V.trò của các Công ty xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới & hoạt động của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia ở Việt Nam

I. phần mở đầu Trong thời đại ngày nay, thế giới đang hướng về một thời đại toàn cầu hoá. Sau khi trải qua quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở thế kỷ 20, thế kỷ 21 với những bước tiến liên tục trong công nghệ tin học và thông tin làm nòng cốt, chắc chắn sẽ định hình lại một cách cơ bản cuộc sống của tất cả mọi người trên thế giới. Trong giai đoạn này, sự phát triển liên tục và mạnh mẽ của sức sản xuất xã hội, sự phân công lao động và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia có nền kinh

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu V.trò của các Công ty xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới & hoạt động của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế với trình độ phát triển khác nhau những khác biệt về địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, con người, công nghệ...ngày càng cao và gia tăng. Bởi vậy xu hướng hội nhập lại là đặc trưng của thời kỳ này, đồng thời sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, cho dù là nước công nghiệp hay nước đang phát triển, đều chịu chi phối ở mức độ khác nhau bởi các công ty xuyên quốc gia. Công ty xuyên quốc gia là hiệu quả của sự vận động cao của quan hệ sản xuất TBCN, là xu hướng vận động tất yếu khách quan, phù hợp với tiến trình phát triển công nghiệp hiện đại và mở rộng nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn cầu. Chính vì vậy các công ty xuyên quốc gia đã trở thành chủ đề thu hút sự quan tâm của không chỉ các học giả, mà cả các doanh nhân và chính khách của hầu hết các quốc gia. Trong quá trình hoàn thành đề tài ,do thời gian, tài liệu tham khảo và trình độ có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.Vì vậy em rất mong có sự đóng góp của các thầy cô và của các bạn.Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai Hữu Trực đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành đề tài này. II. nội dung A. Những vấn đề lý luận chung về các công ty xuyên quốc gia. 1. Khái niệm các công ty xuyên quốc gia: Có rất nhiều quan niệm khác nhau để nói về các tổ chức đôc quyền xuyên quốc gia , đồng thời cũng xuất hiện nhiều tên gọi khác nhau để nói về các tổ chức hoạt động kinh doanh quốc tế như các công ty xuyên quốc gia, các công ty đa quốc gia, các công ty siêu quốc gia...Nhưng có thể hiểu các tổ chức độc quyền xuyên quôc gia như sau: - Về mặt xuất xứ là các công ty tư bản độc quyền: - Hầu hết đều mang tầm cỡ quốc tế. - Có chi nhánh nươc ngoài. - Hình thành từ công ty quốc gia. - Một tổ chức độc quyền xuyên qúôc gia có cơ cấu hai bộ phận chủ yếu công ty me và công ty chi nhánh. Trên cơ sở một số nét đặc trưng đó ,co thể định nghĩa các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia như sau: Các công ty xuyên quốc gia về mặt xuất xứ là những công ty tư bản độc quyền của một quốc gia,thực hiện việc bành trướng quốc tế bằng hình thức thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài , nhằm phân chia lại thị trường thế giới và tìm kiếm lợi nhuận độc quyền. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng :Tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất đến một mức độ nào đấy sẽ dẫn đến độc quyền . Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ nên đã diễn ra quá trình hình thành những sự liên kết giữa các độc quyền theo hai chiều dọc và ngang cả ở trong nước và ngoài nước. Do đó xuất hiện các công ty xuyên quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia, về xuất xứ , là những công ty tư bản độc quyền của một quốc gia, thực hiện việc bành trướng quốc tế bằng hình thức thiết lập một hệ thống chi nhánh ở nước ngoài – nhằm phân chia thị trường thế giới và tìm kiếm lợi nhuận độc quyền. 2. Sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia: 2.1 Nguyên nhân hình thành. Tích tụ và tập trung sản xuất tất yếu sẽ dẫn tới hình thành các công ty xuyên quốc gia: Khi nghiên cứu về CNTB tự do cạnh tranh, C.Mác và Anghen đã dự đoán rằng: tích tụ và tập trung tư bản tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời những xí nghiệp TBCN có quy mô lớn và sự cạnh tranh cảu những xí nghiệp này ngày càng trở lên gay gắt. Sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp lớn tất yếu sẽ đưa đến kết quả là một số xí nghiệp nhỏ và vừa bị thủ tiêu hoặc sáp nhập với nhau trở thành những xí nghiệp lớn hơn, quá trình tập trung tư bản được đẩy mạnh thêm một bước. Một trong những nhân tố thúc đẩu quá trình tập trung tư bản, đó là tín dụng. Vai trò của tín dụng và Công ty cổ phần đối với việc mở rộng quy mô xí nghiệp và sự hình thành thị trường quốc tế đã được C.Mác nói đến trong bộ Tư bản – C.Mác nhận xét:” Là cơ sở chủ yếu của việc chuyển hoá dần dần những xí nghiệp tư nhân TBCN, chế độ tín dụng đồng thời cũng là một phậm vi toàn quốc ít nhiều rộng lớn”. Và “Như vậy chế độ tín dụng đẩy nhanh tốc độ phát triển vật chất của các lực lượng sản xuất và sự hình thành một thị trường thế giới” (1 Kinh tế thế giới số 11/1997 tr.38 ). Đồng thời C.Mác và Anghen cũng khẳng định rằng độc quyền sinh ta từ tự do cạnh tranh nhưng không phủ định nó. Tuy nhiên ở thời kỳ lịch sử mà hai ông được chứng kiến, độc quyền chưa phải là hiệu tượng phổ biến, mà nó mới chỉ xuất hiện ở một vài nước TBCN phát triển nhất như Mỹ, Anh và Đức. Kế thừa và phát triển học thuyết của C.Mác và Anghen, và bằng việc nghiên cứu sự phát triển của CNTB ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Lênin đã rút ra kết luận hết sức quan trọng. Đó là: “việc tập trung sản xuất đẻ ra các tổ chức độc quyền thì nói chung lại là một quy luật phổ biến và cơ bản trong giai đoạn hiện nay của CNTB” và Người cho rằng việc CNTB mởi – chủ nghĩa đế quốc trong đó độc quyền giữ địa vị thống trị – thay thế CNTB cũ, trong đó chế độ tự do cạnh tranh thống trị, là đặc trưng (hay biểu hiện) cơ bản nhất của giai đoạn phát triển hiện đại của CNTB. Nó nói lên bản chất kinh tế của CNTB trong giai đoạn phát triển mới, trong đó quan hệ sản xuất TBCN vận động dưới hình thức mới, trong đó cái vỏ vật chất của nó là tổ chức độc quyền. Một đặc trưng nổi bật trong giai đoạn độc quyền là sự cùng tồn tại đan xebn lẫn nhau giữa độc quyền quốc gia và quốc tế. Về mặt lịch sử, các tổ chức độc quyền quốc tế đã tồn tại ngay trong thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh thống trị tức là trước chủ nghĩa đế quốc, có thể nói cách đây trên 200 năm và xuất phát từ các nước Châu Âu, trong đó Anh, Hà Lan, Pháp là chủ yếu. Các tổ chức độc quyền này ra đời là do sự phát triển của quan hệ buôn bán thế giới. Các nước tư bản phát triển nha Anh, Pháp, Hà Lan đã có những Công ty hàng hải và buôn bán quốc tế. Như Công ty Đông Âu từng có mặt ở một số nước Châu á như Inđonêxia, ấn Độ, Malaixia vào những năm đầu của thế kỷ XIX. Việc mở rộng quan hệ buon bán, chiếm lĩnh thị trường quốc tế là yêu cầu tất yếu và khách quan của chính phương thức sản xuất TBCN. C.Mác đã khẳng định: Sự phát triển của phương thức sản xuất là phải có thị trường ngày càng rộng lớn hơn. Đặc biệt trong thời đại sản xuất bằng máy móc hiện đại chiếm qu thế thì xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, trước hết là quốc tế hoá việc trao đổi hàng hoá trở thành một xu thế “không thể cưỡng nổi” Cùng với sự phát triển quan hệ buôn bán quốc tế làm cho các Công ty tư bản liên minh với nhau sản xuất hàng hoá trên thị trường thế giơí, hình thành nên các Công ty độc quyền quốc tế thì vai trò của tín dụng và sự xuất hiện các Công ty cổ phần cũng chính là nguyên nhân làm xuất hiện các Công ty độc quyền quốc tế mà Anghen đã từng nhận xét: ” Trong các nước, những nhà đại công nghiệp trong ngành nhất định nào đó đã họp nhau lại để lập những cácten nhằm mục đích điều tiết việc sản xuất ”. Một uỷ ban được đặt ra để ấn định cho mỗi xí nghiệp số lượng hàng được sản xuất, và để phân phối với quyền tối hậu quyết định những đơn đặt hàng đã nhận được. Song sự khác nhau căn bản giữa các tổ chức độc quyền quốc tế trước thời đại đế quốc chủ nghĩa và các tổ chức độc quyền quốc tế trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là ở việc đấu tranh để phân chia thế giới về mặt kinh tế . Đặc trưng của CNĐQ là ở chỗ khác nhau, mà từ thế kỷ XX trở về trước chưa từng có, đó là: các tơrớt quốc tế phân chia các nước được coi là khu vực tiêu thụ hàng hoá. Vì vậy sự hình thành các tổ chức độc quyền nói chung và các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia nói riêng phải xuất phát từ sự tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ va tập trung sản xuất đạt đến một độ nhất định làm cho các tổ chức độc quyền quốc gia vươn ra khỏi biên giới quốc gia hoạt động trên phạm vi quốc tế, thực hiện phân chia thế giới về mặt kinh tế (thị trường ). Tích tụ và tập trung sản xuất dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là một quy luật. Mặc dù có sự khác nhau về điều kiện kinh tế , xã hội giữa các nước tư bản. Nhưng những sự khác nhau ấy chỉ quyết định tới mức độ không đáng kể về hình thức các tổ chức độc quyền mà thôi, còn quy luật đó vẫn không hề thay đổi. Lịch sử hình thành các tổ chức độc quyền ở các nước TBCN đã chứng minh điều đó và đã được V.I .Lênin phân tích một cách toàn diện trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của CNTB”. Ngày nay quá trình tích tụ và tập trung sản xuất có nhiều biểu hiện mới đã được phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau trong sách báo quốc tế mà điểm nổi bật là từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay đã xuất hiện quá trình tích tụ và tập trung sản xuất cao độ, hình thành những Công ty cực lớn thống trị trong các ngành. Đồng thời xuất hiện quá trình liên hợp hoá và sự hìh thành các công xoocxiom đa ngành. Cùng với quá trình đó là quá trình chuyên môn hoá với tích cách là kết quả của sự phát triển phân công lao động xã hội mà quá trình này đã diễn ra thông qua toàn bộ lịch sử phát triển của CNTB. Nhưng chỉ đến giai đoạn độc quyền thì sự chuyên môn hoá mới có vai trò mới, tạo ra những điều kiện cho sự phát triển ucả những Công ty độc quyền chủ chốt, chung thân thâu tóm hàng nghìn, hàng vạn xí nghiệp trung bình và nhỏ bao quanh chung (về hình thức vẫn giữ tính độc lập về mặt pháp lý của Công ty độc quyền). Các đơn vị nhỏ này trước hết phải chịu hậu quả của những biến đổi kinh tế và những rủi ro của việc phân công chuyên môn hoá. Sau nữa sự tồn tại của chúng cho phép giới độc quyền Nhà nước huy động được toàn bộ lực lượng lao động và mọi tiềm năng của xã hội vào quá trình sản xuất, kỹ thuật trong nước. Cuối cùng sự khác biệt về chế độ tiền lương và bảo hiểm của chúng tạo điều kiện cho các Công ty chủ đạo kiếm thêm giá trị thặng dư. Cùng với quá trình tích tụ và hình thức mới trong xuất khẩu tư bản, có thể kết luận: tập trung sản xuất có bước phát triển mới thì xuất khẩu tư bản cũng được đẩy mạnh và trở thành cơ sở kinh tế quan trọng của sự bành trước đế quốc chủ nghĩa. Trong những năm gần đây xuất khẩu tư bản tăng lên một cách mạnh mẽ. Đầu tư trực tiếp tăng cùng với các hình thức chuyển giao công nghệ, cho vay vốn...và các Công ty độc quyền quốc gia đã bành trướng vào nền kinh tế của các nước tư bản phát triển cũng như đang phát triển bằng hình thức mở chi nhánh. Trên cơ sở đó hình thành hàng loạt các Công ty xuyên quốc gia. Từ sự phân tích trên chúng ta có thể rút ra một số nhận xét về biểu hiện mới của tích tụ sản xuất trong giai đoạn hiện nay. Một là, quá trình tích tụ sản xuất diễn ra song song với quá trình tích tụ quyền lực kinh tế. Tích tụ sản xuất tạo ra những liên hiệp các xí nghiệp và xí nghiệp liên hợp cực lớn, nhưng lại bao gồm một hệ thống các xí nghiệp vừa và nhỏ này thuộc về tài chính, kỹ thuật vào những xí nghiệp đầu đàn. Nhìn chung ở các nước TBCN phát triển như Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp,... số xí nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí kể cả gia đình nằm trong guồng máy sản xuất, thực hiện sự kiểm soát tài chính, kỹ thuât và nằm trong hệ thống phân công lao động theo kiểu công trường thủ công, đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tư bản sinh lời. Đồng thời về mặt tổ chức sản xuất, đây cũng là hình thức tỏ rõ tính hiệu quả cao, vì giảm được chi phí sản xuất, tận dụng được mọi khả năng, nguyên liệu, phát huy tính năng động sáng tạo...do đó làm tăng quy mô và tỷ suất lợi nhuận. Hai là, quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền. Song độc quyền hiện đại mang nhiều dấu ấn của thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Trước hết sự liên hiệp hoá có nhiều biểu hiện sinh động. Sự liên kết ngang và dọc được đẩy mạnh hơn bao giờ hết, dẫn đến quá trình liên kết đa ngành, trong đó lĩnh vực dịch vụ, ngân hàng được các tổ chức độc quyền quan tâm và bành trướng quyền lực, nó đã đưa đến sự hình thành của conglomerate. Ba là, quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp ngày càng được đẩy mạnh, đưa đến việc xuất hiện các hình thức liên hợp nông – công nghiệp, nông – thơng nghiệp, cùng với sự tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật đã đưa đến hiện tượng cấu tạo hữu cơ tăng leen và làm giảm ý nghĩa của địa tô tuyệt đối, tạo ra mối liên hệ ngày càng tăng giữa công – nông nghiệp, đẩy mạnh xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu lao động cũng như trong tổng sản phẩm quốc dân. Hiện nay chỉ còn khoảng 2 – 10%, thậm trí tỷ trọng đó còn thấp hơn ở các nước TBCN. Qua những nhận xét trên ta thấy rõ rằng chỉ có quá trình tích tụ tư bản và tập trung sản xuất mới đưa đến sự hình thành các Công ty xuyên quốc gia. Bởi đó chính là quá trình tạo ra cơ sở vật chất cho sự bành trướng, giúp cho các tập đoàn tư bản có khả năng hiện thực vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thoả mãn việc tìm kiếm lợi nhuận cao – vốn là mục tiêu bất di bất dịch của nó. Đúng như V.I Lênin đã nhận xét: “Tổ chức độc quyền một khi đã thao túng hàng tỷ, thì tuyệt đối nhất thiết là nó phải thâm nhập các lĩnh vực đời sống xã hội, bất kể chế độ chính trị...” Trong thời đại tư bản tài chính tư bản độc quyền công nghiệp và ngân hàng có sự dung hợp cả về kết cấu, càng làm cho thế lực tư bản độc quyền tăng lên, xu hướng “thừa” tư bản trở thành phổ biến, tất yếu phải thực hiện đầu tư ra nước ngoài để kiếm lợi nhuận bằng con đường xuất khẩu tư bản. Song tình hình thế giới từ nửa cuối thế kỷ XX, nhất là sai chiến tranh thế giới thứ II, đã có thay đổi cơ bản. Sự thay đổi đó gây ra những khó khăn, hạn chế, nhưng mặt khác lại tạo ra những yếu tố khách quan thúc đẩy CNTB độc quyền mở rộng hình thức kinh doanh xuyên quốc gia để dễ bề thực hiện đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất ở nước ngoài. Vào những năm 60 của thế kỷ XX hàng loạt các nước ở á- Phi – My la tinh với phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, đưa đến sự ra đời hàng loạt của các nước có độc lập dân tộc, thoát khỏi ách thống trị của CNĐQ, CNTB không còn áp bức, bóc lột như trước. Những nước này sau khi giành được độc lập đã có nền kinh tế tự chủ ở những mức độ khác nhau. Tình hình đó, đã làm cho thị trường, nguồn khai thác tài nguyên và nguồn cung cấp nhân công rẻ mặt cho CNTB bị thu hẹp lại. Cùng với các nước độc lập, còn có một số nước tách ra khỏi quỹ đạo của CNTB, đi theo con đường XHCN. Điều đó càng làm cho cuộc cạnh tranh, giành giật thị trường giữa các tập đoàn tư bản của các nước tư bản phát triển trở nên hết sức gay gắt và hàng loạt mâu thuẫn nội tại của CNTB phát sinh nó đe doạ đến lợi ích sống còn của nó. Trong một thế giới thay đổi như vậy, CNTB không thể giành giật thị trường theo kiểu đánh chiếm, và nó càng không thể duy trì thị trường đọc chiếm cho riêng mình nưh dưới thời chủ nghĩa thực dân kiểu cũ. Các Công ty xuyên quốc gia chính là một tổ chức phù hợp nhất để các tập đoàn tư bản có thể xâm nhập về kinh tế, xuất khẩu, đầu tư tư bản ra nước ngoài , trước hết là các nước trong thế giới thứ ba. Dưới dạng liên minh, hợp tác, thành lập các Công ty hỗn hợp giữa tư bản nước ngoài với tư bản Nhà nước hoặc tư nhân các tập đoàn tư bản từng bước nắm lấy các ngành kinh tế chủ chốt, có lợi nhuận cao, thiết lập các chi nhánh ở những nước này. Các nước chậm phát triển phần lớn có tài nguyên hết sức dồi dào về dầu lửa, than đá, sắt thép...nhưng do trình độ kỹ thuật khai thác còn lạc hậu, vốn đầu tư để khai thác còn hạn chế, cho nên muốn khai thác những tài nguyên đó phải liên kết, hợp tác với tư bản nước ngoài. Đó chính là con đường thuận lợi để các tập đoàn xuyên quốc gia thết lập các Công ty chi nhánh, nắm lấy các nguồn tài nguyên phong phú. Việc thiết lập các Công ty chi nhánh khai thác ngay tại chỗ còn tạo cho các Công ty xuyên quốc gia rất nhiều lợi nhuận và những điều kiện thuận lợi. Từ khai thác đến chế biến, do các Công ty chi nhánh đảm nhận, các Công ty xuyên quốc gia đã giảm bớt được chi phí trong khâu vận chuyển, được hưởng những ưu đãi về thuế quan, làm cho giá thành sản phẩm giảm, tạo ra những ưu thế để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Một yếu tố khác làm cho quá trình quyên quốc gia hoá của các tập đoàn tư bản ngày càng phát triển mạnh mẽ đó là sự tác động của cách mạng khoa học – kỹ thuật – công nghệ và nó biểu hiện ở một số điểm sau đây: Nó đã làm xuất hiện những ngành mới với tốc độ cao và ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế , đồng thời đặt ra yêu cầu và tạo điều kiện trẻ hoá ngành sản xuất lâu đời như ngành công nghiệp vũ trụ Mỹ đã làm xuất hiện khoảng 3000 ngành mới. Bản thân việc nghiên cứu khoa học đỏi hỏi phải có đầu tư lớn như chương trình Apolo (Mỹ) đã chi hết 24 tỷ đô la, thu hút 40 vạn nhà khoa học và công nhân tham gia. Đây chính là nhân tố làm cho nganh dịch vụ kỹ thuật phát triển, các Công ty đầu đàn có thêm điều kiện bành trướng ra nước ngoài. Việc xuất khẩu tư bản của CNTB độc quyền Nhà nước có nhiều ý nghĩa đối với sự hoạt động quốc tế của các Công ty xuyên quốc gia , nó dọn đường cho các Công ty xuyên quốc gia hoạt động, làm cho các Công ty này tiếp lớn mạnh và có thêm sức bành trướng. Trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất ngày càng phát triển, sự ra đời của các Công ty xuyên quốc gia là một tất yếu khách quan và nó là một tất yếu khách quan và nó là sản phẩm của quá trình quốc tế hoá sản xuất. Chỉ có trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất cao độ thì mới có những tiền đề vật chất khách quan để các Công ty xuyên quốc gia ra đời. Đồng thời cùng với những điều kiện cơ bản trên, còn có những tác động khác đưa đến sự ra đời của các Công ty xuyên quốc gia. Đó là lợi ích trong việc giải quyết những nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, về thị trường kinh doanh, về việc vượt rào thuế quan và phi thuế quan không chỉ đối với các nước trong thế giới thứ ba mà cả với các nước tư bản phát triển. 2.2 Quá trình phát triển Từ những năm 70, đặc biệt từ những năm 90 trở lại đây, các Công ty xuyên quốc gia phát triển vô cùng nhanh chóng, sức mạnh của chúng ngày càng tác động lớn đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới và khu vực. Năm 1995 tổng kim ngạch tiêu thụ của 270.000 Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài thuộc 39.000 Công ty xuyên quốc gia trên toàn cầu đã lên tới 6.100 tỷ USD, gấp 1,5 lần tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới (4.900 tỷ USD). Ưu thế lớn nhất của các Công ty xuyên quốc gia là có khả năng phối hợp, bố trí một cách linh hoạt, hợp lý nhất các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu, do vậy thu được hiệu quả rất cao trong sản xuất kinh doanh. Ưu thế này bắt nguồn từ hệ thống tổ chức của các Công ty xuyên quốc gia. Mạng lưới các Công ty chi nhánh đặt ở nước ngoài đã tạo cho nó khả năng biến chức năng tiêu thụ riêng lẻ, độc lập thành chức năng nội bộ của Công ty xuyên quốc gia, từ đó mọi khâu từ cung cấp các nguồn lực sản xuất , tiêu thụ ở mọi miền trên thế giới đều phục vụ cho chiến lược của Công ty xuyên quốc gia mẹ một cách hữu hiệu nhất. Cũng có nghĩa là phân công hợp tác quốc tế trở thành phân công hợp tác trong nội bộ Công ty xuyên quốc gia. Nhờ những ưu thế trên, các Công ty xuyên quốc gia đã phát triển nhanh chóng không chỉ về mặt số lượng mà còn phát triển nhanh về chất lượng, biểu hiện ở sự xâm nhập ngày càng sâu của chúng vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới và khu vực cũng như từng quốc gia, ở sự đa dạng hoá chức năng hoạt động của chúng. Ngày nay các Công ty xuyên quốc gia không chỉ chú trọng vào các ngành tập trung nhiều lao động, nhiều nguyên liệu mà ngày càng chú trọng hơn đến các ngành kỹ thuật cao, hướng tới nơi có giá thành sản xuất thấp để xây dựng nhà mà sản xuất các sản phẩm có kỹ thuật cao, thậm trí hướng tới những ngành đòi hỏi nhieuè chất xám hơn như thiết kế sản phẩm, khai thác phần mềm. Như một Công ty xuyên quốc gia Mỹ đã xây dựng ở Malaixia nhà máy sản xuất tấm vi mạch. Điểm đáng chú ý ở đây là Công ty xuyên quốc gia Mỹ này đã không sử dụng kỹ sư Mỹ mà đã sử dụng kỹ sư và nhân viên kỹ thuật bản xứ. Do thiết kế sản phẩm và nghiên cứu triển khai đều dựa và kỹ sư và nhân viên bản xé nên chi phí nghiên cứu và triển khai của các Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài đã tăng rất nhanh. Các Công ty xuyên quốc gia không chỉ tiến hành nghiên cứu triển khai đơn lẻ mà chúng còn có nhiều điều kiện và khả năng phối hợp nghiên cứu triển khai liên quốc gia. Nổi bật là Công ty xuyên quốc gia hàng đầu của Nhật Bản là Toshiba đã liên kết với Công ty thiết bị thương mại quốc tế của Mỹ và Công ty Simen của Đức. Số liệu sau đây cho chúng ta thấy hiện nay thế giới có bao nhiêu Công ty xuyên quốc gia – Công ty mẹ. Bảng 1: Số lượng các Công ty xuyên quốc gia mẹ, theo nước Nước (1) 1968/1968 (2) 1993 (3) 1. Mỹ 2.468 3.013 2. Anh 1.692 1.443 3. Đức 954 7.003 4. Pháp 538 2.216 5. Thuỵ Sỹ 447 3.000 (2) 6. Hà Lan 268 1.608 7. Thuỵ Điển 255 3.502(3) 8. Bỉ và Luxembua 253 96 (4) 9. Đan Mạch 128 800 (1) 10. ý 120 445 11. Nauy 94 1.000 12. áo 39 838 13. Tây Ban Nha 15 744(1) 14. Bồ Đào Nha 5 1.165 15. Nhật 5 3.650 16. Tổng số 1-15 7.276 30.541 17. Thế giới 7.276 38.747 Nguồn: UNCTAD (1) năm 1992, (2) năm 1985, (3) năm 1978 Trong quá trình phát triển người ta đã lập nên các Công ty xuyên quốc gia với rất nhiều loại hìh khác nhau. Chúng ta có thể thấy nó xuất phát từ hình thức tổ chức của Công ty có các loại hình Cacten, Xandica, tờ rớt , congxoocxion đến conglomerate. Nếu phân loại theo lĩnh vực hoạt động, chúng ta có thể thấy các Công ty xuyên quốc gia bao gồm các Công ty thương mại, sản xuất, tài chính công nghệ... hoạt động trong tất cả các ngành từ ngành khai thác vật liệu, thương mại, sản xuất, chế biến, cho đến phục vụ trực tóp người tiêu dùng. Có rất nhiều Công ty hoạt động trên mọi lĩnh vực hoặc chỉ một lĩnh vực. Nếu hoạt động trong một ngành, chúng có thể bao gồm các công đoạn từ thiết kế, sản xuất, chào hàng, bán hàng, dịch vụ sau bán hàng. Sự phát triển nhanh chóng của các Công ty xuyên quốc gia đã làm tăng nhanh quá trình quốc tế hoá sản xuất của nền kinh tế thế giới. Sự cải tổ, sáp nhập những Công ty xuyên quốc gia mẹ tại các nước phát triển chủ yếu là một tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển theo “cấp số nhân” của các Công ty xuyên quốc gia trên khắp thế giới trong thời gian qua cũng như thời gian tới. Năm 1983 tổng số Công ty xuyên quốc gia là 11.000, số Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài đã lên đến 200.000, tăng 79% trong vòng 10 năm. Năm 1995, tổng số Công ty xuyên quốc gia trên thế giới lại tăng thêm 8% so với 1983, nâng số lên 39.000 Công ty còn các Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài tăng 35% so với năm 1993, nâng lên tổng số 370.000 Công ty. Tổng kim ngạch tiêu thụ của các Công ty xuyên quốc gia trong năm 1995 lên đến 6.100 tỷ USD, vượt xa con số 4.800 tỷ USD của năm 1993, tăng 25%. Đáng chú ý là những Công ty xuyên quốc gia lớn nahát trên thế giới hầu như đều thuộc gốc Mỹ. Trong số 50 Công ty xuyên quốc gia lớn nhất của Mỹ thì Bank American có số tài sản ở nước ngoài nhiều nhất, năm 1993 đã lên tới 117,1 tỷ USD, chiếm 51,3% tổng tài sản của nó. Song thu nhập lớn nhất ở nước ngoài lại thuộc về một Công ty dầu mỏ của Mỹ, năm 1993 đã lên đến 75,6 tỷ USD chiếm 77,3% tổng thu nhập của Công ty này...(1 Kinh tế thế giới số 11/1997- tr.38 ) 3.Bản chất và đặc trưng của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia: Bản chất Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triểncó thể quan sát thấynền sản xuất tư bản chủ nghĩa có “sự phát triển rất lớn của công nghiệp và quá trình tập trung cực kỳ nhanh chóng của sản xuất vào tay các xí nghiệp ngày càng to lớn” và “… một đằc điểm cực kỳ trọng yếu mà người ta gọi là chế độ liên hiệp hóa, nghĩa là sự tập hợp vào tay một xí nghiệp duy nhất nhiều ngành công nghiệp khác nhau”. Từ đó ra đời các tổ chức độc quyền, các tổ chức này sử dụng cơ chế độc quyền, tức là cơ chế vận động dựa trên giá cả độc quyền, thay cho cơ chế tự do cạnh tranh dựa trên giá cả thị trường để thu lợi nhuận độc quyền cao. Do đó có thể coi các tổ chức độc quyền là cái vỏ vật chất trong đó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động và tồn tại dưới dạng sở hữu độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền hoạt động vận động vượt biên giới quốc gia dưới sự thúc đẩy của quá trình tích tụ sản xuất trên quy mô quốc tế, thì các hình thức siêu độc quyền, tức là các công ty xuyên quốc gia xuất hiện. Đặc biệt, khi nền sản xuất tu bản chủ nghĩa chuyển từ xã hội công nghiệp lên xã hội thông tin dưới sự thúc đẩy của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ và quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế đã làm cho số lượng công ty xuyên quốc gia phát triển nhanh chóng và bản chất của nó cũng biến đổi theo hướng thích nghi với tính chất quốc tế hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, thông qua việc làm chủ sở hữu trong các hãng, công ty của các công ty xuyên quốc gia đã diễn ra nhiều thay đổi lớn trong các quan hệ về sở hữu. Đó là : - Sở hữu độc quyền siêu quốc gia, là hình thức sở hữu hỗn hợp đã được quốc tế hóa. Đây là hình thức sở hữu mang tính khách quan tạo nên bởi quá trình tích tụ, tập trung hóa và xã hội hóa sản xuất trên quy mô quốc tế của chủ nghĩa tư bản dưới sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ và của các quy luật cạnh tranh, quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Tồn tại dưới hình thức các tổ chức đa ngành khác nhau như consớt và congơlômêrết, hiện nay có tới trên 70% các xí nghiệp chi nhánh của chúng là các xí nghiệp liên doanh với số lượng các chủ sở hữu từ hai tới bốn nước hoặc nhiều hơn nữa với những tỷ lệ góp vốn khác nhau. Điều này phản ánh tính chất đa dạng, phức tạp và tính chất hỗn hợp của loại hình sở hữu xuyên quốc gia. - Sở hữu hỗn hợp, được tạo ra do sự thay đổi căn bản về địa vị, vai trò của người công nhân, trí thức- những người làm việc trực tiếp trong các ngành nghề khác nhau, nhất là những ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao- là những người quyết định chất lượng của lao động và sản xuất. Loại hình này diễn ra theo hướng tăng đáng kể số người co cổ phần trong công ty nhưng tỷ trọng sở hữu cổ phần trong tổng số vốn kinh doanh không lớn. Đặc trưng Sự biến đổi của hình thức sở hữu trong các công ty xuyên quốc gia là thay đổi rất căn bản trong đặc trưng của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong chủ nghĩa tư bản hiện đại. Có thể tháy rằng, công ty không còn là sở hữu của một người hay một nước nữa, mà là sở hữu của hỗn hợp quốc tế, có “quốc tịch” của một nước nhất định. Về quản lý, việc tổ chức quản lý sản xuất và các hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiêu đại trà, được tiêu chuẩn hóa theo hàng loạt lớn sang kiểu sản xuất loạt nhỏ và linh hoạt theo đơn đặt hàng, cũng như sự dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn được liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết mạng lưới theo kiể chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước.Sự dịch chuyển này trong điều kiện đổi mới công nghệ như vũ bão đã làm nổi bật vai trò năng động của các doang nghiệp, xí nghiệp có quy mô nhỏ và vừa so với các tập đoàn lớn mang nặng tính chất quan liêu hóa, buộc các công ty xuyên quốc gia phải tự tách mình ra thành các nhân tố của cạnh tranh nhằm tạo ra sự năng động và linh hoạt trong sản xuất kinh doanh. Điều đó dẫn đến sự xuất hiện liên kết các công ty xuyên quốc gia kiểu mới, kiểu các vệ tinh xoay quanh một công ty gốc tạo nên một mạng lưới phủ lên thị trường các nước. Đay là sự chuyển hóa về mặt tổ chức quản lý của mọi hoạt động kinh tế để tăng tính linh hoạt và khả năng thích ứng với thị trường đang được đa dạng hóa và biến đổi từng ngày từng giờ. 4. Các loại hình tổ chức xuyên quốc gia: 4.1 Dựa trên cơ sở phân loại độc quyền quốc gia. Theo cách phân loại này có các công ty xuyên quốc gia thuộc loại cácten, xanhdica, tơrớt, concẻn, và conglomerat. Đó là những nấc thang của sự liên kết từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó loại hình tiêu biểu của các công ty xuyên quốc gia hiện nay là concern và conglomerate. Giữa hai loại này có những đặc điểm chung, đó là kinh doanh đa ngành, do đó sản phẩm mang tính đa dạng, song chúng có sự khác nhau, chủ yếu là mức độ đa ngành và đa dạng sản phẩm . Với các concern, mặc dù kinh doanh đa ngành với nhiều sản phẩm khác nhau song vẫn tìm thấy ngành hạt nhân cơ bản và sản phẩm chủ yếu, rong khi với các conglomerate thì điều đó khó xác định bởi tính hỗn tạp của nó, đồng thời xu hướng đi vào kinh doanh trên các thị trường chứng khoán ngày càng biểu hiện rõ. Tuy nhiên sự phân định này vẫn còn mang tính tương đối. 4.2 Dựa trên cơ sở quá trình vận động và phát triển của chúng. Theo cách này, người ta phân chia các công ty xuyên quốc gia thành bốn loại: Loại hình công ty xuyên quốc gia khai thác nguyên liệu, Đây là những công ty xuyên quốc gia có ngay từ thời kì tư bản tự do cạnh tranh. Các công ty này thường hoạt động trong những ngành nông nghiệp, khai khoáng với mục đích khai thác nguyên liệu phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa. Loại hình công ty xuyên quốc gia thương mại, bao gồm những công ty mà những chi nhánh nước ngoài chủ yếu là nhưng “ trạm trung gian” thực hiện việc xuất nhập khẩu hàng hoá, hoặc thưch hiện lắp ráp để xuất khẩu tại chỗ. Loại hình công ty xuyên quốc gia sản xuất. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây mới chính là các công ty xuyên quốc gia thực thụ vì nó phản ánh một cách đầy đủ đặc điểm cơ bản của quá trình quốc tế hóa. Hỗu hết các công ty xuyên quốc gia cỡ lớn đều thực hiện phân công chuyên môn hoá sản xuất bằng cách chia quy trình công nghệ thành nhiều công đoạn và mỗi chi nhánh thường chỉ thực hiện một vài công đoạn co hiệu quả nhất. Loại hình công ty xuyên quốc gia kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ, tài chính, kĩ thuật. Đây là những công ty có tiềm lực khoa học-công nghệ mạnh và thường tồn tại dưới hình thức một tổ hợp công nghiệp-ngân hàng trong các độc quyền tài chính xuyên quốc gia 4.3 Dựa trên cở sở tính chất phức tạp của sản phẩm. Theo cách phân loại này, có các công ty xuyên quốc gia thuộc loại A,B,C,D. tuỳ theo tính chất đơn hoặc đa sản phẩm. Ngoài các cách phân loại trên còn có nhiều tài liệu còn phân chia ra các công ty xuyên quốc gia thuộc tổ hợp quân sự để phân chia với loại hình kinh doanh quân sự, hoặc phân chia các công ty xuyên quốc gia theo lĩnh vực ngành kinh doanh, như công ty xuyên quốc gia kinh doanh công nghiệp, ngân hàng, dịch vụ...Trong công nghiệp lại chia nhỏ theo các ngành như viễn thông, công nghiệp chế biến, công nghiệp thực phẩm... Tuy nhiên việc phân loại trên không mang ý nghĩa tuyệt đối. Một công ty xuyên quốc gia cũng có thể thuộc nhiều loại khác nhau tuỳ theo cách phân loại. Do vậy cần căn cứ vào mục dích nghiên cứu mà l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0337.doc
Tài liệu liên quan