Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường đại học cao đẳng ở Hà Nội hiện nay

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đang bước sang giai đoạn mới đó là thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước định hướng XHCN. Trong bối cảnh lịch sử mới, hơn lúc nào hết Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đòi hỏi phải phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó phải kể đến một bộ phận quan trọng là thế hệ trẻ. Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Đối với thế hệ trẻ chăm lo giáo

doc119 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường đại học cao đẳng ở Hà Nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [19, tr.126]. Khi khẳng định vai trò to lớn của thế hệ trẻ trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, thì chúng ta cũng thấy được vai trò quan trọng của sinh viên Việt Nam. Bởi vì, sau khi ra trường họ sẽ trở thành những người lao động có trình độ cao đó là nguồn nhân lực chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng XHCN. Lực lượng đông đảo nhất và quan trọng nhất là sinh viên Hà Nội vì Hà Nội là nơi tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng lớn có bề dày về giáo dục và đào tạo. Vì vậy, sự phát triển bền vững của đất nước theo định hướng XHCN đòi hỏi khách quan phải trang bị cho họ nhận thức chính trị, những kiến thức về mục tiêu, con đường đi lên CNXH của dân tộc ta. Chính vì thế, giáo dục thế giới duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay vừa là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Bởi vì, trong bối cảnh hiện nay trước sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, trước chiến lược diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch đang chống phá CNXH, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng, một trong các đối tượng đó là thế hệ trẻ, nhằm làm cho hệ tư tưởng tư sản chiếm vị trí thống trị trong đời sống tinh thần. Hơn nữa, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường đang hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận sinh viên. Trong cơ chế thị trường xuất hiện sự may rủi làm nảy sinh tư tưởng cầu may dễ dẫn đến với thế giới quan tôn giáo, duy tâm. Đặc biệt là sinh viên Hà Nội hàng ngày, hàng giờ đang chịu sự tác động trực tiếp của lối sống thực dụng, của nền văn hóa phương Tây và cả niềm tin tôn giáo. Thực tế là một bộ phận không nhỏ trong sinh viên Hà Nội đã suy thoái về đạo đức, lối sống mơ hồ về chính trị, phai mờ về lý tưởng XHCN và đây là một bộ phận dễ bị các thế lực phản động lôi kéo. Vì vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu đề tài thế giới quan duy vật biện chứng có nhiều tác giả nghiên cứu, ở Liên Xô trước đây có các tác giả: - V.L.Li Xốp Ski và A.V. Mitri EP, "Nhân cách của sinh viên" chương VI sự hình thành thế giới quan, Nxb Đại học Tổng hợp Lêningrat, 1974. - Ch.L.Xmiếc Cốp, "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế giới quan Mác - Lênin", Tạp chí Giáo dục lý luận, 1985, số 3. - V.I.LVa Xi Len Co, "Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận của việc xây dựng thế giới quan khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa", bản tự lược thuật, Luận án tiến sĩ triết học, 1975. ở trong nước cũng có nhiều tác giả nghiên cứu như: - Bùi Ngọc, "Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, 1981, số 8. - Lê Xuân Vũ, "Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần của nhân dân ta", Tạp chí Cộng sản, 1986, số 6. - Nguyễn Trọng Chuẩn, "Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học", Tạp chí Triết học 1988, số 3. - Bùi ỉnh, "Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta", Luận án PTS Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1988. - Trần Thước, "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt Nam", Luận án PTS Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1993. - Trần Thanh Hà, "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng viên người dân tộc Khơme ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993. - Trần Viết Quân, "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2002. Tất cả những tác giả trên đã đề cập đến: - Khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan khoa học nói riêng, cấu trúc và chức năng của chúng. - Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng trong quá trình xây dựng CNXH. - Những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành thế giới quan duy vật biện chứng. Những nguyên tắc phương pháp luận chung trong việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho nhân dân trong thời kỳ quá độ lên CNXH. - Đưa một số giải pháp cụ thể và những quan điểm nhằm bồi dưỡng và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho một số đối tượng cụ thể ở những nước vốn lạc hậu về kinh tế - xã hội thực hiện quá độ lên CNXH. Riêng vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay chưa ai bàn đến. Đồng thời, xuất phát từ vai trò quan trọng của lực lượng này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Vì vậy, tôi chọn đề tài: "Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường đại học cao đẳng ở Hà Nội hiện nay" để làm luận văn tốt nghiệp. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Từ việc phân tích thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay, luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích vai trò của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên. Xác định những nhân tố tác động đến việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay. - Làm rõ thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng trong các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Do khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên của các môn khoa học Mác - Lênin và các cơ quan chức năng. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể: phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát hóa và điều tra xã hội học. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Nêu lên tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội và đưa ra một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần vào việc đưa ra những cơ sở khoa học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu làm 2 chương, 5 tiết. Chương 1: Tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay 1.1. thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên hiện nay 1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng và vệc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng 1.1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn có mối quan hệ hữu cơ với thế giới, con người luôn có nhu cầu tìm hiểu thế giới, những vấn đề đầu tiên mà họ quan tâm là "nguồn gốc và bản chất của thế giới", "vị trí và vai trò của con người trong thế giới ấy". Trả lời cho những vấn đề đó sẽ hình thành ở con người những quan điểm, quan niệm về thế giới, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan của con người. Thế giới quan xuất hiện từ thời nguyên thủy nhưng phạm trù thế giới quan được xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVIII do nhà triết học Can tơ người Đức nêu ra. Vào thế kỷ XX, phạm trù thế giới quan được các nhà triết học Liên Xô và các nhà triết học các nước nghiên cứu và định nghĩa dưới nhiều cấp độ khác nhau. Ví dụ như: "Thế giới quan được hiểu là toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của một tập đoàn xã hội, của một giai cấp hay xã hội nói chung đối với thực tại" [55, tr.539]. Hay: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể về thế giới, về những hiện tượng tự nhiên, xã hội và các quy luật phát triển của chúng, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trước thế giới. Nói một cách khác, thế giới quan phản ánh tồn tại vật chất và xã hội của con người [24, tr.10]. Akitốp lại cho rằng "Tổng hợp tất cả những quan niệm, chính kiến về thế giới, về cấu trúc và nguồn gốc của nó, ý nghĩa và giá trị của đời sống con người, lòng tin của con người trong hiện thực được gọi là thế giới quan" [1, tr.167]. Từ những quan niệm khác nhau về thế giới quan ở trên, ta có thể hiểu: thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể (một người hoặc một tập đoàn người, một giai cấp hay toàn xã hội) về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó. Trên cơ sở đó, thế giới quan định hướng, chỉ dẫn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người và là phương thức con người tự ý thức được về bản thân mình. Như vậy, thế giới quan ra đời, hình thành, phát triển luôn luôn gắn với sự phát triển của thực tiễn xã hội và sự hiểu biết thế giới của con người. Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, thế giới quan được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song có ba hình thức cơ bản đó là: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. Trong ba hình thức cơ bản của thế giới quan nói ở trên thì thế giới quan triết học là hình thức thế giới quan có trình độ phát triển cao hơn, sâu sắc hơn so với thế giới quan huyền thoại và tôn giáo. Ngay từ khi mới ra đời, triết học đã tồn tại như là một hệ thống những quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới ấy. Thực tiễn đã chứng minh rằng, chỉ có triết học mới có thể giải quyết được những vấn đề chung nhất của thế giới mà không một ngành khoa học cụ thể nào có thể làm được. Vì vậy, triết học bao giờ cũng đóng vai trò hạt nhân lý luận của một thế giới quan. Triết học là sự thể hiện cô đọng tập trung nhất thế giới quan của mỗi giai cấp, mỗi thời đại lịch sử nhất định. Nó thể hiện chiều sâu của tư tưởng, thể hiện trình độ cao của trí tuệ con người. Thế giới quan triết học luôn giữ vai trò chủ đạo định hướng các hành vi chính trị và đạo đức, lối sống của con người. Nó giúp cho con người biết nhận thức và hành động theo mục tiêu lý tưởng của mình. Lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa hai đường lối triết học cơ bản, đó là triết học duy vật và triết học duy tâm và đó cũng là cuộc đấu tranh giữa hai loại hình thế giới quan: duy vật và duy tâm. Trong quá trình đấu tranh đó, thế giới quan duy vật đã từng bước phát triển tương ứng với trình độ phát triển tư duy của con người ở mỗi giai đoạn lịch sử. Từ thế giới quan duy vật biện chứng "thô sơ" thời cổ đại, thế giới quan duy vật siêu hình thời cận đại đến thế giới quan duy vật siêu hình cổ điển Đức đã phát triển đến một trình độ mới đó là thế giới quan duy vật biện chứng. Nhờ kế thừa những giá trị tinh hoa của triết học trong lịch sử, đặc biệt là kế thừa có phát triển sáng tạo hạt nhân hợp lý của triết học cổ điển Đức, Mác và Ăngghen đã sáng lập ra một hệ thống triết học mới khác về chất so với các triết học trước đó. Các triết học trước Mác chỉ nhằm mục đích là giải thích thế giới, còn triết học Mác là công cụ hữu hiệu để cải tạo thế giới hiện thực. "Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới" [33, tr.12]. Nhờ sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng khoa học, chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để, duy vật không chỉ trong tự nhiên mà cả trong xã hội. Nội dung của thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm việc giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và cách mạng trong thời đại chúng ta. Thế giới quan duy vật biện chứng vừa có tính cách mạng, vừa có tính khoa học. Bởi lẽ, sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng được xây dựng trên những tiền đề kinh tế - xã hội và tư tưởng văn hóa tiên tiến của nhân loại, mà trực tiếp nhất là dựa trên sự phản ánh khái quát đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc những tư liệu do khoa học và thực tiễn mang lại. Thế giới quan duy vật biện chứng phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem đến một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ về con người, khẳng định con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Thế giới quan duy vật biện chứng đặc biệt đã khẳng định khả năng tự ý thức về vai trò và vị trí của con người trong hiện thực, khẳng định khả năng cải tạo tự nhiên và xã hội của con người. Do đó, thế giới quan duy vật biện chứng chính là vũ khí tinh thần sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội cộng sản văn minh, tiến bộ hơn chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở phân tích sự hình thành và bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng, chúng tôi đồng ý với quan niệm về thế giới quan duy vật biện chứng như sau: "Thế giới quan duy vật biện chứng là một hệ thống quan điểm hoàn chỉnh về thế giới trên cơ sở những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, cùng những định hướng giá trị của con người trong quan hệ với hiện thực dựa trên việc giải quyết một cách duy vật biện chứng vấn đề cơ bản của triết học" [59, tr.16]. Nhận thức khoa học không thể tự bằng lòng và chỉ dừng lại ở việc nêu ra định nghĩa khái quát về đối tượng mà còn cần phải làm sáng tỏ những nhân tố trong cấu trúc của nó. Cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng gồm ba yếu tố cơ bản đó là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng sống. Tri thức khoa học: là sự hiểu biết sâu sắc của con người về thế giới, là kết quả của quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn đúng đắn của con người. Tri thức khoa học có nhiều loại khác nhau, nhưng trong nội dung tri thức khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng, tri thức triết học Mác - Lênin đóng vai trò nền tảng... Bởi lẽ, triết học Mác - Lênin là hệ thống tri thức khái quát nhất về thế giới hiện thực, là bức tranh khái quát về tự nhiên, xã hội và tư duy xác định một cách khoa học và chân thực vai trò, vị trí của con người đối với thế giới đó. Tuy vậy, không phải là khi có tri thức khoa học là đã có thế giới quan duy vật biện chứng. Tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan duy vật biện chứng khi nó chuyển thành niềm tin khoa học của con người. Chỉ khi đó thì tri thức mới trở nên bền vững và sâu sắc, mới có giá trị định hướng cho hoạt động của con người. Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển trên cơ sở của tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực của con người. Niềm tin khoa học là một nhân tố cơ bản, không thể thiếu trong cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng. Đó là sự hòa quyện một cách hữu cơ giữa tri thức, tình cảm và ý chí cá nhân trong mỗi con người. Niềm tin khoa học được hình thành trên cơ sở tri thức khoa học. Niềm tin khoa học có vai trò như một động lực, thúc đẩy con người vươn tới khát vọng nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực. Nếu con người làm một việc gì đó mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng, thì họ sẽ mất đi những rung động của ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình và sự cổ vũ cần thiết đối với hiệu quả công việc: Không có một niềm tin mãnh liệt vào tri thức thì một tri thức khoa học cũng sẽ không sản sinh ra cái gì vĩ đại cả. Hồ Chủ tịch vị lãnh tụ của dân tộc Việt Nam, Người là một điển hình cho niềm tin khoa học, chính nhờ có niềm tin ở chính nghĩa, ở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã cầm lái con thuyền cách mạng đưa dân tộc ta đến bến bờ độc lập, đánh Pháp, đuổi Mỹ làm nên chiến thắng như những huyền thoại của dân tộc Việt Nam. Niềm tin chính là động lực mạnh mẽ, giúp cho mỗi con người có nghị lực phi thường, có thể vượt qua những phút giây hiểm nguy, giám hy sinh vì mục tiêu lý tưởng mà mình cho là cao cả. Niềm tin khoa học chi phối mạnh mẽ nhận thức, tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và hành động cách mạng của mỗi con người. Nó đòi hỏi hành động của mỗi người cách mạng phải dựa trên cơ sở tri thức khoa học và tuân theo những giá trị và chuẩn mực đúng đắn của xã hội. Nếu người ta sống mà không có niềm tin khoa học, hoặc thiếu niềm tin khoa học thì dễ bị mất phương hướng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, có thể bị đẩy vào tình trạng bế tắc không có đường ra. Lý tưởng cách mạng, là một trong những nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng. Lý tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách đặc biệt trong ý thức của con người dưới dạng hình tượng, kiểu mẫu hay chuẩn mực, mà con người cần phải phấn đấu đạt tới. Lý tưởng cách mạng đóng vai trò định hướng đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nó là nhân tố kích thích sự phấn đấu vươn lên làm chủ của con người trong tự nhiên, xã hội và cả bản thân. Lý tưởng đúng đắn, cao cả sẽ làm cho mỗi người hình thành niềm hy vọng lớn, góp phần làm cho họ có thái độ, lập trường sống đúng đắn, lao động, học tập và công tác tích cực, giúp cho họ vươn tới những giá trị cao đẹp; như lòng nhân ái, lòng vị tha và những phẩm chất chân, thiện, mỹ; giúp cho họ đấu tranh với cái ác, cái xấu, cái tiêu cực và lạc hậu trong xã hội và có thể sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cho lý tưởng cao đẹp đó. Ba nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, đan xen nhau và thâm nhập vào nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Từ khi ra đời cho đến nay, thế giới quan duy vật biện chứng luôn có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Thế giới quan duy vật biện chứng và là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó góp phần rất quan trọng để giúp cho họ biết nhận thức và hành động đúng đắn trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, chống áp bức bóc lột và bất công vì hòa bình độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học: "Đó là một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản" [29, tr.50]. Vì vậy, mà từ khi thế giới quan duy vật biện chứng ra đời, đã được hàng triệu triệu người trên thế giới đón nhận, trong đó phải kể đến thế hệ thanh niên. 1.1.1.2. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng "Thanh niên là những người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành" [58, tr.913] hay còn có định nghĩa khác "Thanh niên là những người trong độ tuổi từ 15 đến 24" [10, tr.111]. Lớp lớp thanh niên Việt Nam cũng đã từng đón nhận hệ thống lý luận của thế giới quan duy vật biện chứng một cách nhiệt tình và từ đó họ hình thành lý tưởng sống cao đẹp, họ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình, cả cuộc sống hạnh phúc của chính mình cho lý tưởng vì độc lập tự do của dân tộc ta như Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Lý Tự Trọng, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi... trong các thời kỳ cách mạng của dân tộc ta. Trong thế hệ thanh niên thì sinh viên là lực lượng tiêu biểu nhất, bởi vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin sinh viên có một vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Ăngghen viết: "Giai cấp vô sản lao động trí thức phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai, sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ với người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây" [37, tr.613]. ở đây, Ăngghen đã đánh giá rất cao vai trò của sinh viên với tư cách là đội dự bị của giai cấp vô sản lao động trí thức. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thanh niên sinh viên là cội nguồn sức sống của dân tộc, là người chủ tương lai của nước nhà. Lênin cho rằng sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản không thể thiếu sự tham gia tích cực, tự giác của thanh niên sinh viên. Với những tri thức khoa học và lòng nhiệt tình của tuổi trẻ cùng với thực tiễn đấu tranh chính trị, họ sẽ trở thành những người cộng sản giác ngộ, là người bạn đồng minh đáng tin cậy của giai cấp công nhân. Được giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng và được tập hợp thành tổ chức, nhờ đó, họ hoạt động trong phong trào cách mạng, họ gắn liền lý luận với thực tiễn. ở nước ta các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng đánh giá rất cao vai trò của sinh viên. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VI năm 1999, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã gọi sinh viên "là bộ phận trí tuệ và ưu tú trong các thế hệ thanh niên, là nơi kết tinh nhiều tài năng sáng tạo, là nguồn lao động có học vấn cao, có chuyên sâu và đại bộ phận sinh viên sẽ trở thành người trí thức của đất nước" [23, tr.67]. Có thể khẳng định rằng, sinh viên Việt Nam là lực lượng ưu tú nhất trong thanh niên, có tri thức, được đào tạo cơ bản ở trình độ cao, có nhiệt tình của tuổi trẻ. Qua thực tế ta thấy, trong bất cứ một phong trào nào của thanh niên, sinh viên luôn luôn là lực lượng xung kích đi đầu. Sinh viên Việt Nam đã và sẽ là nguồn nhân lực vừa "hồng" vừa "chuyên" của nước ta. Vì vậy, họ sẽ là những người đóng vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thắng lợi, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa mà phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng hiện nay, với mục tiêu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước định hướng xã hội chủ nghĩa thì hơn bao giờ hết cần phải giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên. Giáo dục là một quá trình hoạt động mang tính xã hội và mang tính phức hợp giữa các chủ thể dạy và học, là quá trình truyền đạt và tiếp nhận tri thức một cách có hệ thống với sự hỗ trợ của các phương tiện cần thiết. Nói cách khác giáo dục là quá trình hoạt động thống nhất hữu cơ giữa hai mặt dạy và học. Trong quá trình giáo dục, bao giờ cũng có một hệ thống cần phải giải quyết đó là: mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, nội dung, chương trình, giảng viên, động cơ dạy và học cùng các phương tiện giáo dục khác, nhằm đào tạo con người đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn lịch sử. Giáo dục tuy không phải là sức mạnh vạn năng, không phải là nhân tố quyết định, song nó có tác dụng lớn lao đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, là con đường đặc trưng để loài người tồn tại và phát triển. Nếu không có giáo dục thì hệ thống giá trị chung của loài người như: các giá trị kinh tế, giá trị tư tưởng chính trị, đạo đức, truyền thống dân tộc... không được bảo tồn và phát triển, do đó cũng không tạo ra giá trị mới. Bác Hồ cho rằng, không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến văn hóa, kinh tế... Nhiều phẩm chất trong đó có lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống vẻ vang, anh hùng bất khuất của dân tộc được hình thành qua giáo dục. Trong xã hội có giai cấp, giáo dục cũng mang tính giai cấp nhằm đào tạo ra lớp người phục vụ và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội và của chế độ xã hội mà họ xây dựng. Tính giai cấp được bộc lộ rất đa dạng trong nền giáo dục của mỗi quốc gia khác nhau, mỗi chế độ khác nhau. Giáo dục theo quan điểm phong kiến nhằm đào tạo ra những con người trung hiếu. Giáo dục, theo quan điểm tư bản chủ nghĩa nhằm tạo ra con người thạo việc và tích cực, những nhà buôn, những nhà công nghiệp để phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản... Giáo dục theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm tạo ra những con người phát triển toàn diện. "Biết thấm nhuần tổng số những kiến thức của nhân loại mà chủ nghĩa cộng sản là kết quả bởi vì tương lai của loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên" [35, tr.262]. ở nước ta, giáo dục trước hết là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm của các ngành và mọi người trong xã hội. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa: đó là những con người được phát triển toàn diện. Họ có phẩm chất chính trị, đạo đức, tri thức khoa học có năng lực tư duy lý luận, có khả năng hoạt động thực tiễn. Lênin kết luận rằng: "Họ phải hiểu rằng, điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, và nếu họ không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa cộng sản chì là một nguyện vọng mà thôi" [33, tr.175]. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nhằm làm cho sinh viên nắm được những nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng và hướng dẫn sinh viên vận dụng lý luận đó vào thực tiễn một cách sáng tạo. Từ đó, sinh viên sẽ phát triển nhân cách một cách hài hòa: biết lĩnh hội tri thức đã học, biết biến tri thức đó thành niềm tin và lý tưởng cao cả của mình, tức là vận dụng tri thức đó vào cải tạo thế giới hiện thực. Bản chất của giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là quá trình tác động đồng bộ, tích cực, có định hướng, có kế hoạch vào ý thức của sinh viên, nâng cao khả năng nhận thức, năng lực tư duy và hướng dẫn họ hoạt động thực tiễn theo một chương trình, mục tiêu cụ thể, xác định nào đó. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là một bộ phận của giáo dục xã hội nhằm phát triển con người toàn diện. Con đường trực tiếp, năng động và sáng tạo nhất để hình thành thế giới quan khoa học và cách mạng cho sinh viên là con đường giáo dục. Mục tiêu của giáo dục không chỉ là cung cấp những tri thức về nội dung, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của thế giới quan duy vật biện chứng mà còn làm cho chúng thâm nhập vào cấu trúc nội tại của chủ thể - sinh viên và biến kiến thức trong khoa học mà sinh viên đã tiếp nhận được thành giá trị, niềm tin, lý tưởng, lập trường thế giới quan tương ứng. Nhờ đó mà sinh viên sẽ hình thành thế giới quan khoa học và cách mạng của chính mình, hình thành phương hướng tu dưỡng, rèn luyện, thành những phẩm chất chính trị, đạo đức của chính sinh viên. Việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng phải được đảm bảo cả ba thành tố cấu trúc cơ bản của nó. Thứ nhất là hệ thống tri thức khoa học cơ bản, toàn diện, hiện đại và phương pháp tư duy biện chứng; thứ hai là hệ thống niềm tin vào chân lý những giá trị xã hội nhân đạo; thứ ba là hình thành lý tưởng sống cao đẹp, tiến bộ và tính tích cực, sẵn sàng hành động vì lý tưởng đó. Như vậy, trong nội dung, chương trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng phải giáo dục những nguyên tắc cơ bản, những nguyên lý quy luật và các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật, để sinh viên nắm chắc thực chất tính cách mạng và tính khoa học của phép biện chứng duy vật và những biểu hiện sinh động, phong phú của chúng trong đời sống hiện thực. Nhưng các nguyên lý quy luật phạm trù của triết học Mác - Lênin mới là hạt nhân của thế giới quan duy vật biện chứng. Thế giới quan duy vật biện chứng là một thế giới quan duy vật hoàn chỉnh, vì vậy cùng với giáo dục những tri thức triết học Mác - Lênin cần phải giáo dục những tri thức của môn kinh tế chính trị Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. Bởi vì, ở môn học kinh tế chính trị Mác - Lênin giúp cho sinh viên nhận thức hệ thống lý luận khoa học của Mác và Ăngghen về sự vận động của xã hội tư bản chủ nghĩa, thấy rõ được bản chất của giai cấp tư sản trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư. Nhờ bóc lột giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra, giai cấp tư sản đã đẩy mạnh phát triển kinh tế và bước vào cuộc cách mạng công nghiệp làm tăng năng suất lao động, nhưng đồng thời cũng làm cho lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao, mâu thuẫn với tính chất chập hẹp của chế độ chiếm hữu tư nhân, tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì càng làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất càng gay gắt. Mâu thuẫn đó chỉ giải quyết triệt để khi cuộc cách mạng giành những tư liệu sản xuất chủ yếu vào tay xã hội quản lý, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Người có sứ mệnh lịch sử thực hiện quá trình cách mạng đó là giai cấp công nhân, con đẻ của nền đại công nghiệp, đại diện cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại mới. Môn chủ nghĩa xã hội khoa học là môn học mà hệ thống tri thức của nó vừa dựa trên cơ sở triết học và kinh tế chính trị học Mác - Lênin, vừa bổ sung và hoàn tất các học thuyết ấy, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính hoàn chỉnh cân đối, làm cho thế giới quan duy vật biện chứng thực sự khoa học. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội khoa học chứa đựng những nội dung tri thức khoa học đề cập đến các vấn đề cải tạo thế giới theo những quy luật khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học làm rõ mục tiêu cuối cùng và con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người, đồng thời luận giải một cách khoa học về lực lượng chủ đạo trong quá trình cách mạng, đó là giai cấp công nhân với sứ mệnh lịch sử của mình là xây dựng CNXH, CNCS. Như vậy, là cả ba môn khoa học cơ bản này đã làm sáng tỏ lôgíc lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội, là hướng tới cách mạng xã hội do giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó lãnh đạo, là tiến tới một xã hội tương lai tốt đẹp, một xã hội không còn có sự áp bức bóc lột và bất công; người dân lao động được làm chủ. Chính vì vậy, mà thông qua ba môn học cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin mà đặc biệt là môn chủ ngh._.ĩa xã hội khoa học là cơ sở để tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng cho sinh viên ngày nay. Ngoài ra, cần phải giáo dục môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh đó là những môn học vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Do đó, được trang bị kiến thức về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, về tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên tự hào về lịch sử đấu tranh cách mạng, về sự nghiệp giải phóng dân tộc, về CNXH, về con người sẽ giúp cho họ củng cố và nâng cao niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, tin vào con đường XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đồng thời, cũng cần phải giáo dục cả những tri thức khoa học tự nhiên, xã hội bởi vì những tri thức đó đã chứa đựng nội dung của thế giới quan khoa học và đã được khoa học tự nhiên và khoa học xã hội chứng minh tính đúng đắn của nó. Những kiến thức của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội sẽ góp phần làm cho sự hiểu biết về thế giới quan duy vật biện chứng thêm sâu sắc. Việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đòi hỏi phải giáo dục cả về đường lối, chính sách của Đảng, các tư tưởng tiến bộ của nhân loại khác hợp thành một thế giới quan khoa học và cách mạng nhất. Trong hệ thống giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng, ngoài nội dung chương trình còn cần phải có phương pháp giáo dục, hình thức giáo dục, tiến trình thực hiện giáo dục và phải có cả những phương tiện vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác giáo dục, tạo ra hệ các điều kiện tốt phục vụ cho công tác giáo dục. 1.1.2. Vai trò của việc giáo dục thế giới duy vật biện chứng đối với sinh viên hiện nay Sinh viên là đội ngũ trí thức trong tương lai, là lực lượng trẻ có học thức, họ là những người nhạy cảm với cái mới, năng động và sáng tạo, là chủ nhân tương lai của đất nước. Sinh viên là một tầng lớp xã hội luôn được gia đình, nhà trường và xã hội hết sức quan tâm. Bởi lẽ, ngay từ khi đất nước còn chiến tranh, sinh viên Việt Nam đã từng gắn bó và có những đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng và thắng lợi của dân tộc ta. Ngày nay, trong sự phát triển của đất nước, sinh viên Việt Nam có vai trò hết sức to lớn. Tại Đại hội sinh viên toàn quốc lần thứ V, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: "Sự nghiệp đổi mới của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công hay không thành công, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay quyết định, trong đó sinh viên là một bộ phận có vai trò hết sức quan trọng". Như vậy, hơn bao giờ hết, trong giai đoạn cách mạng ở nước ta hiện nay, đòi hỏi sinh viên Việt Nam phải nâng cao khả năng nắm bắt tri thức khoa học cơ bản, khoa học chuyên ngành để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH, những đòi hỏi khắt khe của thị trường sức lao động thời kỳ phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng như đòi hỏi của thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Điều đó cũng đòi hỏi sinh viên phải được giáo dục và rèn luyện để trở thành những con người có phẩm chất chính trị - đạo đức lối sống tiến bộ, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Để hội tụ được đầy đủ những phẩm chất trên đây, thì điều quan trọng là sinh viên phải được trang bị một cách đầy đủ, toàn diện thế giới quan duy vật biện chứng. Việc trang bị đó chủ yếu là thông qua quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên hiện nay là một trong những công việc quan trọng nhất của công tác giáo dục lý luận, trong các trường đại học, cao đẳng. Nói về tầm quan trọng của thế giới quan, đặc biệt là thế giới quan duy vật biện chứng đối với người cộng sản, Lênin viết: Người nào bắt tay giải quyết những vấn đề riêng, trước khi giải quyết những vấn đề chung, thì kẻ đó trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi vấp phải những vấn đề chung một cách không tự giác mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa đưa chính sách của mình đến chỗ có những dao động tồi tệ nhất và mất tính nguyên tắc [28, tr.437]. Thật vậy, trước khi con người hoạt động thực tiễn thì phải có sự định hướng đúng đắn nếu không có sự định hướng thì hoạt động của họ là mò mẫm dễ dẫn đến thất bại. Như vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên hiện nay có vai trò to lớn. 1.1.2.1. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần xây dựng lý tưởng sống cao đẹp cho sinh viên Lý tưởng sống cao đẹp của sinh viên ngày nay là độc lập dân tộc và CNXH, là học tập, rèn luyện vì ngày mai lập thân, lập nghiệp, vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Mỗi sinh viên phải biết phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Sinh viên Việt Nam là những người có tuổi đời còn trẻ, họ có nhiều hoài bão ước mơ, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn thử thách, cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho mục tiêu cao cả của dân tộc. Nhưng ở họ lại có những hạn chế, tuổi đời còn ít, kinh nghiệm cuộc sống chưa nhiều, lại thiếu từng trải, vì vậy trong cuộc sống nhiều lúc họ tỏ ra bồng bột, chưa thực sự chín chắn trong suy nghĩ và hành động. Do đó, cần phải giáo dục hướng dẫn sinh viên hình thành lý tưởng cao đẹp, biết biến lý tưởng thành hiện thực, biết cụ thể hóa lý tưởng của mình trong cuộc sống lao động, học tập và sinh hoạt. Lý tưởng cao đẹp là những giá trị chỉ đạo, điều khiển hoạt động, hành vi hàng ngày của mỗi sinh viên. Lý tưởng cao đẹp không hình thành tự phát trong mỗi sinh viên mà phải thông qua giáo dục mới có được. Lý tưởng cao đẹp chỉ được xây dựng trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, ở đó có sự thống nhất giữa khoa học và niềm tin, giữa lý trí và tình cảm. 1.1.2.2. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần xây dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh Giáo dục đạo đức cho sinh viên ngày nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, bởi vì nó là cơ sở nền tảng hình thành con người mới vừa "hồng" vừa "chuyên", những con người như vậy mới gánh vác được trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó là "lực lượng quan trọng trong sự nghiệp thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa". Trong khi ấy thì một thực tế đang diễn ra trong một bộ phận sinh viên, như nhận định của TS. Hoàng Trang - Trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đó là "Những tiêu cực do cơ chế thị trường nẩy sinh đang lan vào các trường đại học, cao đẳng đã ảnh hưởng không tốt đến các hoạt động của nhà trường, làm giảm sút chất lượng học tập và đạo đức, lối sống trong một bộ phận sinh viên... nguy hại hơn nữa là sự xói mòn, xuống cấp đạo đức, phẩm chất của một bộ phận sinh viên" [15, tr.154]. Trước thực trạng suy thoái về đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay, thì việc xây dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh cho sinh viên hiện nay làm cho họ vừa có tài vừa có đức trong đó đức là gốc, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xây dựng đất nước là một trong những vấn đề cấp bách đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng CNXH khỏi chệch hướng. Nhưng vấn đề là làm thế nào để xây dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh cho sinh viên trong điều kiện hết sức khó khăn, có sự tác động khách quan của cơ chế thị trường ở nước ta và thế lực thù địch thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", chống CNXH ở nước ta. Trong nhiều năm qua, chúng đã tìm mọi cách gieo rắc trong sinh viên lối sống thực dụng, ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, sùng bái đồng tiền. Việc xây dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh sẽ không phải chỉ là tuyên truyền, hô hào, kêu gọi sinh viên làm việc thiện, không làm điều ác, là sống có tình có nghĩa, là phải hy sinh lợi ích riêng của cá nhân để phục vụ cho lợi ích chung... mà vấn đề cốt lõi là phải trang bị cho sinh viên thế giới quan duy vật biện chứng một cách toàn diện và vững chắc. Bởi vì, khi được giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng sẽ hình thành ở sinh viên nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa. Nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa là quan niệm của người ta về cuộc đời, ý nghĩa, mục đích của con người là phải đấu tranh để thực hiện một xã hội không còn áp bức bóc lột giữa con người với nhau, một xã hội công bằng, ở đó con người có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và có đời sống văn hóa tinh thần phong phú. Từ đó sinh viên thấy được giá trị, ý nghĩa và mục đích cuộc sống của con người, "không có gì quý hơn độc lập tự do", do vậy, tình cảm, ý chí và đạo đức cách mạng trong bản thân sinh viên được nâng lên. Đó là "bức tường thép" để ngăn chặn lối sống vô đạo đức, thực dụng trọng đồng tiền trong sinh viên ngày nay. Họ sẽ biết nêu cao tinh thần đấu tranh bảo vệ chân lý, bảo vệ cái đúng, cái tốt, lên án cái ác, cái xấu và cái tiêu cực, có thái độ kiên quyết, dứt khoát đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi mọi cái tiêu cực, sa đọa, suy thoái về đạo đức và lối sống trong nhà trường cũng như ngoài xã hội. Mặt khác, khi được giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng sinh viên sẽ biết sống đoàn kết, đoàn kết giữa cá nhân và tập thể, biết hòa chung vào sự phát triển của tập thể từ lớp, khoa, trường đến toàn xã hội. Nó giúp cho sinh viên biết giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và xã hội, biết đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, biết hy sinh cái riêng để phục vụ cho cái chung. Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho sinh viên biết yêu lao động, thường xuyên lao động, học tập một cách nghiêm túc, đem lại chất lượng và hiệu quả cao, từ đó họ có khả năng vươn lên làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến để xứng đáng với vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Như Bác Hồ đã dạy "Học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh, tức là làm tròn nhiệm vụ của người làm chủ nước nhà" [40, tr.83]. 1.1.2.3. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần rèn luyện phương pháp tư duy khoa học nhằm khắc phục những tư tưởng duy tâm Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò to lớn trong việc hình thành và phát triển tư duy lý luận cho sinh viên. Từ hoàn cảnh thực tiễn của nước ta, xuất phát từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu thực hiện quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, do đó đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam còn mang nặng tư duy kinh nghiệm. Bên cạnh đó chúng ta lại thu được thắng lợi to lớn trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, nên chúng ta dễ rơi vào tư tưởng chủ quan duy ý chí. Hai căn bệnh cố hữu này đang trở thành lực cản to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa. Những căn bệnh này đã và đang tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. Nó cũng là lực cản rất lớn cho công tác giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Hiện nay sinh viên Việt Nam nói riêng và thế hệ trẻ nói chung đang đứng trước một thực tế là có sự dao động về thế giới quan. Thế giới quan duy tâm với phương pháp tư duy siêu hình đang hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của họ. Thế giới quan duy vật biện chứng đang được giáo dục cho sinh viên thông qua hệ thống nội dung chương trình nhưng thực tiễn của đất nước có sự thay đổi lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, hơn nữa thế giới lại có sự biến động to lớn, đó là chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, chủ nghĩa tư bản đang vẫn còn thể hiện sức sống của mình về tiềm lực kinh tế và quân sự. Các nhà nước tư bản lại có những điều chỉnh mới về chính sách... Tất cả thực tiễn đó đang đặt ra cho sinh viên sự lựa chọn định hướng. Do đó, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của sinh viên để cho họ có khả năng giải thích những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống một cách khách quan và khoa học. Hiểu được tính khoa học và cách mạng của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, hiểu được đường lối, chính sách của Đảng ta là đúng đắn, họ sẽ có khả năng khắc phục được những sai lầm trong nhận thức, chống lại những tư tưởng phản khoa học và cách mạng, chống lại thế giới quan duy tâm siêu hình. Như vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ngày nay để bản thân họ có một thế giới quan khoa học, hình thành ở họ một phương pháp luận khoa học để giúp họ tránh khỏi những vấp váp, sai lầm trong cả suy nghĩ và hành động. Lênin đã chỉ rõ: "Không có một cơ sở triết học vững vàng thì tuyệt nhiên không có khoa học tự nhiên nào hay chủ nghĩa duy vật nào có thể tiến hành đấu tranh chống được sự lấn bước của những tư tưởng tư sản và sự phục hồi thế giới quan tư sản. Muốn tiến hành được cuộc đấu tranh ấy và đưa nó đến thành công hoàn toàn, nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà duy vật hiện đại... phải là một nhà duy vật biện chứng [30, tr.30]. 1.1.2.4. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho sinh viên nhận thức sâu sắc những vấn đề của thời đại Thế giới quan duy vật biện chứng mà hạt nhân lý luận của nó là triết học duy vật biện chứng cùng với các khoa học khác đã luận chứng về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của một chế độ mới, chế độ cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Lý luận khoa học đó đã được thực tiễn chứng minh bằng sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã nổ ra và thắng lợi ở khắp năm châu; chính hệ thống này đã góp phần to lớn cho việc giữ gìn hòa bình, thúc đẩy tiến bộ xã hội, đã làm náo nức hàng triệu triệu con người trên thế giới. Hiện nay chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bị tan rã, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào. Trong khi đó chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn còn thể hiện sức sống của nó. Các nhà nước tư sản có những điều chỉnh trong quan hệ sản xuất, điều chỉnh về chính sách xã hội, do đó xét những biểu hiện bên ngoài, thì chúng ta dễ lầm tưởng rằng chủ nghĩa tư bản là tiến bộ, là tốt đẹp, chủ nghĩa xã hội đã chấm dứt sự tồn tại của mình và như vậy là họ có thể dao động, có thể mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Nhưng nếu được trang bị một cách toàn diện và khoa học về thế giới quan duy vật biện chứng thì chúng ta sẽ có những nhận thức đúng đắn về tình hình chính trị - xã hội trên thế giới đang diễn ra hết sức phức tạp. Thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp cho sinh viên hiểu được chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay vẫn không phải là chế độ tiến bộ nhất trong lịch sử loài người, chủ nghĩa xã hội đã lâm vào khủng hoảng, nhưng đó là sự khủng hoảng của một mô hình không phù hợp mà thôi. Sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội là sự khủng hoảng trong sự trưởng thành, theo quy luật vận động của xã hội, chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ chiến thắng. Những thành công trong công cuộc đổi mới của Trung Quốc và Việt Nam là thực tiễn sinh động chứng minh cho xu hướng tất yếu của lịch sử. Đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho sinh viên hiểu được độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu của dân tộc ta, hiểu được chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta. 1.1.2.5. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho sinh viên tìm ra phương pháp đúng đắn để cải tạo hiện thực Thế giới quan duy vật biện chứng là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Vì vậy, ngoài việc tiếp thu bản thể luận, sinh viên còn được trang bị về phương pháp luận tức là những quan điểm, các nguyên tắc để nhận thức và cải tạo thế giới. Vì vậy, thông qua giáo dục thế giới quan, phương pháp nhìn nhận, cải tạo thế giới sẽ được hình thành và phát triển. Mặt khác, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là phương pháp rèn luyện tư duy lý luận cho người học, chủ yếu là gắn lý luận với thực tiễn. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng không những cung cấp tri thức khoa học ở trong nhà trường mà còn hướng dẫn chỉ đạo cho sinh viên biết đem lý luận đã học vào rèn luyện trong đời sống thực tiễn. Không phải ngẫu nhiên mà phong trào sinh viên tình nguyện - màu áo xanh thanh niên, sinh viên tình nguyện đã trở nên thân thương và rất quen thuộc với người dân Hà Nội cũng như nhân dân cả nước nói chung. Đa số sinh viên Việt Nam sau khi ra trường, sẵn sàng đi bất cứ nơi nào để cống hiến sức trẻ và trí tuệ của mình cho sự giầu có và phát triển của đất nước. Những công việc mà họ đã làm là bởi lẽ họ đã được giáo dục rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong nhà trường, họ đã biết đem những lý luận đã được học vào vận dụng trong thực tiễn cuộc sống. Giữa họ sẽ có sự thống nhất giữa học và hành, lời nói và việc làm. Như vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho sinh viên tham gia vào hoạt động thực tiễn đạt kết quả tốt. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là quá trình giúp cho sinh viên rèn luyện năng lực giải quyết công việc của mình, cũng như tự rèn luyện mình để hòa nhập vào hoạt động chung của xã hội. Tóm lại, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên hiện nay có một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng để họ có được một lập trường cách mạng vững chắc, để nhận ra được cuộc đấu tranh gay go phức tạp giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ngày nay để thấy rõ được sự xuyên tạc của bọn cơ hội, bọn phản động muốn bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thế giới có những diễn biến phức tạp.. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho sinh viên Việt Nam có được phương pháp luận khoa học, từ đó họ có niềm tin vào CNXH, vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta. Khi đã có niềm tin và lập trường vững vàng thì sinh viên tham gia vào thực tiễn cuộc sống với tư cách người lao động có trình độ cao, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Như vậy, giáo dục thế giới quan duy vật cho sinh viên hiện nay có một vai trò hết sức quan trọng, tuy nhiên việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng muốn đem lại hiệu quả cao thì đòi hỏi phải thực hiện dựa trên hệ các điều kiện như đã chỉ ra. Nhưng các điều kiện trên không phải do tư tưởng, do ý muốn của con người quyết định mà suy cho cùng nó lại phụ thuộc vào điều kiện của hoàn cảnh xã hội cụ thể. Bởi vì, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử. Mác viết "không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ: trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ" [36, tr.15]. Vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, các nhân tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và khoa học của mỗi thời kỳ lịch sử đều tác động, ảnh hưởng đến quá trình hình thành phát triển ý thức, tư tưởng, thế giới quan của mỗi người. Do đó, quá trình giáo dục và tự giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên Hà Nội hiện nay đều chịu tác động của những điều kiện trong nước và thế giới cũng như những điều kiện đặc thù của Hà Nội hiện nay. Thực tiễn đã chứng nhận rằng sự tác động đó đều diễn ra cả hai chiều tích cực và tiêu cực. Luận văn tập trung làm sáng tỏ những nhân tố cơ bản tác động đến quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay để nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực. 1.2. Những nhân tố tác động đến việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay Sinh viên Hà Nội là con em của mọi tầng lớp nhân dân sống ở các vùng miền khác nhau về học tập ở các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội, do đó điều kiện kinh tế xã hội của đất nước cũng như của thế giới cùng những điều kiện đặc thù của Hà Nội đều tác động đến việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên. 1.2.1. Sự tác động của điều kiện trong nước và thế giới 1.2.1.1. Sự tác động của những điều kiện trong nước Trước hết phải tính đến sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội. Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, qua gần hai mươi năm đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã thu được những thành tựu hết sức quan trọng về kinh tế và xã hội. "Kinh tế tăng trưởng khá, văn hóa - xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện" [19, tr.16]. Những thành tựu này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, và nó là tiền đề trực tiếp cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiếp tục thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng, nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn ở trạng thái chậm phát triển so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Đời sống của một bộ phận nhân dân hiện nay vẫn ở mức thấp. Nguyên nhân căn bản là chúng ta xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp, nghèo nàn lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tồn tại lâu dài ở nước ta đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân ta và tác động đến cả quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên hiện nay. Phần lớn sinh viên Hà Nội là con em của nhân dân ở khắp các vùng miền khác nhau. Vì vậy, họ luôn luôn được kế thừa cả những yếu tố tích cực và hạn chế của người nông dân Việt Nam. Những yếu tố tích cực ví dụ như lòng yêu nước, tính cần cù chịu khó, dũng cảm, luôn được thế hệ trẻ kế thừa và phát huy. Bên cạnh đó, những hạn chế của người nông dân như: đầu óc tư hữu, nếp nghĩ và tư duy thiển cận, tư duy kinh nghiệm là chủ yếu, cung cách làm ăn tủn mủn, tùy tiện, thiếu tổ chức kỷ luật đã ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho thế hệ ngày nay nói chung và sinh viên Hà Nội nói riêng. Thực tiễn xã hội loài người đã chứng minh con người vừa là chủ thể của hoàn cảnh, nhưng đồng thời vừa là sản phẩm của hoàn cảnh. Mác đã viết "Con người trong chừng mực mà họ là hiện thân của những phạm trù kinh tế, là kẻ đại biểu cho những quan hệ lợi ích giai cấp nhất định" [38, tr.21]. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì tất cả những ưu và nhược điểm của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đã và đang tác động đến quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay. Có thể khẳng định rằng sự tác động tích cực là chủ yếu, song sự tác động tiêu cực cũng không nhỏ. Sự tác động tích cực được thể hiện như: góp phần phá vỡ tình trạng chia cắt, cục bộ, manh mún, vốn là sản phẩm của nền kinh tế tự cung tự cấp gây ra. Đồng thời, khắc phục được tình trạng thụ động, ỷ lại của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Điều kiện này đã tác động quan trọng tới sự phát triển năng lực tư duy biện chứng của mỗi người đặc biệt là sinh viên Hà Nội nói riêng. Bởi tư duy kinh nghiệm, siêu hình đã trở thành lực cản rất lớn cho quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức mới của sinh viên. Cơ chế thị trường có những đòi hỏi khắt khe về thị trường lao động, về nguồn lực đó là những con người phải có trình độ học vấn cao, có năng lực chuyên môn vững chắc, năng động sáng tạo trong các lĩnh vực lao động và cuộc sống. Những đòi hỏi khắt khe của cơ chế thị trường đã và đang tác động đến sinh viên, đòi hỏi sinh viên khắc phục được tính thụ động, ỷ lại, dựa dẫm, lười học tập, lười nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, sinh viên ngày nay đặc biệt là sinh viên Hà Nội năng động hơn, thông minh hơn, dám tự khẳng định mình, dám đương đầu với những khó khăn bước đầu trên con đường lập nghiệp, thôi thúc sinh viên không chỉ coi trọng việc học tập, nghiên cứu những tri thức chuyên môn ngành nghề, mà còn ham muốn được học tập nghiên cứu lý luận, tìm hiểu về đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Từ khi chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế của đất nước đã có những bước chuyển lớn. Đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao, đời sống văn hóa có những bước tiến bộ rõ rệt. Những thành tựu đó đã bước đầu tạo ra niềm tin của nhân dân nói chung và sinh viên nói riêng về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy, sinh viên đã có niềm tin chủ nghĩa xã hội, họ gắn bó với lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đa số sinh viên ngày nay nêu cao tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Vì vậy, nó đã tạo ra điều kiện để khắc phục những nhận thức lệch lạc, dao động, suy giảm niềm tin khi họ bị tác động của mặt trái cơ chế thị trường và sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Trong cơ chế mới hiện nay, việc mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật với nhiều nước trên thế giới đã tạo điều kiện cho nhân dân trong đó có sinh viên học hỏi, tiếp thu và kế thừa những tư tưởng tiến bộ, văn minh, những thành tựu về khoa học, kỹ thuật và văn hóa của nhân loại và của thời đại. Điều này có ảnh hưởng tích cực tới việc tiếp thu, lĩnh hội, nâng cao trí tuệ, hình thành và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội nói riêng và sinh viên cả nước nói chung. Về tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực là chủ yếu thì cơ chế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường trong quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên Hà Nội nói riêng và sinh viên cả nước nói chung là: Thứ nhất: Trong cơ chế thị trường, do đề cao lợi ích cá nhân đã làm cho nhiều người và cả sinh viên hiện nay nẩy sinh tư tưởng và lối sống thực dụng, sống vì tiền. Vì tiền và đề cao nhu cầu vật chất quá mức nên có người đã bất chấp mọi giá trị đạo đức, văn hóa, kỷ cương, nhằm đạt được lợi ích cá nhân. Thứ hai: Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ đã xuất hiện một số biểu hiện không lành mạnh như mê tín dị đoan phát triển, thị hiếu bắt chước không lành mạnh, các tệ nạn xã hội phát triển; cũng như một số hoạt động về đời sống tâm linh, tôn giáo được đề cao quá mức ở một bộ phận nhân dân. Những hiện tượng tiêu cực đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân ta và nó sẽ gây trở ngại đối với việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên và sinh viên Hà Nội nói riêng. Như vậy là từ điều kiện kinh tế - xã hội đến văn hóa đã và đang tác động cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực đối với quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay. 1.2.1.2. Sự tác động của điều kiện quốc tế Tình hình thế giới vào những năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI đang có những biến đổi lớn lao. Sự biến đổi đó đang tác động đến sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Sự tác động đó có những mặt tích cực và cả những mặt hạn chế. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã xác định "Những nét mới trong tình hình thế giới và khu vực tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta, trước mắt nhân dân ta có cả cơ hội và thách thức lớn" [19, tr.14]. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là do công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... nền kinh tế thế giới đang có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc biệt. Lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức. Nền văn minh của loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Vì vậy, những nước phát triển hiện nay trên thế giới là những nước tư bản đã có một tiềm lực mạnh để tiếp tục phát triển kinh tế tri thức... Kinh tế tri thức đã và đang tạo ra tốc độ phát triển "chóng mặt"... Do đó, đời sống của người lao động được cải thiện. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức thì những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản cũng phát triển gay gắt. Chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh lớn về chính sách xã hội. Do đó, nhờ hệ thống thông tin mà mỗi chúng ta đều biết được đời sống vật chất và tinh thần của người lao động được cải thiện, những chính sách như trợ cấp thất nghiệp, công nhân được mua cổ phiếu, cổ phần... đã tạo ra một vỏ bọc, để mỗi người có thể hiểu rằng chủ nghĩa tư bản ngày nay dường như nhân đạo hơn, dường như những thay đổi về chính sách xã hội đã điều chỉnh được mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản. Vì vậy, chính hiện tượng này, nhân dân chúng ta, đặc biệt là sinh viên Việt Nam hiện nay nếu không được trang bị hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin một cách khoa học và toàn diện, không được giáo dục đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước một cách khoa học sẽ dễ dàng hiểu rằng chế độ tư bản chủ nghĩa là chế độ tiến bộ nhất trong lịch sử loài người, rằng chủ nghĩa xã hội đã thuộc về quá khứ. Bên cạnh đó, chúng ta phải nhận thấy trong kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế. Mà toàn cầu hóa kinh tế từ thực tiễn ngày nay nhiều nhà khoa học về kinh tế và xã hội đã khái quát hóa và đưa ra nhận định giống nhau đó là: "Toàn cầu hóa có tác động tích cực, tiêu cực, sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trong mỗi quốc gia và trên thế giới". Trong Đại hội lần thứ 14 hiệp hội các hội đồng nghiên cứu khoa học xã hội châu á tổ chức tại Việt Nam, đồng chí Phạm Đức Thành - Viện Nghiên cứu Đông Nam á đã khẳng định: "Toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh" [50, tr.140]. Những tác động tích cực của toàn cầu hóa đó chính là tạo cơ hội lớn cho từng quốc gia thu hút các nguồn vốn, tiếp thu công nghệ mới, tiếp thu kinh nghiệm, tạo cơ hội mở rộng thị trường. Toàn cầu hóa còn góp phần làm cho sự tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao. Toàn cầu hóa tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hiện đại hóa của từng quốc gia. Đối với Việt Nam, mặc dù chúng ta chưa chịu tác động trực tiếp của toàn cầu hóa như nhiều nước trên thế giới, nhưng chính đường lối mở cửa hội nhập của nước ta ._.ác môn học Mác - Lênin, lần lượt xuất bản các giáo trình môn học. Như đã phân tích ở phần trên, nội dung chương trình các môn học Mác - Lênin hiện nay có nhiều ưu điểm, khắc phục được những hạn chế của bộ đề cương bài giảng ban hành năm 1999. Tuy nhiên, việc đổi mới nội dung chương trình còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tế xã hội đặt ra trong việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Do đó, đổi mới nội dung chương trình các môn học Mác - Lênin hiện nay cần phải đáp ứng được mục tiêu đào tạo cơ bản, hệ thống, thống nhất, chuyên sâu, vừa bảo đảm tính hợp lý, lôgíc trong kết cấu, vừa đặt ra yêu cầu cao để sinh viên phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của mình trong quá trình học tập, tự học. Bên cạnh đó, nội dung chương trình phải được biên soạn theo hướng tăng cường thời gian tự học, thời gian xêmina, nhằm làm cho sinh viên phát huy hết khả năng của mình trong quá trình học tập. Đổi mới nội dung chương trình phải căn cứ vào đối tượng sinh viên của từng ngành cụ thể, thiết thực với nghề nghiệp của họ, giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn học tập, thực tiễn nghề nghiệp của sinh viên trong tương lai. Có như vậy mới tạo nên được ý thức vươn lên, sự tìm tòi và lòng say mê hứng thú trong việc học tập của môn khoa học Mác - Lênin trong mỗi sinh viên. Thứ hai: Phát huy tính tích cực tự giác, chủ động sáng tạo trong hoạt động tự học các môn khoa học Mác - Lênin của sinh viên hiện nay. Tự học của sinh viên là một khâu trong quá trình đào tạo, vừa là yêu cầu của sự phát triển nhận thức và rèn luyện phẩm chất nhân cách theo mô hình đào tạo đã được xác định. Đó là quá trình người học lấy chính mình để làm đối tượng giáo dục, là quá trình hướng nội nhằm biến đổi các phẩm chất tâm lý nhận thức, tình cảm, ý chí của bản thân mình. Trong quá trình đó, sinh viên vừa là chủ thể vừa là đối tượng giáo dục, họ vừa là người tích cực, chủ động đề ra kế hoạch, nội dung chương trình, mục tiêu, phương hướng, biện pháp tự học trên cơ sở của quá trình dạy học và mục tiêu dạy học, vừa là người thực hiện nội dung chương trình đó. Chất lượng tự học của sinh viên là kết quả của sự tác động biện chứng giữa các nhân tố khách quan của quá trình giáo dục với sự phát huy nội lực của chính họ. Trong các yếu tố khách quan của quá trình giáo dục như nội dung chương trình, mục tiêu, chất lượng và phương pháp dạy học của giảng viên, điều kiện vật chất đảm bảo cho quá trình học tập cùng với việc quản lý giáo dục của nhà trường. Tất cả các yếu tố đó dù tác động mạnh mẽ đến đâu cũng không thể đạt hiệu quả cao nếu không có sự kết hợp từ nội lực chủ quan của sinh viên. Muốn phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong hoạt động tự học cần tập trung vào một số vấn đề sau: - Giáo dục cho sinh viên nâng cao nhận thức, thái độ, động cơ nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm trong tự học của họ. Thường xuyên giáo dục cho sinh viên xác định đúng vai trò, vị trí của tự học trong quá trình giáo dục; xây dựng động cơ học tập, tự học đúng đắn, làm cho họ nhận thức rõ được mục đích của hoạt động tự học các môn học Mác - Lênin là chiếm lĩnh tri thức lý luận chính trị tiên tiến của thời đại làm cơ sở để hình thành ra thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học phục vụ cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của sinh viên. Thứ ba: Đẩy mạnh hoạt động của các đoàn thể, tăng cường các biện pháp động viên thi đua trong học tập và rèn luyện. Hoạt động của các đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng là nơi để sinh viên tham gia hoạt động thực tiễn, thể hiện khả năng của sinh viên, cũng là nơi để sinh viên tự rèn luyện bản thân. Song như đã chỉ ra ở phần thực trạng, số lượng sinh viên tham gia vẫn còn khiêm tốn, vì vậy những hoạt động của Đoàn Thanh niên ở Hội sinh viên thành phố Hà Nội tổ chức cần phải đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức nhằm khích lệ sinh viên hăng hái tham gia thi đua trong học tập và rèn luyện. Cụ thể là Đoàn thanh niên và Hội sinh viên phải đưa phong trào thi đua nghiên cứu khoa học trong sinh viên trở thành thường xuyên, đồng thời phát động trong các chi đoàn phong trào đọc các sách văn học, xã hội có nội dung giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên như cuốn nhật ký "Mãi mãi tuổi hai mươi", nhật ký "Đặng Thùy Trâm" hay cuốn "Thép đã tôi thế đấy". Động viên sinh viên tham gia thi đua thực hiện phong trào "rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp", "vì dân giầu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Khơi dậy trong sinh viên ý chí phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Những hoạt động đoàn thể là môi trường tốt nhất để sinh viên thể hiện mình, đồng thời là dịp để xã hội nhìn nhận, đánh giá đúng hơn về vai trò của sinh viên Hà Nội - là lớp người năng động, chịu khó, ham học hỏi, luôn có xu hướng vươn lên phía trước, hướng về tương lai hoài bão, ước mơ tốt đẹp. Là lớp người đảm đương được trọng trách tiếp bước cha ông để làm nên chiến thắng lớn lao của dân tộc ta trong giai đoạn thực hiện thành công CNH, HĐH, định hướng XHCN như là một "huyền thoại mới của dân tộc Việt Nam". Thứ tư: Nhà trường cần cải tiến công tác quản lý sinh viên ngoài giờ lên lớp. Trong nhà trường không nên quan niệm rằng, quá trình tự học, tự rèn luyện là việc riêng của mỗi cá nhân sinh viên, từ đó dẫn đến buông lỏng trong tổ chức quản lý, làm cho hoạt động tự học của sinh viên diễn ra một cách tự phát "phận ai người ấy lo". Mà phải xác định hoạt động tự học, tự rèn luyện của sinh viên phải đặt dưới sự quản lý chặt chẽ và được đánh giá, kiểm tra thường xuyên của trường, để kịp thời uốn nắn những sinh viên còn lười học, ham chơi... đồng thời biểu dương khen thưởng những sinh viên có thái độ, động cơ đúng đắn trong học tập, có kết quả cao trong học tập. Đây là điều kiện để nâng cao tính tích cực, tự giác của sinh viên trong hoạt động tự học của họ. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý sinh viên của nhà trường, cần phải tăng cường vai trò kiểm tra của đội thanh niên xung kích, của ban quản lý ký túc xá. Nhà trường cần có một ban quản lý sinh viên ngoài ký túc xá, để nắm bắt được nơi ở của sinh viên thuê trọ bên ngoài, cùng phối hợp với tổ dân phố và công an khu vực nơi sinh viên tạm trú nhằm phát huy khả năng tự giáo dục và rèn luyện của sinh viên cao hơn. 2.3.4. Đầu tư trang thiết bị và các phương tiện vật chất khác phục vụ cho việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao Để đáp ứng được mục tiêu giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay, không thể không thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy. Giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở nước ta hiện nay cũng không thể không thực hiện tiến hành đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên việc đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin là một việc làm rất khó khăn và việc khó khăn nhất như "lực bất tòng tâm" đối với đội ngũ giảng viên Mác - Lênin đó là sự thiếu hụt vì cơ sở vật chất, trang thiết bị và các phương tiện hỗ trợ dạy học còn rất lạc hậu. Do đó, muốn thực hiện đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin để nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên thì nhất thiết phải đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại, thuận tiện. Để thực hiện được yêu cầu đó đòi hỏi các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội phải quan tâm thực hiện các yêu cầu sau đây: Thứ nhất: Cần cải tạo, nâng cấp, trang bị thêm những phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho quá trình dạy và học, các nhà trường phải xây dựng phòng học hiện đại đạt chuẩn quốc gia để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy. Khắc phục tình trạng thiếu phòng học, phải học ghép các lớp có sinh viên khác chuyên ngành, bởi nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Phòng học phải được trang bị đầy đủ các phương tiện hiện đại đó là máy vi tính, đèn chiếu, video... để tạo điều kiện học tập và giảng dạy tốt cho sinh viên và giảng viên. Cần phải xây dựng các phòng học bộ môn phục vụ cho việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy và học tập để bài giảng của giảng viên trở nên sinh động, hấp dẫn, có sức thuyết phục cao, lôi cuốn sinh viên hứng thú tập trung vào học tập và tự học một cách tích cực. Thứ hai: Nhà trường phải đầu tư kinh phí cho thư viện, để làm sao mỗi sinh viên phải có một bộ giáo trình các môn khoa học Mác - Lênin. Bên cạnh đó phải có đầy đủ các tài liệu tham khảo phục vụ cho môn học như tạp chí lý luận, tạp chí chuyên ngành, báo nhân dân. Bởi vì, yêu cầu thực hiện đổi mới phương pháp dạy học là nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên, phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên trong khi không có đầy đủ giáo trình và tài liệu tham khảo thì yêu cầu đó không thể thực hiện được. Các nhà trường từng bước tiến tới xây dựng thư viện hiện đại có những trang thiết bị hiện đại như máy vi tính, nối mạng internet để sinh viên có điều kiện nắm bắt những thông tin nhanh nhất thông qua truy cập mạng internet, cả những dữ liệu khoa học để chứng minh cho những tri thức trừu tượng của môn học như Triết học nhằm giúp cho người học hiểu tri thức một cách sâu sắc. Trước đây chúng ta thường quan niệm rằng chỉ có thể tìm được những quan điểm duy vật vô thần ở các nước XHCN. Nhưng ngày nay qua mạng internet chúng ta có thể truy cập được hàng vạn những trích dẫn duy vật vô thần từ các nhà triết học, khoa học, hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội ở các nước phương Tây. Đây chính là điều kiện khách quan để làm phong phú cho chủ nghĩa duy vật biện chứng, là điều kiện để sinh viên tiếp nhận những tri thức khoa học Mác - Lênin một cách tự nhiên mà không có cảm giác gượng ép như phương pháp giảng dạy cũ. Thứ ba: Nhà trường cần phải tạo điều kiện đầy đủ về vật chất để giảng viên khoa học Mác - Lênin và sinh viên được đi thực tế tiếp thu những thành tựu kinh tế - xã hội từ đó sinh viên liên hệ với lý luận đã học, từ đó sinh viên có sự đối chiếu, đánh giá về các tri thức đã học, họ sẽ cảm thấy lý luận gắn liền với thực tiễn, làm cho những bài học của họ không còn mang tính kinh viện, giáo điều mà những tri thức đó là sống động, có ý nghĩa thực tiễn thiết thực gây ra được tình cảm của sinh viên đối với môn học, từ đó đem đến quá trình dạy học đạt hiệu quả cao. Tóm lại: Bốn giải pháp nói trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, do đó cần phải được thực hiện đồng bộ để đem lại hiệu quả cao cho công tác giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội góp phần thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới ở nước ta đề ra trong nghị quyết Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX. Kết luận Sau gần hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội. Tuy nhiên, trong những năm tới để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đề ra "thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa"; hơn bao giờ hết, Đảng ta phải phát huy cao độ nguồn lực con người Việt Nam, trong đó phải kể đến một lực lượng quan trọng là sinh viên Hà Nội nói riêng và sinh viên cả nước nói chung. Bởi lẽ, họ sẽ là những trí thức tài giỏi trong tương lai, là nguồn nhân lực có trình độ cao, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nhiệm vụ rất nặng nề nhưng cũng rất vinh quang mà đất nước giao cho họ là vừa rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức mới, vừa học tập tiếp thu trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến để làm nên chiến thắng lẫy lừng cho dân tộc Việt Nam trên lĩnh vực xây dựng và phát triển kinh tế, như những chiến thắng mà thế hệ cha ông đã làm nên "Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù nào". Những năm qua, sự nghiệp giáo dục đào tạo đã được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và các cấp các ngành. Tuy nhiên, công tác giáo dục - đào tạo ở nước ta nói chung và ở Hà Nội nói riêng vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của đất nước. Một bộ phận không nhỏ trong sinh viên đã suy thoái về đạo đức lối sống, mơ hồ về chính trị, phai mờ lý tưởng XHCN, không có hoài bão, ước mơ, sống thờ ơ, ngại phấn đấu trong học tập và rèn luyện. Trong đó, sinh viên Hà Nội cũng chiếm phần nhiều. Bởi lẽ, quá trình giáo dục ngoài việc phụ thuộc vào chủ thể giáo dục, đối tượng giáo dục thì bản thân đối tượng giáo dục là sinh viên Hà Nội đã và đang chịu tác động của những điều kiện trong nước, quốc tế và cả những điều kiện đặc thù của Hà Nội. Đặc biệt quan tâm là sự tác động tích cực của sự biến động lớn của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới và sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường phát triển chưa hoàn thiện ở nước ta đến công tác giáo dục lý luận trong nhà trường mà trực tiếp là công tác giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội. Do vậy, mà việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay đang đứng trước những mâu thuẫn, đó là: - Mâu thuẫn giữa việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng trong nhà trường với những tác động đối lập ngoài xã hội. - Mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng ngày càng cao với khả năng còn hạn chế của đội ngũ giảng viên. - Mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy các môn học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với những điều kiện vật chất còn hạn chế. - Mâu thuẫn giữa việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng với sự tự giáo dục của sinh viên Hà Nội hiện nay. Muốn giải quyết những mâu thuẫn trên để nâng cao hiệu quả của quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục đào tạo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay còn thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây: - Xây dựng môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội lành mạnh. - Nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên. - Nâng cao vai trò, khả năng tự giáo dục của sinh viên. - Đầu tư trang thiết bị và các phương tiện vật chất khác phục vụ cho việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao. Thực hiện tốt các biện pháp này sẽ từng bước nâng cao được chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay. Danh mục tài liệu tham khảo Akitốp (1985), Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb Khoa học, Mátxcơva. Nguyễn Đăng An (2004), "Văn nghệ sĩ tri thức nói về Hà Nội", Báo Người Hà Nội, (42), tr.5. Ban Chấp hành Hội sinh viên thành phố Hà Nội (2003), Báo cáo tổng kết công tác Hội và phong trào sinh viên Hà Nội năm 2002-2003. Ban Chấp hành Hội sinh viên thành phố Hà Nội (2004), Báo cáo tổng kết công tác Hội và phong trào sinh viên Hà Nội năm 2003-2004. Ban Chấp hành Hội sinh viên thành phố Hà Nội (2005), Báo cáo tổng kết công tác Hội và phong trào sinh viên Hà Nội năm 2004-2005. Hoàng Chí Bảo (2000), "Giáo dục đạo đức, nhân cách cho sinh viên đại học ở nước ta hiện nay - quan niệm, vấn đề và giải pháp", Tạp chí Lý luận sinh hoạt chính trị, (39), tr.31-35. Nguyễn Duy Bắc (chủ nhiệm) (2003), Vấn đề dạy và học các môn khoa học Mác - Lênin trong các trường đại học ở Hà Nội, Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ năm 2002-2003. Vũ Thanh Bình (2003), "Nâng cao chất lượng dạy - học các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính trị trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề", Tạp chí Giáo dục, (62), tr.10-11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Dự thảo báo cáo tổng kết 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX. Các Tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam (2003), Những thách thức về việc làm cho thanh niên ở Việt Nam, Hà Nội. Nguyễn Hữu Cát (2003), "Những tác động cơ bản của toàn cầu hóa đến vấn đề độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội", Tạp chí Lịch sử Đảng, (10), tr.29-33. Nguyễn Trọng Chuẩn (1988), "Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học", Tạp chí Triết học, (3). Nguyễn Trọng Chuẩn (2000), "Nhìn lại việc nghiên cứu và giảng dạy triết học ở nước ta 55 năm qua", Tạp chí Triết học, (5/117), tr.5-10. Nguyễn Trọng Chuẩn (2003), "Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI", Tạp chí Triết học, (9/148), tr.5-10. Công tác tư tưởng và giảng dạy lý luận trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay (2002), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Lê Minh Cừ (2003), "Một số ý kiến về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên hiện nay", Tạp chí Giáo dục, (60), tr.7-8. Ngô Xuân Dậu (2000), "Xê mi na cần thiết cho đổi mới phương pháp dạy và học ở đại học", Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, (5), tr.19-21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Sự thật, Hà Nội. Trần Thanh Hà (1993), Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ, đảng viên người dân tộc Khơme ở đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nguyễn Thị Hiền (2004), "Nâng cao hiệu quả giờ thảo luận các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học và cao đẳng", Tạp chí Giáo dục, (47), tr.42-44. Nguyễn Huy Hoàng (2003), "Mấy suy nghĩ về việc xác định bản chất của thế giới quan", Tạp chí Triết học, (1/140), tr.21-25. Hội Sinh viên Việt Nam (1999), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VI, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Bùi ỉnh (1988), Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ, đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Vũ Khiêu (2003), "Sự suy thoái về đạo đức và giải pháp của chúng ta", Tạp chí Tâm lý học, (9, 12), tr.9-14, tr.11-14. Hoàng Kim (2003), "Nghĩ về nhân cách Hà Nội trong buổi đầu hình thành", Tạp chí Tâm lý học, (7), tr.12-14. Hoàng Thúc Lân (2004), Giảng dạy triết học Mác - Lênin với việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường đại học, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 15, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Phạm Ngọc Liên (2003), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục", Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị, (12), tr.7-10. V.L.Lixốpski và A.V.Mitriep (1974), Nhân cách của người sinh viên, Chương V sự hình thành thế giới quan, Nxb Đại học Tổng hợp Lêningrát. C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - Xtalin (1976), Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Luận cương về Phơ bách, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Chí Mỳ (2004), Phát triển nguồn nhân lực thủ đô Hà Nội thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong cuốn: "Thủ đô Hà Nội trong công cuộc xây dựng và phát triển". Bùi Ngọc (1981), "Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (8), tr.1-7. Lê Nguyên - Đỗ Sáng (dịch) (1984), "Thế giới quan của cá nhân và văn hóa triết học", Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị, (2), tr.27-38. Trần Văn Nhung (2004), "Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam: hội nhập và thách thức", Tạp chí Giáo dục, (86), tr.1-3, 19. Phạm Ngọc Quang (2002), "Tiếp tục đổi mới công tác lý luận trong tình hình hiện nay - vấn đề và giải pháp", Tạp chí Triết học, (2/129), tr.9-14. Trần Viết Quân (2002), Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Lê Thanh Sinh (2002), "Trang bị lý luận - phép biện chứng duy vật cho sinh viên là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong các trường đại học hiện nay", Tạp chí Triết học, (7/134), tr.59-64. Từ Sơn (dịch) (1985), "Những vấn đề cấp bách của sự hình thành thế giới quan Mác - Lênin", Tạp chí Giáo dục lý luận, (3), tr.59-61. Phạm Văn Thanh (2000), "Xây dựng đội ngũ giáo viên khoa học Mác - Lênin trong các trường đại học, cao đẳng", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (5), tr.62-65. Phạm Đức Thành (2001), Tác động của toàn cầu hóa đối với Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, Trích trong Kỷ yếu Đại hội lần thứ XIV Hiệp hội các Hội đồng nghiên cứu khoa học xã hội châu á (AASSREC). Trần Thước (1993), Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hoàng Trang (2002), Công tác tư tưởng và giảng dạy lý luận trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Phú Trọng (2004), "Thủ đô Hà Nội: sau 50 năm nhìn lại", Tạp chí Cộng sản, (19), tr.3-8. Nguyễn Thanh Tuấn (2003), "Đổi mới nội dung, phương pháp công tác lý luận", Tạp chí Triết học, (5), tr.11-15. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.L. Vaxilenco (1975), Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận của việc xây dựng thế giới quan khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Bản tự lược thuật, Luận án tiến sĩ Triết học. Đặng Nghiêm Vạn (1995), Đề tài nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn Hà Nội. Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. Nguyễn Văn Vinh (2001), Phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho sĩ quan cấp phân đội Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quân sự. Lê Xuân Vũ (1986), "Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần của nhân dân ta", Tạp chí Cộng sản, (6). Ch.L.Xmiếc cốp (1985), "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế giới Mác - Lênin", Tạp chí Giáo dục lý luận, (3). Phụ lục Phụ lục 1 Báo cáo số lượng giảng viên Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội TT Tên trường Tổng số Môn học Phân theo cấp Kiêm nhiệm Phân theo trình độ Phân theo tuổi Nữ Triết học KTCT CNXH KH LSĐ TT HCM GS PGS GVC GV TS ThS CN Dưới 40 41-50 51-60 Trên tuổi hưu ĐH Nông nghiệp I 23 7 6 5 3 2 10 13 5 1 9 13 10 4 9 7 ĐH Y Hà Nội 15 6 3 3 1 2 1 13 2 1 1 3 8 6 4 5 6 ĐH xây dựng Hà Nội 23 7 4 4 5 3 1 20 2 2 2 11 10 9 6 8 9 Học viện Ngân hàng 13 4 3 2 2 2 11 2 2 8 3 2 5 6 3 Học viện Hành chính 6 2 0 1 2 1 6 2 1 3 3 3 3 ĐH Quốc gia Hà Nội 82 22 14 16 15 15 1 12 33 36 40 28 21 33 21 17 41 3 31 ĐH Mỏ - Địa chất 20 5 4 3 4 4 11 9 1 7 10 8 5 7 9 ĐH Tài chính 28 5 9 5 5 4 15 13 3 14 14 7 8 13 12 ĐH Bách Khoa Hà Nội 27 10 12 3 1 1 6 21 2 8 17 15 5 7 11 ĐH Thủy lợi 15 4 4 2 4 1 6 9 1 4 10 7 1 7 4 ĐH Công đoàn 9 2 2 2 2 1 9 1 3 5 5 1 3 4 ĐH Thương mại 28 9 7 4 4 4 24 4 8 15 5 4 15 9 9 ĐH Ngoại thương 10 2 3 1 2 2 3 7 1 2 7 8 2 6 ĐHDL Phương Đông 35 13 7 7 4 4 7 7 21 20 12 3 3 14 15 1 ĐH Cảnh sát 13 4 3 3 2 1 1 12 5 2 7 5 8 ĐH Kinh tế Quốc dân 54 13 28 5 5 2 1 6 25 22 9 27 11 16 15 11 21 7 17 ĐH Văn hóa Hà Nội 11 4 3 1 2 1 3 8 5 6 5 5 1 8 ĐH Kiến trúc Hà Nội 9 2 2 1 2 2 1 8 3 6 6 2 1 ĐH Quan hệ quốc tế 4 1 1 1 1 1 3 2 2 2 2 1 ĐH Luật Hà Nội 17 6 3 3 3 2 10 7 5 5 7 10 4 3 4 ĐH Sân khấu Điện ảnh 3 1 1 1 1 2 3 1 2 1 ĐH Dược Hà Nội 14 3 4 3 2 2 8 6 4 10 6 6 2 4 ĐHDL Phương Đông 14 3 4 3 2 2 1 10 3 2 8 4 2 7 5 2 ĐH Sư phạm Hà Nội 54 17 14 9 8 6 1 7 18 29 ĐH Ngoại ngữ 12 3 3 3 3 5 7 ĐH Giao thông vận tải 20 6 6 4 4 1 8 11 ĐH Mỹ thuật Hà Nội 2 1 1 2 Cao đẳng công nghiệp Hà Nội 12 6 2 1 1 1 1 11 2 2 11 10 2 0 Cao đẳng khí tượng thủy văn Hà Nội 3 2 1 3 2 3 2 1 2 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo. Phụ lục 2 Về trình độ giảng viên của 7 trường đại học và cao đẳng Tên trường Tổng số PGS TS Thạc sĩ CN Dưới 40 41-50 51-60 Đại học Xây dựng 23 1 2 11 10 9 6 8 ĐH NN- ĐH QGHN 13 0 0 2 11 11 2 ĐH Sư phạm Hà Nội 54 1 7 18 29 Đại học Luật 17 0 5 5 7 10 4 3 Đại học Bách khoa 27 0 2 8 17 15 5 7 CĐKT thủy văn 3 0 0 0 3 2 1 CĐ công nghiệp Hà Nội 12 0 0 2 11 10 2 0 Nguồn: Khoa Mác - Lênin và tổ bộ môn Mác - Lênin. Phụ lục 3: Kết quả học tập các môn khoa học Mác - Lênin của sinh viên năm học 2003-2004 Đơn vị tính: % Môn học CĐ khí tượng thủy văn Hà Nội CĐ công nghiệp Hà Nội Đại học Luật Hà Nội Khá, giỏi TB Yếu Khá, giỏi TB Yếu Khá, giỏi TB Yếu Triết học Mác - Lênin 16,55 72,05 12,4 38,52 51,32 10,15 38,8 45,8 15,4 Kinh tế chính trị học Mác - Lênin 20 65,12 14,08 25,5 63,16 11,32 70 29 1 CNXH khoa học 13,74 80,25 7,01 24,18 64,11 11,69 29 52,4 18,6 Lịch sử Đảng 18,25 70,56 12,11 32,67 60,3 7,01 30,9 61,9 7,3 Tư tưởng Hồ Chí Minh 25,68 70,02 4,3 33,52 63,02 3,44 25,3 61,17 13,53 Nguồn: Phòng Đào tạo, Báo cáo tổng kết năm học 2003-2004. Phụ lục 4 Kết quả học tập các môn khoa học Mác - Lênin của sinh viên năm học 2004-2005 Đơn vị tính: % Môn học CĐ khí tượng thủy văn Hà Nội CĐ công nghiệp Hà Nội Đại học Luật Hà Nội Khá, giỏi TB Yếu Khá, giỏi TB Yếu Khá, giỏi TB Yếu Triết học Mác - Lênin 22,86 70,13 7,01 18,37 69,95 13,38 24,7 69,6 5,7 Kinh tế chính trị học Mác - Lênin 20,4 68,74 11,86 22,47 61,9 15,61 60 32 8 CNXH khoa học 24,74 72,16 3,1 33,9 62,5 3,6 Lịch sử Đảng 22,16 68,04 9,8 29,7 60,78 10,22 Tư tưởng Hồ Chí Minh Nguồn: Phòng Đào tạo, Báo cáo tổng kết năm học 2003-2004. Mở đầu 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4 3.1. Mục đích 4 3.2. Nhiệm vụ 4 3.3. Phạm vi nghiên cứu 4 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 4 4.1. Cơ sở lý luận 4 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn 5 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5 7. Kết cấu của luận văn 5 Chương 1: Tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay 6 1.1. thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên hiện nay 6 1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng và vệc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng 6 1.1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng 6 1.1.1.2. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng 12 1.1.2. Vai trò của việc giáo dục thế giới duy vật biện chứng đối với sinh viên hiện nay 18 1.1.2.1. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần xây dựng lý tưởng sống cao đẹp cho sinh viên 20 1.1.2.2. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần xây dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh 21 1.1.2.3. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần rèn luyện phương pháp tư duy khoa học nhằm khắc phục những tư tưởng duy tâm 23 1.1.2.4. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho sinh viên nhận thức sâu sắc những vấn đề của thời đại 24 1.1.2.5. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho sinh viên tìm ra phương pháp đúng đắn để cải tạo hiện thực 25 1.2. Những nhân tố tác động đến việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay 27 1.2.1. Sự tác động của điều kiện trong nước và thế giới 28 1.2.1.1. Sự tác động của những điều kiện trong nước 28 1.2.1.2. Sự tác động của điều kiện quốc tế 31 1.2.2. Sự tác động của điều kiện đặc thù của Hà Nội 36 1.2.2.1. Sự tác động của điều kiện địa lý, tự nhiên 36 1.2.2.2. Sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội 38 1.2.2.3. Sự tác động của văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học - kỹ thuật và công nghệ 40 Chương 2: Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay - Thực trạng và giải pháp 49 2.1. Thực trạng việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay 49 2.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên 49 2.1.2. Thực trạng của hoạt động giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội trong nhà trường hiện nay 52 2.1.2.1. Giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin với việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên 52 2.1.2.2. Hoạt động của các tổ chức khác trong nhà trường với việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội 68 2.2. Những vấn đề đặt ra trong việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội ngày nay 77 2.2.1. Mâu thuẫn giữa việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng trong nhà trường với những tác động đối lập ngoài xã hội 78 2.2.2. Mâu thuẫn gữa yêu cầu giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng ngày càng cao với khả năng còn hạn chế của đội ngũ giảng viên 80 2.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy các môn học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với những điều kiện vật chất còn hạn chế 83 2.2.4. Mâu thuẫn giữa việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng với sự tự giáo dục của sinh viên Hà Nội hiện nay 86 2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay 90 2.3.1. Xây dựng môi trường kinh tế văn hóa xã hội lành mạnh 90 2.3.2. Nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên đặc biệt là giảng viên khoa học Mác - Lênin 92 2.3.3. Nâng cao khả năng tự giáo dục của sinh viên 96 2.3.4. Đầu tư trang thiết bị và các phương tiện vật chất khác phục vụ cho việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao 101 Kết luận 104 Danh mục tài liệu tham khảo 106 Phụ lục 111 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2550.doc
Tài liệu liên quan