Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh 11

1 CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Rủi ro trong hoạt động của các NHTM: 1.1.1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động ngân hàng: Định nghĩa truyền thống: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là những biến cố không mong đợi xảy ra, gây mất mát, thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt động. Định nghĩa hiện đại: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khả năng những sự kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể là

pdf71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh 11, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các NHTM không thể đạt được những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí cơ hội của việc làm mất đi những cơ hội thị trường. 1.1.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng: Do đặc thù ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng theo Luật các TCTD nên tính chất hoạt động và rủi ro có những khác biệt so với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. Có thể nói, hoạt động ngân hàng liên quan đến việc chấp nhận rủi ro chứ không phải né tránh rủi ro. Các NHTM cần đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Các NHTM sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được, đồng thời nằm trong phạm vi, khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng của mình. Hoạt động kinh doanh của các NHTM không chỉ bao gồm nghiệp vụ huy động vốn và cấp tín dụng mà còn rất nhiều lĩnh vực hoạt động khác như bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ... Chính vì vậy nên rủi ro trong hoạt động của các NHTM cũng rất đa dạng: - Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc khách hàng đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc việc khách hàng mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị trì hoãn, thậm chí là không được hoàn trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự luân 2 chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất trung gian dễ bị tổn thương trong hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác như tài trợ thương mại, thấu chi, bao thanh toán… - Rủi ro lãi suất: là rủi ro làm giảm lợi nhuận ròng khi lãi suất biến động theo chiều hướng bất lợi. Rủi ro lãi suất xảy ra khi có sự chênh lệch giữa kỳ hạn bình quân của các tài sản và các khoản nợ của ngân hàng trong điều kiện lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến của ngân hàng dẫn đến khả năng giảm thu nhập của ngân hàng so với dự tính. - Rủi ro thanh khoản: là rủi ro phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các NHTM là huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn, hay nói cách khác là rủi ro khi các NHTM không đáp ứng được cho các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán do tài sản của ngân hàng không có khả năng thanh khoản hay không thể huy động vốn. Trường hợp này thường xảy ra nếu như các khoản huy động về mặt kỹ thuật sẽ phải hoàn trả theo yêu cầu của người gửi tiền. Đặc biệt, như chúng ta đã thấy trong bất cứ một cuộc khủng hoảng nào thì người gửi tiền sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn việc người đi vay sẵn sàng trả nợ. - Rủi ro ngoại hối: là rủi ro phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn của các khoản ngoại hối mà các NHTM đang nắm giữ, và vì thế làm cho các NHTM có thể phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động. - Rủi ro hoạt động: là rủi ro liên quan đến công nghệ, cơ sở hạ tầng, quy trình, con người trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng, hay nói cách khác rủi ro hoạt động bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà một NHTM điều hành các hoạt động của mình. - Rủi ro luật pháp: là rủi ro ngân hàng có thể bị khởi kiện vì để xảy ra những sai sót hoặc sự cố trong quá trình hoạt động kinh doanh gây thiệt hại cho khách hàng và đối tác. Rủi ro luật pháp mà các NHTM phải đối mặt có thể tiềm ẩn trong nhiều lĩnh vực kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro luật pháp có thể là do con người hoặc do công nghệ máy móc.Thậm chí, NHTM có thể gặp phải rủi ro luật pháp ngay cả khi ngân hàng không phải là bên gây thiệt hại. 3 - Rủi ro chiến lược: là rủi ro phát sinh từ những thay đổi trong môi trường hoạt động của các NHTM trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân các NHTM. - Rủi ro uy tín: là rủi ro khi các NHTM bị dư luận đánh giá xấu, gây khó khăn nghiêm trọng cho hoạt động của ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách hàng rời bỏ ngân hàng. - Rủi ro thị trường: là loại rủi ro tổn thất tài sản, xảy ra khi lãi suất, tỷ giá hay giá cả thị trường biến động theo chiều hướng xấu. Nói cách khác, rủi ro thị trường xảy ra khi có sự thay đổi của các điều kiện thị trường hay những biến động của thị trường. 1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM: 1.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng: Có nhiều định nghĩa về rủi ro tín dụng, theo Điều 2 “Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng” ban hành kèm theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN: rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. 1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng: 1.2.2.1. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: Tính chất đa dạng và phức tạp của rủi ro tín dụng biểu hiện ở sự đa dạng và phức tạp của các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, cũng như các hậu quả do rủi ro tín dụng gây ra. Nhận thức và vận dụng đặc điểm này, khi thực hiện phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp, không chủ quan với bất cứ một dấu hiệu rủi ro nào. Bên cạnh đó, trong quá trình xử lý hậu quả rủi ro tín dụng cần xuất phát từ nguyên nhân, bản chất và hậu quả của rủi ro để đưa ra biện pháp phù hợp. 1.2.2.2. Rủi ro tín dụng có tính tất yếu: Các chuyên gia kinh tế đều cho rằng hoạt động kinh doanh ngân hàng thực chất là quản lý rủi ro (chủ yếu là rủi ro tín dụng) ở mức độ phù hợp để đạt được mức lợi 4 nhuận tương ứng. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến rủi ro, đặc biệt do không thể có được thông tin cân xứng về việc sử dụng vốn vay cho hoạt động kinh doanh của khách hàng vay, nên bất cứ khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối với hoạt động tín dụng của các NHTM. Vì vậy trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, các NHTM cần chủ động có các biện pháp thích hợp để xác định rủi ro, định lượng rủi ro, quản lý rủi ro và kiểm soát rủi ro. 1.2.2.3. Rủi ro tín dụng có thể dự báo trước hoặc không thể dự báo: Các rủi ro có thể dự báo trước: danh mục cho vay hay đầu tư của một NHTM luôn luôn có một số khoản thất thoát tiềm tàng chưa được xác định. Tuy nhiên, nếu giả định rằng các đặc điểm chung của danh mục cho vay nhìn chung vẫn giống nhau trong một giai đoạn hợp lý thì các NHTM có thể dự báo các khoản thất thoát này với một mức độ tương đối chính xác bằng cách nghiên cứu các đặc điểm diễn biến của danh mục cho vay theo thời gian. Các rủi ro không thể dự báo trước: có nhiều sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát của các NHTM, các cú sốc ngoại sinh do các điều kiện chưa phát sinh tại thời điểm ký kết một thỏa thuận kinh doanh,...là những nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro mà các NHTM không thể dự báo trước. 1.2.3. Biểu hiện của rủi ro tín dụng: Vì rủi ro tín dụng là khả năng (xác suất) vỡ nợ của khách hàng nên: - Những khách hàng phá sản, lừa đảo, chây ỳ trong việc trả nợ là biểu hiện rõ nhất. - Bên cạnh đó, các khoản nợ không trả được khi đến hạn ở các cấp độ khác nhau cũng thể hiện các khả năng vỡ nợ khác nhau. Có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của các NHTM như: - Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, trên vốn chủ sở hữu, trên quỹ dự phòng tổn thất. - Nợ đáng nghi ngờ (có vấn đề): khả năng chuyển thành nợ xấu cao. - Nợ không có tài sản bảo đảm. 1.2.4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng: 1.2.4.1. Nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế và các cơ quan quản lý Nhà Nước: 5 + Xuất phát từ hệ thống thông tin: Thông tin tín dụng bao gồm thông tin lịch sử, thông tin hiện tại và xu hướng phát triển của khách hàng trong tương lai (gồm cả thông tin về tài chính và phi tài chính) và đặc biệt là các thông tin thống kê về các chỉ tiêu trung bình ngành phục vụ cho việc xếp loại khách hàng vay. Hiện nay, các NHTM không chỉ quan tâm đến việc hỏi tin về xếp hạng doanh nghiệp nhằm đánh giá khách hàng có quan hệ tín dụng mà còn sử dụng thông tin vào những mục đích khác như mở rộng đối tượng cho vay, thực hiện công tác marketing đến khách hàng truyền thống, khách hàng tiềm năng, và mở rộng thị phần trên thị trường. Tuy nhiên: - Hệ thống thông tin của Việt Nam hiện nay còn khá nhiều bất cập, Việt Nam chưa có cơ chế công bố thông tin đầy đủ. Trong thời gian qua, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN hoạt động đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp hoạt động một cách độc lập và hiệu quả. - Vai trò nối kết các NHTM của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) còn lỏng lẻo, chưa đạt được kết quả như mong muốn. Đây chính là thách thức cho các NHTM trong việc mở rộng và kiểm soát hoạt động tín dụng. Nếu các NHTM cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin bất cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu. + Xuất phát từ hệ thống văn bản luật: Về cơ bản, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được Luật hoá trong các văn bản Luật và các văn bản pháp quy của Chính Phủ, NHNN. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, phân tích, đồng thời, đúc kết từ những trường hợp rủi ro trong thực tế hoạt động của các NHTM cho thấy vẫn còn những “lỗ hỏng” khá nguy hiểm, đó vừa là những nguyên nhân sâu xa, vừa là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro tín dụng của các NHTM. 6 - Hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay chịu sự điều chỉnh, chi phối của khá hiều luật, văn bản dưới luật chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính chặt chẽ và chưa thật sự hoàn chỉnh . - Chính Phủ thường xuyên ban hành mới các chính sách về thuế, về xuất nhập khẩu, hoặc các quy định về đất đai, nhà ở…Khi một chính sách bị thay đổi đột ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị trường của các doanh nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh không phù hợp, không chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, khách hàng sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ cho các NHTM. + Xuất phát từ công tác kiểm tra, thanh tra: - Hiện nay, bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của NHNN đối với các NHTM chưa thật sự có hiệu quả: - Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra còn chưa nắm bắt kịp thời. - Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới, hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm. + Xuất phát từ các cơ quan ban ngành liên quan: Hoạt động của các cơ quan ban ngành có liên quan đến hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay có thể nói còn nhiều vấn đề cần bàn luận: - Quản lý doanh nghiệp còn lỏng lẻo, cấp phép tràn lan. - Công chứng tài sản thế chấp sai pháp luật. - Cơ quan thi hành án thông đồng với người thi hành án, trung tâm bán đấu giá tài sản thế chấp tiêu cực. - Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính Phủ, NHNN và các cơ quan ban ngành có liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy luật và các văn bản hướng dẫn đều đã được ban hành song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì 7 lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc. Các cơ quan pháp luật lại chậm chạp trong quá trình thực thi chức năng của mình. - Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng - Bộ Tài chính (DATC) hoạt động chưa hiệu quả. 1.2.4.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM: + Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng: Đạo đức của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ hạn chế về năng lực có thể được bồi dưỡng thêm để nâng cao trình độ, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật sự nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Điều này có thể nhận thấy qua các vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến hoạt động ngân hàng đều có sự tiếp tay của những cán bộ tín dụng cùng với khách hàng hoặc bản thân cán bộ tín dụng cố ý: - Thực hiện trái với qui trình tín dụng. - Trực tiếp thu nợ nhưng không nộp mà dùng cho mục đích cá nhân. - Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, nhờ người vay hộ,… - Tẩy xóa, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền. - Định giá TSBĐ không đúng giá trị thực do thông đồng với khách hàng. Bên cạnh vấn đề đạo đức, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu công việc. Điều này có thể thấy trong thực tế qua việc bố trí công việc chưa phù hợp với trình độ chuyên môn, bản thân từng cán bộ chưa có ý thức tự nâng cao nghiệp vụ. Ngoài ra có thể nhận thấy rõ nét nhất là công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của các NHTM hiện nay không theo chuyên ngành kinh tế, từ đó dẫn đến việc: - Cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào một ngành nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Khách hàng khi cung cấp các dự án, có nhiều thông số kỹ thuật máy móc chuyên ngành hoàn toàn xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh giá đòi hỏi chi phí cao nên chủ yếu mà các ngân hàng thường làm trong những trường hợp này là tự tìm hiểu thông tin thông qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành, qua mạng internet. 8 - Nếu cán bộ tín dụng không có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành cần thẩm định sẽ đưa ra những đánh giá sai, gây bức xúc cho khách hàng hoặc ngược lại, khách hàng thông tin sai mà không biết, gây ra những quyết định sai lầm trong cho vay. Ngoài ra, sự gắn bó, nổ lực với công việc của một bộ phận cán bộ tín dụng cũng chưa được phát huy do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí công việc và vấn đề đãi ngộ của các NHTM (đặc biệt là các NHTMNN) chưa đủ sức thu hút. Thực tế hiện nay cho thấy do tác động của quá trình cạnh tranh, rất nhiều cán bộ tín dụng giỏi, nhiều kinh nghiệm của các NHTMNN đã được các NHTMCP, các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tuyển dụng vào những vị trí quan trọng với nhiều đãi ngộ. Nguồn nhân lực của các NHTMNN đã mỏng do quá trình mở rộng mạng lưới, lại ngày càng bị hao hụt do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí công việc, và vấn đề đãi ngộ chưa thật sự thu hút. + Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận dụng chính sách, quy trình tín dụng chưa nghiêm túc: Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến chất lượng tín dụng của các NHTM đó là chính sách tín dụng. Tuy nhiên, chính sách tín dụng chỉ phát huy tác dụng khi được xây dựng trên cơ sở khách quan và sự nghiêm túc của việc ban hành và vận dụng. Thực tế, vẫn còn nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chính sách tín dụng chưa thật sự hợp lý: - Chính sách tín dụng của các NHTM hiện nay phần lớn đều chưa đạt tầm chiến lược, chưa theo nguyên tắc thị trường, thậm chí còn bị cuốn theo các hội chứng, phong trào, khẩu hiệu phát triển kinh tế và theo chủ nghĩa thành tích. - Các NHTM hầu như chưa xây dựng được chính sách tín dụng khoa học, phù hợp thể hiện được quan điểm và chiến lược riêng. - Ngoài ra, các NHTM không có chiến lược phát triển rõ nét hay nói cách khác chưa quản trị về danh mục cho vay theo lĩnh vực sở trường. - Chính sách tín dụng với vấn đề lãi suất vẫn còn khá nhiều bất cập. 9 - Quy trình tín dụng thông thường được xác lập trên những quy định chung của pháp luật về ngân hàng và những đặc thù trong hoạt động của riêng mỗi ngân hàng. Thông thường, quy trình tín dụng được thống nhất qua các bước sau: THIẾT L ẬP Quy trình tín dụng nếu không phát huy được tác dụng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng quản lý rủi ro tín dụng. Trên thực tế, không phải quy trình tín dụng của các NHTM luôn đảm bảo tính hợp lý và chặt chẽ, biểu hiện như: - Thông tin cần phải thực hiện trong các bước của quy trình không được quy định chi tiết và đầy đủ, cũng như mối quan hệ giữa các bước chưa được nhận thức đúng đắn. - Trên thực tế, việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và cho vay ở nhiều NHTM vẫn chưa thật sự tách biệt. Chỉ một vài ngân hàng đang tiến hành triển khai, áp dụng quy trình tín dụng mới với việc phân chia độc lập giữa ba chức năng: quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro và quản lý nợ. Tuy vậy, giữa mô hình phân chia cũ và mới, bên cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại những hạn chế chưa thể khắc phục ảnh hưởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng. - Do sức ép cạnh tranh trong việc mở rộng thị phần tín dụng, trong quá trình vận dụng không ít NHTM đã bỏ qua các bước của quy trình, hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, không chú ý đúng mức đến tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ của khách hàng vay nên nảy sinh nhiều sai phạm: về điều kiện vay vốn, về việc lập hồ sơ vay vốn, về việc kiểm tra, quản lý nợ vay, về cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ gốc và lãi). Việc nhận thức chưa đầy đủ và vận dụng chưa thật sự nghiêm túc của cán bộ tín dụng đối với các chính sách và quy trình tín dụng cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của các NHTM vì nếu nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các quy THIẾT L ẬP HỒ SƠ KHÁCH HÀNG VAY THANH LÝ HỢP ĐỒNG VÀ XỬ LÝ TRANH CHẤP GIẢI NGÂN VÀ THU NỢ RA QUYẾT ĐỊNH VÀ KÝ HỢP ĐỒNG THẨM ĐỊNH HỒ SƠ KHÁCH HÀNG VAY 10 định, nhất là thẩm tra chặt chẽ khả năng tài chính, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, các điều kiện về bảo đảm tiền vay của khách hàng rồi mới quyết định đầu tư thì khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Ngược lại, nếu buông lỏng quản lý hoặc thẩm tra chưa đầy đủ đã quyết định đầu tư thì mức độ rủi ro sẽ gia tăng, thậm chí có khi mất vốn. + Xuất phát từ công tác thẩm định: Đánh giá uy tín, năng lực quản trị, năng lực tài chính của khách hàng: - Đánh giá uy tín của khách hàng là vấn đề thật sự khó khăn đối với các cán bộ thực hiện công tác thẩm định trong việc tiếp cận thông tin về khách hàng khi nguồn thông tin và khả năng phát tín hiệu của khách hàng còn hạn chế. Hiện nay, công tác đánh giá uy tín của khách hàng chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan của các cán bộ nghiệp vụ, như dựa vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong khi đó đối tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực kinh tế tư nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và thương hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò của mình, chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp thành viên phát triển, nhất là việc giới thiệu các thành viên cho thị trường nên đã dẫn đến việc thu thập thông tin để đánh giá đối với khu vực kinh tế trên là rất khó khăn. - Đánh giá năng lực của khách hàng: * Về năng lực quản trị: nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp và cũng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả đồng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn nhân lực, nhất là bộ phận lãnh đạo của khách hàng hiện nay hoàn toàn chưa có cơ sở, chủ yếu là liệt kê bằng cấp và số năm công tác. * Về năng lực tài chính: công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa vào việc phân tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Hiện nay do 11 Việt Nam chưa có quy định về minh bạch thông tin nên có thể nói độ tin cậy của các báo cáo tài chính chưa thật sự cao nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ không phản ánh đúng thực chất năng lực tài chính của khách hàng. Đánh giá hiệu quả phương án/dự án vay là khâu quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng thu hồi vốn của các NHTM. Tuy nhiên do có nhiều nhân tố chủ quan và khách quan tác động nên đã dẫn đến chất lượng đánh giá phương án/dự án vay chưa thật sự hiệu quả: - Khi nhận một dự án, cán bộ thẩm định sẽ phải tiến hành thẩm định các khía cạnh như yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả các yếu tố kinh tế, xã hội của dự án. Tuy nhiên, việc thẩm định dự án trong một môi trường thiếu thông tin như của Việt Nam là một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định. Trên thị trường hiện nay, có rất ít doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Do đó, khi đánh giá thị trường đối với sản phẩm của dự án, cán bộ thẩm định chủ yếu phải dựa vào các nguồn thông tin không chính thức, thu thập qua báo chí, internet,… - Thêm vào đó, trình độ xây dựng dự án/phương án sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu. - Ngoài ra, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà Nước thường xuyên thay đổi, không có tính minh bạch và không có tính dự báo cũng có thể gây ra nhiều rủi ro cho dự án, như: các chiến lược phát triển vùng, ngành; các quy định liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về môi trường, … - Tiêu chuẩn thống nhất chung về mặt bằng đánh giá, cách xếp loại doanh nghiệp giữa các NHTM chưa có sự thống nhất, chưa được tiến hành thường xuyên, định kỳ, một số ngân hàng xem việc này chỉ mang tính hình thức. Kết quả là việc đánh giá dự án không mang tính khả thi, nhất là trong điều kiện trình độ cán bộ thẩm định còn chưa được chuyên sâu. + Xuất phát từ tài sản bảo đảm: Quản trị danh mục TSBĐ là yêu cầu cần thiết trong công tác quản lý rủi ro tín dụng, và là mắc xích quan trọng trong quy trình cho vay thu hồi nợ, xử lý các khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc giám sát, quản lý, đánh giá, phân loại, dự báo, cảnh báo về danh mục các TSBĐ mà một NHTM lựa chọn, xét ưu tiên nhận làm 12 bảo đảm tiền vay chưa được làm thường xuyên, chưa có tính hệ thống mà chỉ dừng ở mức kiểm tra trên hồ sơ pháp lý, định kỳ đánh giá lại giá trị để điều chỉnh mức dư nợ cho vay hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung. Theo quy định của pháp luật, việc xác định giá trị TSBĐ tiền vay do các bên thỏa thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định, có tham khảo đến các loại giá như giá quy định của Nhà nước (nếu có), giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các yếu tố khác về giá. Tuy nhiên, trên thực tế, trừ những động sản có giá trị lớn hàng tỷ đồng, các NHTM mới thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá, còn lại đa số việc định giá đều do các bên thỏa thuận, và như vậy cho thấy giá trị TSBĐ được định giá còn mang tính chủ quan và thiếu tính khoa học. Ngoài ra, về phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các NHTM sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc: nếu định giá thấp, khách hàng không hài lòng, nhưng nếu định giá cao, NHTM sẽ khó đảm bảo khả năng thu hồi nợ vay và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán, khi đó buộc NHTM phải thanh lý tài sản thế chấp, cầm cố. Kinh tế tăng trưởng cao trong vài năm trở lại đây cùng với giá bất động sản bị đẩy lên cao do đầu cơ và vượt xa giá trị thực đã làm nảy sinh tư tưởng lạm dụng vào TSBĐ. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay cần phải được trả bằng chính dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tâm lý dựa chủ yếu vào TSBĐ sẽ làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không đánh giá chính xác được hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc cho vay những dự án rủi ro, khách hàng không uy tín. Đây là thực trạng đáng lo ngại trong quan điểm cấp tín dụng hiện nay của các NHTM. Từ sự lựa chọn không chắc chắn khách hàng tốt để cung cấp tín dụng nên để giảm bớt rủi ro, các NHTM đã tính một phần rủi ro vào trong lãi vay ngân hàng, làm cho khách hàng vay tốt phải gánh chịu một mức lãi vay cao hơn mức đáng ra họ được hưởng. Đây cũng là tâm lý thường thấy ở các NHTM của các nước đang phát triển. 13 Đối với vấn đề bảo hiểm tài sản, cán bộ tín dụng thường không chú ý đôn đốc, kiểm tra việc khách hàng có mua bảo hiểm đúng định kỳ để đến khi phương tiện bị tai nạn, việc trục vớt, sửa chữa phải bỏ thêm rất nhiều vốn, gây khó khăn lâu dài về khả năng thanh toán khoản nợ vay… Thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ giữa khách hàng và NHTM cũng là vấn đề cần được quan tâm. Khi thế chấp, cầm cố tài sản chỉ có khách hàng biết rõ về hiện trạng của tài sản như sự hỏng hóc trong các dây chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị, hoặc ngôi nhà rất khó bán do một số đặc điểm đặc biệt. Trong khi đó trình độ của cán bộ thường không đáp ứng đầy đủ chuyên môn trong tất cả các lĩnh vực nên không thể đánh giá được chính xác hiện trạng của máy móc thiết bị cũng như nắm được những thông tin không tốt về đất đai, nhà ở; điều này ảnh hưởng rất lớn đến giá trị mua bán của tài sản. Vì vậy, khi xảy ra rủi ro, việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp không ít khó khăn. Thêm vào đó, cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay chưa rõ ràng, chịu sự điều chỉnh, chi phối của nhiều văn bản luật, dưới luật chồng chéo nhau, đặc biệt đối với TSBĐ là bất động sản. Cuối cùng là các vấn đề liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây cản trở không ít cho các NHTM như: - Việc các ngân hàng phải đối mặt với những khó khăn trong thời gian trước khi bán đấu giá tài sản. - Trong việc phát mãi TSBĐ, các NHTM chưa có thực quyền trong việc bán, quản lý và khai thác tài sản thuộc quyền tiếp quản. - Sự phối hợp giữa cơ quan công an, viện kiểm soát, tòa án, các sở, ban, ngành, chính quyền địa phương trong việc xử lý TSBĐ còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, chặt chẽ và kịp thời. - Việc xác định quyền sở hữu thực sự của khách hàng đối với tài sản cũng là vấn đề khó khăn. - Vướng mắc khi NHTM nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi hành án. - Thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng cho người mua, người nhận tài sản của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền còn quá nhiêu khê. 14 + Xuất phát từ thông tin tín dụng: Các NHTM hiện nay chưa nhận được sự phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, chi cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản. Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, bản thân các NHTM đôi khi cũng lệ thuộc khá nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm kiếm thông tin hay nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa các NHTM và khách hàng vay. Việc thu thập thông tin của mỗi ngân hàng về khách hàng, về ngành nghề, về môi trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động, về các văn bản mới được ban hành, về tình hình diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là những cảnh báo về các ngành hàng ngân hàng đang và sẽ đầu tư chưa được thực hiện một cách thường xuyên và có tính hệ thống. + Xuất phát từ hoạt động kiểm soát nội bộ: Hiện nay, các NHTM đều có bộ phận kiểm soát nội bộ, tuy nhiên, ở một số ngân hàng, bộ phận này chưa thật sự hoạt động có hiệu quả, nhất là tình trạng thiếu nhân sự, cũng như trình độ của cán bộ chưa đáp ứng cả về nghiệp vụ lẫn kinh nghiệm nên không thể phát hiện các sai phạm để có những khuyến cáo kịp thời nhằm chấn chỉnh và tư vấn cho ban điều hành về những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Kiểm soát nội bộ có một số ưu thế hơn so với việc thanh tra, kiểm tra của NHNN do: - Xét về thời gian, công tác kiểm soát nội bộ của các NHTM xử lý kịp thời, nhanh chóng các vấn đề ngay khi vừa phát sinh. - Xét về tính sâu sát của người kiểm soát viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh nên mọi vấn đề được hiểu đúng với bản chất của nó. 1.2.4.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng đi vay: + Đối với khách hàng là doanh nghiệp: Trong hoạt động kinh doanh, ngoài nguồn vốn tự có của mình, các doanh nghiệp luôn phải sử dụng một nguồn vốn bên ngoài, đó là vốn vay các NHTM. Đây là 15 nhu cầu vay vốn rất cần thiết nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách ổn định. Tùy đặc điểm và tính chất hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp, việc sử dụng vốn vay của các NHTM cũng có sự khác nhau. Rủi ro tín dụng xuất phát từ phía khách hàng là doanh nghiệp thường do: - Mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng không được thực hiện đúng. - Khách hàng không thật sự nỗ lực trong việc sử dụng vốn vay có hiệu quả. - Khách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác cho ngân hàng để phục vụ cho việc cấp tín dụng. - Một bộ phận khách hàng không có thiện chí trong việc trả nợ. - Công tác quản lý, điều hành của một số các doanh nghiệp chưa thật sự hiệu quả. - Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp. - Tình hình tài chính của hầu hết các doanh nghiệp thiếu sự minh bạch, trung thực, chưa đáp ứng yêu cầu. - Công nghệ, quy trình sản xuất không tạo ra được những sản phẩm mang tính cạnh tranh. - Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội... + Đối với khách hàng là cá nhân: Mặc dù quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng là cá nhân thủ tục đơn giản hơn nhiều so với khách hàng là doanh nghiệp, song thực tế số lượng kh._.ách hàng cá nhân lại rất lớn nên việc tìm hiểu các nguyên nhân từ phía khách hàng cá nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Với khách hàng cá nhân, nguyên nhân rủi ro có thể là: - Hoạt động kinh doanh không gặp thuận lợi, khả năng quản lý tình hình tài chính yếu kém. - Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do mất việc, chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động. - Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống, vì vậy, họ phải sử dụng một số tiền lớn nên ảnh hưởng khả năng hoàn trả cho ngân hàng. 16 - Đạo đức cá nhân không tốt: cố tình lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn sai mục đích... 1.2.4.4. Nguyên nhân khác: Sự biến động quá nhanh, và khó có thể dự đoán được trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước cũng ảnh hưởng đến chất lượng các khoản cấp tín dụng của các NHTM. Biểu hiện rõ nét nhất là tình hình biến động giá cả các mặt hàng mà các NHTM đang đầu tư, hoặc các cơ chế, chính sách thương mại, chính sách xuất nhập khẩu các nước áp dụng đối với Việt Nam (hạn ngạch, chính sách bảo hộ, hay các vụ kiện thương mại,..): - Ngành dệt may trong những năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may. - Mặt hàng thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm. - Dầu thô, nông, lâm, thủy hải sản…cũng ở trong tình trạng tương tự: giá cả diễn biến bất thường và chính sách bảo hộ thị trường, cạnh tranh với các đối tác lớn cũng gây rủi ro cho các nhà xuất khẩu... Bên cạnh đó, quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động không nhỏ đến hoạt động cấp tín dụng của các NHTM. Với môi trường hội nhập, các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, nguy cơ thua lỗ là điều có thể xảy ra. Bản thân các NHTM trong môi trường hội nhập kinh tế cũng gặp phải những nguy cơ rủi ro khi phải cạnh tranh với các NHTM nước ngoài vốn mạnh hơn về mọi mặt, khi vấn đề nợ xấu gia tăng vì hầu hết những khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút... Cuối cùng là do sự ổn định của nền kinh tế nước ta khi chính sách quản lý kinh tế vẫn có những thay đổi đột ngột, hành lang pháp lý chưa thật sự an toàn, điều chỉnh quy hoạch các ngành, các vùng chưa phù hợp… 1.2.5. Đánh giá rủi ro tín dụng: 17 Các Ngân hàng phải đánh giá và xác định rủi ro tín dụng trên cơ sở khả năng “chống đỡ rủi ro” và kiểm soát, quản trị rủi ro của mình để có chính sách tín dụng phù hợp. Để đánh giá ngân hàng thường áp dụng một số tiêu chí sau: + Tỷ lệ an toàn vốn thối thiểu: Đây là tỷ lệ giữa vốn tự có của ngân hàng trên tổng tài sản có rủi ro quy đổi. Tỷ lệ này phản ánh và đo lường mức độ chịu đựng của ngân hàng khi rủi ro tín dụng phát sinh. Ý nghĩa của tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cho thấy mức độ rủi ro mà các ngân hàng được phép mạo hiểm trong sử dụng vốn cao hay thấp tùy thuộc vào độ lớn của của vốn tự có của ngân hàng, cụ thể: Đối với những ngân hàng có vốn tự có lớn thì nó được phép sử dụng vốn với mức độ liều lĩnh hơn nhằm thu lại lợi nhuận cao hơn, rủi ro lớn hơn, ngược lại, những ngân hàng mà vốn tự có ít chỉ phải đầu tư vốn một cách an toàn hơn. • Nếu H 3 = 8% : ngân hàng có một tỷ lệ hợp lý giữa vốn tự có với mức độ rủi ro trong sử dụng tài sản • Nếu H 3 > 8% : mức độ rủi ro của ngân hàng thấp, ngân hàng sử dụng vốn an toàn nhưng kém hiệu quả, có thể giảm sút lợi nhuận. • Nếu H 3 < 8 : mức độ rủi ro lớn, vốn tự có của ngân hàng không đủ sức bảo vệ cho ngân hàng một khi rủi ro xuất hiện. + Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ + Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu. + Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự phòng tổn thất. + Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) - có khả năng chuyển thành nợ xấu cao. + Nợ không có tài sản đảm bảo. 1.2.6. Tác động của rủi ro tín dụng: Để đạt được lợi nhuận cao, thu hút thêm nhiều khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh, các NHTM luôn tìm cách mở rộng hoạt động tín dụng, cung ứng nhiều hơn các dịch vụ phục vụ cho khách hàng, nhưng song song đó các ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Các loại rủi ro này luôn tiềm ẩn làm tăng chi phí, 18 giảm lợi nhuận, lỗ hoặc mất vốn dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn vốn để chi trả tiền gửi cho khách hàng. Các NHTM do không thu hồi được các khoản nợ và lãi đến hạn, dẫn đến mất khả năng thanh toán, nếu nghiêm trọng và kéo dài dễ gây hiệu ứng phản ứng dây chuyền, đe dọa đến hàng loạt các NHTM khác do khách hàng đua nhau rút tiền gửi, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng tài chính, tiền tệ. Bài học về sự đổ vỡ hàng loạt các hợp tác xã tín dụng trong những năm 1989-1990 ở nước ta, Chính Phủ đã phải bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để ổn định tình hình kinh tế và an ninh xã hội; nhìn rộng hơn là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á vào những năm 1997-1998, Chính Phủ nhiều nước và các tổ chức tài chính quốc tế đã phải dốc hầu bao để cứu nguy các NHTM, cơ cấu lại các NHTM, quyết định giải thể, sáp nhập các NHTM để đảm bảo khả năng thanh toán, duy trì mở rộng tín dụng nhằm phục hồi kinh tế các nước gặp khủng hoảng. 1.2.6.1. Tác động đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM: Khi gặp rủi ro tín dụng, các NHTM chẳng những không thu hồi được vốn tín dụng đã cấp và lãi từ hoạt động cho vay, mà còn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho các ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Hay nói cách khác, các ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, mất lòng tin của người gửi tiền, từ đó ảnh hưởng đến uy tín của cả ngân hàng. Và không thu được nợ, vòng quay vốn tín dụng của các NHTM sẽ giảm từ đó làm cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng không đạt hiệu quả như mong muốn. Tóm lại, rủi ro tín dụng xảy ra ở những mức độ khác nhau: nhẹ nhất là các NHTM sẽ bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi các NHTM không thu được cả vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao sẽ dẫn đến bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, các NHTM có thể sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay. 1.2.6.2. Đối với nền kinh tế nói chung: Khi một NHTM gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở khắp mọi nơi sẽ rơi vào tâm trạng hoang mang, lo sợ, khi đó sẽ xảy ra tình trạng mọi 19 người ồ ạt đến rút tiền ở tất cả các ngân hàng, việc làm này sẽ tác động xấu đến toàn hệ thống ngân hàng. Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp, vì vậy NHTM phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khi đó, sự rối loạn của các NHTM sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế, làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Tóm lại, nếu những tổn thất do rủi ro trong hoạt động tín dụng gây ra ở mức kiểm soát được thì việc xử lý tương đối dễ dàng trong giới hạn cho phép của quỹ dự phòng bù đắp rủi ro của các NHTM. Tuy nhiên, khi tổn thất lớn, vượt quá khả năng xử lý của các NHTM thì vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng, gây hậu quả khó lường không những cho chính NHTM, mà còn cho cả những NHTM và các doanh nghiệp khác có liên quan, ảnh hưởng tới quyền lợi người gửi tiền và cuối cùng, ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, và là nguy cơ tiềm ẩn cho khủng hoảng tài chính. Nếu tác động lớn, đôi khi ảnh hưởng đến cả nền kinh tế khu vực và thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 1.3. Nguyên tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng: 1.3.1. Nguyên tắc 1: Hội đồng quản trị có trách nhiệm phê duyệt và định kỳ xem xét chiến lược về rủi ro tín dụng và các chính sách về rủi ro tín dụng của ngân hàng. Chiến lược về rủi ro tín dụng phản ánh mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng với mức sinh lời nhất định mà ngân hàng kỳ vọng. Chiến lược cần thể hiện tuyên bố của ngân hàng trong việc sẵn sàng cấp tín dụng dựa trên loại hình rủi ro tiềm năng, ngành kinh tế, vị trí địa lý, dòng tiền, kỳ hạn và mức sinh lời dự kiến. Chiến lược cũng có thể xác định thị trường mục tiêu và các đặc tính tổng quát mà ngân hàng muốn đạt được trong danh mục tín dụng. 1.3.2. Nguyên tắc 2: Ban điều hành có trách nhiệm thực hiện chiến lược chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu được Hội đồng quản trị phê duyệt, phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát 20 hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu. Các chính sách và thủ tục này cần nhằm vào rủi ro nợ xấu phát sinh trong mọi hoạt động của ngân hàng, ở cấp độ từng khoản tín dụng cũng như toàn bộ danh mục đầu tư. Các thủ tục, quy trình, văn bản cần được xây dựng, triển khai cũng như các trách nhiệm phê duyệt, xem xét khoản cho vay cần được phân định rõ ràng và phù hợp. 1.3.3. Nguyên tắc 3: Các ngân hàng cần xác định và quản trị rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình. Đối với các sản phẩm và hoạt động mới, ngân hàng cần xây dựng biện pháp quản trị rủi ro và kiểm soát phù hợp trước khi được đưa vào sử dụng hoặc triển khai và phải được Hội đồng quản trị phê duyệt. Điều quan trọng là Ban điều hành cần xác định rằng các nhân viên liên quan trong bất kì hoạt động nào có rủi ro tín dụng, cho dù là đã thực hiện hay là hoạt động mới, cơ bản hay phức tạp, điều phải có đủ năng lực thực hiện với những tiêu chuẩn cao nhất và tuân thủ các chính sách và thủ tục của ngân hàng. 1.3.4. Nguyên tắc 4: Các ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh được xác định rõ ràng. Những tiêu chí này cần chỉ rõ thị trường mục tiêu của ngân hàng và đồng thời ngân hàng phải hiểu biết rõ về khách hàng vay vốn cũng như mục đích và cơ cấu của khoản tín dụng. Hay nói cách khác các tiêu chí cần chỉ rõ đối tượng khách hàng đủ tiêu chuẩn được cấp tín dụng, các loại hình tín dụng và các điều khoản và điều kiện cấp tín dụng. 1.3.5. Nguyên tắc 5: Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi được trong sổ sách kế toán của ngân hàng và sổ sách kế toán kinh doanh, nội bản và ngoại bản. Cần xây dựng giới hạn đối với các ngành, lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lý và các sản phẩm cụ thể. Cũng như các giới hạn rủi ro trong mọi lĩnh vực hoạt động của ngân hàng mà có liên quan đến rủi ro tín dụng. Những giới hạn này giúp bảo đảm các hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng đa dạng. Giới hạn tín dụng là rất quan 21 trọng trong quản lý toàn bộ hộ sơ rủi ro tín dụng hoặc rủi ro đối tác của một ngân hàng. Để có hiệu quả, các giới hạn này cần mang tính ràng buộc và không đi theo nhu cầu của khách hàng. 1.3.6. Nguyên tắc 6: Để có được danh mục đầu tư tín dụng lành mạnh, ngân hàng cần có qui trình rõ ràng trong việc phê duyệt các khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn và tái tài trợ các khoản tín dụng hiện tại.Ngân hàng cần phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức nhằm đưa ra nhận định thận trọng trong việc đánh giá phê duyệt và quản lý rủi ro tín dụng. 1.3.7. Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên. Đặc biệt, các khoản tín dụng cho các công ty và cá nhân có liên quan phải được phê duyệt trên cơ sở ngoại lệ cần theo dõi cẩn thận và triển khai các bước cần thiết để kiểm soát nhằm loại trừ rủi ro. Việc gia hạn tín dụng cần được thực hiện theo các tiêu chí và trình tự cụ thể và rõ ràng. Việc này, tạo ra hệ thống hồ sơ và chứng từ nhằm tăng cường việc ra quyết định tín dụng đúng đắn. 1.3.8. Nguyên tắc 8: Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng. 1.3.9. Nguyên tắc 9: Ngân hàng cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản tín dụng, bao gồm việc xác định mức độ đầy đủ của dự phòng và dự trữ. 1.4. Kinh nghiệm của các ngân hàng Thái Lan trong việc quản trị rủi ro tín dụng: Mặc dù có bề dầy hoạt động hàng trăm năm, nhưng vào năm 1997 - 1998, hệ thống ngân hàng Thái Lan vẫn bị chao đảo trước cơn khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á. Nhiều công ty tài chính và NHTM bị phá sản hoặc buộc phải sáp nhập. Trước tình hình đó buộc các ngân hàng Thái Lan phải xem xét lại toàn bộ chính sách, cách thức, quy trình hoạt động ngân hàng, đặc biệt là lĩnh vực tín dụng nhằm 22 giảm thiểu rủi ro…Đi đôi với việc đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng và dịch vụ, xác định khách hàng, mục tiêu, chủ động tiếp thị khách hàng…một loạt các thay đổi căn bản trong hoạt động tín dụng đã được các ngân hàng Thái Lan triển khai nhanh chóng và triệt để: - Tách bạch, phân công rõ chức năng các bộ phận và tuân thủ các khâu trong quy trình giải quyết các khoản vay, ví dụ điển hình như: * Tại Bangkok Bank: trước đây, các bộ phận trong quy trình cấp tín dụng chỉ là một, nay, đã tách hẳn thành hai bộ phận độc lập: bộ phận tiếp nhận giải quyết hồ sơ và bộ phận thẩm định. Trong đó, bộ phận thẩm định phải có báo cáo thẩm định tín dụng, gồm: chiến lược và kế hoạch kinh doanh, báo cáo xếp hạng rủi ro…Đây là một thay đổi căn bản của Bangkok Bank nhằm bảo đảm tính độc lập, khách quan trong quá trình thực thi cấp tín dụng. * Tại Siam Comercial Bank (SCB): cũng đã xây dựng mô hình tổ chức triển khai dịch vụ tín dụng theo nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm của ba bộ phận: Marketing khách hàng, thẩm định và quyết định cho vay. Ngân hàng đã phân loại khách hàng theo từng nhóm, từ đó nhận rõ tính chất khác nhau làm cơ sở cho việc xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận trong việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ, thẩm định và ra quyết định. - Tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động tín dụng. Trước đây rất nhiều ngân hàng Thái Lan không tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc tín dụng trong quá trình cho vay, chỉ quan tâm đến TSBĐ, không quan tâm đến dòng tiền của khách hàng. Vì thế, hậu quả là nợ xấu có lúc lên tới 40% (1997- 1998). Nhưng hiện nay, các ngân hàng không chỉ triệt để chấp hành nguyên tắc tín dụng mà còn quan tâm nhiều đến các thông tin của khách hàng, coi trọng đến chu chuyển dòng tiền và việc thu hồi vốn. - Tiến hành cho điểm khách hàng để quyết định cho vay. - Tuân thủ thẩm quyền phán quyết tín dụng. - Coi trong việc giám sát khoản vay sau khi cho vay bằng cách tiếp tục thu thập thông tin khách hàng, thường xuyên đánh giá xếp loại khách hàng để có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống rủi ro. 23 - Coi trọng việc cập nhật hiểu biết nghề nghiệp, đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng và khả năng thực thi độc lập nhiệm vụ cho cán bộ tín dụng. - Áp dụng Sổ tay tín dụng được viết rất công phu, rõ ràng, dễ áp dụng; có chính sách cho vay riêng đối với bất động sản là lĩnh vực có rủi ro rất cao. 24 CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CN 11 2.1. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội Quận 11 trong thời gian qua: Quận 11 chính thức có tên trên bản đồ Sài Gòn-Gia Định từ ngày 01/07/1969 theo sắc luật số 73 của chính quyền Sài Gòn cũ. Ban đầu gồm 4 phường được tách ra từ Quận 5 và Quận 6: Phường Phú Thọ (Quận 5 cũ), Phường Cầu Tre, Bình Thới, Phú Thọ Hòa (Quận 6 cũ). Sau đó lập thêm 2 phường là Bình Thạnh và Phú Thạnh. Sau ngày giải phóng 30/04/1975, địa bàn Quận 11 được giữ nguyên với 6 phường và 47 khóm. Đến ngày 01/06/1976 được phân chia lại thành 21 phường. Sau nhiều lần điều chỉnh địa giới, đến nay Quận 11 có 16 phường. Quận 11 có tổng diện tích 513,58 ha, nằm ở Tây Nam thành phố. Giáp Quận Bình Tân ) ở phía Bắc và Tây Bắc, phía Đông giáp Quận 5,10, phía Nam và Tây Nam giáp ranh Quận 6. Tính đến cuối năm 2004, quận 11 có dân số là 229.837 người, có 120.474 nữ (tỷ lệ 52,41%). Người Hoa có 103.189 người (tỷ lệ 44,89%), mật độ dân số trung bình là 44.722 người/km2 Năm 2008 Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 3.330,135 tỷ đồng tăng 6,1% so với năm 2007, trong đó khối công ty cổ phần có vốn nhà nước tăng 9,2%; khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 12,9%; khối hợp tác xã giảm 15%, khối cá thể tăng 2,1% Tổng giá trị đầu tư máy móc thiết bị và nhà xưởng năm 2008 là 27,916 tỷ đồng giảm 78% so với năm 2007, trong đó khối ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 90,1%, khối cơ sở cá thể chiếm tỷ trọng 9,9%. Doanh thu thương mại dịch vụ năm 2008 đạt 28,045 tỷ đồng, tăng 16,18% so với năm 2007, trong đó khối doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước giảm 28,33%; khối hợp tác xã tăng 128,35%; khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 1,62%; khối cá thể tăng 24,39%. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI NĂM 2009 Năm 2009, tiếp tục quá trình thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006-2010) mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận lần thứ IX đã đề 25 ra, Quận xác định các nhiệm vụ trọng tâm và chỉ tiêu chủ yếu cần tập trung thực hiện như sau: Một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 : Giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp tăng 6% trở lên so với thực hiện năm 2008. Doanh thu thương mại-dịch vụ tăng 20% trở lên so với thực hiện năm 2008. Một số nhiệm vụ - giải pháp trọng tâm: Duy trì tốc độ tăng trưởng và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng thương mại-dịch vụ. Tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển thương mại dịch vụ; sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2010, tầm nhìn đến 2015. Chú trọng phát triển thành phần kinh tế tập thể cả về số lượng và chất lượng. 2.2. Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Việt Nam Chi nhánh 11: 2.2.1. Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Việt Nam: Thực hiện Nghị quyết 3, khoá VI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội Đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc chuyển họat động ngân hàng sang hạch toán kinh doanh và hình thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, từ ngày 01/07/1988 Ngân hàng Công thương Việt Nam ra đời và đi vào họat động trên cơ sở Vụ Tín dụng Công nghiệp và Vụ Tín dụng thương nghiệp của Ngân hàng nhà nước trung ương cùng các phòng Tín dụng công nghiệp, thương nghiệp của Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước địa phương Quá trình hình thành tổ chức bộ máy hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt Nam tính đến nay trải qua 3 giai đọan: - Giai đoạn thức nhất (từ tháng 07/1988 đến hết năm 1990): Trong giai đọan này, Ngân hàng Công thương chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý như một liên hiệp xí nghiệp đặc biệt, các chi nhánh thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập - Giai đoạn thứ 2: (Từ tháng 01/1991 đến tháng 09/1996): Sau khi pháp lệnh Ngân Hàng có hiệu lực thi hành (tháng 10/1990), theo Quyết định 402/CT ngày 14/11/1990 của Chủ tịch HĐBT ( nay là Thủ tướng Chính phủ ), Ngân hàng Công thương Việt Nam mới thực sự trở thành một Ngân hàng thương mại có chức năng 26 kinh doanh tiền tệ. Mô hình tổ chức kinh doanh được dịnh hình rõ: Ngân hàng Công thương Việt Nam là một pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, các chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc. - Giai đoạn thứ 3 (từ tháng 09/1996 đến nay): Theo mô hình Tổng công ty Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam được quản lý bởi Hội Đồng Quản trị, điều hành bởi Tổng Giám Đốc, có các chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc. Ngân hàng Công thương Việt Nam có tên giao dịch trước đây là Industrial and commercial of Vietnam, gọi tắt là Incombank, và kể từ ngày 15/04/2008 Ngân hàng công thương với thương hiệu mới là Vietinbank (Vietnam bank for industry and trade). Vốn là một trong những Ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất tại Việt Nam (NHCTVN đã tiến hành IPO và đang chuyển đổi mô hình thành NHTM cổ phần Nhà nước) , VietinBank có tổng tài sản chiếm hơn 25% thị phần trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nguồn vốn của VietinBank luôn tăng trưởng qua các năm, tăng mạnh kể từ năm 1996, đạt bình quân hơn 20% năm, đặc biệt có năm tăng 35% so với năm trước. Mạng lưới kinh doanh trải rộng toàn quốc với 3 Sở Giao dịch, 140 chi nhánh, 188 phòng giao dịch, 258 điểm giao dịch, 191 quỹ tiết kiệm, 742 máy rút tiền tự động, hai văn phòng đại diện. Có 03 Công ty hạch toán độc lập là Công ty Cho thuê Tài chính, Công ty TNHH Chứng khoán, Công ty Quản lý Nợ và Khai thác Tài sản và 03 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm thẻ, Trung tâm công nghệ thông tin và Trường đào tạo nguồn nhân lực. Ngoài ra, NHCT còn góp vốn liên doanh vào Ngân hàng Indovina và Công ty Liên doanh Bảo hiểm Châu Á NHCTVN (IAI); góp vốn vào 07 công ty trong đó có Công ty cổ phần Chuyển mạch Tài chính quốc gia Việt Nam, Công ty cổ phần Xi măng Hà Tiên, Công ty cổ phần cao su Phước Hòa, Ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công Thương v.v. NHCTVN hiện tại có quan hệ đại lý với trên 800 ngân hàng, định chế tài chính tại trên 90 quốc gia, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.Vốn tự có của NHCTVN đến 27 ngày 31/12/2008 là 10.800 tỷ đồng, tổng tài sản lên tới 196.012 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng tài sản toàn ngành ngân hàng. 2.2.2. Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Việt Nam-Chi nhánh 11: 2.2.2.1. Lịch sử hình thành: Là một trong những chi nhánh của NHCTVN hoạt động tại TP.HCM, có trụ sở tại 1447-1449 đường Ba tháng Hai, Phường 16 Quận 11, TP.HCM. NHCTVN-CN11 hoạt động dưới sự điều hành trực tiếp của Giám Đốc. 2.2.2.2. Cơ cấu tổ chức: Đóng trên địa bàn quận 11, là cái nôi của sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nên hoạt động của NHCTVN-CN 11 không tách rời với hoạt động của thành phần kinh tế này cũng như các doanh nghiệp của Quận. Những năm gần đây hoạt động của Chi nhánh có xu thế mở rộng đến một số lĩnh vực thương mại dịch vụ, đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng đầu tư ra các địa bàn lân cận, các khu công nghiệp. MÔ HÌNH TỔ CHỨC NHCTVN-CN11 đến thời điểm hiện nay, thành lập được 12 phòng và tổ nghiệp vụ (Phòng khách hàng, Phòng Kế toán, Phòng Ngân quỹ, Phòng Hành chính nhân sự, Phòng Giao dịch Phú Thọ, Phòng Giao dịch Lãnh Binh Thăng, Phòng Giao dịch Cây Gõ, Tổ Quản lý rủi ro, Tổ điện toán, Tổ tổng hợp, Tổ tiếp thị, Tổ nguồn BAN GIÁM ĐỐC PHÒNG KHÁCH HÀNG CÁC TỔ NGHIỆP VỤ PHÒNG KTKSNB TẠI CN11 PHÒNG KẾ TOÁN PHÒNG NGÂN QUỸ PHÒNG HÀNH CHÍNH CÁC PHÒNG GIAO DỊCH 28 vốn, với số lượng cán bộ, nhân viên gần 80 người. Ngoài ra còn có Phòng Kiểm soát nội bộ trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam đóng tại Chi nhánh, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra kiểm soát nội bộ toàn bộ hoạt động của Chi nhánh.. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên chi nhánh hiện nay đa số đạt trình độ Đại học, có sự kết hợp giữa cán bộ lâu năm kinh nghiệm và cán bộ trẻ năng động, đã phần nào đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Hoạt động của NHCTVN-CN11 trong thời gian qua có tác dụng và ảnh hưởng không nhỏ đối với kinh tế Quận 11 nói riêng và góp phần phát triển kinh tế thành phố nói chung. Định hướng phát triển của Chi nhánh đến năm 2012: Kể từ năm 2009, NHCTVN bắt đầu hoạt động theo mô hình NHTM cổ phần, nên toàn bộ hoạt động của các chi nhánh trong đó có NHCTVN-CN11 có nhiều điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên công tác tín dụng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức: - Kinh tế toàn cầu đang có những dấu hiệu suy thoái, thị trường bắt đầu thu hẹp. - Nền kinh tế trong nước chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính toàn cầu và lạm phát cao từ năm 2008, cán cân thanh toán chưa ổn định, sức cạnh tranh nền kinh tế thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. - Khả năng xuất khẩu bị đe dọa nghiêm trọng do sự cạnh tranh gay gắt với hàng Trung Quốc và các nước khối ASEAN. Tuy nhiên, NHCTVN-CN11 vẫn xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2012 là phải chiếm được 30% thị phần cho vay và huy động trên địa bàn Quận 11, trong đó một số nhiệm vụ trong năm 2009 được cụ thể như sau: - Cho vay nền kinh tế: tăng trên 25% - Tỷ lệ nợ nhóm 2: dưới 3% - Tỷ lệ nợ xấu: dưới 2% - Tỷ lệ cho vay có tài sản bảo đảm: trên 99% 2.2.2.3. Hoạt động cho vay chủ yếu của NHCTVN-CN11: NHCTVN-CN11 cung ứng cho các khách hàng các sản phẩm cho vay gồm : 29 • Xét theo thời hạn: - Cho vay ngắn hạn có thời hạn đến 1 năm - Cho vay trung hạn: Có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm - Cho vay dài hạn: Có thời hạn từ trên 5 năm trở lên • Xét theo phương thức cho vay: - Cho vay từng lần: Áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu không thường xuyên. Mỗi lần vay khách hàng phải làm thủ tục vay vốn và cùng Ngân hàng ký kết hợp đồng tín dụng. Doanh số cho vay không vượt quá số tiền cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng - Cho vay theo hạn mức: Cho các đối tượng khách hàng có nhu cầu thường xuyên. Căn cứ theo nhu cầu: Ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một hạn mức, khách hàng chỉ ký kết HĐTD một lần, các lần sau chỉ làm thủ tục nhận nợ, việc quản lý nợ theo hạn mức. - Cho vay dự án đầu tư: Cho các đối tượng là các dự án, phương án đầu tư trung dài hạn để xây dựng mua sắm nhà xưởng, máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ… - Phương thức cho vay trả góp: Ngân hàng cho vay các đối tượng có nhu cầu cho các mục đích sinh hoạt, tiêu dùng cá nhân hoặc sản xuất kinh doanh nhỏ, lẻ… - Cho vay phát hành thẻ tín dụng: Ngân hàng chấp nhận cho khách hàng sử dụng số vốn vay cho những nhu cầu thanh toán, rút tiền mặt tại máy ATM hoặc các điểm chấp nhận thẻ. - Cho vay theo hạn mức dự phòng: Ngân hàng cam kết đảm bảo một khoản tín dụng cho khách hàng theo hạn mức ký kết, khách hàng phải chịu một khoản phí phát sinh và lãi khi sử dụng vốn. - Cho vay hợp vốn: NHCTVN-CN 11 cùng các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Cho vay theo hạn mức thấu chi: Ngân hàng chấp nhận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách cho những nhu cầu thanh toán chi trả. 30 - Cho vay khác: Tùy theo đặc điểm nhu cầu Ngân hàng sẽ cung cấp cho khách hàng các loại cho vay phù hợp. 2.2.2.4. Kết quả kinh doanh tại NHCTVN-CN11 Bảng 1 : HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 1. Thu nhập trong đó thu từ cho vay: 2. Chi phí 3. Lợi nhuận 63.985 58.311 51.583 12.402 90.733 82.703 73.196 17.537 112.997 102.007 92.727 20.270 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm tại NHCTVN-CN11 Qua bảng cho thấy kết quả hoạt động của Chi nhánh đều tăng trưởng qua các năm. Nguồn thu của Chi nhánh vẫn chủ yếu là thu từ hoạt động cho vay, cụ thể: năm 2006: 91,13%, năm 2007: 91,15% và năm 2008: 90,27%. 2.3. Thực trạng công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHCTVN-CN11 trong 3 năm qua: 2.3.1. Quy trình cho vay và kiểm soát cho vay Do nhận biết được tầm quan trọng của việc cấp tín dụng đến khách hàng cho nên NHCTVN thống nhất quy trình cấp tín dụng và kiểm soát đối với các khoản vay áp dụng cho các chi nhánh trong toàn hệ thống để đảm bảo tính thống nhất và tuân thủ các quy định có liên quan của pháp luật Quy trình được thực hiện trong 4 bước: Bước 1: Tiếp nhận và thẩm định hồ sơ vay vốn Theo các quy định và quy trình về kiểm soát của tại Ngân hàng Công thương Việt Nam: Các bộ phận thẩm định cho vay và thẩm định độc lập phải kiểm tra toàn bộ hồ sơ với các quy định về nhiệm vụ như sau: Cán bộ tín dụng thực hiện: - Kiểm tra sự đầy đủ và phù hợp của hồ sơ pháp lý - Kiểm tra năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và thẩm quyền của người vay, người đại diện. 31 - Kiểm tra hồ sơ khoản vay: • Sự đầy đủ về số lượng của hồ sơ khoản vay theo quy định • Sự phù hợp của hồ sơ khoản vay với phương thức cho vay, thời hạn cho vay • Tính pháp lý và nội dung của các báo cáo tài chính của phương án/dự án vay vốn. - Kiểm tra hồ sơ bảo đảm tiền vay: • Sự đầy đủ về số lượng, tính pháp lý và nội dung của hồ sơ chứng minh quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất của bên thế chấp, cầm cố, văn bản bảo lãnh của bên bảo lãnh • Sự khớp đúng giữa hồ sơ và hiện trạng của tài sản bảo đảm • Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay của đơn vị chính cho đơn vị phụ thuộc • Việc công chứng / chứng thực đối với hợp đồng bảo đảm tiền vay, đăng ký giao dịch bảo đảm • Việc mua bảo hiểm tài sản bảo đảm. - Kiểm tra hồ sơ giải quyết cho vay: • Kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện vay vốn theo quy định • Tính khả thi, hiệu quả, khả năng trả nợ của phương án/dự án • Các điều kiện quy định riêng đối với từng đối tượng khách hàng • Các đối tượng không được vay hoặc hạn chế cho vay • Kiểm tra nội dung khoản vay: mức cho vay so với giá trị tài sản bảo đảm, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, đối tượng cho vay, điều kiện giải ngân… • Kiểm tra lại nội dung, hình thức, sự đầy đủ và tính hợp lệ của: Tờ trình thẩm định cho vay, thông báo / bản thoả thuận giới hạn tín dụng cấp có thẩm quyền, chữ ký tắt của lãnh đạo phòng khách hàng trên từng trang của các hồ sơ theo quy định - Kiểm tra trình tự thẩm định, phê duyệt (đảm bảo theo nguyên tắc độc lập giữa thẩm định cho vay, thẩm định rủi ro tín dụng độc lập và quyết định cho vay), và thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp ủy quyền 32 - Kiểm tra hình thức và nội dung của hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay • Đảm bảo tư cách pháp lý của người ký trên hợp đồng • Sự phù hợp của nội dung hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay với quyết định phê duy._.u hành của Ban lãnh đạo còn nhiều hạn chế, chưa đủ kinh nghiệm và tầm nhìn về lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh, trình độ, kiến thức về quản lý kinh tế yếu kém thể hiện qua việc doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh rõ ràng, cụ thể, không có kế hoạch kinh doanh được triển khai, không chủ động trong việc tìm kiếm thông tin về sự biến động của giá cả thị trường, ngành hàng, về tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác, đối thủ cạnh tranh, từ đó doanh nghiệp không có khả năng thích ứng kịp thời với sự biến động và sức ép cạnh tranh ngày càng tăng của thị trường và môi trường kinh doanh, cũng như các sản phẩm làm ra không có sự gắn kết, không đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng... - Quy mô kinh doanh mở rộng quá lớn so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của hầu hết các doanh nghiệp. - Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên về trình độ chuyên môn, tay nghề, kỷ thuật và kỹ luật lao động. - Thói quen sản xuất, kinh doanh theo kiểu phong trào: thấy lĩnh vực nào có hiệu quả, các doanh nghiệp thường đổ xô đầu tư mà không xem xét đầy đủ mọi khía cạnh. - Công nghệ, quy trình sản xuất của doanh nghiệp không tạo ra được những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Nguyên nhân một mặt do Ban lãnh đạo chưa đủ tầm nhìn mặt khác do sự phát triển quá nhanh của các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ. - Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội… + Đối với khách hàng là cá nhân: Với các khách hàng là cá nhân, nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho NHCTVN-CN11 do: 58 - Hoạt động kinh doanh của khách hàng không gặp thuận lợi, khả năng quản lý tình hình tài chính yếu kém. - Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do mất việc, chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động. - Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống nên phải sử dụng một số tiền lớn do đó ảnh hưởng khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. - Đạo đức cá nhân không tốt: sử dụng vốn sai mục đích, cố tình chây ỳ không trả nợ 59 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÒNG NGỪA, HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG 3.1. Nhóm giải pháp đối với Chính Phủ và các cơ quan ngang bộ (Ngân hàng Nhà Nước, Bộ Tài Chính, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường,...): 3.1.1. Các vấn đề liên quan đến quản lý vĩ mô: Chính Phủ cùng với các cơ quan ngang bộ (như NHNN, Bộ Tài Chính, Bộ Tài Nguyên Môi Trường,...) cần xem xét, rà soát lại tất cả các văn bản liên quan đến hoạt động tín dụng, đảm bảo tính chặt chẽ, hợp lý, rõ ràng và không có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản Luật thông qua việc ban hành các văn bản mới để bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế các văn bản có những điều khoản chưa hợp lý. Nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để các NHTM có cơ sở cho việc dẫn chiếu các căn cứ pháp lý. Bên cạnh đó, Chính Phủ và các cơ quan ngang Bộ cần nghiên cứu ban hành các văn bản Luật, các quy định về những vấn đề mới, mang tính cấp thiết đối với hoạt động tín dụng như: - Ban hành các văn bản quy định kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt đối với các công ty cổ phần để các NHTM dựa vào đó quy định báo cáo tài chính của các công ty khi vay vốn phải có xác nhận của tổ chức kiểm toán độc lập, là điều kiện không thể thiếu khi vay vốn. - Xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực cùng các ngưỡng đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản... làm cơ sở để so sánh, đánh giá dự án. 3.1.2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng: Chính Phủ và NHNN cần quan tâm đến việc nâng cấp và phát triển Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trở thành trung tâm dữ liệu hàng đầu quốc gia: - Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) nên xây dựng phần mềm đa năng ứng dụng thống nhất cho các ngân hàng, chuyên môn hóa kỹ thuật ứng dụng công nghệ tin học trong công tác phân tích, đánh giá xếp loại doanh nghiệp, cập nhật lưu trữ thông tin khách hàng, đảm bảo tính chính xác, rút ngắn thời gian thẩm định. Phải 60 có chế độ kiểm tra, biện pháp chế tài đối với những ngân hàng không chuyển số liệu về Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) theo quy định. - Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) nhanh chóng củng cố đội ngũ cán bộ, áp dụng công nghệ mới, hiện đại hóa và tự động hóa tất cả các công đoạn xử lý nghiệp vụ để tạo ra nhiều sản phẩm thông tin, đẩy mạnh việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin nhằm hỗ trợ có hiệu quả đối với hoạt động của các ngân hàng và phục vụ cho hoạt động giám sát của NHNN. Đồng thời đi sâu phân tích, đánh giá, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, kịp thời dự báo, cảnh báo nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. - Để tạo tiền đề cho những bước phát triển mới trong hoạt động nghiệp vụ, phân tích, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm tín dụng, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) cần thực hiện nghiên cứu đề án: thay đổi mở rộng việc phân ngành kinh tế, mở rộng hơn các đối tượng được sử dụng thông tin phân tích, kết quả xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, bổ sung và lượng hóa một số chỉ tiêu tài chính, phi tài chính, các chỉ tiêu về dư nợ. Bên cạnh đó, Chính Phủ cần nghiên cứu cho phép thành lập các trung tâm thông tin tín dụng tư nhân để tăng cường khả năng tiếp cận tài chính ở Việt Nam. Đây là một lĩnh vực khá mới, cần có sự hỗ trợ của Chính Phủ trong giai đoạn đầu thực hiện. Để có được một trung tâm thông tin tín dụng tư nhân hoạt động hiệu quả, cần: - Xây dựng một khuôn khổ pháp lý phù hợp. - Có sự cam kết tham gia của các đối tác liên quan, đặc biệt là các tổ chức tài chính lớn. - Có sự hợp tác giữa khu vực công-tư và sự hiểu biết của toàn xã hội. - Tham khảo chuyên môn và kinh nghiệm quốc tế. Ngoài ra, NHNN cũng cần ban hành các quy định cụ thể và chế tài đối với các NHTM trong việc bắt buộc các NHTM phải khai thác, sử dụng thông tin như là điều kiện cần phải có trong quy trình cấp tín dụng và cung cấp thông tin về cho Trung tâm thông tín dụng (CIC) chính xác và kịp thời. Thanh tra NHNN, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Trung tâm thông tin tín dụng 61 phối hợp đôn đốc, kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các NHTM, đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những đơn vị vi phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng. Chính Phủ cần khuyến khích thành lập các hiệp hội ngành nghề để tạo ra sự gắn kết trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp trong ngành và là cầu nối giữa các doanh nghiệp trong ngành với thị trường bên ngoài – trong đó có bên cung ứng vốn là ngân hàng. Các hiệp hội sẽ thực hiện các nhiệm vụ: nghiên cứu thị trường, xúc tiến đầu tư, dự báo phát triển ngành, tiếp cận thị trường mới, đánh giá và xếp loại các doanh nghiệp trong ngành,… Để hoạt động có hiệu quả, các hiệp hội nên hoạt động độc lập về mặt chính trị với mục tiêu là phục vụ cho sự phát triển đi lên của ngành. NHNN và Hiệp hội ngân hàng cần có những định hướng cụ thể trong việc thiết lập hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ chung cho cả hệ thống ngân hàng. Vì nếu hoạt động xếp hạng tín dụng nội bộ không tạo được tiếng nói chung trong toàn hệ thống sẽ dẫn đến những khó khăn trong tương lai tương tự như việc độc lập thiết lập các hệ thống thanh toán thẻ ATM của từng ngân hàng. Các NHTM, ngành ngân hàng cần sớm nhận thấy khó khăn tiềm ẩn khi độc lập phát triển các hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mình. Hay nói cách khác, mặc dù là “nội bộ”, thông tin xếp hạng tín dụng nội bộ của một NHTM phải có thể “so sánh được” (tương thích) với thông tin xếp hạng của các NHTM khác. Muốn vậy, các NHTM cần phải sử dụng những phương pháp, kỹ thuật, tiêu chí đánh giá được thừa nhận rộng rãi trong việc xếp hạng tín dụng nội bộ. Công bố công khai các phương pháp, kỹ thuật, tiêu chí sử dụng để đánh giá, xếp hạng, trong đó phải nêu rõ các hạng mức đánh giá tự thiết lập tương đương mức độ nào với những hạn mức đánh giá đã được thừa nhận rộng rãi (của các NHTM khác hoặc của những tổ chức đánh giá độc lập, kể cả trong và ngoài nước). Do đó, có thể nói vai trò “nhạc trưởng” của NHNN, Hiệp hội ngân hàng là rất quan trọng trong việc tổ chức các hội thảo chuyên đề, giới thiệu phương pháp, kỹ thuật, tiêu chí đánh giá, xếp hạng tín dụng của các NHTM hay tổ chức đánh giá độc lập có uy tín trên thế giới để các NHTM áp dụng. 62 3.1.3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm: + Về đăng ký giao dịch bảo đảm: Do quy định hiện nay, việc đăng ký giao dịch đảm bảo thực hiện phân tán tại nhiều cơ quan như:Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm thuộc cục Đăng ký giao dịch bảo đảm ( thuộc Bộ tư pháp ); văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất ( thuộc cơ quan quản lý nhà đất ); cục hàng không dân dụng lại đăng ký thế chấp máy bay; Cục hàng hải thực hiện đăng ký thế chấp tàu biển… sự phân tán này đã gây nên hàng loạt kẽ hở trong quản lý, tiềm ẩn rủi ro đối với các ngân hàng thương mại khi cho vay có giá trị lớn. Chẳng hạn: Tài sản đã được sử dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ vay, nhưng cơ quan quản lý nhà nước vẫn làm thủ tục pháp lý để chuyển tài sản; xe ô tô đăng ký ở phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh, thành phố, nhưng khi cầm cố lại được đăng ký ở Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm.. Trong thực tế đã từng xảy ra trường hợp ngân hàng cho vay vốn giữ giấy tờ xe bản chính, còn chủ xe lại báo mất giấy đăng ký xe và xin cấp lại để bán và làm thủ tục sang xe. Vì vậy việc đăng ký giao dịch đảm bảo cần được tập trung đăng ký tại một cơ quan, và cơ quan này có khả năng quản lý về nguồn gốc sở hữu và thực trạng giao dịch của tài sản, khắc phục tình trạng cơ quan đăng ký giao dịch không cập nhật được tình trạng của tài sản. + Hoạt động thẩm định giá: Nhanh chóng hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy cho hoạt động thẩm định giá, tạo điều kiện dễ dàng hơn để thành lập các doanh nghiệp thẩm định giá. Do vai trò của công tác thẩm định giá đối với hoạt động của các ngân hàng ngày càng quan trọng nên việc thành lập các doanh nghiệp thẩm định giá là cần thiết trong thời gian sắp tới. Doanh nghiệp thẩm định giá với khả năng chuyên môn sâu và rộng của mình sẽ thay cho các ngân hàng chịu trách nhiệm về việc thẩm định giá trị các tài sản thế chấp, cầm cố, các dự án đầu tư, giá trị doanh nghiệp,...một cách chính xác, trung thực, hợp pháp,...nhằm giải quyết toàn bộ những khó khăn mà các ngân hàng đang gặp phải. Ngoài ra cần có các biện pháp chế tài đối với chức năng kinh doanh của loại hình dịch vụ này để đảm bảo việc tính toán, định giá chính xác, phù hợp với giá thị trường, trách tình trạng thông đồng với khách hàng để đẩy giá trị 63 tài sản thế chấp lên cao để được vay vốn nhiều. Nếu xãy ra rủi ro thì các công ty định giá lại không phải chịu trách nhiệm liên đới. + Thành lập thêm các trung tâm bán đấu giá: Hiện tại do nhu cầu xử lý nợ tồn đọng cao trong khi theo quy định mỗi tỉnh, thành phố chỉ được thành lập một công ty bán đấu giá nên tốc độ xử lý nợ chậm. 3.2. Nhóm giải pháp đối với NHCTVN – CN 11: 3.2.1. Các vấn đề liên quan đến cán bộ tín dụng: 3.2.1.1. Đối với bản thân cán bộ tín dụng: Mỗi cán bộ tín dụng phải luôn tự tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao ý thức trách nhiệm trong công việc. Cán bộ ở cương vị càng cao, càng phải thể hiện sự gương mẫu. Ngoài ra, bên cạnh việc thường xuyên phải nghiên cứu, học tập, nắm vững và thực hiện đúng các quy định hiện hành, mỗi cán bộ tín dụng còn phải không ngừng nâng cao năng lực công tác thông qua học hỏi kinh nghiệm nhất là khả năng phát hiện, ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng của khách hàng. Cán bộ tín dụng phải nắm bắt thật kỹ các nghiệp vụ chuyên môn: quy trình cấp tín dụng, kỹ thuật thẩm định dự án đầu tư, đánh giá khách hàng, các biện pháp quản lý rủi ro, cách thức phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro... Thường xuyên cập nhật các kiến thức về kinh tế, luật pháp, thông tin thị trường,...trao dồi khả năng ngoại ngữ và tin học vì nghiệp vụ ngân hàng phát triển với tốc độ rất cao mà nguồn cung cấp kiến thức chủ yếu từ nguồn tài nguyên tri thức của thế giới. 3.2.1.2. Đối với ngân hàng: Nâng cao nhận thức của từng cán bộ tín dụng: giúp các cán bộ hiểu rõ về bản chất các loại rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng mà ngân hàng luôn phải đối mặt; những nguyên nhân gây ra rủi ro; những hậu quả mà rủi ro có thể đưa đến cho ngân hàng; những biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro... Đưa ra các quy tắc đạo đức trong quá trình thực hiện nghiệp vụ: - Trung thực, minh bạch và công khai khi thực hiện nhiệm vụ được giao. - Hết lòng phục vụ khách hàng, song bảo đảm không đặt ngân hàng hoặc các cán bộ khác vào những mối quan hệ có mâu thuẫn về lợi ích. 64 - Không tham gia vào các hoạt động bị cấm. - Không cung cấp thông tin nội bộ cho hoạt động bên ngoài ngân hàng. - Không sử dụng tài sản, thông tin của ngân hàng phục vụ cho các mục đích cá nhân. - Có tinh thần trách nhiệm cao và tự chịu trách nhiệm trong tất cả các quyết định. Vì chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng là nhân tố quan trọng bậc nhất trong việc quản lý rủi ro tín dụng nên ngân hàng cần phối hợp với các đơn vị có liên quan thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích rủi ro tín dụng cho cán bộ tín dụng. Thường xuyên kiểm tra, quản lý cán bộ tín dụng khi thấy có những biểu hiện bất thường đáng quan tâm trong sinh hoạt hàng ngày…Vì với kinh nghiệm và hiểu biết, một số cán bộ tín dụng dễ tìm cách thông đồng với khách hàng, chia phần trăm trên số vốn được vay, hay các hành vi lừa đảo khác. Có chính sách thưởng, phạt công bằng để tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”, tạo kỷ cương trong hoạt động tín dụng. Đối với cán bộ có thành tích xuất sắc, cần biểu dương, khen thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả họ mang lại, kể cả việc nâng lương trước hạn hoặc đề bạt lên đảm nhiệm ở vị trí cao hơn. Đối với cán bộ có sai phạm, tùy theo tính chất, mức độ mà có thể xử lý kỷ luật hoặc thuyên chuyển sang những công việc khác. Có chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, đề bạt, phân công, bố trí công việc phù hợp với năng lực và trình độ của từng cán bộ tín dụng: - Đảm bảo thu nhập phải tương xứng với trách nhiệm; phân phối thu nhập phải căn cứ vào chất lượng công việc. - Bố trí các cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao vào những vị trí quan trọng chủ chốt để phát huy hơn nữa thế mạnh về con người. - Có chính sách ưu đãi cho cán bộ tín dụng để khuyến khích tinh thần, trách nhiệm, ý thức vươn lên, tự hoàn thiện của mỗi cán bộ. 3.2.2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng: Để phối hợp với Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin tín dụng, NHCTVN-CN11 cần tăng cường việc chỉ đạo, theo dõi 65 đôn đốc và kiểm soát việc báo cáo kịp thời đầy đủ, chính xác số lượng và chất lượng thông tin tín dụng về Trung tâm thông tin tín dụng NHCTVN và Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN. NHCTVN-CN11 cần ứng dụng thông tin, thiết lập phần mềm để quản lý khách hàng, thống kê, lưu trữ thông tin làm cơ sở phân tích đánh giá khách hàng cho những lần cấp tín dụng sau. Quy định cụ thể, chặt chẽ về lưu trữ, bảo quản và quản lý hồ sơ tín dụng như một tài sản quan trọng của ngân hàng. Ngoài ra, do nguồn thông tin khách hàng cung cấp có thể chưa đảm bảo tính chính xác và đầy đủ nên NHCTVN-CN11 cần phải thu thập thêm nhiều thông tin hơn nữa từ các nguồn thông tin bên ngoài về quá trình phát triển của khách hàng, và ngành nghề kinh doanh của khách hàng để dự đoán được khuynh hướng phát triển, áp lực cạnh tranh từ các đối thủ của khách hàng, qua đó đánh giá khả năng kinh doanh và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. Nguồn thông tin từ bên ngoài có vai trò quan trọng trong việc đánh giá khách hàng vay một cách toàn diện. Đây chính là thông tin tín dụng được cung cấp từ các cơ quan thông tin tín dụng trong và ngoài nước, các cơ quan ban ngành có liên quan như cơ quan thuế, các tạp chí chuyên ngành, các cơ quan thông tin đại chúng, internet... Bên cạnh đó, NHCTVN-CN11 cần tăng cường hợp tác, trao đổi, chia sẻ thông tin với các NHTM trên cùng địa bàn và thực hiện khai thác thông tin tín dụng từ Trung tâm thông tin tín dụng của NHCTVN và NHNN (CIC). Đặc biệt, NHCTVN-CN11 cần thiết lập một bộ phận độc lập chuyên nghiên cứu, phân tích diễn biến và dự báo tình hình thị trường dựa trên tất cả các kênh thông tin, đặc biệt là các thông tin về thị trường xuất nhập khẩu: giá cả, kim ngạch,...các lịnh vực ngân hàng đang và sẽ đầu tư như: hạ tầng, văn phòng cho thuê, dệt may, nhuộm, thép... 3.2.3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm: Để có thể hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra, đối với vấn đề TSBĐ, các cán bộ tín dụng NHCTVN-CN11 cần thiết phải thực hiện: 66 - Hoàn thiện hồ sơ thế chấp, hồ sơ pháp lý (chứng thư sở hữu của tài sản, đăng ký giao dịch đảm bảo, công chứng chứng thực, các thoả thuận trong hợp đồng…) vì đây là vấn đề quyết định đến quyền tài sản và quyền truy đòi nợ của ngân hàng. - Thường xuyên kiểm tra, đánh giá giá trị của tài sản, định kỳ tổ chức định giá lại TSBĐ, khắc phục việc định giá TSBĐ mang tính chủ quan, thiếu căn cứ khoa học, chưa áp dụng thích hợp các phương pháp định giá. Đối với những TSBĐ có giá trị lớn, ngân hàng nên thuê các tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá. Việc thuê định giá tuy tiêu tốn một khoản chi phí nhưng sẽ giúp khắc phục được tính chủ quan của cán bộ trong quá trình định giá, ngoài ra việc định giá còn mang tính khoa học. - Hạn chế tâm lý lạm dụng vào TSBĐ. - Nghiên cứu áp dụng các hình thức đảm bảo tín dụng mới. - Thường xuyên theo dõi, cập nhật các văn bản pháp luật của Nhà nước liên quan đến TSBĐ. 3.2.4. Các vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách, quy trình tín dụng: Để quy trình tín dụng mới thật sự phát huy hiệu quả như mong muốn, kiểm soát rủi ro một cách chặt chẽ hơn, NHCTVN-CN11 cần tuân thủ nghiêm các bước của quy trình. Từng bộ phận nghiệp vụ tham gia quy trình tín dụng cần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, cụ thể: - Phòng quan hệ khách hàng: với chức năng là đầu mối thiết lập, duy trì và không ngừng mở rộng mối quan hệ đối với khách hàng trên tất cả các mặt hoạt động, nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh doanh một cách an toàn, hiệu quả và tăng thị phần của NHCTVN. Nhiệm vụ cụ thể của phòng sẽ là: * Xác định thị trường kinh doanh và đối tượng khách hàng mục tiêu trên cơ sở thường xuyên thu thập và đánh giá thông tin từ thị trường (theo ngành, lĩnh vực, khu vực địa lý, nhóm khách hàng, nhóm sản phẩm), đề xuất và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. * Phối hợp cùng các phòng ban có liên quan xây dựng chính sách khách hàng hàng năm, bao gồm việc xác định các loại sản phẩm dịch vụ và giá trị từng loại sản phẩm dịch vụ dự kiến cung ứng. 67 * Trực tiếp triển khai các biện pháp Marketing giới thiệu cho khách hàng về các sản phẩm, dịch vụ mà NHCTVN có lợi thế, có thể cung ứng: duy trì liên lạc thường xuyên với khách hàng nhằm kịp thời nắm bắt các thông tin mới phát sinh có liên quan và làm đầu mối giải quyết các vướng mắc các yêu cầu của khách hàng. Chịu trách nhiệm cung cấp mọi thông tin có liên quan đến khách hàng theo yêu cầu của các phòng ban khác. * Trực tiếp tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn của khách hàng và nghiên cứu, xem xét có ý kiến trước khi chuyển Tổ Quản lý rủi ro tín dụng thẩm định (đối với các khoản cho vay phải có thẩm định của Tổ Quản lý rủi ro tín dụng) và trực tiếp thẩm định cho vay (đối với các khoản vay không cần phòng Quản lý rủi ro tín dụng thẩm định). Thực hiện ký kết các loại hợp đồng/cam kết đối với khách hàng trong phạm vi quy định. Trực tiếp tiếp nhận và xử lý và/hoặc theo dõi việc xử lý các nhu cầu rút vốn vay theo hợp đồng tín dụng, nhu cầu sử dụng nghiệp vụ tài trợ thương mại, nhu cầu thấu chi và các nhu cầu tín dụng khác của khách hàng. Thực hiện giám sát và quản lý các giao dịch tín dụng đã phát sinh theo đúng các quy định hiện hành. Đôn đốc khách hàng, phối hợp với các phòng ban thu hồi nợ vay đầy đủ và đúng hạn. Thực hiện quản lý và xử lý các khoản tín dụng có vấn đề trong trường hợp được phân công. * Tùy theo đặc điểm riêng đối với từng khách hàng, phối hợp cùng các phòng ban khác thiết kế các loại sản phẩm phù hợp và có tính hấp dẫn đối với khách hàng. - Tổ quản lý rủi ro: với chức năng nghiên cứu, phân tích, quản lý rủi ro bao gồm rủi ro chung (rủi ro hệ thống, rủi ro thị trường,..) và rủi ro riêng (rủi ro từng khách hàng, rủi ro từng dự án) nhằm đảm bảo phát triển tín dụng, mở rộng hoạt động một cách an toàn, hiệu quả. Nhiệm vụ cụ thể của tổ là: * Xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng: Soạn thảo chính sách quản lý rủi ro tín dụng trong từng thời kỳ bao gồm việc xác định tỷ lệ nợ xấu tối đa có thể chấp nhận được; cảnh báo các mặt hàng và lĩnh vực đầu tư cần hạn chế. Trực tiếp tham gia và theo dõi việc thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng. Tổ chức 68 đánh giá định kỳ các chính sách quản lý rủi ro tín dụng nhằm đề xuất chỉnh sửa kịp thời các nội dung hoặc các chỉ tiêu cần thiết. * Quản lý danh mục đầu tư: Tổ chức giám sát thường xuyên danh mục đầu tư tín dụng nhằm đảm bảo dư nợ theo từng nhóm khách hàng, theo lĩnh vực, mặt hàng đầu tư, theo cơ cấu thời hạn vay,... không vượt quá tổng mức giới hạn đã được phê duyệt. Kịp thời phát hiện các dấu hiệu rủi ro, nhóm khách hàng, mặt hàng, lĩnh vực đầu tư có vấn đề, đề xuất điều chỉnh giới hạn tín dụng đối với các khoản mục cho là cần thiết. Đánh giá định kỳ kết quả áp dụng hệ thống xếp hạng doanh nghiệp đồng thời đề xuất các biện pháp áp dụng phù hợp. * Trực tiếp thẩm định rủi ro đối với từng khoản cấp tín dụng đến khách hàng: Cho điểm tín dụng và phân loại khách hàng theo quy định. Đánh giá các loại rủi ro trong giao dịch tín dụng với khách hàng, bao gồm đánh giá tính pháp lý và tính đầy đủ của bộ hồ sơ tín dụng, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của từng khoản cấp tín dụng, thẩm định và định giá TSBĐ (nếu có); thẩm định khả năng hoàn trả nợ của khách hàng...Đề xuất giới hạn tín dụng cho khách hàng và đề xuất mức cấp tín dụng cụ thể đối với khách hàng và các biện pháp cần thực hiện nhằm đảm bảo khả năng thu hồi đủ nợ. * Tham gia quy trình phê duyệt tín dụng, tham gia và giám sát quá trình thực hiện các quyết định đã được phê duyệt, tham gia xử lý các khoản cấp tín dụng có vấn đề: làm đầu mối chuẩn bị tài liệu và thu xếp thực hiện quy trình phê duyệt tín dụng theo quy định. Kiểm tra các điều kiện rút vốn và chỉ thị các phòng tác nghiệp có liên quan thực hiện giải ngân cho khách hàng (trường hợp có yêu cầu). Giám sát phòng khách hàng trong việc thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay của khách hàng, phối hợp cùng phòng Quan hệ khách hàng phát hiện kịp thời các dấu hiệu có rủi ro liên quan đến khoản cấp tín dụng và cùng tìm biện pháp xử lý thích hợp. Trực tiếp theo dõi và quản lý các khoản tín dụng có vấn đề, gặp khó khăn kéo dài. 3.2.5. Các vấn đề liên quan đến công tác thẩm định: Trong quá trình xem xét cấp tín dụng, cán bộ tín dụng phải lựa chọn phương pháp thẩm định phù hợp theo từng loại cho vay, đối tượng khách hàng, chú trọng đánh giá đầy đủ về tư cách pháp nhân, năng lực hành vi dân sự của khách hàng, và xem 69 xét kỹ tính pháp lý của các giấy tờ, tài liệu liên quan (hồ sơ vay vốn) nhằm phát hiện tình trạng thiếu trung thực của khách hàng trong việc cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến vấn đề vay vốn, đặc biệt cần đánh giá chính xác tính khả thi, hiệu quả của dự án/phương án vay vốn, xem xét kỹ các thỏa thuận trong hợp đồng kinh tế giữa khách hàng vay với tổ chức, cá nhân liên quan nhằm xác định thời hạn cho vay chính xác với đối tượng vay vốn, đồng thời giúp khách hàng vay khắc phục những điểm bất lợi đã được quy định trong hợp đồng kinh tế. Mặt khác, để đảm bảo đánh giá chính xác tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng vay, ngân hàng ngoài việc dựa vào hồ sơ, tài liệu do khách hàng cung cấp, còn phải điều tra nắm chắc các nguồn thông tin khác có liên quan và kết hợp với khảo sát thực tế tại đơn vị. Việc thẩm định kết hợp như trên không những giúp ngân hàng xác định được mức độ trung thực của những tài liệu do khách hàng cung cấp, đánh giá đúng đắn uy tín và mức độ cạnh tranh sản phẩm của khách hàng trên thị trường, dự kiến được rủi ro có thể xảy ra, mà còn nắm chắc về lịch sử, về mối quan hệ giữa khách hàng vay vốn với tổ chức, cá nhân có liên quan, về tình hình công nợ và khả năng thanh toán tín dụng của khách hàng, nhất là khách hàng vay ở nhiều ngân hàng, khách hàng ngoài địa bàn hoạt động, khách hàng là đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc. Trước khi cho vay, căn cứ theo quy định, ngân hàng phải thu thập đầy đủ các giấy tờ, tài liệu về tính pháp lý của khách hàng. Lập hợp đồng tín dụng phải đầy đủ các yếu tố theo quy định của pháp luật đảm bảo an toàn và đủ căn cứ pháp lý để xử lý khi có tranh chấp; Việc định kỳ hạn trả nợ gốc, lãi vay phải căn cứ vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay và phù hợp với khả năng trả nợ của từng khách hàng nhằn hạn chế tình trạng định kỳ hạn trả nợ gốc, lãi máy móc, xác định thời hạn trả nợ quá ngắn cho các đối tượng vay có chu kỳ luân chuyển vốn dài dẫn đến phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Khi khách hàng có yêu cầu rút tiền vay, cán bộ trực tiếp cho vay phải kiểm tra chặt chẽ các giấy tờ liên quan đến việc rút vốn vay của khách hàng, tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay, lịch rút vốn, giấy nhận nợ và số dư nợ đến ngày nhận nợ nhằm tránh tình trạng cho vay vượt hạn mức tín dụng, rút tiền vay không đúng 70 mục đích sử dụng,...Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi tình hình sử dụng vốn vay, nhất là phải kiểm tra kịp thời đối với khoản cho vay bằng tiền mặt, định kỳ phải đánh giá khả năng tài chính và tình hình sản xuất, kinh doanh của khách hàng. Nội dung kiểm tra phải đánh giá được đầy đủ các yếu tố như: số tiền vay sử dụng vào mục đích gì, tính toán cân đối nợ vay, nhận xét tình hình thực hiện dự án/phương án vay vốn, tình hình sản xuất, kinh doanh của khách hàng, kiểm tra tình hình TSBĐ. Ngoài việc kiểm tra thực tế khách hàng, ngân hàng còn phải yêu cầu khách hàng báo cáo theo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình hoạt động kinh doanh nhằm sớm phát hiện hiện tượng suy giảm trong sản xuất, kinh doanh để có biện pháp xử lý kịp thời. Mặc dù việc xem xét cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ là do ngân hàng tự quyết định, nhưng không thể tùy tiện mà phải theo nhu cầu chính đáng của khách hàng, xem xét nguyên nhân khách hàng không trả được nợ đúng thời hạn đã cam kết và đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng sau khi được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Thời gian và số lần cho cơ cấu phải có ý nghĩa thật sự và mang lại hiệu quả cho khách hàng, tránh điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ một cách tràn lan. 3.2.6. Kiến nghị và đề xuất khác + Về phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro: Việc thực hiện phân loại nợ tại chi nhánh chủ yếu căn cứ theo định lượng là thời hạn quá hạn hoặc cơ cấu lại nợ, chi nhánh chưa quan tâm đến việc phân tích tình trạng nợ thực tế và khả năng trả nợ của khách để phân nhóm nợ. Vì vậy chi nhánh cần tăng cường việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, phân tích đảm bảo nợ thường xuyên để nắm được thực trạng của nợ, nếu phát hiện nợ có khả năng tổn thất cần phân vào nhóm nợ tương ứng để trích dự phòng rủi ro đầy đủ. + Cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có: Chi nhánh cần cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có trong bối cảnh thị trường nhiều biến động và nguồn vốn không ổn định hiện nay, đẩy mạnh công tác huy động vốn, trong đó có việc tạo nguồn vốn trung và dài hạn để đảm bảo các tỷ lệ quy cho vay trung, dài hạn phù hợp các quy định giới hạn của NHCTVN và theo Quyết định 457/2005QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của NHNN. 71 + Giới hạn tín dụng và chấm điểm khách hàng: Công tác thẩm định và giới hạn tín dụng khách hàng cần thực hiện định kỳ hàng năm một cách đầy đủ, có như vậy chi nhánh mới có thể chủ động trong việc cơ cấu vốn kinh doanh, đồng thời xác định các đối tượng khách hàng để phân công bố trí cán bộ cho vay, quản lý khách hàng phù hợp. + Hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ và hậu kiểm: - Chi nhánh cần tăng cường quan tâm công tác hậu kiểm ở từng bộ phận nghiệp vụ tại chi nhánh nhất là khâu tín dụng để phát hiện các sai sót, kịp thời chỉnh sửa. Các phòng thực hiện nghiệp vụ cho vay phải phân công lãnh đạo phòng thực hiện kiểm tra lại các khoản vay phát sinh và việc khai báo thông tin, số liệu vào hệ thống. - Quan tâm và tạo điều kiện cho bộ phận kiểm tra kiểm soát nội bộ NHCTVN tại chi nhánh hoạt động và phát huy vai trò của bộ phận này. Cần có những kế hoạch và chương trình làm việc chung để tăng cường chất lượng kiểm tra tín dụng tại chi nhánh. Thực hiện chỉnh sửa kịp thời các thiếu sót, chú trọng các vấn đề được cảnh báo từ kết quả kiểm tra của phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ tại chi nhánh. + Cũng cố hoạt động bộ phận thẩm định rủi ro độc lập: Chi nhánh cần có kế hoạch cũng cố hoạt động của tổ thẩm định rủi ro tín dụng độc lập. Trước mắt là bổ sung thêm nhân sự cho phòng để thực hiện đầy đủ chức năng thẩm định và hướng tới cần nâng cấp tổ thẩm định rủi ro độc lập thành phòng thẩm định rủi ro độc lập để nâng cao vai trò của bộ phận này trong quy trình cấp tín dụng. + Công tác phát triển nguồn nhân lực: Để nâng cao năng lực cán bộ quản trị và tác nghiệp trong lĩnh vực tín dụng: Chi nhánh phải xây dựng chính sách tuyển dụng, sử dụng, đề bạt thích hợp với yêu cầu và trách nhiệm công việc. Thường xuyên tổ chức và phối hợp với các trường đào tạo tập huấn, đào tạo và đào tạo lại để cập nhật kiến thức ngân hàng thời kỳ kinh tế thị trường phát triển, tăng cường kỹ năng cho cán bộ quản trị và cán bộ tín dụng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA1855.pdf
Tài liệu liên quan