Biện chứng quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam

I/ Thời kỳ quá độ và nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam Thời kỳ quá độ và nền kinh tế nhiều thành phần : Thời kỳ quá độ. “Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới –xã hội xã hội chủ nghĩa . Nó diễn ra từ khi cách mạng vô sản thắng lợi ,giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật chất-kỹ thuật

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện chứng quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
,kinh tế,văn hoá tư tưởng . Nói cách khác kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội xã hội chủ nghĩa” [giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lenin,nhà xuất bản chính trị quốc gia,Hà Nội 2005 trang 266] Đặc điểm lớn nhất ,cơ bản nhất của nền kinh tế thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần.Trong thời kỳ quá độ,nền kinh tế cũng có tính chất quá độ, nó không còn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tương tự với nền kinh tế nhiều thành phần chính là sự tồn tại nhiều giai cấp , nhiều hình thức sở hữu trong xã hội . Và mâu thuẫn lớn nhất trong thời kỳ quá độ chính là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản Vì thế thời kỳ này chưa có thành phần kinh tế thống trị chi phối mà chỉ có thành phần kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cũng chính vì vậy, cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là quá trình cách mạng hết sức gay go, phức tạp và quyết liệt để tiến tới đảm bảo cho thành phần kinh tế chủ nghĩa xã hội giữ vai trò chủ đạo. Nền kinh tế nhiều thành phần : “Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất” [Giáo trình kinh tế chính trị Mac-LeNin, nhà xuất bản chính trị quốc gia , Hà Nội 2005 trang 308] Nền kinh tế nhiều thành phần là nền kinh tế bao hàm nhiều thành phần minh tế khác nhau , nhiều hình thức sở hữu khác nhau mà trong đó các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một môi trường hợp tác và cạnh tranh. Việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ là tất yếu , khách quan bởi : trong thời kỳ quá độ kết cấu xã hội còn đan xen nhiều tầng lớp, nhiều giai cấp trong xã hội, vì vậy lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau. Về quan hệ sản xuất ,tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, cơ cấu nền kinh tế nhất thiết phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Mặt khác chế độ sở hữu và tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức khác nhau tức là sẽ dẫn tới việc tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần và các thành phần kinh tế tồn tại biệt lập với nhau những mang mối quan hệ hữu cơ tạo thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. 2. Thời kỳ quá độ và nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam : a) Thời kỳ quá độ tại Việt Nam. “ Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa , nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa , đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất , xây dựng nền kinh tế hiện đại” [ Đảng cộng sảm việt nam : văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nhà xuất bản chính trị quốc gia -Hà Nội 2001, trang 84 ]. Điều này cũng nói lên rằng : nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ , lao động thủ công là phổ biến .Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi vừa có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vừa có nền đại công nghiệp hiện đại và phát triển. Chính vì vậy trong thời kỳ quá độ tại Việt Nam vừa đòi hỏi phải xây dựng quan hệ sản xuất hoàn toàn mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời xây dựng một lực lượng sản xuất , cong nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .Vì thế ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế nhiều thành phần. “Đảng ta đã xác định và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần , vận động cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đó chính là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” [Đảng cộng sản Việt Nam : văn kiện đại hội đại biểu lần thứ IX . nhà xuất bản chính trị quốc gia -Hà Nội 2001 trang 86 ]. Việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với lực lượng sản xuất không đồng đều ở nước ta , phù hợp với yêu cầu quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ , kết hợp với chủ động hội nhập quốc tế. Đảng ta khẳng định “mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất , phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt quản lý , sở hữu, phân phối” [Đảng cộng sản Việt Nam , văn kiện đại hội đại biểu lần thứ IX, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2001, trang 86-87 ] Nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam : Theo nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 đã xác định nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam có 6 thành phần : - Kinh tế nhà nước - Kinh tế tập thể - Kinh tế cá thể tiểu chủ - Kinh tế tư bản tư nhân - Kinh tế tư bản nhà nước - Kinh tế có vốn nước ngoài Các thành phần kinh tế có sự khác nhau rõ nét về hình thức sở hữu về phương thức tổ chức quản lý và do đó khác nhau cả về hình thức thu nhập . Tuy nhiên tất cả các thành phần kinh tế này đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế và xã hội ta . Vì vậy, mỗi thành phần kinh tế đều là bộ phận của nền knhi tế quóc dân . Cúng có vị trí, vai trò nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất có sự quản lý của nhà nước . Vị trí vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân: Kinh tế nhà nước : Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu ) về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước ). Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước , các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như : đất đai, tài nguyên , khoáng sản , kết cấu hạ tầng , các nguồn dự trữ và cả phần vốn của nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác . Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định rằng kinh tế nhà nước cần tập trung vào những nghành , lĩnh vực chủ yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội , hệ thống tài chính ngân hàng , bảo hiểm , những cơ sở sản xuất và thương mại dịch vụ quan trọng , doanh nghiệp phục vụ an ninh quốc phòng .... Như vậy vị trí của nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân là rất quan trọng và to lớn . Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân ,là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế , là lực lượng sản xuất vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế tập thể : “Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn cùng kinh doanh , tự quản lý theo nguyên tắc tập trung , bình đẳng cùng có lợi”. [Giáo trình kinh tế chính trị Mac- LeNin, nhà xuất bản chính trị quốc gia -Hà Nội 2005-trang 313 ]. Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng , nòng cốt là dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể . Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII của đảng đã nêu nhiệm vụ phải phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao theo nguyên tắc tự nguyện , cùng có lợi , quản lý dân chủ . Kinh tế tập thể phát huy được sức mạnh lao động tập thể mà lao động cá nhân không có được . Đồng thời tạo việc làm và cung cấp vật phẩm tiêu dùng cho xã hội , nguyên liệu cho công nghiệp , hàng hoá cho xuất khẩu . Kinh tế cá thể – tiểu chủ : Là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu cá thể (tư nhân nhỏ )về tư liệu sản xuất kết hợp với sức lao động cá nhân của người lao động hoặc có thuê số ít lao động làm thuê. Kimh tế cá thể –tiểu chủ hiện nay được thể hiện là lao động cá thể của các hộ tư nhân nhỏ hoặc các doanh nghiệp nhỏ . Kinh tế cá thể tiểu chủ giúp phát huy những ngành nghề truyền thống , phát huy những tiềm năng về vốn , lao động của từng lao động. Ngoài ra cũng góp phần cung cấp vật phẩm tiêu dùng cho xã hội , nguyên liệu cho công nhân , hàng hoá cho xuất khẩu . Kinh tế tư bản tư nhân : Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và áp bức bóc lột sức lao động làm thuê . Kinh tế tư bản tư nhân được biểu hiện ra là các doanh nghiệp tư nhân lớn . Kinh tế tư bản tư nhân có vai trò tạo việc làm , tăng thu nhập , góp phần tăng thu nhập quốc dân và huy động được nguồn vốn , kinh nghiệm quản lý của các chủ doanh nghiệp. Kinh tế tư bản nhà nước : Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh , liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh nhưng dưới sự kiểm soát của nhà nước . “Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thưc hợp tác liên doanh liên doanh kinh tế nhà nước với tư bản ngoài” [Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần XIII , nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 1998 trang 5 ]. Vai trò của kinh tế tư bản nhà nước là cho phép chúng ta tranh thủ được vốn , công nghệ hiện đại , kinh nghiệm quản lý của nhà nước tư bản . Đồng thời giúp ta học tập được kinh nghiệm quản lý , tạo việc làm và mở rộng thị trường . Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài : Kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu hỗn hợp (sự kết hợp giữa nhà nước và các chinhs phủ hoặc các tổ chức quốc ttế khác ) Kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài có vai trò quan trọng trong liên kết hợp tác giữa các quốc gia và các chính phủ các nước . giúp ta tranh thủ vốn , công nghệ hiện đại , kinh nghiệm quản lý của các chính phủ , nhà nước đồng thời giúp mở rộng thi trường và tạo việc làm. II/ Biện chứng quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam. 1.Quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế : a) Tính thống nhất : Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , cơ chế hoạt động của nền kinh tế là cơ chế thị trường. Do đó các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập. Mỗi thành phần kinh tế đều là 1 bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất . Sự phát triển của mỗi thành phần đều góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy có sự độc lập tương đối, có bản chất riêng nhưng cùng hoạt động sản xuất kinh doanh trong môi trường chung , cùng chịu tác động của các nhân tố , các quy luật thị trường như : quy luật cung cầu , quy luật giá trị , quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ ... Mặt khác , các thành phần kinh tế cùng chịu sự quản lý , điều tiết của nhà nước thônh qua công cụ phát luật, kế hoạt , chính sách và các công cụ khác .Vì lý do này , mà các thành phần kinh tế tuy khác nhau nhưng vẫn mang tính thống nhất trong nền kinh tế quốc dân. Trong các thành phần kinh tế tồn tại nhưng hình thức sở hữu khác nhau nên bên cạch các quy luật chung luôn có nhưng quy luật đặc thù hoạt động chi phối mỗi thành phần tạo lên nhưng bản chất kinh tế khác nhau, những lợi ích kinh tế khác nhau , đôi khi đối lập nhau. Những lợi ích kinh tế , hoặc các quy luật kinh tế riêng của các thành phần kinh tế mà đối lập nhau tạo nên các mặt đối lập giữa các thành phần kinh tế . Theo quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thì “hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựu lân nhau , tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập , nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau . Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự đồng nhất của các mặt đối lập.Với ý nghĩa đó sự thống nhất của các mặt đối lập còn bao trùm cả sự đồng nhất của các mặt đó ” [Giáo trình triết học Mac-LeNin nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nọi 2004 trang 275-276 ]. Như vậy , chính các mặt đối lập này tạo tiền đề cho sự đấu tranh và phát triển cho nền kinh tế nhưng cũng từ đó mà các thành phần kinh tế luôn tồn tại thống nhất , “song hành” cùng nhau . Trong những quy luật riêng , tồn tại những đặc điểm , những quy luật kinh tế chung đó là ‘cái chung” tồn tại trong nhiều “cái riêng” tạo thành sự đồng nhất giữa các mặt đối lập – là cơ sở cho sự thống nhất giữa chúng. Sự mâu thuẫn : Tính mâu thuẫn tồn tại trong các thành phần kinh tế tại việt nam chủ yếu thuộc ba dạng sau: Thứ nhất là : mâu thuẫn giữa chính các thành phần kinh tế với nhau về quy luật kinh tế , về lợi ích kinh tế mà tại Việt Nam là mâu thuẫn lợi ích kinh tế của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế tập thể ) với các thành phần phi xã hội chủ nghĩa . Thứ hai là : mâu thuẫn về xu hướng phát triển,xu hướng phát triển xã hội và xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa . Thư ba là : mâu thuẫn trong nội bộ các thành phần kinh tế . Các mâu thuẫn tồn tại bên trong các thành phần kinh tế là giữa các mặt đối lập trong chính một thành phần kinh tế hoặc trong nhiều thành phần kinh tế với nhau . “ các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn luôn đấu tranh với nhau . Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.” [ Giáo trình triết học Mác- LêNin nhà chính trị quốc gia Hà Nọi 2004 trang 276]. Cũng theo quy luật như vậy, các mặt đối lập trong các thành phần kinh tế cũng tạo lên mâu thuẫn. Chính nhờ việc tạo lên mâu thuẫn mà việc giải quyết mâu thuẫn đã tạo lên sự phát triển . LêNin nói “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Nhờ nó mà nền kinh tế quốc dân ngày càng hoàn thiện . Thống nhất và dấu tranh giữa các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển . Các thành phần kinh tế cũng nhờ có cái chung , cái riêng, các mặt đối lập mà tồn tại thống nhất và kích thích giải quyết mâu thuẫn để phát triển tạo nên sự hoàn chỉnh và phát triển cao hơn và mỗi thành phần kinh tế cung như toàn bộ nền kinh tế quốc dân . Các nhân tố có tính chất quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam . a) Hoàn cảnh khách quan : Tình hình kinh tế chính trị thế giới : Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau . Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển của lịch sử và cuộc sống của dân tộc , những xu thế đó vừa tạo ra thời cơ phát triển nhanh cho các nước vừa đặt ra những thách thức gay gắt , nhất là những nước lạc hậu về kinh tế . Về chính trị : thế giới ngày càng trở nên bất ổn , mang nhiều mâu thuẫn và vô cùng phức tạp . Ngoài cuộc đấu tranh gay gắt liên tục gữa chủ nghĩa xã hội và tư bản chủ nghĩa cũng như cuộc đấu tranh giai cấp , dân tộc gay go phức tạp của các nước vì hoà bình dân tộc , dân chủ và tiến bộ xã hội , còn có các cuộc đấu tranh chống khủng bố . Chủ nghĩa xã hội đang đứng trước nhiều khó khăn thử thách để tiến tới cộng sản chủ nghĩa. Tình hình kinh tế chính trị trong nước : Về kinh tế : Việt Nam còn là nước lạc hậu và chậm phát triển . Trong khi lực lượng sản xuất thế giới đạt đến trình độ quốc tế hoá thì ở nước ta lực lượng sản xuất rất lạc hậu , lại không đồng đều giữa các ngành và các vùng kinh tế . thế giới bỏ xa chúng ta ,tụt hậu về kinh tế trở thành nguy cơ số một trên con đường xây dựng đất nước ta hiện nay . Tuy vậyvề chính trị : Việt Nam là một nước tiên tiến .Chúng ta có nhà nước của dân do dân vì dân có nền giáo dục khá phát triển , có hệ tư tưởng tiên tiến lấy chủ nghĩa Mac – LeNin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Có hệ thống giáo dục ,y tế vững chắc và cung cấp đến từng người dân . Các chính sách “ xoá đói giảm nghèo” được thực hiện rất hiệu quả cùng với thực hiện công bằng xã hội . Song về chính trị Việt Nam cũng là nước bị nhiều thế lực phản động trong và ngoài nước chống đối kịch liệt .Các nguy cơ về tụt hậu kinh tế diễn biến hoà bình , nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa , nguy cơ tham nhũng đều có nguồn ngốc từ mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình đổi mới của cách mạng việt nam hiện nay. Tuy nhiên bên cạnh những khó khăn thách thức đó nước ta có nhiều cơ hội từ hội nhập kinh tế và học hỏi kinh nghiệm từ bạn bè quốc tế . Trong đó xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nhiều cơ hội học hỏi khoa học công nghiệp và phát triển kinh tế . Về nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam : Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế nên cùng tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều phương thức quản lý , sản xuất và phân phối khác nhau, tạo điều kiện khai thác tất cả mọi tiền lực trong nước và thu hút các nhà đầu tư khoa học công nghiệp hiện đại . Do đó làm nền kinh tế phát triển nhanh .Tuy nhiên thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữa vai trò chủ đạo , là lực lượng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ,nếu nền kinh tế nhà nước suy yếu hoặc không giữ được vai trò chủ đạo thì các thành phần kinh tế khác cũng không phát huy được tác dụng của nó và việc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng gặp khó khăn . Chủ quan : Như đã nói về sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam , ta có thể thấy đó là hai mặt của cùng một vấn đề. Sự thống nhất các thành phần kinh tế giúp chúng cùng tồn tại ổn định trong nền kinhtế Việt Nam tuy nhiên chính sự mâu thuẫn tác động đan xen giữa chúng mới tạo nên sự phát triển của các thành phần kinh tế nói riêng và kinh tế Việt nam nói chung . Phải khẳng định rằng : thành phần kinh tế nhà nước chính là thành phần kinh tế chủ đạo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam để theo đúng hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề ra.Thành phần kinh tế nhà nước làm nhiệm vụ chủ đạo , hướng các thành phần kinh tế khác bằng nhiều cách để nền kinh tế phát triển theo đúng quỹ đạo đã định sẵn.Trong sự tác động giữa các thành phần kinh tế có thể chia làm hai mảng : hợp tác và cùng hỗ trợ nhau phát triển và cạnh tranh, mâu thuẫn .Có thể nói rằng cùng tồn tại trong một nền kinh tế , sự cạnh tranh mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế là không thể tránh khỏi, nhất là khi các thành phần kinh tế khác nhau về nhiều mặt ,đặc biệt là về hình thức sở hữu . “Kinh tế tư bản tư nhân là lực lượng kinh tế mạnh nhất có thể hướng sự phát triển của đất nước theo kiểu tư bản chủ nghiã” [xu hướng biến động của nền kinh tế nhiều thành phần tại VN-nhà xuất bản chính trị quốc gia –Hà Nội 1998 trang32] Bên cạnh thành phần kinh tế tư nhân còn có thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ các kinh tế này như Lênin đã chỉ ra chưa sẵn khả năng tư nhất lên tư bản . Như vậy ,có thể xem mâu thuẫn giữa thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế tư bản tư nhân là 2 mặt đối lập của nền kinh tế nước ta hiện nay.Ngoài mâu thuẫn trên còn có những mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế khác về lợi ích trong việc phân bổ vốn của chính phủ , lợi ích kinh doanh , lợi ích xã hội ...nhưng không phải là những mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ tại việt nam . Mặt khác các thành phần kinh tế cũng hợp tác , cùng tạo điều kiện nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật ,lợi ích kinh tế ...đã có sự kết hợp giữa các thành phần kinh tế để kết hợp các yếu tố lợi thế và giảm đi các yếu tố thuộc thế yếu của các thành phần kinh tế . Sự hợp tác này diễn ra trên các lĩnh vực : nông nghiệp , ngoại thương...Kết quả là tạo cơ sở , tiền đề cho các ngành có cơ sở vững chắc hơn về khoa học kỹ thuật , tạo điều kiện mở rộng thị trường , tập trung về vốn hoạt động , tạo sự thuận lợi trong các hoạt động đòi hỏi mang tính hành chính ...và đã giúp kinh tế phát triển . Sự tác động của đảng và điều tiết của nhà nước : Đảng ta xác định rõ kinh tế nhiều thành phần tại việt nam là nền kinh tế nhiều thành phần được sử dụng như một phương tiện để xây dựng một cơ sở vật chất hiện đại , 1 quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhằm tiến tới xây dựng 1 xã hội xã hội chủ nghĩa . Mà nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam lại phụ thuộc vào sự lãnh đạo của đảng và điều tiết của nhà nước . Đảng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng xu hướng phát triển của nền kinh tế .Bên cạnh đó nhà nước có nhiệm vụ là thông qua pháp luật , các chính sách để điều tiết , chi phối nền kinh tế theo đúng định hướng mà Đảng đã đề ra . Tại bất cứ quốc gia nào trên thế giới , nền kinh tế cũng phụ thuộc vào đảng cần quyền và sự điều tiết của nhà nước . Tại Việt Nam , nền kinh tế Việt Nam cũng phụ thuộc vào đường lối Đảng cộng sản Việt nam và sự điều tiết của nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam . Đảng Cộng Sản Việt nam xác định rõ : nền kinh tế Việt nam là nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa . Vai trò của đảng thể hiện ngay từ việc đảng đã chủ động thúc đẩy , lựa chọn , tạo mọi điều kiện cần thiết cho phát triển ở nước ta . Về chính trị , đảng đã tập trung trí tuệ , sức lực chèo lái con thuyền cách mạnh qua giai đoạn khủng hoảng xã hội chủ nghĩa (1991). Về kinh tế ,Đảng đã đề ra đường lối kinh tế đúng đắn vì vậy đã nhanh chóng giải phóng sức sản xuất , phát triển lực lượng sản xuất , góp phần ổn định chính trị –xã hội . Về ngoại giao : đảng đề ra đường lối ngoại giao rộng mở “ Việt Nam muốn làm bạn với mọi dân tộc trên thế giới” để thêm bạn , bớt thù , tranh thủ vốn và kỹ thuật công nghệ , kinh nghiệm quản lý kinh tế – xã hội nhằm mục đích là phát triển nền kinh tế trong nước . Về giáo dục, đào tạo :Đảng bồi dưỡng đào tạo cán bộ nhanh chóng thích ứng với việc đa dạng hoá nền kinh tế nhiều thành phần . Như vậy , Đảng đã tạo điều kiện cả về kinh tế , chính trị , nguồn lực con người , cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển . Phải nói rằng Đảng chính là một nhân tố quan trọng trong việc kết hợp điều kiện khách quan và chủ quan cho định hướng và sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần . Đảng ta quyết tâm hướng nền kinh tế nhiều thành phần theo muc tiêu phục vụ lợi ích đại đa số nhân dân lao động , vì một xã hội công bằng văn minh hạnh phúc . Vai trò kinh tế, chức năng kinh tế cuả nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế hiện đại là rất lớn . Nhà nước chỉ tác động đúng theo yêu cầu của các quy luật kinh tế , quy luật thị trường . Trên cơ sở đó mà khắc phục những khuyết tật của thị trường và định hướng sự phát triển kinh tế theo một xu hướng , một khả năng khách quan cụ thể .Nền kinh tế thị trường hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta tất yếu sẽ chịu nhiều sự tác động của các quy luật vốn có như quy luật giá trị , quy luật cung cầu , quy luật lợi nhuận và sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế.Nhưng sự vận động , phát triển nền kinh tế nhiều thầnh phần theo xu hướng nào lại phụ thuộc rất lớn vào bản chất trính trị xã hội của nhà nước .Kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở nước ta (khác với những nước đang phát triển khác là chúng ta định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế ).Như vậy ta phải giữ vững định hướng , không bị các thế lực khác chặn phá , bị chệch hướng tư bản chủ nghĩa .Sẽ là một nguy cơ lớn nếu ta bị chệch hướng xã hội chủ nghĩa .Việc có giữ vững định hướng của Đảng đề ra được hay không là phụ thuộc rất lớn vào nhà nứơc .Vì vậy vị trí của sự điều tiết của nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần là rất quan trọng đặc biệt là đối với việc phát triển các thành phần kinh tế theo định hướng mà Đảng đã đề ra. Vai trò của nhà nước được thể hiện rõ nhất thông qua việc đưa ra định hướng chiến lược cho từng giai đoạn lịch sử các sách điều tiết các thành phần kinh tế nhằm lái nền kinh tế Việt Nam theo đúng con đường đã lựa chọn . Vai trò của quần chúng nhân dân với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam . Các tổ chức quần chúng tập hợp mọi tầng lớp , mọi lứa tuổi ...chính là cách mạng thực thi đường lối chính sách của Đảng và nhà nước nhằm xây dựng 1 nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo đúng định hướng mà Đảng đề ra . Đất nước ta là đất nước xã hội chủ nghĩa mà trong đó mọi người dân đều có quyền bình đẳng và dân chủ . Xác định quyền dân chủ của mỗi công dân thể hiện vai trò lãnh đạo của quần chúng nhân dân và lợi ích tối cao của việc phát triển kinh tế là xây dựng nền kinh tế phát triển , 1 xã hội của dân do dân vì dân. Hiện nay nhân dân thông qua người đại diện của mình là quốc hội có quyền đưa ra những yêu cầu xây dựng một xã hội phù hợp , bình đẳng .Quốc hội có quyền lập pháp , hiến pháp và tư pháp . Cũng có nghĩa là luật pháp ta do dân lập ra , việc giám sát, kiểm tra mọi hoạt động xã hội cũng như xét xử , phán xét khen thưởng , khích lệ cũng thuộc về nhân dân . Trong các hoạt động xã hội ấy có những hoạt động về kinh tế . Như vậy sự quản lý của nhân dân có vai trò lớn trong sự phát triển của nền kinh tế . Một mặt họ chính là người lập ra luật pháp chi phối sự phát triển kinh tế có quyền hành pháp và tư pháp mọi hoạt động ,mặt khác họ chính là người thực hiện những chính sách của nhà nước , thi hành luật pháp và chính là người lao động , người xây dựng nền kinh tế . Có thể nói quần chúng nhân dân đóng vai trò quan trọng nhất trong sự phát triển của nền kinh tế . Nhân dân vừa là người lao động , chủ các doanh nghiệp tư nhân là công nhân viên chức nhà nước ...Như vậy họ hoạt động trong mọi thành phần kinh tế , có tác động trực tiếp đến các hoạt động kinh tế . Nếu một trong số họ có những hoạt động đi ngược xu hướng phát triển đã định sẵn thì điều đó có khẳ năng gây ra sự chệch hướng của nền kinh tế , hoặc sự khủng hoảng trong nền kinh tế quốc dân . Hiện nay khi nền kinh tế trở nên càng ngày càng phức tạp thì việc mỗi người làm đúng nhiệm vụ của mình đều thúc đẩy nền kinh tế phát triển . Nếu chỉ một quyết định sai lầm cũng có thể dẫn đến sự rối ren, đan xen mâu thuẫn bên trong nền kinh té có thể là giữa thành phần kinh tế này với thành phần kinh tế khác có thể bên trong một thành phần kinh tế và chúng đều có nguy cơ phá vỡ nền kinh tế thành phần, thay đổi cơ cấu ngành hoặc các thành phần kinh tế . Nhân dân cũng là người lập ra luật pháp , và kiểm tra đôn đốc , xử lý các hành vi xã hội . Việc phát triển nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào một hệ thống pháp luật ổn định , mạnh và theo kịp sự phát triển của xã hội thì hệ thống pháp luật đó sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế làm nhiều mâu thuãn nảy sinh , làm mất cơ hội phát triển và làm tụ hậu nền kinh tế . Tóm lại , quần chúng nhân dân vừa có thể là nhân tố thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần phát triển nhanh nhưng cũng có thể làm nền kinh tế quốc dân chuyển hướng phát triển . Đây là nhân tố quyết định tới sự phát triển của các thành phần kinh tế về theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độphát triển của lực lượng sản xuất thì: “Sự vận động ,phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó” [Giáo trình th Mac- Lenin- nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2004trang356]. Vì vậy lực lượng sản xuất là nguồn lao động quyết định sự phát triển của quan hệ sản xuất và quyết định xu hướng phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần . 3. Các nhân tố tác động tới quá trình phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ tại Việt nam . a) Quá trình phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ tại VN: Đại hội Đảng VI (12/1986) đã xem xét một cái căn bản vấn đề cải tạo lại xã hội chủ nghĩa và đưa ra quan điểm kinh tế nhiều thành phần “Đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh , kinh tế tập thể tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của nhà nước và tranh thủ vốn của nước ngoài ,cần có chính sách cải tạo và sử dụng đúng đến các thành phần kinh tế khác [báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội VI. Tạp chí cộng sản số 1- 1987 trang 42] . Trong suốt quá trình đổi mới từ 1986 tới nay nền kinh tế Việt Nam luôn có nhịp độ tăng trưởng dương , đặc biệt là đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục trong suốt thời gian 86-97 . “ trong năm năm đầu , khi chế độ bao cấp mới bị xoá bỏ dần , các doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã gặp rất nhiều khó khăn khu vưc kinh tế tư nhân cá thể chưa phát trriển ,nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn định , bình quân chỉ đạt 3,9% /năm và lạm phát cao kéo dài nhưng đến đầu thập kỉ 90, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng và ổn định và đạt đến đỉnh cao là 9,5% (1995) [ giáo trình lịch sử kinh tế – nhà xuất bản thống kê Hà Nội 2005 trang 415] . Về cơ cấu các thành phần kinh tế đă có sự chuyển dịch chủ yếu từ quốc doanh , hợp tác xã sang đa thành phần , nhưng vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường . Kinh tế hợp tác : nhiều hợp tác xã yếu kém bị giải thể tuy nhiên các hợp tác xã còn lại cũng đang chuyển đổi sang mô hình hợp tác xã kiêủ mới .Kinh tế tư nhân hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau doanh nghiệp tư nhân công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần ... ngày một đa dạng hơn và tăng lên nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp .Sau sự giải thể của các hợp tác xã , kinh tế cá thể trở nên phổ biến hơn số lượng tập trung chủ yếu ở nông dân cá thể và kinh doanh trong thủ công nghiệp và dịch vụ . Nhìn trung từ 1986 -> đến nay , cơ cấu kinh tế có nhiều biến chuyển đặc biệt là sự phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh . Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc tận dụng nguồn vôn và lao đọng , tự tạo việc làm , tăng thu nhập của dân cư và đóng góp vào sự tăng trưởng trung của nền kinh tế .Tuy nhiên khu vực này vẫn còn trạng thái phát triển chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của nó.Toàn bộ nền kinh tế quốc dân Việt Nam có sự tăng trưởng liên tục nhiều năm có tốc độ cao , cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ cơ cấu quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành , kiềm chế đẩy lùi lạm phát .Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh , mở rộng quy mô , đa dạng hoá hình thức và thị trường. b) Sự tác động của các nhân tố vào quá trình của phát triển thời gian qua từ 86 -> nay . Hình ảnh quốc tế: Trong thời gian gần đây toàn cầu hoá là hình tượng nổi bật là xu thế khách quan của nề kinh tế thế giới . mỗi bước trong quá trình phát triển không thể tác rời sự tác động của thị trường khu vực và thế giới . Trong bối cảnh đó, các nước tư bản phát triển đã tiến hành điều chỉnh kinh tế . Nội dung cụ thể là điều chỉnh cơ cấu kinh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0404.doc
Tài liệu liên quan