Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội - Kinh nghiệm và giải pháp

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đói nghèo là một phạm trù lịch sử có tính tương đối ở từng thời kỳ và ở mọi quốc gia. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1,3 tỷ người đang sống trong cảnh đói nghèo, kể cả nước có thu nhập cao nhất thế giới vẫn có một tỷ lệ dân số sống trong tình trạng nghèo nàn cả về vật chất và tinh thần. Tỷ lệ người nghèo ở mỗi nước cũng khác nhau, đối với nước giàu thì tỷ lệ đói nghèo nhỏ hơn các nước kém phát triển song khoảng cách giàu nghèo lại lớn hơn rất nhiều. Trong

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1717 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội - Kinh nghiệm và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xu thế hợp tác và toàn cầu hoá hiện nay thì vấn đề xoá đói giảm nghèo (XĐGN) không còn là trách nhiệm của một quốc gia mà đã trở thành mối quan tâm của cả động đồng Quốc tế. Việt Nam là một trong những nước có thu nhập thấp nhất thế giới, do đó chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN là một chiến lược lâu dài cần được sự quan tâm giúp đỡ của cộng đồng quốc tế kết hợp chặt chẽ với tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết của cả dân tộc để đẩy lùi đói nghèo tiến kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước tiên tiến. Chúng ta đều biết đòi nghèo là lực cản trên con đường tăng trưởng và phát triển của Quốc gia, nghèo khổ luôn đi liền với trình độ dân trí thấp, tệ nạn xã hội, bệnh tật phát triển, trật tự an ninh chính trị không ổn định… Trong thời kỳ nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH), phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề XĐGN càng khoá khăn và phức tạp hơn so với thời kỳ trước. Muốn đạt được hiệu quả thiết thực nhằm giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, nâng cao mức sống cho người dân thì mỗi địa phương, mỗi vùng phải có chương trình XĐGN riêng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mình nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sóc Sơn là huyện ngoại thành có diện tích tự nhiên bàng 1/3 diện tích của Hà Nội, trong những năm gần đây được sự quan tâm đầu tư của thành phố, sự nỗ lực cố gắng của lãnh đạo và nhân dân toàn huyện nên tình hình kinh tế - xã hội đã có những bước chuyển biến tích cực, sản xuất phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo đói hàng năm giảm từ 2-3%. Tuy nhiên, Sóc Sơn vẫn là huyện nghèo, có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất và thu nhập trung bình thấp nhất so với các quận, huyện của Thủ đô. Vấn đề đặt ra ở đây là: với tình hình, thực trạng nghèo đói của Sóc Sơn như vậy, Thành phố Hà Nội, huyện đã có những chính sách gì, bằng cách nào, thực hiện các giải pháp nào để đẩy mạnh quá trình xoá đói giảm nghèo, từng bước ổn định đời sống của các hộ nghèo, từ đó tạo những điều kiện, tiền đề thuận lợi để các hộ vươn lên thoát nghèo và không bị tái nghèo. Đây là vấn đề rất bức thiết đối với Sóc Sơn cần sớm được nghiên cứu giải quyết, xuất phát từ thực tiễn đó học viên nghiên cứu đề tài: “Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội - Kinh nghiệm và giải pháp". 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài - Hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về công tác xoá đói giảm nghèo - Phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân đói nghèo của huyện Sóc Sơn - Nghiên cứu các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đói nghèo - Đề xuất các định hướng và giải pháp chủ yếu cho công tác xoá đói giảm nghèo của huyện Sóc Sơn đến 2010. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế - xã hội có liên quan đến công tác và chương trình xoá đói giảm nghèo của huyện Sóc Sơn. Một số hộ đại diện thuộc 3 vùng tiêu biểu của huyện Sóc Sơn. - Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu thực trạng đói nghèo và phát triển kinh tế của các hộ nghèo. Không gian nghiên cứu: địa phận huyện Sóc Sơn Thời gian nghiên cứu: số liệu nghiên cứu đề tài, chủ yếu từ năm 2004-2006 và một số định hướng, giải pháp đến năm 2010-2015. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu chung Đây là phương pháp tổng quát bao gồm quan điểm duy vật biện chứng duy vật lịch sử để thấy rõ các hiện tượng kinh tế - xã hội trong trạng thái vận động và có các mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nó cho phép phân tích, đánh giá một cách khách quan các vấn đề nghiên cứu như cơ cấu kinh tế của địa phương, cơ sở vật chất kỹ thuật có ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ cấu kinh tế đó, phong tục tập quán liên quan trực tiếp và giám tiếp đến XĐGN. 4.2. Phương pháp phân tích, thống kê 4.2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu, chọn mẫu điều tra * Chọn điểm nghiên cứu: Chúng tôi chọn địa bàn huyện Sóc Sơn làm điểm nghiên cứu của đề tài vì huyện Sóc Sơn là huyện có điều kiện sản xuất rất khó khăn, phần lớn là sản xuất nông nghiệp, là huyện có nhiều hộ nghèo nhất của thành phố Hà Nội. * Chọn mẫu điều tra: Do địa bàn huyện Sóc Sơn được chia thành 3 vùng rõ rệt là vùng gò đồi, vùng ven sông và vùng giữa nên chúng tôi tiến hành điều tra ở mỗi vùng 30-35 hộ đại diện thuộc 3 xã (Minh Phú, Xuân Giang, Mai Đình), ngoài ra còn điều tra nhanh thêm một số hộ khác và một số hộ mới thoát nghèo nhằm xem xét, nghiên cứu nguyên nhân, khả năng tái nghèo của các hộ đó. 4.2.2. Phương pháp thu thập số liệu - Số liệu thứ cấp được thu thập từ 2 nguồn: + Từ các sách, công trình nghiên cứu, các báo cáo khoa học về đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn và XĐGN. + Từ các Nghị quyết đại hội Đảng thành phố Hà Nội, đại hội Đảng bộ huyện Sóc Sơn, các báo cáo tổng kết hàng năm của UBND huyện, báo cáo của các phòng LĐTB&XH, Phòng Thống kê, Ban XĐGN của huyện qua 3 năm từ 2004-2006, Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Sóc Sơn đến năm 2010-2020. - Số liệu mới: Thực hiện điều tra trực tiếp các hộ nghèo, các hộ mới tái nghèo và một số hộ khác bằng bộ câu hỏi soạn thảo sẵn như: tình hình sản xuất, đất đai, lao động, trình độ, mức đầu tư… những thuận lợi, khó khăn và các kiến nghị của hộ nghèo đối với các chương trình XĐGN của huyện. 4.2.3. Phương pháp xử lý số liệu thống kê Việc xây dựng hệ thống bảng biểu, hệ thống chỉ tiêu, tính toán số liệu được thực hiện trên chương trình phần mềm Excel làm cơ sở cho những kết luận phục vụ mục tiêu nghiên cứu của đề tài. 4.2.4. Phương pháp dự báo Dùng phương pháp dự báo để có thể đưa ra một phương án có tính khả thi trong tương lai gần cho một đơn vị sản xuất là điều cần thiết. Phương pháp dự báo phải dựa vào xu hướng phát triển của xã hội hiện tại và tương lai, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nghiên cứu nhằm nâng cao mức sống cho người dân hay dự báo một tỷ lệ đói nghèo cho địa bàn. 4.2.5. Phương pháp phân tích kinh tế - Để phân tích thực trạng đói nghèo của huyện chúng tôi sử dụng các phương pháp: thống kê mô tả để mô tả thực trạng, thống kê so sánh để so sánh mức sống trung bình của các hộ nghèo với các loại hộ khác mức đầu tư cho sản xuất giữa các loại hộ và phân tích số bình quân để đánh giá khả năng thoát nghèo của các hộ trong tương lai. - Căn cứ vào thực trạng đói nghèo của huyện, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Sóc Sơn đến năm 2010 để đưa ra những định hướng và giải pháp XĐGN đến năm 2010-2015 cho huyện Sóc Sơn. 5. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận văn được chia thành 3 chương: - Chương 1: Một số vần đề lý luận và thực tiễn về xóa đói giảm nghèo - Chương 2: Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở huyện Sóc Sơn - Chương 3: Phương hướng và giải pháp xóa đói giảm nghèo ở huyện Sóc Sơn Chương 1 Một số vần đề lý luận và thực tiễn về xóa đói giảm nghèo khái niệm và tiêu chí đánh giá đói nghèo Một số khái niệm về đói nghèo Đói nghèo là một vấn đề được quan tâm cả trong thực tiễn và lý luận. Có rất nhiều cứu về vấn đề này, tuy nhiên cùng có nhiều quan điểm bất đồng và gây ra những tranh cãi lớn nhưng nhìn chung đều coi đói nghèo là tình trạng một nhóm người trong xã hội không có khả năng hưởng một “cái gì” đó ở mức tối thiểu cần thiết. Vậy “đói nghèo” là gì? Đây là một khái niệm mang tính tương đối bao gồm hai mức độ “đói” và “nghèo”. * Khái niệm về nghèo -Theo UNDP trong bản thông báo năm 1998 nhan đề “Khắc phục sự nghèo khổ của con người” đã đưa ra Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ. Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối thiểu. Sự nghèo khổ cực độ: Nghèo khổ, khốn cùng là không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản tối thiểu. Sự nghèo khổ chung: Là không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở những nước khác nhau. Sự nghèo khổ tương đối: Sự nghèo khổ được xác định theo những chuẩn mực có thể thay đổi với thời gian ở nước này hay nước khác. Ngương này có thể tăng lên đồng thời với thu nhập. Sự nghèo khổ tuyệt đối: Sự nghèo khổ được xác định một chuẩn mực nhất định. Chẳng hạn như ngưỡng quốc tế của sự nghèo khổ là 1USD/người/ngày. - Theo nhìn nhận của Ngân hàng thế giới (WB) Ngưỡng nghèo thứ nhất: Là số tiền cần thiết để mua một rổ hàng hoá lương thực hàng ngày trong năm 1993 và được gọi là “ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm”. Ngưỡng nghèo này thường thấp bởi bởi vì nó không tính đến số Ngưỡng nghèo thứ hai: Là “ Ngưỡng nghèo chung” bao gồm cả chi tiêu cho lương thực thực phẩm và chi tiêu cho sản phẩm phi lương thực. Xuất phát từ nhu cầu calo tối thiểu cần thiết cho mỗi cơ thể theo thể trạng con người: WB đã đưa ra con số phổ biến được sử dụng là 2100 kilo calo cho một người mỗi ngày. Vì vậy, nghèo đói củaWB là những hộ không có khả năng chi trả cho số hàng hoá lương thực của mình để đủ cung cấp 2100 calo cho mỗi người mỗi ngày. - Theo quan điểm của ESCAP trong các hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo trong khu vực Châu á Thái Bình Dương ở Băng Cốc tháng 9/1993 thì Nghèo tuyệt đối: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tuỳ theotrình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. Vậy nghèo là khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của người dân chỉ dành hầu như toàn bộ cho ăn, thậm chí không đủ chi cho ăn. Phần tích luỹ hầu như không có. Các nhu cầu tối thiểu ngoài ăn ra thì các mặt khác như ở, mặc, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp chỉ đáp ứng một phần rất ít ỏi không đáng kể. *Khái niệm về đói. Đói được hiểu là một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu, có nghĩa là ăn không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày và không đủ sức để lao động, để tái sản xuất sức lao động. Đói lại được chia ra làm đói gay gắt kinh niên và đói gay gắt cấp tính. Trong đó, đói gay gắt kinh niên (tương ứng với đói nghèo truyền từ đời này qua đời khác) là bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm liền cho tới thời điểm đang xét hay tình trạng thiếu ăn thường xuyên. Nếu con người trong những hoàn cảnh đột xuất, bất ngờ do thiên tai bão lũ, mất mùa, bệnh tật, rơi vào cùng cực, không có gì để sống, không có đủ lương thực, thực phẩm để ăn, có thể dẫn tới cái chết thì đó là trường hợp đói gay gắt cấp tính. Dù ở dạng nào thì đói đều đi liền với thiếu chất dinh dưỡng. Có thể hình dung trạng thái đói, thiếu đói ở các hộ gia đình nông dân hoặc một bộ phận dân cư phải sống dưới mức tối thiểu qua các bữa ăn trong ngày của họ như bữa đói, bữa no, đứt bữa. Ngày chỉ ăn một bữa, hoặc bữa cơm bữa cháo hoặc cả hai bữa đều không đủ năng lượng tối thiểu chứ chưa nói tới chất dinh dưỡng cần thiết. Nếu đo lường calo thì thiếu đói (thiếu ăn) là tình trạng con người ăn chỉ ở mức 1500 calo một ngày.Khi bàn về đói, căn cứ vào nhu cầu calo tối thiểu cần thiết cho mỗi cơ thể theo thể trạng con người, WB đã đưa ra con số phổ biến được sử dụng là 2100 kilo calo cho một người mỗi ngày. Do vậy, nghèo đói theo WB là những hộ không có khả năng chi trả cho số hàng hoá lương thực của mình để đủ cung cấp 2100 calo cho mỗi người mỗi ngày. ở Việt Nam thiếu đói là những người có thu nhập dưới mức thu nhập là 12 kg gạo/người/tháng. Hay là tình trạng của một bộ phận dân cư ở nông thôn có thu nhập dưới mức 20.400 đồng/người/tháng và ở thành thị là24.500đông/người/tháng. Những người có thu nhập dưới mức 8 kg gạo/người/tháng và ở thành thị là 16.300 đồng/người/tháng (đói gay gắt) (theo mốc đánh giá năm 1993). Trên cơ sở quan niệm về đói và nghèo, Việt Nam đưa ra các khái niệm tương xứng đó là hộ đói và hộ nghèo. Hộ đói và nghèo là những hộ có thu nhập bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo đói. Giới hạn nghèo đói được thể hiện ở mức thu nhập bình quân đầu người. Theo đánh giá chung của nhiều nước, hộ có mức thu nhập thấp hơn 1/3 mức trung bình xã hội là hộ đói nghèo, tức là sống dưới mức 420 USD/năm hay 35USD/tháng theo quy định của Ngân hàng hàng thé giới. Thời gian qua Việt Nam đã có nhiều cố gắng xây dựng một trương trình hành động cho mình, sự thống nhất về lý thuyết cũng như thực tiễn về quan niệm đói nghèo là tất yếu khách quan vì qua đó có thể xác định bản chất nghèo đói để đưa ra một hệ thông giải pháp có hiệu quả tới vấn đề này. Tóm lại đói nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, đây là vấn đề được các Chính phủ, các nhà lãnh đạo, các tổ chức quốc tế quan tâm để tìm ra các giải pháp hạn chế và tiến tới xoá bỏ nạn đói nghèo trên phạm vi toàn cầu. khái niệm về xoá đói, giảm nghèo 1.1.2.1. Khái niệm về xoá đói Xoá đói là làm cho bộ phận dân cư nghèo sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì mức sống, từng bước nâng cao mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. 1.1.2.2. KháI niệm về giảm nghèo. Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Điều này được thể hiện ở tỷ lệ phân trăm và số lượng người nghèo giảm xuống. Hay giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn. Xét trên góc độ một nền kinh tế thì giảm nghèo là qúa trình từng bước thực hiện chuyển đổi trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn. Mục tiêu hướng tới là trình độ sản xuất tiên tiến của thời đại. ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở có nhiều lựa chọn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo Cũng như các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo và coi đó là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững, xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Việt Nam đã công bố cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển quốc tế đã được nhất trí tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia năm 2000. Mặt khác, xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, cùng với việc đẩy mạnh cải cách, tạo ra những động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Đảng ta luôn chủ trương “Khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo”. Trong thời gian qua nhờ thực hiện các cơ chế, chính sách có hiệu quả, công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, do đó công cuộc xoá đói giảm nghèo đạt được nhiều kết quả tốt, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia và chuẩn quốc tế giảm nhiều. Do vậy, Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang là một nước nghèo, có mức thu nhập bình quân đầu người vào loại thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn lớn. Vì vậy, xoá đói giảm nghèo được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong thời gian tới và hế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm của cả nước, các ngành và các địa phương. các tiêu thức và chuẩn mực đánh giá nghèo đói 1.1.3.1 Các tiêu thức đánh giá đói nghèo Khi đánh giá nước giàu, nghèo trên thế giới, giới hạn đói nghèo được biểu hiện bằng chỉ tiêu là thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GDP). Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng chỉ căn cứ vào thu nhập thì chưa đủ căn cứ để đánh giá, vì vậy bên cạnh chỉ tiêu này việc đánh giá nghèo đói còn được dựa trên một số chỉ tiêu sau - Tiêu thức về chỉ tiêu chất lượng cuộc sống (PQLI) do tổ chức hội đồng phát triển Hải ngoại (ODC) đưa ra bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản là tuổi thọ, tỷ lệ xoá mù chữ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. -Tiêu thức về chỉ tiêu phát triển con người (HDI) do UNDP đưa ra bao gồm hệ thống ba chỉ tiêu tuổi thọ, thu nhập bình quân đầu người trong năm, tình trạng biết chữ của người lớn. - Tiêu thức về chỉ tiêu về nhu câu dinh dưỡng được dựa trên mức tiêu dùng quy ra kilocalo cho một người trong một ngày. - Tiêu thức về thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người, đây là chỉ tiêu chính mà hiện nay nhiều nước và tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giầu nghèo. Tại đại hội lần thứ II của Uỷ ban giảm nghèo khổ khu vực (ESAP) họp tại BangKok tháng 9/1995, Ngân hàng thế giới đã đưa ra mức nghèo khổ chung cho toà cầu là thu nhập bình quân đầu người dưới 370USD/người/năm Như vậy,khi kết hợp với các chỉ tiêu GDP, PQLI, và HDI cho phép nhìn nhận các nước giàu, nước nghèo chính xác hơn, khách quan hơn. Bởi vì nó đánh giá khách quan, toàn diên của con người trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. ở Việt Nam, tiêu thức đói nghèo được dựa trên chỉ tiêu chính đó là Thu nhập bình quân một người 1 tháng (hoặc 1 năm) được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương thực (gạo) tương ứng một giá trị để đánh giá và chỉ tiêu phụ là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học tập, chữa bệnh, đi lại... Mặc dù lấy chỉ tiêu thu nhập cơ bản biểu hiện bằng giá trị để phản ánh mức sống, tuy nhiên trong điều kiện giá cả không ổn định như ở nước ta thì rất cần thiết sử dụng hình thức hiện vật, phổ biến là quy là gạo tiêu chuẩn (gạo thường) tương ứng với một giá trị nhất định. Việc sử dụng hiện vật quy đổi tương ứng với một giá trị so sánh với mức thu nhập của một người dân theo thời gian và không gian được dễ dàng. Đặc biệt đối với người nghèo nói chung và người nghèo ở nông thôn nói riêng, chỉ tiêu khối lượng gạo bình quân/người/tháng tương ứng với lượng giá trị nhất định là có ý nghĩa thực tế. 1.1.3.2. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo của Việt Nam Để đánh giá được thực trạng của đói nghèo và đề xuất hệ thống giải pháp giảm nghèo mà chính phủ Việt Nam thực hiện để xoá đói giảm nghèo, về mặt phương pháp luận đã thống nhất được các bước cơ bản như xác định các chỉ số phúc lợi, xác định ngưỡng nghèo và lựa chọn các thước đo đói nghèo trên các khía cạnh. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện tại đang tồn tại nhiều ngưỡng nghèo khác nhau. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc phản ánh thực trạng đói nghèo ở Việt Nam. Bởi vậy, việc xác định chuấn nghèo là cần thiết để từ đó có hướng giải quyết phù hợp với điều kiện nước ta. Từ những năm đầu thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo, chuẩn nghèo đã được xây dựng và liên tục điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Chuẩn nghèo được xây dựng dựa trên cơ sở hai phương pháp đó là: phương pháp dựa trên hàm lượng năng lượng hấp thu từ lương thực và phương pháp chi phí cho nhu cầu cơ bản. Từ hai phương pháp này dẫn đến hai chuẩn nghèo để đánh giá đói nghèo của Việt Nam đó là chuẩn nghèo theo đánh giá của Bộ Lao động - Thương binh xã hội và Tổng cục Thống kê Chuân - Chuẩn nghèo của Bộ lao động – Thương binh xã hội ( chuẩn nghèo quốc gia) Chuẩn nghèo quốc gia do Bộ lao động Thương binh và Xã hội xây dựng với mục đích lập danh sách hộ nghèo từ cấp thôn, xã và danh sách xã nghèo từ các huyện trở lên để hưởng sự trợ giúp của Chính phủ từ trương trình mục tiêu Quốc gia về xoá đói giảm nghèovà các chính sách hỗ trợ khác. Chuẩn nghèo quốc gia lúc đầu Bộ lao động Thương binh và xã hội xây dựng trên cơ sở nhu cầu chi tiêu, sau chuyển sang chi tiêu thu nhập. Đến nay chuẩn nghèo quốc gia được xây dựng qua 5 giai đoạn. Giai đoạn 1993-1995 Hộ đói: Bình quân thu nhập đầu người qui gạo/tháng dưới 13 kgở thành thị và 8 kg ở nông thôn Hộ nghèo: Bình quân thu nhập đầu người qui gạo/tháng dưới 20 kg đối với thành thị và dưới 15 kg đối với khu vực nông thôn. Giai đoạn 1995-1997 Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một tháng qui gạo dưới 13 kg tính cho mọi vùng Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập Vùng nông thôn miền núi, hải đao dưới 15 kg/người /tháng Vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20 kg/người/ngày Vùng thành thị dưới 25 kg/người/tháng Giai đoạn 1997- 2000 Hộ đối Là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một tháng qui gạo dưới 13 kg tương đương 45 ngàn đồng Hộ nghèo là hộ có thu nhập tuỳ theo tường vùng ở các mức tương ứng như sau Vùng nông thôn miền núi, hải đảo dưới 15 kg/người/thàng (ương ứng với 55 ngàn đồng) Vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20 kg/người/táng (ương ứng với 70 ngàn đồng) Vùng thành thị dưới 25kg/ngươig,/tháng (tương đương 90 ngàn đồng) Giai đoạn 2001-2005: Mức chuẩn xác định nghèo đói chung cho các vùng trong cả nước tại Quyết định số: 1143/2000/QĐ-LĐTB&XH ngày 01/11/2000 của Bộ LĐTB&XH quy định theo mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn mức dưới đây là nghèo. - Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo : 80.000.000đồng/người/tháng - Vùng nông thôn đồng bằng : 100.000.000đồng/người/tháng - Vùng thành thị : 150.000.000đồng/người/tháng Căn cứ tình hình phát triển kinh tế - xã hội và kết quả chương trình XĐGN, các tỉnh thành phố có thể nâng mức chuẩn nghèo lên với ba điều kiện: + Thu nhập trung bình của người dân địa phương cao hơn thu nhập trung bình của cả nước. + Tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo cả nước. + Có đủ nguồn lực hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo. Vì vậy, ở mỗi địa phương tuỳ tình hình thu nhập trên địa bàn mà đưa ra các chuẩn mực khác nhau về nghèo đói. Ví dụ: thành phố Hồ Chí Minh đưa ra chuẩn mực nghèo là thu nhập bình quân tính trên đầu người một năm là 2,5 triệu đối với nông thôn và 3 triệu đối với thành thị, như vậy người nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh lại là có thể trở thành người giàu ở một số vùng khác. Giai đoạn 2006-2010: - Chuẩn nghèo Đối với khu vực nông thôn: thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/ tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo Đối với khu vực thành thị: thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/ tháng (3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo . Chuẩn nghèo chung của Hà Nội Giai đoạn 2001-2005: Theo Quyết định số: 6303/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội thì chuẩn nghèo chung giai đoạn 2001-2005 được xác định ở hai mức. - Đối với khu vực thành thị (bào gồm cả thị xã, thị trấn): 170.000 đồng - Đối với khu vực nông thôn: 130.000 đồng Giai đoạn 2006-2010: Trên cơ sở Quyết định số: 6673/QĐ-UB ngày 28/9/2005 của UBND thành phố Hà Nội phê duyệt chuẩn nghèo, chuẩn cận nghèo giai đoạn 2006-2010 được xác định: - Chuẩn nghèo Đối với khu vực thành thị: thu nhập bình quân từ 350.000 đồng/người/ tháng trở xuống là hộ nghèo Đối với khu vực nông thôn: thu nhập bình quân từ 270.000 đồng/người/ tháng trở xuống là hộ nghèo - Chuẩn cận nghèo Đối với khu vực thành thị: thu nhập bình quân từ 350.000 đồng/người/ tháng đến 500.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo Đối với khu vực nông thôn: thu nhập bình quân từ 270.000 đồng/người/ tháng đến 400.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo. - Chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê Tổng cục Thống kê đã cùng với Ngân hàng Thế giới xây dựng chuẩn nghèo với mục tiêu đánh giá tác động của các chính sách xoá đói giảm nghèo quốc gia đồng thời từng bước đi đến xây dựng chuẩn nghèo quốc gia gần với chuẩn nghèo quốc tế và khu vực. Chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê bao gồm chuẩn nghèo về lương thực, thực phẩm đó là chi phí cần thiết để mua giỏ lương thực, thực phẩm cung cấp đủ lượng calo tối thiểu cần thiết cho mỗi người là 2100 calo/người/ngày và chuẩn nghèo chung đưỡcác định bằng cách tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm cộng với chuẩn nghèo về lương thực, thực phẩm. Chuẩn nghèo naỳy được xây dựng thông qua cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam năm 1992-1993 và năm 1997-1998. 1.2. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèo ở Niệt Nam 1.2.2. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo 1.1.2.1 Đặc điẻm của nghười nghèo - Nhân khẩu học Người nghèo phổ biến thuộc những hộ có quy mô gia đình lớn nhưng chỉ một, hai thế hệ trong gia đình, mỗi hộ có rất nhiều con và tuổi còn nhỏ, các cặp vợ chồng trẻ hoặc đang tuổi sinh đẻ lại không thực hiện được kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) trong lúc sản xuất của gia đình rất kém phát triển. -Trình độ văn hoá của chủ hộ Trong các hộ nghèo số chủ hộ có trình độ phổ thông trung học (PTTH) trở lên rất ít, chủ yếu chỉ có trình độ từ phổ thông cơ sở (PTCS) trở xuống, thậm chí có nhiều chủ hộ còn mù chữ. Người nghèo cơ bản không được đào tạo nghề, đây là điều đáng lo ngại nhất với người nghèo và là mối quan tâm của toàn xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê điều tra năm 1998 thì tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên và sự chênh lệch học vấn giữa người giàu và người nghèo là khá rõ ràng. - Đặc điểm về tài sản, nhà ở, đời sống tinh thần Mức độ chênh lệch giữa hộ nghèo và hộ giàu không những chỉ biểu hiện ở thu nhập hay chi tiêu mà còn thấy ở sự gia tăng khá nhanh khoảng cách về mức độ mua sắm tài sản, phương tiện phục vụ sản xuất và đời sống tinh thần, đa số các hộ nghèo và người nghèo còn gặp rất nhiều khó khăn. Kết quả điều tra năm 1993 của Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (NN&CNTP) về tình trạng giàu nghèo trong nông thôn cho thấy: "Nhà ở của hộ nghèo còn đơn sơ, chỉ có 15,70% số hộ có nhà ngói, 72% số hộ còn ở nhà tranh vách đất, 11,7% số hộ còn ở lều tạm. Đồ dùng trong sinh hoạt còn qúa thiếu thốn, bình quân mỗi hộ có 1 chiếc giường gỗ hoặc tre, 0,3 chiếc xe đạp. Tại thời điểm này các hộ nghèo trong số hộ điều tra không có ti vi, xe máy. Về tư liệu sản xuất, bình quân 10 hộ mới có 01 con trâu hoặc bò, ngay cả cày, bừa còn thiếu". Kết quả điều tra năm 1998 của Tổng cục Thống kê cho thấy nhóm nghèo đã có cải thiện về mặt nhà ở rất đáng kể so với năm 1993, nhưng tỷ lệ hộ nghèo ở nhà bán kiên cố vẫn còn cao (17,75) và (33,51%), nhà tạm. Tuyệt đại các hộ nghèo ở nông thôn hiện còn đang ở nhà bán kiên cố và nhà tạm. Người nghèo dễ bị tổn thương Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo thể hiện ở chỗ: những khó khăn đột biến, rủi ro đến với gia đình, những cuộc khủng khoảng xảy ra đối với cộng đồng,… thường gây thiệt hại rất lớn đối với những người đói nghèo, đó là nét đặc trưng rất cơ bản của các xã hội khác nhau. Những hộ gia đình nghèo chỉ có khả năng trang trải ở mức độ hạn chế, tối thiểu các chi phí lương thực và nhu cầu thiết yếu khác, họ rất dễ bị tổn thương trước các yếu tố khác xảy ra, họ thường phải bỏ thêm chi phí không đáng có hoặc bị giảm thu nhập vì khó tiếp cận các cơ hội của tăng trưởng kinh tế. Đối với hộ nghèo khi có một thành viên của gia đình bị ốm đau thì đó là một sự cố nghiêm trọng, mà các hộ nghèo thường có người đau yếu do mức sinh hoạt thấp, vì vậy cuộc sống của các hộ nghèo thường gặp rất nhiều khó khăn. 1.2.2.2. ý nghĩa của xoá đói giảm nghèo - Xoá đói giảm nghèo đối với phát triển kinh tế Nghèo đói đi liền với lạc hậu, chậm phát triển là trở ngại lớn cản trên con đường phát triển kinh tế của mỗi vùng cũng như của các quốc gia.Qua nghiên cứu thực tế và tổng kết các công trình nghiên cứu của các tác giả về XĐGN chúng ta thấy đói nghèo là một lực. Trên góc độ cá nhân và gia đình thì tình trạng nghèo đói tạo thành một vòng luẩn quẩn là: Nghèo đói -> trình độ văn hoá thấp -> thu nhập thấp -> ăn uống không đầy đủ -> sức khoẻ kém -> năng suất lao động thấp -> làm không đủ ăn -> vay mượn, nợ nần chồng chất -> nghèo đói; cứ quấn lấy những người nghèo mà họ không biết phá vỡ mắt xích nào để thoát ra được. Trên góc độ vùng hay quốc gia thì vòng luẩn quẩn là: Các hoạt động kinh tế - xã hội Nhìn vào đó ta có thể thấy rằng nghèo đói có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự hưng, thịnh của quốc gia, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau cho Đối với nước nghèo, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm sẽ không có vị thế khi đàm phán kí kết với các nhà đầu tư nước ngoài và sẽ không đủ khả năng tiến hành những hoạt động mang lại phần lợi nhuận cao như buôn bán và dịch vụ ngân hàng. Hơn thến nữa, Nước nghèo chịu sự áp đặt của nước giầu, nước phát triển trong quan hệ hợp tác kinh tế. Từ sợ thua thiệt về kinh tế đã ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoạicủa các nước trên chính trường quốc tế. Tiếg nói và vai trò của của nước nghèo trên diễn đàn quốc tế ít được chú ý. Đối với chính trị xã hội Nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt xã hội chính trị. Các tệ nạn xã hội phát sinh, đạo đức bị suy đồi, an ninh xã hội không được đảm bảo có thể dấn đến rối loạn xã hội. Nếu giải quyết không thành công XĐGN sẽ không thực hiện được công bằng xã hội nói chung. Như vậy mục tiêu phát triển, phát triển bền vững của xã hội không thực hiện được. Đối với các vấn đề văn hóa Từ nghèo đói về kinh tế dẫn đến nghèo đói về văn hoá. Đay là một chướng ngại vật đối với phát triển của cả cộng đồng, kìm hãm sự phát triển xã hội. Nếu giải quyết được nghèo đói về kinh tế mà văn hoá và tinh thần không được chú trọng sẽ dẫn tới chủ nghĩa thực dụng sùng bái vật chất, làm biến dạng cái thiện, cái chân, cái mỹ. Đói nghèo về kinh tế dễ nhận thấy ít ai coi thường nó, nhưnh đói nghèo về kinh tế, khó nhận thấy hơn và rễ rơi vào nhận thức muộn màng, có khi phải trả giá. 1.3. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của một số nước, tổ chức quốc tế trên thế giới và một số địa phương của Việt Nam 1.3.1. Kinh nghiệm của một số tổ chức quốc tế Cuộc đấu tranh tấn công nghèo đói đang là vấn đề toàn cầu rất cấp bách của xã hội loài người, là nhiệm vụ quan trọng của tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay. Chính vì thế, XĐGN trước tiên là thuộc về trách nhiệm của Chính phủ các nước, bên cạnh đó các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) giữ những vai trò quan trọng hỗ trợ, giúp các quốc gia giảm bớt gánh nặng nghèo đói. Biện pháp quan trọng được các tổ chức quốc tế thường dùng là chu cấp các khoản vay có gắn với các điều kiện giải ngân theo các chương trình XĐGN. Đây là một biện pháp trực tiếp và có nhiều yếu tố tích cực nên hạn chế được lãng phí và tham nhũng của các quan chức trung gian. Tiếp theo là những nỗ lực của các quốc gia công nghiệp phát triển, Hội nghị thượng đỉnh RIO năm 1992 đã đề ra một công ước chung, theo đó viện trợ p._.hát triển cho các quốc gia nghèo thuộc thế giới thứ 3 cần phải chiếm ít nhất 0,7% tổng sản phẩm xã hội của các quốc gia công nghiệp phát triển với một mục tiêu đóng góp vào việc giảm số người nghèo trên thế giới. Một biện pháp nữa là tập trung vào các giải pháp giãn nợ, giảm nợ đối với những quốc gia rơi vào cảnh nghèo đói đến nỗi mất khả năng trả nợ. Trong số các sự kiện liên quan đến việc này, trước hết phải kể đến các hội nghị thường niên của WB và IMF về xử lý nợ cho các nước nghèo, các câu lạc bộ như: Câu lạc bộ Luân Đôn, Pari tại hội nghị ở Oa-Sinh-Tơn tháng 10/1996 đã quyết định giảm ít nhất 5,6 tỷ USD nợ của khoảng 20 nước nghèo nhất thế giới và đến những năm gần đây con số giảm nợ đã lên đến hàng chục tỷ USD. Các biện pháp thường giải quyết những vấn đề phát sinh lớn như: bảo hiểm, thiết lập một hệ thống can thiệp của các công ty bảo hiểm và Nhà nước vào những thiệt hại lớn do thiên tai gây ra. Ngoài ra, còn có hoạt động của các tổ chức nhân đạo như Hội chữ thập đỏ quốc tế, UNICEP…cũng thường tổ chức các hoạt động nhân đạo, tiêm chủng mở rộng, cung cấp nước sạch, hướng các hoạt động vào người nghèo, lấy người nghèo làm trung tâm, đối tượng để triển khai các dự án hỗ trợ và giúp đỡ. 1.3.2. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới * Tuy-Ni-Di: Trong 25 năm cuối của thế kỷ XX Tuy - Ni - Di đã tăng GDP lên gấp đôi, không những thế còn giảm được mức tăng dân số xuống dưới 2% /năm, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp. Người đói nghèo ở Tuy - Ni - Di được hưởng trợ cấp lương thực từ Chính phủ, theo quan điểm của Chính phủ Tuy - Ni - Di việc duy trì chính sách trợ cấp lương thực cho người nghèo đói là mục tiêu lâu dài chưa thể xoá bỏ ngay được, điều đó xuất phát từ nhu cầu thiết thực nhằm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế. Các chính sách cải cách kinh tế của Chính phủ đều gắn liền với các chương trình kinh tế - xã hội, và chính sách xã hội đã thực sự có những tác động tích cực trở lại. Chẳng hạn, do phát triển y tế và giáo dục mà nguồn nhân lực được cải thiện, do chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nên kinh tế có điều kiện phát triển khắp các vùng nông thôn đến thành thị, thực thi có hiệu quả những chính sách nhằm hướng tới nâng cao mức sống cho người nghèo. Chính vì vậy mà bộ máy lãnh đạo chính trị nhận được sự ủng hộ của nhân dân, họ tích cực tham gia vào các chương trình hành động của Chính phủ. Nhờ đó Nhà nước truyền thống của Tuy - Ni - Di vẫn duy trì ổn định, phát huy tốt hiệu lực, giảm tỷ lệ tham nhũng. * Hàn Quốc: Trước những năm 60 Hàn Quốc có xuất phát rất nghèo về vốn, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ, khi thực hiện các chính sách chiến lược phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu, các chính sách ấy hứa hẹn rằng đói nghèo sẽ được loại bỏ trong quá trình tăng trưởng GDP. Kết quả là Hàn Quốc đã đạt mức tăng trưởng GDP kỷ lục khoảng 9%/năm trong suốt thời kỳ 1962-1988, bình quân GDP/người của Hàn Quốc năm 1988 là 4.127USD. Riêng lĩnh vực nông nghiệp trong thời kỳ đó cũng có tốc độ tăng trưởng khá cao khoảng 5,3%/năm. Và nếu căn cứ chuẩn nghèo tuyệt đối của Hàn Quốc cho các hộ dân là 525 USD/năm thì tỷ lệ hộ nghèo đói năm đó đã giảm xuống còn 6,5% so với 33,7% năm 1967. * Thái Lan: Từ những năm 80 đến nay, Thái Lan áp dụng mô hình phát triển chính sách quốc gia gắn liền với chính sách phát triển nông thôn thông qua việc hình thành và phát triển xí nghiệp ở làng quê nghèo, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, mở rộng trung tâm dạy nghề ở nông thôn để giảm bớt nghèo khổ với sự hoạt động của: Ban phát triển nông thôn (IBIRD), Tổ chức hiệp hội dân số và phát triển cộng đồng (CDA). Theo báo cáo trình Chính phủ tháng 6/2003 của Uỷ ban quốc gia phát triển kinh tế - xã hội (NESDP) năm 2001 Thái Lan vẫn còn 8,2 triệu người nghèo, 80% số này sống ở nông thôn. Tháng 11/2003 Chính phủ Thái Lan công bố kế hoạch 6 năm xoá đói nghèo, theo đó Thái Lan hướng quan tâm vào nông nghiệp, nông thôn và thị trường nội địa. Thực hiện chương trình "Mỗi làng một sản phẩm" Chính phủ đang tìm kênh phân phối, lưu thông hàng hoá giúp nông dân tiệu thụ sản phẩm. Theo kế hoạch này, bước đầu 8 trong 76 tỉnh được chọn để thí điểm, người dân tại đó được yêu cầu đăng ký và trình bày hoàn cảnh để các cơ quan chức năng xem xét, hỗ trợ. Tạm thời, việc giải quyết dự kiến phân theo bảy nhóm: nông dân không có đất, người không có nhà ở, người làm ăn bất chính, nạn nhân từ những vụ bị lừa đi lao động nước ngoài, sinh viên hoàn cảnh gia đình khó khăn, người vị vỡ nợ và người thu nhập thấp thiếu nhà ở. * ấn Độ: Một chương trình nổi bật trong việc XĐGN của ấn Độ là xây dựng các làng sinh học trên cơ sở tư tưởng: "Thay vì ban phát lương thực cho người nghèo, Chính phủ và các tổ chức hãy tạo điều kiện cho mọi người có thể kiếm được miếng bánh hàng ngày của họ". Chương trình này được thực hiện từ năm 1994 tại 19 làng của PONDICHERI bang TAMIL NUDU và hiện nay thu hút được 24.000 người (mục tiêu của chương trình này đến năm 2007 thu hút được 375.000 người), một trong những phương hướng của chương trình là nông nghiệp sinh thái, nghĩa là các hoá chất vốn là trụ cột của nền nông nghiệp hiện đại được thay thế bằng kiến thức và các tài nguyên sinh học và thuốc diệt trừ sâu bệnh sinh học. Những hoạt động này góp phần tạo ra những việc làm có nội dung sinh học, cũng như việc buôn bán các sản phẩm. Các gia đình lựa chọn những nguồn thu nhập mới tuỳ theo hoàn cảnh của họ, những người không có đất thì lựa chọn việc trồng nấm, nuôi cá cảnh hoặc các loài nhai lại nhỏ, hay bện thừng sợi dừa. Những gia đình có chút đất đai thì sản xuất các loại giống lai, làm vườn, sản xuất sữa, chăn nuôi gia cầm, phụ nữ nuôi trong cá trong các ao làng. Tất cả các hoạt động này được lên kế hoạch thật sát với nhu cầu của mỗi người và được hỗ trợ bằng khoản tín dụng nhỏ bé. Việc có nhiều hoạt động như vậy đã giúp người dân ở các làng sinh học nâng cao thu nhập hàng tháng, trung bình 23USD/người. Giáo dục và đào tạo, tổ chức xã hội và thương mại đều có phương hướng hỗ trợ người sản xuất và đó là những yếu tố quan trọng bậc nhất để chương trình thành công. Các nhóm tương trợ mở những ngân hàng nhỏ ở cấp xã với chi phí giao dịch thấp và lãi xuất tiền gửi ngân hàng cao. Một điều chủ yếu là các làng sinh học được tổ chức theo nguyên tắc thu nạp chứ không theo nguyên tắc loại trừ. Những ai trở thành cán bộ đào tạo được đưa vào nhóm chuyên môn của làng. Phần lớn những người này không biết chữ hoặc chỉ biết chút ít, thế nhưng họ đều là những nhân vật chính của phong trào. Họ cho thấy người nghèo vẫn có thể làm chủ kỹ thuật mới, một khi họ có cơ hội học tập qua công tác thực tế. 1.3.3. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của một số địa phương trong nước * Lâm Đồng: Công tác XĐGN ở Lâm Đồng được đặt ra từ rất sớm trước tình hình đời sống của đồng bào dân tộc còn gặp rất nhiều khó khăn. Hàng năm, phải cứu đói giáp hạt do thiên tai, hoặc phải cứu trợ đột xuất, thường xuyên trên 1.000 hộ. Ngay cả các hộ là người Kinh cũng ít có cơ hội vượt lên cảnh đói nghèo do thiếu vốn, thiếu đất sản xuất hoặc do thiếu kinh nghiệm làm ăn, tổ chức cuộc sống. Ngày 13/5/1993, Thường vụ tỉnh uỷ Lâm Đồng đã ra Nghị quyết số: 07 đề ra nhiệm vụ XĐGN trên phạm vi toàn tỉnh; từ đó các cấp, các ngành đã tiến hành điều tra, xác định hộ nghèo, phân tích nguyên nhân và đưa ra nhiều giải pháp tác động, hỗ trợ hộ nghèo đói vươn lên làm giàm. Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết số 07 của tỉnh uỷ, số hộ đói nghèo của tỉnh từ 31.495 hộ năm 1993 chiếm 20,64% số hộ dân toàn tỉnh giảm xuống còn 21.900 hộ bằng 12,73% năm 2000 còn 15.000 hộ bằng 8,3%. Kết quả đó đã nói lên sự cố gắng lớn của Đảng bộ và nhân dân Lâm Đồng trong việc nâng cao mức sống cho hộ nghèo. Song song với việc khuyến khích và tạo điều kiện làm giàu chính đáng thì việc nâng cao mức sống các hộ nghèo đã góp phần ngăn chặn sự phân hoá làm cho khoảng cách giàu nghèo hẹp lại để mọi người trong xã hội đều có cơ hội tham gia xây dựng cuộc sống, xây dựng quê hương. * Kỳ Anh - Hà Tĩnh: Huyện Kỳ Anh nằm ở phía Nam tỉnh Hà Tĩnh, trước đây được nhiều người biết đến bởi sự nghèo nàn, lạc hậu. Gần đây đã có những chuyển biến đáng mừng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 10-12%, bình quân thu nhập đầu người đạt 3,1 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo còn 20,4%, không còn hộ đói. Khi nhìn lại những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước tỷ lệ đói nghèo trên địa bàn chiếm hơn 70% số dân. Thời đó, với nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, trong khi diện tích canh tác ít, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng thấp kém, để đưa nhân dân thoát khỏi đói nghèo thực sự là một thử thách lớn đối với Đảng bộ, chính quyền địa phương. Cuộc sống mới được đánh dấu bằng một mốc son khi Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện thống nhất đề ra Nghị quyết về công tác XĐGN vào năm 1993. Bắt tay vào công việc với đầy khó khăn, huyện tiến hành tổng mức điều tra mức sống của dân, tổ chức cho cán bộ đi tham quan, học tập kinh nghiệm các mô hình phát triển kinh tế hiệu quả trên cơ sở đó vận dụng vào thựuc tiễn của địa phương. Huyện từng bước tiếp cận người nghèo, xây dựng một số mô hình XĐGN và đã tạo được sự ủng hộ của Trung ương, của tỉnh và của các tầng lớp nhân dân. Từ những kinh nghiệm đúc rút được, huyện tập trung nhiều nguồn lực, tạo điều kiện về vốn, nâng cao kiến thức làm ăm cho nhân dân, nhất là các hộ nghèo, đồng thời đẩy mạnh việc nhân rộng mô hình, biểu dương các tập thể, cá nhân làm kinh tế giỏi trong huyện. Với những kinh nghiệm và bài học có được từ hơn 10 năm nay chính quyền huyện đã nhận thức sâu sắc công cuộc XĐGN là phải biết phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, mở rộng ngành nghề, đồng thời tranh thủ tốt sự hỗ trợ, đầu tư từ các ngùôn lực bên ngoài. Xuất phát từ quan điểm đó, huyện đã xây dựng cụ thể các chương trình, mục tiêu, xác định rõ các vùng kinh tế trọng điểm trên cơ sở thế mạnh của từng vùng, đồng thời tập trung thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng kinh tế nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Theo đó, vùng đồng bằng ven quốc lộ 1A tập trung thâm canh lúa, phát triển dịch vụ sau thu hoạch và chăn nuôi lợn, vùng núi phát triển kinh tế vườn đồi, cải tạo vườn tạp, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày kết hợp với chăn nuôi trâu bò, vùng ven biển khai thác thế mạnh nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các tổ hợp, cơ sở chế biến, vùng trung tâm phát triển các ngành nghề, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp gắn với khu công nghiệp cảng biển Vũng áng. Với những cố gắng nỗ lực của cán bộ và nhân dân huyện Kỳ Anh, trong 2 năm (2001-2002) huyện đã xét miễn giảm thuế nông nghiệp cho gần 17.000 lượt hộ nghèo, miễn giảm học phí cho 8.150 học sinh là con em các hộ nghèo, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 7.000 hộ. Năm 2003 thu nhập bình quân đầu người đạt gần 3,7 triệu đồng, các hoạt động văn hoá, giáo dục có nhiều chuyển biến, an ninh quốc phòng được giữ vững ổn định. * Thọ Xuân - Thanh Hoá: Huyện Thọ Xuân là một trong 4 huyện của vùng mía đường Lam Sơn, trước đổi mới đời sống của nhân dân hết sức khó khăn. Từ khi có đường lối đổi mới của Đảng cùng với sự mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi nên kinh tế và đời sống của nhân dân trong huyện ngày càng khởi sắc. Có được kết quả ấy là do huyện xác định đúng lợi thế tiềm năng của vùng là: - Vùng đồng bằng tập trung thâm canh cây lương thực dựa trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, phát triển các ngành nghề truyền thống gắn với công nghiệp chế biến và dịch vụ. - Vùng trung du, miền núi ngoài việc phát triểm mạnh mẽ cây công nghiệp, tập trung phát triển cây mía đồi tạo thành vùng nguyên liệu lớn cung cấp cho nhà máy đường, đồng thời tăng số lượng đàn trâu bò hàng hoá, phát triển cây công nghiệp ngắn ngày phục vụ công nghiệp chế biến. Sau khi thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đời sống nhân dân được nâng lên một cách rõ rệt lương thực bình quân đầu người đạt 425kg/năm, ngoài ra chăn nuôi và các ngành nghề cũng rất phát triển. * Lục Ngạn - Bắc Giang Là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, có diện tích đất tự nhiên lớn nhất tỉnh (101.000 ha), trong đó đất nông nghiệp chỉ có 15%, đất lâm nghiệp 54% còn lại là đất khác. Trước những năm 1992 chưa có chính sách giao đất đến hộ, đời sống nhân dân cự kỳ khó khăn, trình độ dân trí thấp, lương thực không đủ ăn, trong khi đó tỷ lệ tăng dân số vẫn giữ ở mức 3,6%/năm, trình độ sản xuất thấp, phong tục tập quán lạc hậu, tỷ lệ nghèo đói cao. Sau những năm đổi mới, ruộng đất và rừng được giao đến hộ và Lục Ngạn đã xác định được cây trồng nên đã mạnh dạn chuyển từ cây lương thực là chính sang cây ăn quả và cây lâm nghiệp. Vì vậy tỷ lệ XĐGN trong huyện có tốc độ nhanh hơn, từ 52% năm 1992 xuống còn 27% năm 1997, đến năm 1998 còn 17,1%. Sau mỗi vụ thu hoạch vải thiều nhân dân có tiền, ngoài việc đầu tư lại cho mở rộng sản xuất và thâm canh, còn đầu tư xây dựng nhà cửa, mua sắm ô tô, xe máy và các trang thiết bị cho gia đình. Đến năm 1999 toàn huyện chỉ còn 9-10 hộ nghèo, ước đến năm 2000 chỉ còn 3% hộ nghèo. 1.3.4. Một số kinh nghiệm chung về công tác xoá đói giảm nghèo Nghèo đói đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và đưa ra nhiều hội thảo nhằm làm rõ hơn tác động tiêu cực của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trên thế giới. Đối với thực trạng đói nghèo và các giải pháp XĐGN của Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu như: Dự án ngân hàng Grameen của giáo sư Muhamad Yunus trường Đại học Chittagong; Gini và Lore, Lên Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân Đình- Nghèo đói và XĐGN ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội 2001, Lương Hồng Quang - văn hoá của nhóm nghèo ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, Nxb văn hoá - thông tin Hà Nội 2001, Trần Thị Lan Hương - tác động của phân tầng mức sống vào quá trình phát triển văn hoá nông thôn, Nxb văn hoá thông tin Hà Nội 2000 và nhiều công trình nghiên cứu đã đăng trên các tạp chí khác. Mô hình tín dụng của giáo sư Muhamad được thành lập từ 1976, đến nay đã có trên 100 nước tham gia áp dụng mô hình này. Đối với mô hình này thì đối tượng vay của ngân hàng là những người nghèo nhất ở các khu vực nông thôn của các quốc gia. Phương thức hoạt động của ngân hàng là thành lập chi nhánh ngân hàng xuống tới các làng, xã và các bộ ngân hàng phải tiếp xúc trực tiếp với người nghèo bằng cách phỏng vấn, hướng dẫn cách sử dụng vốn vay. Những người nghèo hình thành các nhóm để vay và chỉ có 02 người được vay trong một lượt, sau 6 tuần nếu 2 người vay trả đủ cả lãi và gốc thì 2 thành viên tiếp theo mới được vay. Số tiền vay dành vào việc xây dựng nhà, mua nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, lắp đặt ống nước,... ưu điểm của phương thức này là số tiền vay nhỏ, không cần thế chấp mà chỉ cần dựa vào uy tín của nhóm vay, lãi suất thấp, thời hạn vay ngắn nên người vay có trách nhiệm hoàn trả vốn vay. Mặt khác, nếu không trả đúng thời hạn thì thành viên khác không được vay nên các nhóm vay sẽ giúp đỡ nhau trong việc sử dụng vốn đúng mục đích. Tuy nhiên, mặt hạn chế của phương pháp này là: + Số tiền vay nhỏ, thời gian ngắn nên người nghèo khó có thể mở rộng được sản xuất đặc biệt là các vùng khó khăn. + Nếu lượt người vay trước không trả đúng hạn thì các thành viên còn lại của nhóm sẽ không được vay. Nếu chúng ta muốn đánh giá được sự bất bình đẳng trong xã hội thì phải dựa vào hệ số Gini, khi nhìn vào hệ số đó ta có thể biết được tình trạng nghèo khổ của một vùng hay của một quốc gia như thế nào. Tuy nhiên, hệ số này chỉ có tính tương đối chứ chưa phản ánh đúng được mức độ đói nghèo vì trên thế giới hiện nay, ngoài các tiêu chú trước kia còn có thêm tiêu chí chỉ số chất lượng cuộc sống và chỉ số phát triển con người. Đối với tập thể tác giả Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân Đình đã có các kết luận sau: + Đưa ra được những mặt ưu, nhược của các tổ chức về cách đánh giá nghèo đói theo từng tiêu chú của các tổ chức đó. + Các tác giả đã tính điểm các nguyên nhân theo các vùng nên đã xếp hạng được chính xác nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đói nghèo của tỉnh Quảng Bình, theo cách đó chúng ta có thể tiến hành ở các địa phương khác và có các giải pháp phù hợp cho từng vùng. + Đưa ra một số mô hình thoát nghèo bằng cách sử dụng đúng thế mạnh của gia đình với sự giúp đỡ của cộng đồng. Theo quan điểm của chúng tôi thì tập thể tác giả còn chưa đánh giá được mức độ phân hoá giàu nghèo của địa bàn nghiên cứu, trong khi phân cơ sở lí luận các tác giả đã đưa vào các công thức đánh giá bất bình đẳng của Gini và Loren. Về mặt văn hoá của nhóm người nghèo thì tác giả Lương Hồng Quang đã cho rằng nghèo khổ và văn hoá của nhóm nghèo có liên quan tới các vấn đề thuộc phạm trù văn hoá của nhóm nghèo đóng khung trong một khu vực, nó phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử. Nghiên cứu về văn hoá của nhóm nghèo tác giả chủ yếu phải dựa vào tiêu chí thu nhập bình quân, nhưng tác giả tập trung nghiên cứu tâm lý, lối sống, cách tiếp cận của họ đối với xã hội. Tác giả thấy rằng những người nghèo có trình độ văn hoá thấp hoặc mù chữ, họ thường cảm thấy cô lập, tự ti, bị tước đoạt những cái mà người khác có được, khi được trợ cấp xã hội thì dường như họ lại trông chờ ỷ lại. Tác giả cũng đưa ra được những giải pháp khoa học có tính khả thi, tuy nhiên các giải pháp đó chủ yếu là dựa vào nguồn ngân sách Nhà nước chứ chưa tập trung phát huy được tổng lực của toàn xã hội, sự tự lực của người nghèo bởi nâng cao trình độ văn hoá cho người nghèo cần phải có một hời gian dài. Tác giả cho rằng, muốn xoá được tận gốc của cái nghèo và có tính bền vững thì phải nâng cao văn hoá cho người nghèo vì khi con người có tri thức thì họ tiếp cận được với thế giới bên ngoài và tiếp thu khoa học kỹ thuật nhanh đặc biệt là trong việc sản xuất kinh doanh. Đối với công trình nghiên cứu: tác động của phân tầng mức sống vào quá trình phát triển văn hoá nông thôn thì Trần Thị Lan Hương cho rằng, việc phân tầng mức sống có ảnh hưởng rất lớn đến nhịp độ phát triển kinh tế đặc biệt là vùng nông thôn (vùng có tỷ lêh người nghèo cao). Theo kết quả nghiên cứu của tác giả thì hạn chế khoảng cách phân tầng mức sống có tác dụng tích cực trong việc giảm đói nghèo bằng cách phát triển kinh tế. Theo tôi, muốn xem xét tình trạng đói nghèo như thế thế nào thì trước hết phải dựa vào từng thời kỳ lịch sử, từng vùng, từng quốc gia, khi trình độ kinh tế - xã hội phát triển cao hơn thì càng phải áp dụng tổng hợp các tiêu chí đánh giá để nhanh chóng giảm tỷ lệ đói nghèo tại vùng hoặc quốc gia đó. Chương 2 Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở huyện Sóc Sơn 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Sóc Sơn 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên – xã hội của huyện Sóc Sơn là một huyện ngoại thành của Hà Nội bao gồm 26 đơn vị hành chính, có vị trí tiếp giáp giữa đồng bằng và trung du Bắc Bộ, huyện là đầu mối giao thông đi qua các tỉnh phía Tây theo quốc lộ 2 và phái Bắc theo quốc lộ 3, phía Đông theo quốc lộ 18, có sân bay quốc tế Nội Bài, khu công nghiệp Nội Bài, trong huyện còn có khu du lịch Đền Sóc, ngoài ra trên địa bàn của huyện còn có nhiều xí nghiệp, doanh nghiệp liên doanh trong và ngoài nước đã đi vào hoạt động. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi cho phát triển kinh tế, thương mại, văn hoá, du lịch. Sóc Sơn chia thành 3 vùng sinh thái, theo địa giới hành chính thì Sóc Sơn có vị trí tiếp giáp như phía Bắc giáp huyện Phổ Yên (tỉnh Thái Nguyên); phía Đông giáp tỉnh Bắc Giang; Bắc Ninh; phía Nam giáp huyện Đông Anh; phía Tây giáp huyện Mê Linh - tỉnh Vĩnh Phúc. Mặt khác Sóc Sơn có đầy đủ đặc điểm khí hậu của vùng đồng bằng sông Hồng, nhiệt đới nóng ẩm, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500-1800mm nhưng phân bố không đều, chỉ tập trung vào mùa mưa (từ tháng 4-10), độ ẩm trung bình 80%. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau kèm theo gió rét và sương muối ảnh hưởng không tốt đến sản xuất nông nghiệp. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,50C, ngày nóng nhất lên đến 39-400C, ngày lạnh nhất xuống tới 70C. Dân số của tỉnh là trong đó lao động của huyện. Lao động nông nghiệp chiếm tổng số lao động của toàn tỉnh. Lao động được thông qua đào tạo có khoảng. Lao động chưa có việc làm còn nhiều. Trong mấy năm gần đây hệ thống điện, đường, trường, trạm của huyện đã được thành phố và UBND huyện quan tâm đầu tư cụ thể đặc biệt là hệ thống giao thông đường bộ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu với các tỉnh bạn. Sau nhiều năm đổi mới, Sóc Sơn đã thu được nhiều thành tựu quan trọng và đang cùng cả nước có những cơ hội mới trong quá trình hội nhập quốc tế. Nhiều cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng được tăng cường. Những mô hình kinh tế làm ăn có hiệu quả đang được nhân rộng, nhất là kinh tế trang trại. Tình hình an ninh, chính trị ổn định, đội ngũ cán bộ đoàn kết nhất trí. Kinh nghiệm quản lý điều hành nền kinh tế trong cơ chế thị trường đã được tích luỹ, từng bước hoàn thiện. Đây là những nhân tố tích cực tạo tiền đề cho sự phát triển trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, huyện Sóc Sơn còn gặp một số khó khăn và thách thức đó là: tăng trưởng của huyện còn chậm, kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp. Khả năng tích luỹ đầu tư phát triển chưa cao, nguồn thu ngân sách còn hạn hẹp. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Hạ tầng kinh tế-xã hội nhìn chung vẫn còn thấp, điều kiện thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài cò khó khăn. Nguồn lao động chất lượng thấp, chưa có nhiều cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh và lao động có tay nghề giỏi. 2.1.2 Tình hình phát triển kinh tế xã hội của huyện 2.1.2.1. Tình hình sử dụng đất đai Đất đai có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối sản xuất nông nghiệp và giữ một vai trò quan trọng trong chiếc lược XĐGN của huyện, góp phần tích cực trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Đối với huyện Sóc Sơn, việc sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên này là một trong những vấn đề cần quan tâm, việc chuyển đổi đất, xác lập các mô hình kinh tế đã và đang đóng góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế và XĐGN của huyện. Tình hình biến động đất đai của huyện được thể hiện qua biểu 1 như sau: biểu 1: tình hình biến động đất đai của huyện Đơn vị tính: ha Loại đất Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tăng/giảm (+/-) 05/04 06/05 06/04 1. Đất nông nghiệp (cơ cấu %) 19.178,79 62,57 18.326,65 59,79 16.950,12 55,30 -852,14 -1.376,53 -2.228,67 -Đất trồng cây hàng năm 12.396,29 11.162,64 9.413,30 -1.233,65 -1.749,34 -2.982,99 -Đất trồng cây lâu năm 1.142,04 1.187,72 1.258,98 45,68 71,26 116,94 -Đất lâm nghiệp 5.380,41 5.703,23 5.988,40 322,82 285,16 607,99 -Đất nuôi trồng thuỷ sản 260,05 273,05 289,44 13,00 16,38 29,39 2. Đất phi nông nghiệp (cơ cấu %) 10.488,82 34,22 11.537,70 37,64 13.268,36 43,29 1.048,88 1.730,66 2.779,54 3. Đất cha sử dụng (cơ cấu %) 983,69 3,21 786,95 2,57 432,82 1,41 -196,74 -354,13 -550,87 Tổng cộng 30.651,30 30.651,30 30.651,30 Qua biểu 1 cho thấy: diện tích đất tự nhiên của huyện là 30.651,3ha, bằng 1/3 diện tích đất tự nhiên của thành phố Hà Nội; Trong đó, diện tích đất nông nghiệp toàn huyện là 19.178,79ha bằng 62,57% tổng diện tích đất tự nhiên năm 2004 và giảm dần qua 3 năm do đất đai được quy hoạch để xây dựng xây bay Nội Bài, xây dựng khu chôn lấp xử lý chất thải sinh hoạt Nam Sơn, đường quốc lộ 18, sân gôn Minh trí, các dự án khác. Trong thời gian qua diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm mạnh, qua 3 năm tổng diện tích đất trồng trọt hàng năm giảm từ 12.396,29 ha năm 2004 xuống còn 9.413,30 ha năm 2006. Diện tích đất trồng cây hàng năm sẽ còn giảm mạnh vào cuối năm 2006 do nhà nước thu hồi để đầu tư các dự án trên địa bàn. Đất lâm nghiệp qua 3 năm tăng 607,99 ha do chính sách giao đất, giao rừng của huyện đến hộ nông dân. Trong tổng số 5.988,40 ha đất lâm nghiệp của toàn huyện có hơn 1.000 ha cây ăn quả các loại (chủ yếu là vải thiều, nhãn, hồng nhân hậu và xoài), năm 2004-2005 toàn huyện đã trồng mới 200 ha cây ăn quả theo chương trình 05 triệu ha rừng của cả nước. Diện tích đất chưa sử dụng đã giảm 550,87 ha do các địa phương đã mạnh dạn cho các hộ dân đấu thầu phát triển kinh tế trang trại, tuy nhiên toàn huyện vẫn còn 432,82ha đất hoang hoá, thùng đào, thùng đấu. Vì vậy chính quyền và nhân dân toàn huyện phải có kế hoạch đầu tư, khai thác số diện tích trên đưa vào sử dụng tạo đà thúc đẩy nền kinh tế của huyện ngày càng phát triển. Qua một số chỉ tiêu bình quân cho thấy: đất nông nghiệp/hộ nông nghiệp; đất nông nghiệp /khẩu nông nghiệp ngày càng giảm, trung bình hàng năm giảm %. Với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - du lịch, dịch vụ - nông nghiệp (thay cho cơ cấu thời kỳ trước: nông nghiệp - dịch vụ, du lịch - công nghiệp) thì đây là tín hiệu tốt phát triển kinh tế - xã hội và cũng là thách thức lớn đối với sản xuất nông nghiệp của địa phương. 2.1.2.2. Tình hình dân số và lao động của huyện Lao động là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế của từng vùng cũng như của từng quốc gia. Nhìn vào tình hình phát triển nguồn lao động cũng như cơ cấu lao động trong từng ngành mà người ta có thể đánh giá được tình hình kinh tế của một vùng hay một quốc gia. Đối với một huyện vùng ven thủ đô như Sóc Sơn việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ cao đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thị trường lao động như hiện nay là một việc rất khó khăn. Vì vậy, với thực lực hiện có và với xu thế cần xây dựng, phát triển các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, Sóc Sơn cần nghiên cứu đào tạo lao động cơ bản phục vụ các khu công nghiệp trên địa bàn. Tình hình dân số, lao động của Sóc Sơn trong 3 năm từ 2004-2006 được thể hiện qua biểu 2: biểu 2: tình hình biến động dân số và lao động của huyện Chỉ tiêu ĐVT 2004 2005 2006 Tốc độ phát triển (%) Số lượng Cơ Cấu (%) Số lượng Cơ Cấu (%) Số lượng Cơ Cấu (%) 02/01 03/02 Bình quân A. Tổng số dân toàn huyện người 260.943 100,000 265.914 100,000 269.802 100,000 101,019 101,015 101,017 a. Khẩu nông nghiệp người 215.234 82,483 215.681 81,109 213.562 79,155 101,002 100,990 100,996 b. Khẩu phi nông nghiệp người 45.709 17,517 50.233 18,891 56.240 20,845 101,099 101,120 101,109 1. Tổng số hộ Hộ 57.248 100,00 57.548 100,00 58.012 100,00 101,005 101,008 101,007 31 a. Hộ nông nghiệp Hộ 48.432 84,600 48.225 83,800 47.059 81,120 100,996 100,976 100,986 b. Hộ phi nông nghiệp Hộ 8.816 15,400 9.323 16,200 10.953 18,880 101,057 101,175 101,116 2. Tổng số lao động Hộ 126.456 100,00 127.231 100,00 127.967 100,00 101,006 101,006 101,006 a. Lao động nông nghiệp L.động 102.682 81,200 99.647 78,320 96.794 75,640 100,970 100,971 100,971 b. Lao động phi nông nghiệp L.động 23.774 18,800 27.584 21,680 31.173 24,360 101,160 101,130 101,145 B. Một số chỉ tiêu BQ 1. BQ nhân khẩu/hộ người/hộ 4,558 4,621 4,651 101,014 101,007 101,010 2. BQ lao động/hộ L.động/hộ 2,209 2,211 2,206 101,001 100,998 100,51 Biểu 2 cho chúng ta thấy, Sóc Sơn có 57.603 hộ với 265.553 nhân khẩu, trung bình một hộ có 4,61 nhân khẩu; trong đó số nhân khẩu sản xuất nông nghiệp chiếm 80,90%. Toàn huyện có 127.218 lao động trong đó, lao động nông nghiệp chiếm đa số với 78,37%, lao động phi nông nghiệp chiếm 21,63%. Số lao động nông nghiệp trong những lúc nông nhàn thường phải đi làm thuê trong khi các nhà máy, xí nghiệp đóng trên địa bàn của huyện vẫn phải sử dụng một số công nhân không có hộ khẩu thường trú tại huyện. Để đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của các doanh nghiệp, huyện phải có kế hoạch đào tạo công nhân, thợ lành nghề đáp ứng kịp thời công cuộc CNH-HĐH, nâng cao thu nhập ổn định đời sống cho người dân. Qua các chỉ tiêu bình quân cho chúng ta thấy, số khẩu bình quân/hộ và tỷ lệ sinh còn khá cao. Nhìn chung, tỷ lệ sinh của huyện có giảm qua 3 năm, tuy nhiên công tác kế hoạch hoá gia đình của huyện cần phát huy hơn nữa nhằm giảm tỷ lệ số hộ sinh con thứ 3 góp phần ổn định đời sống của nhân dân. 2.1.2.3. Một số ngành kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội chủ yếu Hệ thống đường giao thông Muốn phát triển kinh tế thì xây dựng cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước, như vậy mới phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của một vùng kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho công cuộc XĐGN. Trong mấy năm gần đây hệ thống giao thông đã được thành phố và UBND huyện quan tâm đầu tư. Sóc Sơn là một huyện có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của huyện và giao lưu với các tỉnh bạn. Đồng thời toàn huyện có 150 km đường huyện, đường liên xã (do huyện quản lý); 306 km đường liên thôn. Đến năm 2005 đã đầu tư cải tạo, nâng cấp, nhựa hoá được 100 km/150 km đường do huyện quản lý. Các tuyến đường xã, liên thôn, đường thôn xóm được bê tông hoá hơn 200 km, trải cấp phối 100% các tuyến đường đất. Năm 2006 huyện chi từ ngân sách cho xây dựng và sửa chữa hạ tầng giao thông với kinh phí 80 tỷ đồng. Như vậy so với các huyện khác của Hà Nội thì Sóc Sơn có nhiều lợi thế về giao thông, nhưng việc khai thác năng lực còn nhiều hạn chế, do vậy phần nào ảnh hưởng đến công tác XĐGN của huyện. Hệ thống điện Hiện nay 100% số xã của huyện được sử dụng điện lưới quốc gia, đến cuối năm 2005 đã cải tạo, nâng cấp và làm mới được 46 trạm biến áp với tổng công suất 10.320 KVA. Hệ thống điện hạ thế giao lại cho ngành điện quản lý, kinh doanh, xoá bỏ cai điện đảm bảo thuận lợi cho việc sử dụng cũng như tránh thất thoát điện năng. Năm 2006, huyện đã đầu tư 43,89 tỷ đồng để duy tu, sửa chữa và xây dựng hệ thống điện. Hệ thống thuỷ lợi: Do đặc điểm địa hình phức tạp cho nên Sóc Sơn đang cố gắng xây dựng và cải tạo hệ thống thuỷ lợi ngày càng hoàn chỉnh. Nguồn nước tưới của huyện được cung cấp từ sông Cà Lồ, sông Công, sông Cầu và 26 hồ, đập lớn như: hồ Đồng Quan, Đồng Đò, Kèo Cà, Hàm Lợn, Đồng Đẽn, Cầu Bãi… sẵn sàng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong mấy năm gần đây huyện đã đầu tư cứng hoá 93,6 km kênh mương, đang hoàn thiện và đưa vào sử dụng thống liên hồ có dung tích lớn đảm bảo nước tưới phục vụ SXNN. Đây là sự khởi đầu cho quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn của địa phương. Y tế - văn hoá. - ._.áp ứng vào làm việc ngay trong khu Công nghiệp Nội Bài và các nhà máy khác đóng trên địa bàn của huyện. Biểu 17: kế hoạch hỗ trợ công tác khuyến nông và đào tạo nghề trong 3 năm của huyện Sóc Sơn TT Nội dung ĐVT Số lượng Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 1 Tập huấn KHKT cho hộ nghèo - Tập huấn KT chăn nuôi lợn lớp 30 25 20 + Số người tham gia lượt người 3.000 2.500 2.000 - Chăn nuôi bà sữa lớp 12 15 25 + Số người tham gia lượt người 360 450 750 - Chăn nuôi bò thịt lớp 15 18 25 + Số ngời tham gia lượt người 1.500 1.800 2.500 - Chăn nuôi gia cầm lớp 25 30 30 + Số người tham gia lượt người 3.750 4.500 4.500 - KT thâm canh tổng hợp CT lớp 20 25 30 + Số người tham gia lượt người 2.000 2.500 3.000 - Bảo vệ thực vật lớp 2 2 2 + Số người tham gia lượt người 120 120 120 - Sản xuất rau an toàn lớp 4 6 10 + Số người tham gia lượt người 200 300 500 - Sản xuất hoa, cây cảnh lớp 2 4 6 + Số người tham gia lượt người 140 280 420 - Sản xuất, trồng cây ăn quả lớp 2 3 5 + Số người tham gia lượt người 100 150 250 - Sản xuất cây công nghiệp lớp 15 20 25 + Số người tham gia lượt người 1.500 2.000 2.500 2 Tham quan mô hình lượt người 2.000 3.500 4.500 3 Tổ chức đào tạo nghề lớp 20 30 45 Số người được đào tạo lượt người 1600 3000 4.000 Nguồn: Đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế huyện Sóc Sơn 3.2.2. Giải pháp xoá đói giảm nghèo lâu dài nhằm phát triển ổn định và bền vững chống tái nghèo 3.2.2.1. Giải pháp về công tác quy hoạch, định hướng phát triển Trên cơ sở quyết định điều chỉnh quy hoạch chung của thủ đô đến năm 2010 của Thủ tướng chính phủ; quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Sóc Sơn đến năm 2010 đã được UBND thành phố phê duyệt, huyện Sóc Sơn cần bổ sung, hoàn thiện việc xây dựng quy hoạch tổng thể, tiến hành xây dựng quy hoạch chi tiết cho từng vùng, tiểu vùng nhằm phát huy lợi thế so sánh, khai thác một cách có hiệu quả các tiềm năng phát triển đồng bộ kinh tế xã hội của vùng. Mỗi xã, mỗi vùng có những đặc thù, khó khăn và lợi thế riêng, quy hoạch chung của huyện là những định hướng lớn trên cơ sở đó mà các xã, các vùng tìm các phương án khác nhau phù hợp với điều kiện của xã mình để bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ngành nghề phụ cho phù hợp, bởi vậy các xã, các vùng không được rập khuôn, máy móc quy hoạch của huyện vào xã, vùng mình. - Các xã vùng gò đồi nên tập trung khai thác thế mạnh của mình là đất đai rộng lớn, có khả năng phát triển các mô hình kinh tế trang trại, kinh tế đồi rừng kết hợp với các mô hình chăn nuôi đại gia súc, chăn nuôi gia cầm, đặc biệt các xã vùng gò đồi khả năng xây dựng phát triển các trang trại nuôi lợn nạc, lợn sinh sản như một số mô hình hiện có tại các xã Minh Trí, Minh Phú, Phù Linh. - Các xã vùng ven sông nên tập trung thâm canh lúa nước tăng năng suất, chất lượng sản phẩm kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản, các xã vùng này cần tập trung nguồn vốn của thành phố, của huyện đảm bảo an toàn hệ thống đê điều không để xảy ra úng lụt, đồng thời có kế hoạch thoát nước khi mưa lớn. - Các xã vùng giữa là những xã có hệ thống giao thông hoàn chỉnh có khả năng phát triển các khu công nghiệp, chăn nuôi bò sữa, sản xuất rau an toàn, lúa gạo đặc sản… Quy hoạch của huyện và các xã càng chi tiết có tính khả thi cao sẽ tạo ra sự hấp dẫn đói với các nhà đầu tư trong và ngoài nứơc, từ đó có cơ chế mở thu hút vốn đàu tư vào địa phương nhằm phát huy các thế mạnh tiềm tàng giúp cho các xã tránh được tình trạng phát triển rập khuôn, máy móc dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp và rủi ro cao, sản phẩm làm ra ứ thừa không có thị trường tiêu thu. 3.2.2.2. Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn * Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng tiến bộ, đây là một biện pháp quan trọng nhằm phát triển kinh tế nông thôn nhanh chóng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn sẽ thu hút được lao động nông nghiệp tại chỗ, nâng cao thu nhập cho nông dân đặc biệt là người nghèo. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là con đường cơ bản để thoát nghèo, tuy nhiên phải dựa vào điều kiện của từng vùng, mỗi vùng phải xác định được thế mạnh của mình trong việc nuôi con gì, trồng cây gì nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trên cơ sở đất dai, điều kiện sản xuất cụ thể của từng xã, khả năng tiêu thụ nông, sản phẩm trên địa bàn mà lập kế hoạch cho ngành trồng trọt trong những năm tới nhằm ổn định đời sống nhân dân góp phần đẩy nhanh quá trình XĐGN của huyện, đó là tập trung đầu tư thâm canh, ổn định và sản xuất đại trà một loại giống cây trồng ở từng vùng sản xuất với quy mô vừa và lớn nhằm tạo năng suất cao tránh thoái hoá các giống cây trồng tạo giá trị sản phẩm cao trên một diện tích canh tác. Giảm tỷ trọng ngành trồng trọt xuống 58% vào năm 2005, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản lên 42% đáp ứng ngày càng cao nhu cầu thị trường, đẩy mạnh việc sind hoá đàn bò, nạc hoá đàn lợn, khuyến khích các trang trại chăn nuôi lợn trên địa bàn phát triển. - Đối với các xã thuộc vùng gò đồi: cho phép chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên một số diện tích đất cao, đất đồi gò để phát triển và mở rộng diện tích cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, đồng thời cho chuyển một phần đất rừng thuộc các vạt rừng thấp trồng bạch đàn hiệu quả phòng hộ và kinh tế không cao sang trồng cây ăn quả để phát triển các mô hình kinh tế trang trại tổng hợp (chăn nuôi kết hợp với trồng cây ăn quả) đang là mô hình kinh tế hiệu quả tại Sóc Sơn. - Đối với các xã thuộc vùng đất giữa: đây là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển các loại hình hoa, cây cảnh, rau sạch và là vùng có giao thông thuận tiện, thị trường tiêu thụ nông sản phẩm lớn. Vì vậy, cần khuyến khích nông dân, làm gương cho các hộ nông dân chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi. - Đối với các xã thuộc vùng ven sông, vùng đất trũng: cần quy hoạch vùng phát triển kinh tế chuyển từ hai vụ lúa không ăn chắc sang một vụ lúa, một vụ cá. * Xây dựng các mô hình trình diễn về tiến bộ khoa học kỹ thuật: Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế xã hội của huyện,với nguồn vốn hỗ trợ phát triển sản xuất hiện tại cần xây dựng các mô hình trình diễn làm điểm sau: - Về trồng trọt: xây dựng 3 mô hình sản xuất rau an toàn tại các xã Đông Xuân, Thanh Xuân, Mai Đình; mô hình sản xuất chè tại Bắc Sơn; ba mô hình phát triển trồng cây ăn quả tại các xã Minh Trí, Minh Phú, Hiền Ninh; 8 mô hình sản xuất lúa năng suất cao tại các xã Phú Cường, Phú Minh, Tân Dân, Tiên Dược, Phù Linh, Bắc Phú, Xuân Thu, Trung Giã. - Về chăn nuôi: xây dựng hai mô hình bò lai sind tại các xã Mai Đình, Hiền Linh; bốn mô hình nuôi bò sữa tại Thanh Xuân, tiên Dược, Tân Minh, Trung Giã; ba mô hình nuôi gà thả vườn, một mô hình nuôi ngan Pháp… - Về thuỷ sản: xây dựng hai mô hình một vụ lúa, một vụ cá tại xã Bắc Phú, Kim Lũ. Các mô hình trên cần được xây dựng với quy mô vừa và nhỏ phù hợp với khả năng kinh tế hộ để các hộ nghèo chỉ cần có sự trợ giúp một lượng nhất định từ chính quyền địa phương hoặc tổ chức xã hội nào đó đã có khả năng vươn lên thoát nghèo. 3.2.2.3. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng * Tập trung các nguồn lực cho xây dựng giao thông nông thôn Thực tế cho thấy 8 xã nghèo của Sóc Sơn thì có tới 7 xã sản xuất chủ yếu là thuần nông phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, kinh tế hàng hoá kém phát triển, đặc biệt là giao thông khong thuận lợi. Vì vậy, cần tạo các nguồn tài chính đa dạng để xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông ở các xã, nhát là các xã thuộc vùng đồi gò, vùng ven sông, đặc biệt là các xã nghèo của huyện là: Minh Trí, Tân Minh, Đông Xuân, Bắc Phú, Đông Xuân, Xuân Giang. Tuy nhiên, cách làm phải phù hợp, muốn vậy phải thực thi triệt để quy chế dân chủ ở cơ sở theo tinh thần: dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra. * Đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi: Thuỷ lợi là một trong những khâu then chốt quyết định đến năng suất cây trồng, chất lượng sản phẩm, nếu tháo gỡ được khâu tưới tiêu sẽ tạo ra cơ hội để từ đó có thể giải quyết một lúc 2 vấn đề lớn: nâng dần độ đồng đều về năng suất, tăng sản lượng chung trong vùng và giúp các hộ nghèo đói khong có vốn đầu tư cho việc bơm nước tưới tiêu, mua vật tư cải tạo đất. - Để có thể khai thác tốt và sử dụng có hiệu quả nước từ hồ Đồng Đò mới được thành phố đầu tư xây dựng phục vụ việc tưới cho các xã vùng gò đồi thì huyện cần đầu tư kinh phí và chỉ đạo các xã tiến hành rà soát, lập kế hoạch xây dựng hệ thống kênh mương hoàn chỉnh, đồng thời khai thác các nguồn kinh phí tập trung cứng hoá hệ thống kênh mương chính, nâng diện tích chủ động tưới lên 85-90% vào năm 2010. - Đối với các xã vùng giữa: cần cho khai thác đất tại các lòng hồ đập, suối để tăng lượng tích trữ nước, cải tạo nâng cấp các trạm bơm, dùng kinh phí bán vật liệu đất khai thác, nạo vét tại các hồ góp phần cứng hoá kênh mương, xây mới trạm bơm thôn Hương Đình, trạm bơm thôn Liên Lý xã Phù Lỗ. - Đối với các xã ven sông: trên cơ sở dự án phát triển kinh tế vùng Đông Bắc cần xây dựng hệ thống tiêu nước cho các xã Bắc Phú, Xuân Giang, Việt Long, Tân Minh, Đức Hoà, hệ thống tưới cho vùng Đông nam Trung Giã và vùng Tây bắc Tân Minh. 3.2.2.4. Đầu tư phát triển các khu công nghiệp theo quy hoạch, tạo mọi điều kiện lấp đầy khu công nghiệp Việc phát triển các khu công nghiệp không những đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Sóc Sơn mà còn góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội và XĐGN của huyện. Nếu trung bình mỗi hộ nghèo được bố trí một lao động làm việc trong khu công nghiệp Nội Bài, hoặc làm việc cho các công ty liên doanh đang đóng trên địa bàn của huyện thì không những giải quyết được một lượng lao động dư thừa của huyện mà còn giúp các hộ nghèo đó xoá được đói, giảm được nghèo (thu nhập trung bình của 01 lao động/ tháng dao động từ 700.000-1.200.000đ). Tuy nhiên, để có thể thu hút đầu tư, xây dựng các khu công nghiệp thì huyện Sóc Sơn cần: - Đáp ứng lực lượng lao động cho các khu công nghiệp trên địa bàn vì vậy huyện cần có kế hoạch, định hướng cụ thể đào tạo nghề cho các lao động trong huyện, ưu tiên các lao động thuộc diện chính sách và lao động của hộ nghèo. - Trên cơ sở được thành phố phê duyệt cơ chế đặc thù riêng, Sóc Sơn cần khẩn trương xây dựng khu công nghiệp vừa và nhỏ tại xã Mai Đình và Tiên Dược, đồng thời lập kế hoạch chuẩn bị xây dựng các cụm công nghiệp Đông Xuân - Kim Lũ, Phú Cường - Thanh Xuân, Trung Giã … - Thành lập ban quản lý khu công nghiệp vừa và nhỏ để thu hút đầu tư, quản lý nhà nước về phát triển công nghiệp. - Phối hợp cùng Công ty phát triển Nội Bài - chủ đầu tư Khu công nghiệp Nội Bài tiếp nhận, thu hút các nhà đầu tư, doanh nghiệp sản xuất lắp ráp. 3.2.2.5. Quy hoạch, đầu tư hạ tầng các khu vực phát triển du lịch sinh thái Với địa hình đồi, núi, rừng, hồ nước đã tạo cho Sóc Sơn có những cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, cách trung tâm Hà Nội 35km. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái nghỉ dưỡng: - Khu du lịch sinh thái Đình phú 500 ha - Khu du lịch nghỉ nghơi cuối tuần khu vực Đền Sóc 274 ha - Khu du lịch resort khu vực Hồ Đồng Quan, Hồ Kèo Cà, Hồ Đồng Đò 500ha - Khu du lịch sinh thái Núi Đôi 200 ha - Khu du lịch, lễ hội đền chùa - Khu vui chơi giải chí, thể dục thể thao 3.2.2.6. Chính sách xã hội Hiện nay, các hộ nghèo được Nhà nước miễn toàn bộ thuế sử dụng đát nông nghiệp, tuy nhiên để có thể đẩy nhanh tiến trình XĐGN trên địa bàn cần tập trung thực hiện một số vấn đề cơ bản về đất đai như sau: - Cho phép đấu thầu các khu đất hoang hoá phát triển các mô hình kinh tế trang trại, kinh tế hộ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đồng thời phủ xanh đất trống, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đang bị lãng phí trên phạm vi toàn huyện nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho lao động dư thừa hiện nay tại các vùng nông thôn. - Thẩm đinh, phê duyệt các phương án sản xuất kinh doanh, cho phép chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển kinh tế. - Khuyến khích việc tích tụ ruộng đất, dồn điền, đổi thửa phát triển sản xuất hàng hoá tại các xã vùng giữa và vùng ven sông, thu hút các dự án hoa, cây cảnh nhất là dự án chăn nuôi bò sữa vì thị trường tiêu thụ sữa tươi đang cực kỳ thuận lợi do có hai nhà máy chế biến sữa tươi giáp xã Trung Giã và xã Phú Cường. - Đối với các hộ do nghèo đói mà phải chuyển quyền sử dụng đất, hoặc bị HTX thu nợ vì chính quyền huyện, các xã cần nghiên cứu tạo nguồn vốn và có biện pháp tích cực giúp các hộ nghèo có đất để sản xuất vì vậy đất đai là tư liệu sản xuất không thể thiếu đối với hộ sản xuất nông nghiệp. - Đối với các hộ già yếu, neo đơn các xã có thể xem xét đổi thửa đất xa, khó sản xuất cho các hộ bằng quỹ đất 5% để các hộ nghèo thuận lợi hơn trong quá trình sản xuất. - Kiểm tra, đánh giá lại việc giao rừng đến các hộ dân, nếu các hộ được giao trước không có khả năng đảm nhận hết việc trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng thì có thể thu hồi bớt diện tích đất đó giao cho một số hộ nghèo có lao động nhưng không có đất để sản xuất. Hiện nay, rừng Sóc Sơn đang bị chia cắt manh mún nhất là rừng thuộc các xã Minh Trí, minh Phú, Hiền Ninh, Quang Tiến, Phù Linh, Tiên Dược bởi các chủ đất cũ đã chuyển nhượng một phần không nhỏ diện tích rừng được nhà nước giao cho các cá nhân không có hộ khẩu thường trú tại Sóc Sơn. Do vậy, việc trồng, trông coi, chăm sóc cây trên diện tích đất gần như bị lãng quên, hiện nay trên các diện tích đó một phần đất đã bị trọc hoá do cây không được chăm sóc, vừa bị chặt phá. 3.2.2.7. Chính sách tín dụng Trong những năm qua việc thực hiện tín dụng của các tổ chức trong huyện cho các hộ nghèo vay vốn cũng có những cố gắng, tuy nhiên hiệu quả XĐGN chưa cao, chưa đem lại hiệu quả thiết thực. Hiện nay số dư nợ, nợ quá hạn còn tương đối lớn, nhất là số nợ quá hạn của nguồn vốn thuộc quỹ XĐGN (774.458.000 đồng). Nguyên nhân chủ yếu có số nợ quá hạn trên là do một số tồn tại trong công tác tín dụng đối với người nghèo sau: - Ban chỉ đạo XĐGN ở một số xã chưa chỉ đạo chặt chẽ, còn hời hợt, có một số xã bàn giao hẳn cho bộ phận chuyên môn thực hiện nên hiệu quả chưa cao. - Một số xã đến hạn thu nợp chưa tích cực, còn trông chờ, ỷ lại vào huyện, trong khi đó việc kiểm tra đôn đốc từ huyện đến xã chưa thường xuyên. - Do tính chất cho người nghèo vay theo dự án nên các xã phải lập dự án trên cơ sở danh sách cho vay vốn của các thôn, do đó khi đáo hạn việc thu nợ được giao cho trưởng các thôn thực hiện trực tiếp đối với hộ nghèo dẫn đến một số trưởng thôn, chủ dự án khi thu nợ xong không mang nộp ngay mà chiếm dụng vốn sử dụng vào việc riêng. - Quy định về thủ tục thế chấp tài sản đối với các dự án quá chặt chẽ, trong khi việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cảu huyện còn chậm, gây khó khăn cho việc tín chấp, bảo lãnh vay vốn. - Do việc thu vốn của các dự án tập trung vào quý IV hàng năm với số lượng lớn (60-70%) tổng số vốn trong năm gấy khó khăn cho việc triển khai công tác vay vốn vào năm sau, do đó không đảm bảo được tính thời vụ của sản xuất hiệu quả XĐGN chưa cao. Để làm tốt công tác tín dụng, đưa vốn sản xuất kinh doanh đến kịp thời cho người nghèo nhằm thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế, góp phần tích cực vào việc XĐGN của Sóc Sơn, theo chúng tôi cần quan tâm thực hiện tốt các vấn đề cơ bản sau: - Về việc cung cấp vốn chúng tôi đề suất sơ đồ sau: Ngân hàng trung ương Quỹ QG giải quyết việc làm Ngân hàng NN&PTNT Quỹ XĐGN Quỹ PTSX Ngân hàng chính sách xã hội Các tổ chức và cá nhân Quỹ tín dụng Ban XĐGN Các đoàn thể cơ sở Các tổ chức và cá nhân Hộ nghèo Sơ đồ 1: hệ thống cung cấp vốn cho người nghèo Trên cơ sở sơ đồ cung cấp vốn cho ngưòi nghèo để vốn vay của các tổ chức thực sự đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần không nhỏ vào việc XĐGN của địa phương cần thực hiện các giải pháp sau: - Cần nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng nhu cầu vay vốn của các hộ nhằm giúp các hộ nghèo sử dụng vốn vay đúng mục đích sản xuất kinh doanh. Trên thực tế nhiều hộ vay vốn được sử dụng để trả đậy vào vốn của dự án trước kia, cho nên vốn vay không được sử dụng vào sản xuất do đó không đem lại hiệu quả thiết thực cho công tác XĐGN. - Do vậy vay vốn của các hộ dân phải thực hiện theo dự án nên Ban XĐGN của huyện cần lập kế hoạch và chỉ đạo Ban XĐGN các xã lập dự án, giải ngân đúng thời điểm, thời vụ để người nghèo sử dụng vốn có hiệu quả. - Có quy định cụ thể về lãi suất cho vay giữa các hộ giàu và hộ nghèo, lãi suất cho vay cao nhất chỉ được áp dụng như lãi suất của ngân hàng Nhà nước, kiên quyết xử lý các trường hợp cho vay nặng lãi. - Quy định trách nhiệm thật cụ thể cho cán bộ thực hiện việc cho vay, thu nợ, có chính sách thưởng phạt nghiêm minh nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm và khuyến khích các cán bộ làm công tác tín dụng của chương trình XĐGN. - Việc thu hồi vốn của các dự án nên thực hiện vào thời điểm mà các họ mới thu hoạch sản xuất, như vậy nguồn vốn mới có khả năng được bảo toàn, tránh để nợ quá hạn và các dự án vay vốn sau của các đơn vị mới có thể đáp ứng một cách nhanh chóng. 3.2.2.8. Chính sách hỗ trợ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ cho người nghèo Việc cung cấp kỹ thuật và chuyển giao công nghệ sản xuất kinh doanh cho người nghèo, trước tiên cần thực hiện qua hệ thống cung cấp thông tin về sản xuất nông, lâm nghiệp nhằm nhanh chóng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật về sản xuất đến người nghèo. Tuy nhiên, để thực hiện được việc này cần có những biện pháp, cách tiếp cận đúng đắn, hợp lý và lao động của các hộ nghèo có trình độ văn hoá không cao, kinh nghiệm sản xuất hạn chế. Để có thể chuyển giao công nghệ đến người nghèo một cách hiệu quả chúng tôi đề xuất sơ đồ cung cấp thông tin sau: Bộ K.Hoạch đ.tư Bộ NN&PTNT Thông tin đại chúng TT nghiên cứu PTNN&NT Sở NN&PTNT Giáo dục và đào tạo Trạm thú y Trạm bảo vệ thực vật Phòng KHKT&PTNT Các đoàn thể Khuyến nông huyện Khuyến nông các xã Phát, truyền thanh Người SXKD giỏi Hộ nghèo Sơ đồ 2: hệ thống cung cấp thông tin 3.2.2.9. Công tác y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình XĐGN cần thực hiện song song với chương trình phát triển dân số và kế hoạch hoá gia đình, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo của các hộ dân Sóc Sơn là quá đông con. Một nhược điểm lớn của người nghèo là sinh đẻ không có kế hoạch, nhận thức không đúng đắn về sinh đẻ, muốn sinh con trai nên dẫn đến đẻ dày, đẻ nhiều không có điều kiện chăm sóc, ốm đau luôn, không có thời gian lao động kéo theo sản xuất kém, đời sống khó khăn, thiếu thốn. Trong 6 năm trở lại đây ( từ 2001-2006), tất cả các hộ nghèo trong huyện được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, trung tâm y tế và trạm y tế các xã luôn quan tâm chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, nhát là các hộ nghèo của huyện. Mặc dù vậy, khi gia đình có người đau yếu các hộ nghèo vẫn phải chi một lượng tiền nhất định cho việc đi lại, ăn khi phải nằm viện, cho nên huyện cần có quỹ trợ cấp bất thường cho một số hộ đặc biệt khó khăn khi xảy ra tai nạn, bệnh hiểm nghèo. Toàn huyện hiện vẫn còn 984 hộ nghèo do đông con, vì vậy cần tuyên truyền, vận động sinh đẻ có kế hoạch giảm tỷ lệ sinh xuống 1,4% vào năm 2005 và 1,2% năm 2010. Giao cho Hội phụ nữ huyện, Uỷ ban bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em quan tâm chỉ đạo, tuyên truyền, vận động tập trung vào các xã Bắc Sơn, Bắc Phú, Xuân Thu là các xã có số hộ nghèo do đông con chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu các nguyên nhân nghèo. 3.2.2.10. Bài trừ các tệ nạn xã hội Các tệ nạn xã hội là một trong những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của các hộ nông dân Sóc Sơn, tuy nhiên lượng hộ nghèo thuộc loại này không nhiều tập trung cũng cần có những giải pháp đẩy lùi các tệ nạn xã hội như cờ bạc, số đề, số lô. Để hạn chế các tệ nạn xã hội trên địa bàn giữ vững an ninh trật tự, kỷ cương, đồng thời cũng làm giảm số hộ nghèo do mắc phải các tệ nạn xã hội: - Không thực hiện việc ghi số lô đối với sổ số trên địa bàn nhằm tránh hiện tượng các đại lý sổ số ghi số lô thì ít mà ghi số đề thì nhiều vì các chủ đề chi phần trăm trúng thưởng lớn hơn số phần trăm trúng thưởng của công ty sổ số. - Kiên quyết xử lý, các chủ đề, các bàn ghi đề để răn đe không những chủ đề mà còn giáo dục người chơi. Nên tập trung vào các xã có nhiều tệ nạn như Mai Đình, Tiên Dược, Quang Tiến. - Sử dụng các biện pháp mạnh đưa các con nghiện đi cai nghiện tại trung tâm cai nghiên 06 của thành phố tại xã Tân Minh, thường xuyên tuyên truyền giáo dục, quản lý thanh niên, học sinh là các đối tượng dễ bị lôi kéo vào con đường nghiện ngập. Phát huy mạnh vai trò quần chúng tố giác tội phạm, nghiện hút, khi phát hiện các dối tượng có biểu hiện bị nghiện cần kiên quyết, cưỡng bức đưa các đối tượng đi kiểm tra. 3.2.2.11. Nâng cao dân trí cho người nghèo, tạo nhiều điều kiện thích hợp cho các hộ nghèo phát triển kinh tế, tự vươn lên xoá đói giảm nghèo Nên coi phát triển kinh tế và kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp và nông thôn như một giải pháp để tăng cường tính cộng đồng làng xã trên cơ sở các quan hệ tương trợ, giúp đỡ nhau giao lưu với cộng đồng, tránh bị cô lập, tách biệt với xã hội để được hướng dẫn cách làm ăn, không tiêu pha lãng phí, tự vươn lên XĐGN. Nhằm tạo các điều kiện thích hợp cho các hộ nghèo phát triển kinh tế, ổn định đời sống nên thực hiện một số giải pháp sau: - Thường xuyên hỗ trợ cây con, giống tốt cho hộ nghèo, đồng thời phải cải tạo, nâng cấp hệ thóng giống cây trồng vật nuôi của huyện. Hiện nay, huyện Sóc Sơn thường xuyên hỗ trợ hàng ănm về cây con giống cho các họ nghèo (300 triệu đồng) nhưng hiệu quả thiết thực chưa đáp ứng với sự hỗ trợ cảu huyện. - Tiến hành quy hoạch lại rừng, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp giống cây lấy gỗ: thông, keo, bạch đàn phù hợp với thổ nhưỡng của các xã Minh Trí, Hiền Ninh, Minh Phú, Tiên Dược, Nam Sơn, Bắc Sơn, Hồng Kỳ. Các xã Minh Trí, Minh Phú nên tập trung keo tai tượng, bạch đàn trắng, các xã Hiền Ninh, Tiên Dược tập trung thông… 3.2.2.12. Giải pháp thị trường và phát triển thương mại, dịch vụ Để đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản cho nông dân cần nghiên cứu phát triển thị trường, đặc biệt là thị trường nội thành. Trên thực tế, các hoạt động thương mại dịch vụ nông nghiệp, nông thôn Sóc Sơn mới chỉ tập trung chủ yếu vào mặt hàng vật liệu xây dựng, vật tư nông nghiệp và hàng tiêu dùng. Ngoài 3 chợ đầu mối là chợ Sóc Sơn, chợ Phù Lỗ, chợ Nỷ và 6 chợ của các xã, còn lại trên địa bàn các xã tồn tại các chợ tạm, chợ cóc. Trong những năm tới cần quy hoạch xây dựng các chợ nhằm phát triển thị trường nông sản cho nông dân chúng tôi đề xuất phương án quy hoạch, xây dựng các chợ như sau: - Xây dựng thêm hai chợ mới tại xã Thanh Xuân, Quang Tiến, Minh Phú. - Mở rộng, nâng cấp các chợ xã: Mai Đình, Phú Cường, Bắc Phú, Hiền Ninh, Đông Xuân, Thanh Xuân, Minh trí. - Phát triển hệ thống các dịch vụ gắn liền với chợ đáp ứng nhu cầu của nhân dân trên địa bàn. kết luận XĐGN là một mục tiêu mang tính chất chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Xoá hẳn tình trạng đói của một bộ phận dân cư đối với việc khuyến khích làm giàu hợp pháp là vấn đề được Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức từ thiện luôn quan tâm nghiên cứu tìm ra các giải pháp nhằm đem lại hiệu quả thiết thực. Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài tại Sóc Sơn về công tác XĐGN chúng tôi có những kết luận chủ yếu sau: 1. Sóc Sơn là một huyện nghèo của Hà Nội nhưng có rất nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, như tiềm năng về đất đai, lao động, du lịch. 2. Huyện đã thành lập Ban chỉ đạo XĐGN, giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện từ 3,68 năm 2004 xuống còn 3,13 năm 2005; do có chuẩn nghèo mới được ban hành cho giai đoạn 2006-2010 nên năm 2006 số hộ nghèo đang mức 16,75%. Đồng thời đưa ra các chương trình những hành động cụ thể nhằm làm giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo của huyện trong những năm tới. Tuy nhiên, các giải pháp chưa đem lại hiệu quả thiết thực mà mới tạm cắt được cơn sốt nghèo, do đó tỷ lệ tái nghèo của huyện còn ở mức cao. 3. Các hộ nghèo tại Sóc Sơn còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của thành phố, huyện chưa thực sự cố gắng tự vươn lên thoát nghèo. Đa số hộ nghèo đều có vài nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, vì vậy cần lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội với chương trình XĐGN của huyện. 4. Các dự án phát triển kinh tế - xã hội nhằm XĐGN được đầu tư chưa đúng mức, chưa tập trung còn dàn trải. 5. Cán bộ làm công tác XĐGN chưa tâm huyết, nhiệt tình, làm việc đại khái, chưa thực sự gắn trách nhiệm của cán bộ đảng viên với công việc được giao. kiến nghị Thành phố sớm xem xét quyết định ban hành cho huyện Sóc Sơn chính sách đặc thù nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội, từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Công tác quy hoạch phải đi trước một bước làm tiền đề để triển khai các khâu đầu tư tiếp theo, huyện cần phải tập trung nghiên cứu lập, phê duyệt các quy hoạch: phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, giao thông, đô thị, công nghiệp, rừng,… Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, cấp, thoát nước, cấp điện, viễn thông; hạ tầng xã hội: trường học, dạy nghề, bệnh viện, trạm y tế, chợ, siêu thị; văn hoá, TDTT, thông tin,… Thu hút, kêu gọi đầu tư phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp vừa và nhỏ; Các khu du lịch sinh thái, văn hoá. Có chính sách ưu đãi thu hút đầu tư, đồng thời chuẩn bị đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề đáp ứng nhu cầu cung cấp lao động cho các doanh nghiệp đến đầu tư tại địa phương. Nghiên cứu phát triển, mở rộng thị trường đầu ra cho nông sản, chăn nuôi, thuỷ sản đang phát triển của huyện. Từng bước nâng cao dân trí, thay đổi cách nghĩ, cách làm của các hộ nghèo, tuyên truyền, vận động để các hộ nghèo có ý thức tự lực, tự cường, cố gắng vươn lên thoát khỏi đói nghèo. dANH MụC Tài liệu tham khảo Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân Đình (2001). Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Bộ Chính trị (2000), Nghị quyết số 15/NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ cụ thể phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001-2010, Văn phòng TW Đảng, Hà Nội. Tống Văn Chung (2000), Xã hội học nông thôn, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. E.Shanks & C.Turk (2001), Các đề xuất của người nghèo về chính sách. Tham vấn cộng đồng về dự thảo chiến lược toàn diện về tăng cường và xoá đói giảm nghèo của Việt Nam (Tập II: Tổng hợp các kết quả và phát hiện), Ngân hàng thế giới cùng với quỹ cứu trợ Nhi đồng Anh, Tổ chức ActionAid, Tổ chức cứu trợ và phát triển (CRS), Plan tại Việt Nam và Oxfarm Anh biên soạn cho nhóm hành động chống nghèo đói, Hà Nội. E.Shanks & C.Turk (2002), Cùng với người nghèo hoàn thiện chính sách, Tham vấn cộng đồng về dự thảo chiến lược toàn diện về tăng cường và xoá đói giảm nghèo của Việt Nam (Tập I: Cách tiếp cận, phương pháp và ảnh hưởng), Ngân hàng thế giới cùng với quỹ cứu trợ Nhi đồng Anh, Tổ chức ActionAid, Tổ chức cứu trợ và phát triển (CRS), Plan tại Việt Nam và Oxfarm Anh biên soạn cho nhóm hành động chống nghèo đói, Hà Nội. Ngô Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chương trình CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tô Đức Hạnh, Phạm Văn Linh (2000), Phát triển kinh tế hàng hoá trong nông thôn các tỉnh miền núi phí Bắc Việt Nam - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Thị Lan Hương (2000), Tác động của phân tầng mức sống vào quá trình phát triển văn hoá nông thôn, Nxb Văn hoá - thông tin. Nguyễn Văn Hoà (2001), Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn đến năm 2005: Giải pháp nào cho đủ mạnh?, Báo Đầu tư, ngày 12/11. Huyện uỷ Sóc Sơn (2006), Văn kiện đại hội đảng bộ huyện Sóc Sơn lần thứ XIV, Hà Nội. Hà Quế Lâm (2000), Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia. Một số chính sách quốc gia về việc xoá đói giảm nghèo (2002), Nxb Lao động, Hà Nội. Nguyễn Tiến Mạnh, Nguyễn Hữu Tiến (1994), Kinh nghiệm làm giàu từ nông nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Báo cáo phát triển Việt Nam 2002 - thực hiện cải cách để tăng trưởng và giảm nghèo nhanh hơn. PGS,TS Lê Du Phong - PTS. Hoàng Văn Hoa (đồng chủ biên) (1999), Kinh tế thị trường và sự phân hóa giàu - nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. GS.TSKH Lê Du Phong, TS. Nguyễn Văn áng, TS. Hoàng Văn Hoa (đồng chủ biên) (2002), ảnh hưởng của đô thị hoá đến nông thôn ngoại thành Hà Nội - thực trạng và giải pháp, (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vũ Thị Ngọc Phùng (1999), Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Ban chính sách phát triển nông thôn Nxb Nông nghiệp. Lương Hồng Quang (2001), Văn hoá của nhóm người nghèo ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Viện Văn hoá & Nxb Văn hoá - thông tin, Hà Nội. Đặng Kim Sơn, Hoàng Thu Hoà (2002), Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn, Nxb Thống kê, Hà Nội. Stefen Nachuck (2001), Thức dậy một tiềm năng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội (2006), Văn kiện đại hội đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIV, Hà Nội. Phòng Thống kê huyện Sóc Sơn (2001-2003), Báo cáo tổng hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội huyện Sóc Sơn, Phòng Thống kê, Sóc Sơn. Đào Thế Tuấn (1997), Kinh tế hộ nông dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010-2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. UBND huyện Sóc Sơn (2005), Báo cáo tổng hợp dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Sóc Sơn đến năm 2010, Văn phòng HĐND - UBND huyện Sóc Sơn, Hà Nội. UBND huyện Sóc Sơn (2004, 2005, 2006), Báo cáo tổng kết tình hình kinh tế xã hội, Văn phòng UBND huyện, Sóc Sơn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThSA22.doc
Tài liệu liên quan