dãn việc hực hiện nghị định 87/CP, nghị định 52/1999/NĐ - CP về việc ban hành quy chế đầu tư xậy dựng, nghị định 88/1999/NĐ - CP ngày 1/9/1999 về việc ban hành quy chế đấu thầu... trong đó, Nghị định 87/CP được coi là nghị định cơ bản nhất về quản lý và sử dụng ODA và về cơ bản đã quy định rõ ràng việc phân cấp quản lý cũng như nhiệm vụ của chính phủ và các bộ, ngành có liên quan. Tuy nhiên, việc tồn tại nhiều loại văn bản như trên sẽ không tránh khỏi sự trùng lặp dẫn đến phức tạp hoá vấn đề. Vì vậy, nên chăng bên cạnh việc hoàn thiện các văn bản hiện hành, Nhà nước cần có một văn bản thống, định rõ ràng tất cả mọi vấn đề liên quan để nhà đầu tư cũng như nhà tài trợ và các cán bộ có trách nhiệm có thể dễ dàng theo dõi và nắm bắt được những yêu cầu cần thiết cho việc thực thi dự án. Môi trường pháp lý chính là một điều kiện kiên quyết mà các nhà tài trợ quan tâm nên nó cần phải được chặt chẽ rõ ràng và thông thoáng. Khi đã có một môi trường pháp lý tương đối hoàn thiện chúng ta mới có thể thu hút được sự quan tâm về phía các nhà taì trợ. 1.2. Thực hiện đầy đủ cam kết với các nhà tài trợ. Để thu hút nhiều hơn các nguồn ODA từ phía các nhà tài trợ, Việt Nam cần phải thực hiện đày đủ các cam kết, cụ thể là: - Tiến hành công khai hoá ngân sách. - Thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, tạo đà để phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Tăng cường hơn nữa ODA vào lĩnh vực con người. - Cải cách hoạt động hệ thống ngân hàng, tài chính, xem xét lại chính sách thuế, cải thiện môi trường đầu tư trong và ngoài nước. - Tập trung phát triển nhanh nông thôn, xoá đói giảm nghèo. Thực hiện đầy đủ cam kết trên, chúng ta có cơ hội để phát triển kinh tế đất nước, tạo được niềm tin của cộng đồng tài trợ quốc tế đối với nỗ lực cải cách kinh tế của Việt Nam. 1.3. Tăng cường quan hệ với các đối tác, đề cao và tạo điều kiện cho phía Việt Nam phát huy vai trò làm chủ cho quá trình tiếp nhận và sử dụng vốn ODA. Việt Nam cần tập trung vào sử dụng các đối tác chủ yếu, đó là Nhật Bản, ADB, WB và UNDP. Đây là 4 nhà tài trợ lớn quan tam đến Việt Nam như là một đối tác lâu dài có năng lực chuyên môm và kinh nghiệm hợp tác phát triển với các nước, có tiềm lực và trên thực tế đã cung cấp một khối lượng lớn ODA cho Việt Nam. Ngoài 4 đối tác trên, Việt Nam cần mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác đặc biệt là Mỹ, một đối tác có lượng ODA cung cấp vào loại lớn nhất thế giới. Mở rộng quan hệ hợp tác phát triển với đối tác này sẽ là tín hiệu mở rộng quan hệ hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế. Trong quá trình quan hệ với các đối tác, Việt Nam cần phải tính toán, kiên trì và kiên quyết đấu tranh với các nhà tài trợ để loại bỏ các ràng buộc về mặt chính trị ra khỏi quan hệ hỗ trợ phát triển. Cần phải đề cao vai trò làm chủ trong quá trình làm chủ trong quá trình tiếp nhân và sử dụng vốn ODA, bắt đầu từ khâu đề xuất nhu cầu viện trợ, hình thành và thiết kế dự án, tổ chức thực hiện theo dõi đánh giá kết quả. 1.4. Tăng cường năng lực cán bộ ở các cấp. Đào tạo và bồi dưỡng năng lực quản lý, điều phối và sử dụng ODA là một biện pháp rất quan trọng nhằm hoàn thiện công tác điều phối, quản lý và sử dụng ODA hiện nay. Cần phải có một chương trình huấn luyện rộng rãi để tạo ra những thay đổi về nhận thức, thái độ và kỹ năng ở tất cả các cấp, tăng cường quản lý Nhà nước về ODA. Các cán bộ quản lý về ODA phải có kién thức đầy đủ về các mặt: - Các loại hình viện trợ có thể vận động và các chi phí liên quan để hấp thụ viện trợ. - Chính sách và lợi ích từ các nhà viện trợ - Chu kỳ dự án, sự phối hợp giữa các cơ quan cũng như trách nhiệm quyền hạn ở mỗi cơ quan ở từng giai đoạn của chu trình dự án. - Các kiến thức về kinh tế thị trường, phân tích chính sách kinh tế phù hợp với cơ chế kinh tế mới. - Những kiến thứcc cơ bản về ngoại giao, luật pháp quốc tế, trình độ ngoại ngữ. 1.5. Tăng nhanh tốc độ giải ngân các dự án. Trước hết cần đơn giản hoá các thủ tục như xem xét, trình duyệt dự án, các thủ tục đấu thầu, chẳng hạn ban hành một quy chế để nói rõ tất cả các tài liệu phải nộp, thời gian hay cơ sở cho việc đánh giá của uỷ ban đánh giá thầu của quốcc gia để người nộp có thể nộp đủ và đúng với yêu cầu của người đánh giá, tránh mất nhiều thời gian do không nắm được đầy đủ các yêu cầu. Thứ hai, bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì và phối hợp với bộ tài chính, ngân hàng Nhà nước, soạn thảo và trình thủ tướng chính phủ phê duyệt khung lãi suất và thời gian cho vay lãi cũng như cơ chế tài chính trong nước đối với cá loại dự án ODA. Cơ chế tài chính trên phải được công bố trước các chủ dự án quan tâm để làm cơ sở xây dựng báo cáo khả thi. Thứ ba, cần thiết lập một hệ thống thông tin hữu hiệu giữa Việt Nam và các nhà tài trợ cũng như giữa các nhà tài trợ để giúp hiểu biết lẫn nhau hơn, nhờ đó sự phối hợp hoạt động sẽ có hiệu quả thiết thực hơn. Một trong những hoạt động đó là Việt Nam phối hợp với phía các nhà tài trợ cùng phân tích và đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung cũng như trên một số lĩnh vực cụ thể như: tình hình nghèo đói, các hoạt động trong ngành năng lượng, giao thông vận tải... để từ đó đưa ra những đề xuất phù hợp với cả hai phía. Thứ tư, cần tăng cường năng lực cán bộ ở các cấp bằng việc đào tạo và huấn luyện về công tác quản lý dự án một cách có hệ thống, bổ xung các giáo trình chuẩn và đội ngũ cán bộ hướng dẫn có trình độ và kinh nghiệm. Đối với công tác giải phóng mặt bằng, di dân và tái định cư sẽ làm rõ hơn ở phần sau. 1.6. Các biện pháp về chính sách trả nợ nước ngoài. Việc cho vay lại nguồn vốn ODA phải được đầu tư đúng mục đích và sử dụng phải đảm bảo thực hiện đúng các ưu đãi hỗ trợ phát triển nguồn vốn này. Các thoả thuận về điều kiện vay, kể cả các ưu đãi được ghi trong hiệp định vay mượn về cơ bản phải đảm bảo cho các đối tượng khác thực hiện vay và hoàn trả vốn gốc và lãi đúng hạn theo các hiệp định đã ký kết với các nhà tài trợ, có như vậy mới có hy vọng các nhà tài trợ cho vay tiếp. Có một chính sách về vốn đối ứng đảm bảo đúng thời hạn của dự án. Đối với các dự án ODA không thu hồi do ngân sách Nhà nước cấp: hàng năm, theo kế hoạch giải ngân vốn nước ngoài, tuỳ theo từng dự án mà bố trí ưu tiên trong ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đủ vốn đối ứng trước khi bố trí cho các dự án đầu tư trong nước. Đối với các dự án cho vay lãi, vốn đối ứng do các chủ đầu tư có trách nhiệm bố trí. Đối với các dự án quan trọng, nhu cầu dự án vốn đối ứng lớn, chủ đầu tư không có khả năng đầu tư đủ, có thể cho phép sử dụng một phần vốn tín dụng ưu đãi đầu tư của Nhà nước. Thành lập quỹ đầu tư chính phu để thanh toán kịp thời các khoản vốn và lãi đối với các hợp đồng cho vay lại vốn ODA. Trước mắt, để hình thành quỹ này, ngân sách Nhà nước cần bố trí cấp một số nhất định làm vốn ban đầu. Nguồn vốn lâu dài từ quỹ là các nguồn thu từ các khoản trả gốc, lãi phí của các dự án cho vay lại. 2. Các giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA trong ngành GTVT. 2.1. Tạo môi trường thu hút và nâng cao năng lực tiếp nhận ODA cho phát triển CSHT GTVT CSHT GTVT phải tiếp tuc là một trong những lĩnh vực được quan tâm khuyến khích đầu tư như một nền tảng cho sự phát triển chung của toàn xã hội, phục vụ cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, đưa Việt Nam theo kịp trình độ của các nước trên thê giới. Hiện nay, chính phủ Việt Nam muốn đầu tư cho lĩnh vực này vẫn phải dựa đáng kể vào sự hỗ trợ của các nhà tài trợ vì vậy chìa khoá để đạt được sư tiến bộ là chính sách đúng đắn, thể chế lành mạnh và nguồn lực phù hợp hay đúng hơn là tạo ra một môi trường hấp dẫn các nhà tài trợ đầu tư cho chúng ta. Những điều này cũng sẽ giúp tính hiệu quả của viện trợ. Thứ nhất trong dài hạn, Nhà nước nên đa dạng hoá các hình thức đầu tư phát triển GTVT: +Cho phép các thành phần kinh tế (Cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước) đầu tư vào các công trình có khả năng hoàn vốn như cảng biển, cầu, đường bộ theo hình thức đầu tư- thu phí- hoàn vốn, thương mại hoá một số đoạn, tuyến đường sắt. Đối với công trình có khả năng thu phí một phần, Nhà nước hỗ trợ bằng các hình thức như góp vốn xây dựng và ưu tiên cho các nhà đầu tư thu phí hoàn vốn trước, cho vay ưu đãi, trợ giá. +Chuẩn bị tốt các dự án; Bố trí vốn đối ứng trong nước kịp thời; công tác giải phóng mặt bằng, đền bù giải quyết nhanh dứt điểm, tạo điều kiện cho dự án tiến hành đúng tiến độ; các thủ tục kế toán, kiểm toán phải chặt chẽ, đơn giản các thủ tục thanh quyết toán công trình; phân cấp rõ ràng giữa các dự án ODA thuộc TW và địa phương quản lý. +Phối hợp hài hoà chính sách và thủ tục giữa phía Việt Nam và nhà tài trợ. 2.2. Phân bổ vốn ODA theo từng lĩnh vực CSHT GTVT Cần cố gắng để đảm bảo cho ODA tới được với người dân ở các vùng nông thôn hẻo lánh thông qua các dự án đầu tư có hệ thống vào lĩnh vực GTNT. Các số liệu được phân loại theo lĩnh vực dự kiến đến năm 2010 thì 25% là tỷ lệ vốn chi cho GTVT đô thị có vể như quá chênh lệch so với tỷ lệ dân số của 2 thành phố đó trên dân số cả nước. Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ cần đồng tình và nhất quán với đề xuất phải dành nhiều ODA hơn cho giao thông nông thôn. Cho đến nay tỷ lệ ODA phân bổ cho các lĩnh vực của hạ tầng cơ sở GTVT không đồng đều: Đường sắt cũng là một lĩnh vực quan trọng song ODA đầu tư lại chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 6,2%) trong cơ cấu tổng vốn. Vì vậy trong thời gian tới cần quan tâm hơn nữa tới lĩnh vực này bởi lĩnh vực này sẽ trở thành gánh nặng tài chính lớn cho chính phủ Việt Nam nếu không được chuyển đổi thành một doanh nghiệp có khả năng tồn tại về tài chính và hoạt động theo hướng thương mại. 2.3. Tiếp tục đẩy nhanh quá trình giải ngân. Để đẩy mạnh quá trình giải ngân nguồn vốn ODA, điều cần thiết là các Bộ ngành, địa phương, ban quản lý dự án nghiêm chỉnh thực hiện tất cả các các quy định trong quy định của dự án. Bởi bất kỳ một ách tắc ở khâu nào như: Giải phóng mặt bằng, tiến độ thi công... đều có thể dẫn tới chậm giải ngân nguồn vốn. Khâu xây dựng dự án khả thicó thể coi là khâu quan trọng nhất, chất lượng của khâu này có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả dự án ODA. Trong khâu này có 2 vấn đề đặt ra là: + Trong nhiều trường hợp, chúng ta rất thiếu chủ động trong việc xây dựng dự án, mà chủ yếu dựa vào các nhà tài trợ. Hơn nữa do không chủ động đề xuất và xây dựng dự án nên chúng ta thường có tâm lý của người đi đầu “cầu may thì có thưởng” ta thiếu hẳn công tác chuẩn bị và cân đối các điều kiện để thực hiện có hiệu quả. Chính vì điều này nên việc hợp tác với các bên tài trợ là việc cần thiết và đó phải là sự hợp tác trên thế chủ động của ta về phương diện nội dung, quy trình thủ tục cũng như tổ chức thực hiện. Thực tế, những năm qua cho thấy tất cả dự án được phân bổ cho ngành đều được tiến hành nghiên cứu khả thi sau khi ký hiệp định vay vốn. Làm như vậy dự án sẽ mất một khoảng thời gian 6 tháng đến 1 năm để làm công việc trên, đây là một thiệt thòi lớn cho ta vì không sử dụng được thời gian ân hạn được đưa ra trong hiệp định. + Bên Việt Nam thiếu kinh phí để chủ động xây dựng những dự án ODA lớn (nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi). Các dự án đã được chính phủ và nhà tài trợ nhất trí thực hiện cần được thể hiện trong danh mục và dự án chuẩn bị đầu tư và cân đối vốn đã thực hiện theo các quy định hiện hành. Vậy, để quá trình giải ngân được đẩy nhanh trong khâu thẩm định dự án phải được xác định theo những nội dung quy định tại nghị định 42/cp và nghị định bổ sung 92/CP, nghị định 178/CP, 87/CP, 145/CP, 81/CP. Các dự án đều được xây dựng qua 2 bước là nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi, quy trình thủ tục rút vốn. Khâu thực hiện dự án bao gồm các bước sau: đàm phán và ký kết hợp đồng, tổ chức xét duyệt kết quả đấu thầu, đền bù, giải phóng mặt bằng... Trong quá trình thực hiện giai đoạn này, cần phải thực hiện tốt những vấn đề sau: + Tất cả các dự án ODA đàm phán ký kết với nhà tài trợ để ký hợp đồng đều phải có nghiên cứu khả thi được các cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định hiện hành. + Cơ chế tài chính trong các dự án được xác định cụ thể trong đấu thầu, có sẵn vốn đối ứng và cả cơ chế thực hiện, lưu ý là theo thông lệ ODA trên thế giới. + Nên tinh giảm đầu mối tài chính ở các cấp và công bố rộng rãi quy trình rút vốn cho các dựa án ODA. + Các dự án được ký kết với nhà tài trợ và báo cáo khả thi của dự án đã được các cấp phê duyệt phải được các cơ quan quản lý và chủ dự án tuân thủ thực hiện nghiêm chỉnh. +Việc tổ chức đấu thầu và xét duyệt kết quả thầu phải được tổ chức một cách chặt chẽ, công khai và nhất quán. +Đơn giản hoá thủ tục xem xét và trình duyệt dự án. +Nghiên cứu vai trò tham gia của cộng đồng hưởng lợi từ dự án. +Nâng cao tính minh bạch công khai trong thực hiện dự án. 2.3. Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng. Đây là giai đoạn thường kéo dài sự chậm trễ của dự án, chính giai đoạn này đã làm cho đối tác không tin tưởng, mất lòng tin với các dự án. Luật đất đai được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 14/7/1993 và có hiệu lực từ ngày 15/10/1993. Với tư tưởng xuyên suốt: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Tuy nhiên luật chưa xác định rõ quyền cụ thể của người sử dụng đất. Tình trạng này một mặt, đã làm hạn chế những nhà đầu tư lớn, lâu dài mà cụ thể là trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông... Mặt khác những văn bản chưa được quy định thống nhất từ trên xuống, nếu có thì các quy định chế độ đền bù không được thống nhất từ trên xuống một cách đồng bộ. Dẫn tới sự chồng chéo không thống nhất trong giải quyết tranh chấp của các địa phương đối với các dự án. Do vậy để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, cần phải có những giải pháp sau: + Phân cấp khu vực địa lý phải rõ ràng để có chính sách đền bù thoả đáng: đất nông nghiệp, đất ở... + Đánh giá chính xác, cụ thể số lượng tài sản: Nhà ở, cây lâu năm... 2.4. Chuẩn bị đủ vốn đối ứng. Vấn đề đặt ra ở đây là bộ GTVT phải lập dự án cụ thể, giá trị của từng dự án để chuẩn bị cân đối nguồn vốn đối ứng khi đặt ra chương trình vay vốn ODA. Nhiệm vụ là xác định rõ tiến độ vốn chảy vào để có giải pháp huy động vốn trong nước kịp thời. Nguồn này có thể huy động bằng khuyến khích tiết kiệm hay huy động vốn tập trung qua ngân hàng. Để đảm bảo cho các dự án ODA thực hiện được thuận lợi cần phải làm rõ và phải giải quyết các vấn đề cụ thể sau: + Kế hoạch vốn đối ứng phải lập cùng kế hoạch vốn giải ngân nước ngoài của các chương trình dự án ODA. + Kế hoạch vốn đối ứng phải được phân bổ cụ thể cho từng loại nguồn vốn. Nguồn vốn ngân sách chi cho sư ghiệp phát triển cơ sở hạ tầng GTVT từ nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi, vốn huy động từ tầng lớp dân cư. + Thực hiện quản lý Nhà nước nguồn vốn đối ứng theo cơ chế tài chính hiện hành. Các chủ dự án có trách nhiệm sử dụng nguồn vốn đúng mục đích và có hiệu quả. Bên cạnh đó, phát huy nội lực, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các tổ chức cá nhân đầu tư vào CSHT GTVT dưới các hình thức: công trình kinh doanh, công trình vay vốn hoàn trả Lập các quỹ phát triển đường bộ và quỹ hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cảng biển, mà nguồn thu chủ yếu của quỹ là thu phí qua xăng dầu. Huy động sự đóng góp của nhân dân với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm dưới các hình thức bằng tiền, ngày công, hiện vật... chủ yếu để bảo trì phát triển GTNT. 2.6. Phát triển nguồn nhân lực. Thực hiện chương trình đào tạo và đào tạo lại. Mở rộng các hình thức đào tạo: ngắn hạn, dài hạn, trong nước, nước ngoài, theo trường lớp và tự đào tạo. Nâng cao việc đào tạo ngành nghề trong cơ sở đào tạo. Thực hiện chế độ ưu đãi đối với người lao động duy tu bảo dưỡng CSHT ở các vùng núi xa các trung tâm dân cư. 2.7. Tăng cường công tác theo dõi và đánh giá dự án. Trong thời gian qua, công tác quản lí dự án ODA được phân cấp, giao quyền tự chủ nhiều hơn cho chủ dự án và các ban quản lí dự án. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tiếp nhận và sử dụng vốn ODA nhưng cũng đặt ra nhiều yêu cầu cao hơn về công tác theo dõi và đánh giá dự án. Do vậy, việc hình thành hệ thống theo dõi và đánh giá dự án từ trung ương tới các ban quản lí dự án (PMU) là rất cần thiết để nhà nước có thể quản lí thống nhất về ODA . Trước tiên cần xúc tiến một số công việc sau: Xây dựng những căn cứ pháp lí để thiết lập hệ thống tổ chức theo dõi thực hiện dự án ODA từ trung ương tới các PMU cho phù hợp vói tình hình thực tế để kịp thời phát hiện những vấn đề vướng mắc nảy sinh gây chậm chễ trong quá trình thực hiện dự án và đề xuất xử lí nhằm thúc đẩy việc giải ngân và tăng hiệu quả cuả các dự án ODA. Thiết lập hệ thống chỉ tiêu báo cáo ở các cấp tuỳ theo mức độ tổng hợp khác nhau từ PMU lên đến chính phủ, thuận tiện cho người thực hiện nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu của báo cáo. Xây dựng phương pháp luận và cẩm nang hướng dẫn thực hiện về theo dõi và đánh giá dự án ODA. Tin học hoá hệ thống theo dõi việc thực hiện các dự án ODA. Trước mắt là tổ chức xây dựng và lắp đặt mạng máy tính ở các cơ quan điều phối ODA ở cấp trung ương : thành lập mạng ở Bộ KH&ĐT và nối mạng tới Văn phòng chính phủ, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước và Bộ GTVT. Trong tương lai sẽ nối mạng đến tận các đơn vị quản lí của từng dự án. Tăng cường công tác đào tạo cán bộ quản lí dự án tại các ngành các cấp cũng như ban quản lí dự án (PMU) về công tác theo dõi đánh giá dự án ODA. Việc đánh giá dự án phải là công việc thường xuyên, được thể hiện vào kế hoạch hàng năm. Công việc đánh giá phải được tổ chức có khoa học và có kinh phí cần thiết. Tạo môi trường để hình thành các trung tâm tư vấn, các viện nghiên cứu có tính chuyên môn cao về công tác đánh giá dự án. Đưa vào hệ thống chỉ tiêu các chỉ tiêu về theo dõi và đánh giá dự án ODA nói chung và trong lĩnh vực GTVT nói riêng. Kết luận Vốn là một trong những yếu tố hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trên thế giới. Với Việt Nam là một nước còn nghèo nàn lạc hậu, tích luỹ thấp thì nguồn vốn nước ngoài trong đó có nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA chiếm vị trí quan trọng đặc biệt là đối với những dự án cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Trên thực tế, ODA đã hỗ trợ rất nhiều trong viẹc giúp chúng ta cải tạo và nâng cấp hệ thống giao thông vận tải ở nước ta. Nhưng từ lúc tiếp nhận cho đến lúc thực hiện không phải lúc nào cũng thuận lợi vì vậy vấn đề đặt ra là sử dụng nguồn vốn ODA vào việc cải tạo CSHT GTVT thế nào cho đúng, hợp lý, hiệu quả, tránh lãng phí là việc rất cần thiết. Nội dung của bản luận văn này đã trình bày một cách khái quát chung nhất về vốn và nguồn vốn ODA, vai trò của ODA trong nền kinh tế và trong phát triển CSHT GTVT. Trên cơ sở lý luận chung đó đi sâu nghiên cứu thực trạng sử dụng ODA trong những năm qua trong phát triển CSHT GTVT, những thành tựu cũng như những vướng mắc còn tồn tại; qua đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những mặt mạnh và hạn chế tối đa những mặt yếu để việc sử dụng vốn ODA cho phát triển CSHT GTVT ngày càng mang lại hiệu quả. tài liệu tham khảo 1. Sách “kinh tế đầu tư ”. PGS – PTS Nguyễn Ngọc Mai Trường ĐHKTQD 2. Tài liệu “Đổi mới và huy động vốn cho các dự án xây dựng giao thông ” Nhà xuất bản GTVT-Bộ GTVT 3. Tình hình tổng quan về viện trợ phát triển chính thức tại Việt Nam. Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc UNDP. 12/1999 4. Quy hoạch phát triển GTVT Việt Nam đến năm 2020 Bộ GTVT 5. Tổng kết về nguồn vốn ODA Bộ KHĐT 6. Báo GTVT các số năm 2000, 2001, 2002 7. Tạp chí GTVT 8. Tạp chí cầu đường 9. Báo cáo ngành GTVT năm 1999, 2000, 2001 10. Đề án phương hướng tạo vốn cho phát triển CSHT GTVT Bộ GTVT ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0031.doc
Tài liệu liên quan