Biện chứng của quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam trong thời kì quá độ (Nhìn từ giác độ quan điểm toàn diện)

Đề tài: Biện chứng của quỏ trỡnh phỏt triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam trong thời kỡ quỏ độ (Nhỡn từ giỏc độ quan điểm toàn diện) LỜI NểI ĐẦU II. Lí LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN Nguyờn lý về mối quan hệ phổ biến- cơ sở phương phỏp luận của quan điểm a/ Mối liờn hệ phổ biến b/ Đúng gúp của việc nghiờn cứu mối liờn hệ trong hoạt động thực tiễn và việc hỡnh thành quan điểm toàn diện Nội dung quan điểm toàn diện a/ Trong hoạt động nhận thức phải đảm bảo hai yờu cầu - Nhận t

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện chứng của quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam trong thời kì quá độ (Nhìn từ giác độ quan điểm toàn diện), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức sự vật trong mối liờn hệ - Phải biết phõn biết những mối liờn hệ b/ Trong hoạt động thực tiễn - Phải chỳ ý tới tất cả cỏc mối liờn hệ đối với sự vật cần nghiờn cứu - Phải đề ra được hệ thống đồng bộ cỏc giải phỏp, đặc biệt phải cú những giải phỏp trọng điểm Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu khách quan dẫn đến việc tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ỏ Việt Nam. Vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế. a/ Thành phần kinh tế nhà nước - Định nghĩa - Vị trớ, vai trũ b/ Thành phần kinh tế hợp tỏc - Định nghĩa - Vị trớ, vai trũ c/ Thành phần kinh tế nhà nước - Định nghĩa - Vị trớ, vai trũ d/ Thành phần kinh tế cỏ thể tiểu chủ - Định nghĩa - Vị trớ, vai trũ e/ Thành phần kinh tế tư bản tủ nhõn - Định nghĩa - Vị trớ, vai trũ Mối liên hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế. Những thành quả đạt được, những khó khăn, hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. a/ Thành quả đạt được b/ Những mặt hạn chế Giải pháp khắc phục khó khăn. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước IV. Kết luận. I- LỜI NểI ĐẦU Đổi mới kinh tế Việt Nam là một cao trào của toàn dân ta do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xường và lãnh đạo công cuộc đổi mới thực sự bắt đầu năm 1986. Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai làm trong nhận thức và mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp. Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là đổi mới kinh tế. Từ1986, trên cơ sở quan điểm toàn diện nhận thức rõ về thực trạng đất nước cùng với những thành tựu trong những năm đầu đổi mới đến năm 19991 tại Đại hội lần VII Đảng ta đã đi tới quyết định kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Đường lối đó được thực hiện trên mười năm đổi mới đã đem lại những thành tựu đỏng khích lệ chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm. Co đó cần nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó. Đây là việc làm thiết thực và rất cần thiết đối với vận mệnh đất nước vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài "Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiên nay" để nghiên cứu. Hơn nữa, đây là đề tài mang giá trị thực tiễn và giá trị khoa học lớn góp phần làm sáng tỏ quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó sự tồn tại quá lâu của cơ chế kinh tế cũ đã ăn sâu bám rễ vào tư duy nhận thức, vào quan điểm và cách thức điều hành quản lý kinh tế của chính phủ nên việc chuyển từ nề kinh tế nhỏ sang nền kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có sự xem xét một cách toàn diện, cụ thể những điều kiện của nước ta. II. Lí LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN 1. Nguyờn lý về mối quan hệ phổ biến- cơ sở phương phỏp luận của quan điểm a/ Mối liờn hệ phổ biến “Mối liờn hệ là phạm trự triết học dựng để chỉ sự qui định sự tỏc động qua lại, sự chuyển hoỏ lẫn nhau giữa cỏc sự vật hiện tượng hay giữa cỏc mặt của một sự vật, của một hiện tương trong thế giới.”( giỏo trỡnh triết học Mỏc- Lờnin, trang 210). Sự vật nào cũng phải tồn tại trong tự nhiờn, bởi vậy mà chỳng phải cú mối liờn hệ rằng buộc lẫn nhau. Nhưng mối liờn hệ này là hoàn toàn khỏch quan và vốn cú của sự vật hiờn tượng. Nú cú ở bất cứ sự vật hiện tượng nào và nú biểu hiện trong mối liờn hệ phổ biến chung nhất. Mối liờn hệ cú rất loại và cú vai trũ khỏc nhau đối với sự võn động và phỏt triển của sự vật. Sự vật tồn tại trong những mối liờn hệ tỏc động qua lại với nhau, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà cỏi nào là chủ đạo, quyết định. - Mối liờn hệ khi nghiờn cứu nú cú đúng gúp lớn trong hoạt động thực tiễn và trong việc hỡnh thành nờn quan điểm toàn diện. Nú là nguyờn tắc trong hoạt động thực tiễn, đũi hỏi chỳng ta muốn cải tạo sự vật thỡ phải biến đổi những mối liờn hệ nội tại cũng như mối liờn hệ của nú với sự vật khỏc. “ Bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong những mối liờn hệ nhưng mối liờn hệ với cỏc sự vật khỏc và mối liờnhệ rất đa dạng phong phỳ, do đú khi nhận thức về sự vật hiện tượng phải cú quan điểm toàn diện, tỏnh quan điểm phiếm diện chỉ xột sự vật hiện tượng ở một mối liờn hệ đó vội vàng kết lụõn bản chất hay tớnh qui luật của nú”.( Giỏo trỡnh Triết học Mỏc – Lờnin, trang 220). 2. Nội dung của quan điểm toàn diện a. Cỏc hoạt động nhận thức phải đảm bảo hai yờu cầu - Nhận thức sự vật trong mối liờn hệ là yờu cầu đầu tiờn của quan điểm. Sự vật được tạo nờn bởi nhiều bộ phận, yếu tố, nhiều mặt và cựng tồn tại trong thế giới tự nhiờn. Vỡ vậy nú cú rất nhiều mối liờn hệ kể cả trực tiếp và giỏn tiếp giữa cỏc yếu tố thuộc tớnh trong bản thõn sự vật cũng như giữa sự vật này với sự vật khỏc. Nú đũi hỏi chỳng ta cần xem xột sự vật trong mối liờn hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Tương ứng với mỗi con người mỗi thời đại và trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ nhận thức những gỡ cơ bản trực tiếp bỏ qua những nhõn tố giỏn tiếp. Bởi lẽ tuỳ điều kiện hoàn cảnh cụ thể mối liờn hệ giỏn tiếp sẽ chuyển hoỏ thành trực tiếp, mối liờn hệ thứ yếu chuyển hoỏ thành mối liờn hệ chủ yếu. Do vậy mà chỳng ta cố gắng nhận thức sự vật hiện tượng đồng bộ cú sự liờn hệ ràng buộc một cỏch chặt chẽ với nhau. - Mối liờn hệ của sưi vật là hoàn toàn khụng thể kiểm soỏt. Xột sự vật trờn nhiều lĩnh vực, gúc độ, phương diện thỡ càng nhiều mối liờn hệ. Bởi vậy ta cú thể núi sự tồn tại trong thế giới là hết sức rắc rối, ràng buộc lẫn nhau. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nhận thức được sự vật trong mối liờn hệ đú. Để hiểu hết cỏc mối liờn hệ quanh sự vật khụng thể một sớm một chiều mà nú là một quỏ trỡnh nhận thức. Ban đầu ta phải đi từ những mối liờn hệ cơ bản của sự vật, từ đú cú ý niệm ban đầu về cỏi toàn thể, đến nhận thức một mặt một mối liờn hệ nào đú của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt nhiều mối liờn hệ của sự vật đú và cuối cựng là khỏi quỏt những ri thức phong phỳ đú để rỳt ra tri thức về bản chất sự vật. b. Trong hoạt động thực tiễn - Phải chỳ ý đến cỏc mối liờn hệ đối với sự vật cần nghiờn cứu là yờu cầu đầu tiờn trong hoạt động thực tiễn của quan điểm. Như đó phõn tớch ở trờn sự vật hiện tượng tồn tại ở nhiều mối liờn hệ, do vậy khi nghiờn cứu sự vật chỳng ta khụng thể tỏch rời sự vật ra khỏi cỏc mối liờn hệ. Nếu chỳn ta chỉ nhất nhất nghiờn cứu bản thõn sự vật khụng thụi thỡ sẽ bị rơi vào quan điểm siờu hỡnh trong hoạt động thực tiễn từ đú sẽ đi đến những quan điểm sai lệch phiếm diện. Mặt khỏc cỏc mối liờn hệ giữa sự vật hiện tượng là hoàn toàn tỏt yếu khỏch quan. Do vậy mà bất kỡ hành động nào cũng phải tuõn theo qui loụõt khỏch quan và phự hợp với ý muốn chủ quan thỡ mới thành cụng được. Để hoạt động một cỏch đỳng đắn cú định hướng thỡ khụng gỡ hơn là phải phự hợp với tất cả những mối liờn hệ nội hàm cũng như ngoại biờn của sự vật. - Chỳng ta khụng chỉ xem xột sự vật khụng thụi mà cũn phải từ cỏc mối liờn hệ đối với sự vật mà đưa ra phương hướng cho sự vận động và phỏt triển của sự vật. Điều đú yờu cầu chỳng ta phải đề ra được hệ thống đồng bộ cỏc giải phỏp đặc biệt là phải cú những giải phỏp trọng tõm trọng điểm. Bới lẽ sự vật hiện tượng được cấu thành nờn bởi nhiều mặt nhiều yếu tố, và cú rất nhiều mối liờn hệ, do đú mà để cú sự chuẩn bị biến đổi sự vật đi đỳng hướng theo sự lựa chọn của mỡnh thỡ ta phải tỏc động tới mọi mối liờn hệ với nú. Tuy vậy bất cứ sự nào cũng cú mối liờn hệ cơ bản quyết định, do vậy mà ta cũng cần phải cú những giải phỏp trọng tõm trọng điểm để làm sao tỏc động đến sự vật một cỏch rừ nột, phỏt huy tỏc dụng nhất. III. Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1. Tính tất yếu khách quạn dẫn đến việc tồn tại và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ỏ nước ta. Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành chính quyền tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Thực tế có hai loại tư hữu: Tư hữu lớn bao gồm nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp của các chủ tư bản trong và ngoài nước. Đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa tư hữu nhỏ gồm những người nông dân cá thể, những người buôn bán nhỏ. Đó là sản xuất nhỏ cá thể. Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới, Nhà nước ta xây dựng và phát triển các thầnh phần kinh tế mới. Đối với tư hữu lớn. Kinh tế tư bản tư nhân chỉ có phương pháp duy nhất là quốn hữu hoá. Lý luận về quốc hữ hoá của chủ nghĩa Mac-Lênin khẳng định không nên quốc hữu hoá ngay một lúc mà phải tiến hành từ từ theo từng giai đoạn và bằng hình thức phương pháp nào là tuỳ điều kiện cụ thể cho nên doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản chủ nghía còn tồn tại như một tất yếu kinh tế đồng thời hướng chủ nghĩa tư bản và con đường Nhà nước hình thành thành phần kinh tế tư bản Nhà nước. Đối với tư hữu nhỏ thì chỉ có thông qua con đường hợp tác hoá theo các nguyên tắc mà Lênin đã vạch ra là tự nguyện dân chủ cùng có lợi đồng thời tuân theo các qui luất khách quan. Do đó trong thời kỳ quá độ còn tồn tại thành phần kinh tế cá thể. Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ còn có khả năng phát triển, còn có vai trò đối với sản xuất và đời sống bởi vậy không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay được. Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế cần phải thu hút các nuồn lực từ bên ngoài Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể liên doanh hợp tác với tư bản tư nhân trong nứoc và nước ngoài làm hinh thành kinh tế tư bản Nhà nước. Mặt khác sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các doanh nghiệp chính sự phát triển không đồng đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết hình thức, qui mô và quan hệ sử hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các cơ sở kinh tế khác nhau. Sự tồn tại các thành phần kinh tế ở nước ta có ý nghĩa lý luận và thực tế to lớn. Trên đây là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam còn có cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh là do: phần công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi trái lại ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề cổ truyền có tiềm năng lớn trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được khôi phục và phát triển. Sản phẩm đưa ra trên thị trường phong phú, đa dạng chất lượng cao, mẫu mã đẹp hơn. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vợt khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi thế giới. Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế nhưng trình độ xã hội hoá giữa các nganhf, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế, phân phối và trao đổi sản phẩm tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế đảm bảo lợi ích giữa các tổ chức trong các thành phần với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần với nhau. Như vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan hay cản trở quá trình tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng những hinh thức khác nhau sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Qua đó ta thấy sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là một tất yếu khách quan rất cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế nươcs nhà. Để thấy được tính quan trọng bức thiết của nấn đề đó ta đi sâu nghiên cứu từng thành phần kinh tế. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế nước ta có sự khác nhau rõ nét về hình thức sở hữu, về cách thức thu nhập. Tuy nhiên chúng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế và xã hội ta vì vaạy, mỗi thành phần kinh tế đều là một bộn phận của nền kinh tế quốc dân. Chúng có vị trí, vai trò nhất định trong một hệ thống khinh tế thống nhất có sự quản lý của nhà nước. a/ Kinh tế nhà nước. - Định nghĩa: Thành phần kinh tế nhà nước là những đơn vị tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu của nhà nước hoặc phần của toàn nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. - Vị trớ vai trũ: Kinh tế nhà nước bao gồm các koanh nghiệp nhà nước các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước như đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các nguồn dụ trữ, ngân hàng, kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đại hội toàn quốc làn thứ VIII đã khẳng định rằng: Kinh tế nhà nước cần tập trung vào những ngành, những lĩnh vực chủ yếu như: Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiển, những cơ sở sản xuất thương mại. Như vậy, vị trí của kinh tế nhà nước là rất quan trọng và to lớn. Kinh tế nà nước giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với các thành phần kinh tế khác, thể hiện trên các mặt sau: Kinh tế nhà nước tạo lực lượng về kinh tế để nhà nước có thể thực hiện hữu hiệu chức năng định hướng, đòn bẩy hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, vó còn cung ứng những hàng hoá, dịch vụ cần thiết trong một số lĩnh vực quan trọng như: Giao thông, thông tin liên lạc, quốc phòng, an ninh… Đồng thời kinh tế nhà nước đảm bảo vai trò can thiệp và điều tiết vĩ mô của nhà nước, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện một số chính sách xã hội. Sở dĩ kinh tế nhà nước giư vai trò chủ đạo so với các thành phần kinh tế khác là do: Kinh tế nhà nước là thành phần dựa trên trình độ xã hội hoá cao nhất, nó không chỉ có ưu thế về học vấn, trình độ, kỹ thuật và còn có vai trò quyết định sự tồn tại, phát triển của nền kinh tế nước ta. Qua đó ta thấy coi nhẹ kinh tế nhà nước cho rằng chuyển sang cơ chế thị trường phải tư hữu hoá tất cả tư liệu sản xuất là sai lầm, nhưng nếu duy trì và phát triển kinh tế nhà nước thiếu cân nhắc kỹ hiệu quả kinh tế xã hội của nó thì cũng không đúng. Mấy năm qua khu vực kinh tế nhà nước có chuyển biến tích cực biểu hiện ở: Tỷ trọng tổng sản phẩm trong nước tăng từ 36% năm 1991 lên đến 43,6% năm 1994. Hiệu quả sản xất kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp thua lỗ giảm bớt. Tuy nhiên, nó cũng chư phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân, những tiến bộ đạt được chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với năng lực sẵng có. Doanh nghiệp ngà nước chiếm 85% tài sản cố định trong công nghiệp, 100% mỏ khoáng sản lớn, hơn 90% lao động được đào tạo nhưng hiệu quả kinh doanh còn thấp, một bộ phận đáng kể còn thua lỗ hoặc không có lại. Do đó vấn đề cấp thiết đặt ra cho khu vực kinh tế nhà nước là tạo ra động lực, lợi ích trực tiếp cho người lao động để họ thực hiện quyền làm chủ, kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh. Việc đổi mới kinh tế nhà nước phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra các bài học kinh nghiệm, bổ sung những tri thức "cập nhật" nhằm thực hiện tốt vai trò chủ đạo nà mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế này. b/ Thành phần kinh tế hợp tác. - Định nghĩa: Là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể dể giải quyết có hiệu quả hơn những vần đề của sản xuất kinh doanh và đời sống. Nòng cốt của kinh tế hợp tác xã. - Vị trớ vai trũ: Hiện nay một thực tế đặt ra là nếu không củng cố và phát triển kinh tế hợp tác xã để nó cùng với kinh tế nhà nước tạo thành nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất khó khăn. Vì vậy, Đại hội toàn quốc làmVIII đã nêu lên nhiệm vụ phải phát triển kinh tế hợp tác hoá xã hội với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao. Phong trào hợp tác hoá ở nước ta xuất hiện từ những năm 50. Nó có nhiều đóng góp quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vừa qua việc chuyển đổi từ hợp tác cũ sang hình thức hợp tác xã kiểu mới. Việc xác lập hộ tự chủ trong sản xuất kinh doanh và xuất hiện những hình thức hợp tác đa dạng trong nông nghiệp như tiểu thủ công nghiệp là một biến tiến quan trọng trong kinh tế hợp tác. Thực tiễn cho thấy: Hợp tác xã phải được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, hưởng lợi quá theo cổ phần và kết quả lao động. Mỗi xã viên có quyền định đoạt ngang nhau đối với công việc chung. Kinh tế hợp tác có nhiều dạng, có những hợp tác xã trở thành lĩnh vực hoạt động chính của các thành viên, có những hợp tác xã chỉ nhằm đáp ứng chung về một hay một số dịch vụ trong quá trình sản xuất. Thành viên tham gia chỉ đóng một phần vốn và lao động, hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã có thể là kết quả liên kết theo chiều dọc, chiều ngang hoặc hỗn hợp không bị giới hạn bởi địa giới và lĩnh vực kinh doanh. Mỗi người kinh doanh, mỗi hộ gia đình có thể tham gia đồng thời vào nhiều loại hình kinh tế hợp tác. Hợp tác xã có thể huy động vốn cả trong lẫn ngoài. Những hợp tác xã với mô hình cũ khi chuyển qua kinh tế thị trường đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Để đảm đương vai trò và nhiệm vụ mà nền kinh tế giao phó, thành phần kinh tế tập thể phải được đổi mới căn bản và đồng bộ về quan hệ sở hữu, quản lí và quan hệ phân phối, áp dụng tiến bộ và công nghệ khoa học mới vào sản xuất, hoạt động phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện tự chủ chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân lời ăn lỗ chịu. Những hợp tác cổ phần sẽ là những trực thể cấu tạo nên thành phần kinh tế tập thể ở tất cả các nhành của nền kinh tế. Đây là giải pháp xuất phát điểm để đổi mới các hợp tác xã. Song đó không phải là giải pháp duy nhất "có phép thần tiên" màu nhiệm chữa được mọi căn Bệnh hiện nay của thành phần kinh tế tạp thể. Sự tồn tại, phát triển của kinh tế hợp tác là một tất yếu kinh tế phù hợp với con đường tiến hoá tự nhiên cuả nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của thành phần kinh tế này đã được khẳng định và ngày càng phát huy tác dụng đặc biệt là trong kinh tế hợp tác xã nông nghiệp. c/ Kinh tế tư bản nhà nước. - Định nghĩa: Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước. - Vị trớ vai trũ: Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác liên doanh sản xuất giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng khai thác phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia đặt dưới sự kiểm soát giúp đỡ của nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta đa số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung trong ngành dịch vụ (64%). Tổng giá trị sản phẩm khu vực này tạo ra là 9% GDP. Nó đã đóng vai trò không kém phần quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Lênin đã chỉ rõ "Trong một nước tiểu nông phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến lên xã hội chủ nghĩa". Vận dụng tư tưởng đó Đảng ta đã chỉ rõ là phải áp dụng một cách rộng rãi các hình thức tư bản nhà nước để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy còn nhiều khó khăn, trở ngại trong việc phát triển các liên doanh những triển vọng của nó rõ ràng to lớn. Có xu hưỡng ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng của đầu tư nước ngoài vào nước ta, ý nghĩa của sự phát triển thành phần kinh tế này là việc thu hút vốn, công nghệ và kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới, khu vực nhằm từng bước góp phần cấu trúc lại nền kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Không có sự đầu tư của nước ngoài nền kinh tế Việt Nam không thể nhanh chóng cất cánh và rút ngăns được quá trình đạt tới trình độ của nền kinh tế thị trường. Do đó để thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam cần tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn bằng cách đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ đủ khả năng đảm đương được công việc, nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng và xây dựng hệ thống pháp luật ổn định. Tạo lòng tin và giữ vững chữ tín với các đầu tư nước ngoài. d/ Kinh tế cá thể, tiểu chủ. - Định nghĩa: Kinh tế cá thể, tiểu chủ là thành phầm kinh tế hoạt động của bản thân sản xuất kinh doanh vốn và sức lao động cuả bản thân là chính. - Vị trớ vai trũ: Kinh tế cá thể, tiểu chủ của nông dân thợ thủ công những người buôn bán, dịch vụ cá thể. Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán, mục đích kinh doanh chủ yếu nuôi sống mình. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy thế mạnh có hiệu quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề. Vì vậy kinh tế cá thể tiếu chủ có vị trí, vai trò quan trọng và lâu dài đỗi với sự phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đảng và nhà nước chủ trương giũp đỡ thành phần kinh tế tiểu thủ về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Song nó còn có những hạn chế không phù hợp với chủ nghĩa xã hội. Do đó cần hướng dẫn nó đi vào làm ăn hợp tác một các tự nguyện hoặc làm "vệ tinh" cho các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Đó là cách tốt nhất để nó hoà nhập với các thành phần kinh tế khác và đóng góp nhiều hơn cho công cuộc đổi mới kinh tế, phát triển đất nước. e/ Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. - Định nghĩa: Là các đơn vị kinh tế mà vôn do một hặc một số nhà nước tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đây là thành phần dựa trên sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động thường đầu tư vào những ngành vốn ít lãi cao. - Vị trớ vai trũ: Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các hình thức như: Doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ năm 1991, sau khi có luật Doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, kinh tế tư bản nhà nước phát triển khã mạnh và sẽ trở thành một lực lượng đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước. hiện nay có 12109 doanh nghiệp tư nhân với số vốn đăng ký 2234 tỷ đồng, công ty trách nhiệm hữu hạn có 5583 công ty với tổng số vốn 3 tỷ đồng. Nền kinh tế nước ta phát triển có năng động với tốc độ cao hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Mặt khác việc tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước chỉ có thể mở rộng và có hiệu quả dựa trên cơ sở một khu vực kinh tế tư nhân được phát triển đủ lớn làm tiền đề. Vì vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay sự phát triển mạnh mẽ và năng động của kinh tế tư bản tư nhân có ý nghĩa rất lớn và đòi hỏi phải được đặt trong chương trình nghị sự hàng ngày của Chính phủ. Kinh tế tư nhân kinh doanh hợp pháp cần được chính phủ khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn ra kinh doanh cần được bảo vệ bằng luật pháp và chính sách. Những nhà đầu tư tư nhân phải được thực sự bình đẳng trong kinh doanh trước pháp luật, được tôn trọng trong xã hội bởi hiện nay nhiều nhà doanh nghiệp tư nhân vẫn bị coi là kẻ bóc lột, so với các doanh nghiệp nhà nước họ còn bị thua kém nhiều bề. Chính sách của nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân phát triển trong những ngành và lĩnh vự pháp luật cho phép. Nhà nước góp phần vốn đầu tư cùng tư nhân trên cơ sở thoả thuận nhằm tạo thế kinh doanh tạo lực phát triển xây dựng tình đoàn kết, hợp tác giữa chủ và thợ phát triển kinh doanh có hiệu quả. Tất cả các thành phần kinh tế trên tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ. Mối liên hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Tính thống nhất của các thành phần kinh tế thể hiện ở các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt lập nhau mà gắn bó đan xen xâm nhập lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế vì chúng đều là các bộ phận của hệ thống phân công lao động xã hội thống nhất. Mỗi thành phần kinh tế có vai trò, chức năng của nó trong đời sống kinh tế xã hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của nhà nước. Sự thống nhất của hệ thống các quy luật kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá độ và thị trường thống nhất. Tất cả các thành phần kinh tế đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta. Vì vậy, các thành phần này đều phát huy mọi tiềm lực hiện có để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Các thành phần kinh tế đều khác nhau về nhiều mặt cho nên sự thống nhất này bao hàm những mặt khác biệt nhau và đối lập nhau, chúng tồn tại trong mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa công hưu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, giữa su hướng tư bản chủ nghĩa và xu hướng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ có sự mâu thuẫn là do đặc điểm sở hữu của các thành phần kinh tế là khác nhau nên lợi ích kinh tế giữa các thành phần là khác nhau, trái ngược nhau nên mâu thuẫn nhau. Ngay trong mỗi thành phgần kinh tế các doanh nghiệp cũng mâu thuẫn lẫn nhau vì chúng đều là các chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trường. Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển trong hệ thống thống nhất của nền kinh tế quá độ chứa đựng những sự đối lập, một mặt bài trừ, như định lẫn nhau cạnh tranh lẫn nhau. Mặt khác chúng thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển thông qua hợp tác và cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá để vươn lên tự khẳng định mình và phát triển theo quỹ đạo chung chịu sự quản lý của nhà nước. Tuỳ vào khả năng và trình độn xã hội hoá của từng thành phần và sự hợp tác giữa chúng mà giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tạo công ăn việc làm nâng cao đời sống người dân. 3. Những thành quả đạt được, những mặt còn hạn chế trong quá trình thực hiện nên kinh tế nhiều thành phần. a/ Những thành quả đạt được. Qua hơn mười năm đổi mới nền kinh tế nước ta bước đầu được cấu lại đi dần vào thế ổn định và tăng trưởng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Hàng năm nền kinh tế đều có tăng trưởng: tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng bình quân hàng năm là 8,2%, giảm tỷ lệ lạm phát từ 14,7% năm 1986 xuống12,7% năm 1995 và khoảng 5% năm 1996. Kim ngạch xuất khẩu trong năm năm 1991-1995 đạt 17 tỷ đôla và năm 1996 đạt trên 7 tỷ đôla. Mở rộng được quan hệ kinh tế hợp tác với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật của nhiều nước để phát triển kinh tế trong nước. Đến cuối 1996 có trên 700 công ty lớn nhỏ đầu tư vào nước ta với 22 tỷ đôla nằm trong 1800 dự án phát triển kinh tế thuộc nhiều thành phần khác nhau: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, ngân hàng tài chính chúng ta đã thiết lập quan hệ buôn ngoại thương với 120 nước trên thế giới, xoá bỏ thế bị bao vây cô lập về kinh tế tạo ra thế và lực mới để cạnh tranh trên thị trường thế giới.Môi trường kinh tế vỉ mô ngày càng ổn định và cán cân thương mại ngày càng được cải thiện rõ rệt làm cho nền kinh tế phát triển và năng động hơn. Bên cạnh những thành tựu đạt được nền kinh tế nước ta còn bộc lộ những khuyết tật hạn chế cơ bản. b/ Những mặt hạn chế. Sự tăng trưởng của nền kinh tế chưa thật ổn định và vững chắc. Sự tăng trưởng này chủ yếu do đầu tư theo vốn và lao động. Chưa tạo lập được một hệ thống thị trường đầy đủ theo yêu cầu kinh tế thị trường. Thị trường hàng hoá và dịch vụ tuy có hoạt động sôi nổi nhưng chỉ tập trung ở thành phố. Đô thị lớn và một số tỉnh biên giới, về cơ bản là tự phát.lộn xộn rất không bình thường, thị trường nông thôn không được quan trọng. Mặt khác nó cũng chưa với tới bàn tay vô hình tới những vùng miền núi,trung du. Nơi có tiềm năng lớn về tài nguyên khoáng sản. Trong khu vực kinh tế nhà nước,thị trường lao động chỉ tồn tại ở trình độ thấp,còn có 1/3 trong hơn 6000 doanh nghiệp nhà nước làm ăn chưa có lãi hoặc thua lỗ. Tình trạng kinh doanh phi pháp rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng buôn lậu làm hàng giả ngày càng gia tăng phá hoại sản xuất nội địa gây thiệt hại cho lợi ích người tiêu dùng và gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Trình độ lực lượng sản xuất ngày càng thấp kém có nguy cơ tụt hậu so với nhiều nước nếu như sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá chậm phát triển. Mặt khác kết cấu hạ tầng trong kinh tế còn quá kém,việc phát triển ngồn lực lao động có kỹ thuật, năng suất-cơ sở quan trọng nhất cho sự cất cấn của nền kinh tế còn hạn hẹp. Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội đang diễn ra khá nhanh và xu hướng ngày càng gia tăng. 5. Giải pháp khắc phục khó khăn. Để khắc phục những khó khăn và hạn chế nêu trên Đảng và nhà nước ta đã đề ra và thực hiện các giải pháp sau: song song với việc phát triển mạnh các thành phần kinh tế phải đảm bảo cho kinh tế nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo và khả năng điều tiết được các thành phần kinh tế khác. Để thực hiện được điều này cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp sau. Đảm bảo cho kinh tế nhà nước hơn hẳn các thành phần khác về quy trình công nghệ, vận dụng kịp thời những thành tựu mới nhất của khoa học, kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh. Kinh tế nhà nước phải kinh doanh có lãi và liên tục phát triển. Hiện nay, thị trường là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế. Trong tương lai thi trường nước ta sẽ vận động và phát triển theo xu hướng chung của thị trường thế giới-một thị trường đầy đủ, ổn định phát triển đồng bộ cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Nhà nước phải độc quyền ngoại thương vì chỉ có độc quyền ngoại thương nhà nước mới có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và định hướng được các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần đảm bảo t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0242.doc
Tài liệu liên quan