Câu quan hệ cớ từ "là" trong tiếng Việt

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ________________ Bùi Mai Hương CÂU QUAN HỆ CÓ TỪ “LÀ” TRONG TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh -2009 LỜI CẢM ƠN Thực hiện đề tài này, tôi chỉ mong góp thêm một thử nghiệm vận dụng lý thuyết về câu quan hệ, khảo sát, phân tích các ngữ liệu thu thập được nhằm hiểu rõ thêm về câu q

pdf146 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1689 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Câu quan hệ cớ từ "là" trong tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan hệ trong tiếng Việt. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Dư Ngọc Ngân- người thầy đã dành nhiều thời gian, công sức, động viên, hướng dẫn tận tình tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô trong khoa Ngữ văn, phòng Khoa học-Công nghệ Sau Đại học, thư viện trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp nơi tôi công tác đã quan tâm, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, 2009 LỜI CAM ÐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả được đưa ra trong luận văn là trung thực và chưa được công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận văn Bùi Thị Mai Hương QUI ƯỚC TRÌNH BÀY Luận văn này chúng tôi trình bày theo những quy ước như sau: 1. Những trường hợp in nghiêng: - Tên tác phẩm - Các trích dẫn 2. Trường hợp in nghiêng, chữ đậm : Nội dung nhấn mạnh. 3. Những số ở trong ngoặc vuông [,]: số đầu chỉ nguồn trích dẫn theo thứ tự trong “ Tài liệu tham khảo”, số thứ hai chỉ số trang của tài liệu trích dẫn. Ví dụ: [3,5] là nguồn trích dẫn lấy từ tài liệu Các văn bản pháp quy, trang 5. 4. Những số trong ngoặc đơn ( ) có hai trường hợp: a. Số thứ tự của các ví dụ: được đặt trước các ví dụ. b. Cho biết nguồn của các ví dụ: đặt sau các ví dụ. 5. Những ví dụ không ghi chú nằm trong trường hợp: - Những ví dụ do người viết đặt ra. - Những ví dụ lấy từ đối thoại thực tế. 6. Tài liệu trích dẫn được viết tắt là : TD DẪN NHẬP 0.1 . Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Ngôn ngữ là một thành tựu vĩ đại nhất của loài người. Mỗi ngôn ngữ thể hiện trong nó không chỉ là bề dày lịch sử, nền văn hóa, mà cả trình độ văn minh của một quốc gia, một dân tộc. Ngôn ngữ học, ngành khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ, có một vị trí rất quan trọng trong các khoa học xã hội và nhân văn. Nó giúp chúng ta tìm hiểu về ngôn ngữ nói chung và đặc trưng của các ngôn ngữ cụ thể. Việc nghiên cứu ngôn ngữ cũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ cách nhận thức thế giới, cách truyền đạt tri thức và cách giao tiếp của các cộng đồng ngôn ngữ. Hơn thế, nghiên cứu tiếng mẹ đẻ còn góp phần giữ gìn, bổ sung, trau dồi cho ngôn ngữ của mỗi người ngày càng trong sáng hơn, hoàn thiện hơn. Hiểu được tầm quan trọng của việc nghiên cứu ngôn ngữ, yêu quý và trân trọng tiếng mẹ đẻ, và suy nghĩ rằng nghiên cứu sâu tiếng Việt trên một bình diện nào đó cũng đều rất quan trọng, chúng tôi chọn nghiên cứu về câu quan hệ trong tiếng Việt. Trong ngữ pháp truyền thống, các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng cấu trúc chủ yếu khảo sát câu về cấu trúc hình thức. Gần đây khuynh hướng ngữ pháp chức năng đã đi sâu tìm hiểu câu từ góc độ ngữ nghĩa của câu, chẳng hạn dựa trên sự hình thành các quá trình (Process) để phân ra các loại câu như: các quá trình vật chất (các quá trình hành động), các quá trình tinh thần (các quá trình cảm giác) và quá trình quan hệ (các quá trình tồn tại). Trong các loại câu đó thì câu quan hệ là loại câu khá đa dạng, phong phú về ngữ nghĩa và được dùng phổ biến trong tiếng Việt cũng như trong các ngôn ngữ khác. Từ trước tới nay, một số công trình về ngữ pháp tiếng Việt có đề cập đến câu quan hệ nhưng có lẽ chưa có công trình nào nghiên cứu sâu và cụ thể vào một khía cạnh nào đó của câu quan hệ. Chúng tôi nhận thấy vấn đề “Câu quan hệ trong tiếng Việt” đặc biệt là “câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt” là một vấn đề lý thú và bổ ích nên quyết định chọn làm đề tài luận văn. Để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi dùng các ngữ liệu trên ngôn ngữ viết thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau như phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách hành chính, phong cách ngôn ngữ văn chương. Luận văn khảo sát câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm các mục đích sau đây : - Tiếp xúc với các vấn đề lý thuyết về ngữ nghĩa học, về ngữ pháp chức năng (đặc biệt là quan niệm của M.A.K. Halliday, S.C. Dik), vận dụng vào việc khảo sát, lý giải một loại câu quan hệ trong tiếng Việt. - Kết quả khảo sát, phân tích loại câu quan hệ có từ “là”trong tiếng Việt có thể có những đóng góp thiết thực vào thực tiễn nói, viết và thực tiễn giảng dạy tiếng Việt. 0.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Như trên đã nói, có rất nhiều công trình nghiên cứu về các kiểu quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ, trong đó có quá trình quan hệ. Ở mỗi công trình các tác giả có thể có những cách tiếp cận khác nhau. Luận văn không có tham vọng bao quát đầy đủ quá trình nghiên cứu về câu quan hệ trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Thông qua tìm hiểu của bản thân, chúng tôi chỉ cố gắng điểm qua tình hình nghiên cứu câu quan hệ của những tác giả tiêu biểu trên thế giới và ở Việt Nam. Trên thế giới: Các kiểu quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ được rất nhiều nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Có nhiều cách tiếp cận các quá trình này với những quan điểm khác nhau. Công trình nghiên cứu được xem là đầy đủ, xứng đáng được xem là một cuốn sách giáo khoa cho những ai muốn tìm hiểu về các kiểu quá trình trong hệ thống ngôn ngữ, là của M.A.K.Halliday. Đó là cuốn “Dẫn luận Ngữ pháp chức năng”. Các quá trình mà M.A.K.Halliday miêu tả chủ yếu là trong tiếng Anh, nhưng xét thấy có nhiều điểm có thể vận dụng vào tiếng Việt nên luận văn của chúng tôi áp dụng những mô hình lý thuyết mà ông đưa ra để giải thích và nghiên cứu về câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt. M.A.K.Halliday khái quát về quá trình quan hệ (Relational processes) như sau: “để liên hệ mảng này với mảng kia của thế giới kinh nghiệm: cái này giống cái kia, cái này là một loại của cái kia là quá trình quan hệ” [24, 206]. Hệ thống các quá trình quan hệ trong tiếng Anh của M.A.K. Halliday hoạt động theo ba kiểu chính là: Quan hệ sâu (intensive): ‘x is a’  x là a Quan hệ chu cảnh (circumstantial): ‘x is at a’ x ở a Quan hệ sở hữu (possessive): ‘x has a’  x có a Mỗi kiểu như vậy xuất hiện dưới hai phương thức tách biệt mà Halliday gọi là phương thức đồng nhất (identifying) và phương thức định tính (attributive). Như thế, chiếu theo phương thức quan hệ và kiểu quan hệ mà ông đưa ra, sẽ có sáu cặp phạm trù quan hệ tương ứng. Những đóng góp của Halliday về các quá trình chuyển tác có giá trị rất lớn với tiếng bản xứ (Anh) và cả với các ngôn ngữ khác trên thế giới, chẳng hạn tiếng Việt. Cùng với M.A.K. Halliday, các nhà chức năng luận khác như Fawcett, V.Z. Panfilov, C. Fillmore, Simon C.Dik … cũng đề cập đến câu quan hệ hay loại câu tương tự câu quan hệ. Nhà ngôn ngữ học Simon C. Dik trong Functional Grammar (Ngữ pháp chức năng-1978), đã dùng thuật ngữ “sự tình” (cái có thể là tình huống trong một thế giới nào đó). S.C. Dik dựa trên hai thông số cơ bản là tính động (Dynamism) và tính có chủ ý (Control) để xác lập ra bốn loại hình sự tình: hành động, quá trình, trạng thái, tư thế (xem bảng trình bày các sự tình của S.C. Dik) trong đó không có loại hình sự tình quan hệ. Đến năm 1989, S.C. Dik đưa thêm Tính thành quả (Telicity) vào bộ thông số và cho ra một bảng phân loại gồm sáu sự tình: Tư thế (Position), Trạng thái (State), Hành động hoàn thành (Accomplishment), Hành động diễn tiến (Activity), Quá trình biến đổi (Change), Quá trình biến động (Dynamism). Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết như Siewierska (1991) thừa nhận: “Những loại hình sự thể lọt ra ngoài bảng phân chia loại nhỏ này thì không được nêu tên gọi.” [54, số 10, tr.14]. Diệp Quang Ban cho rằng ngoài lĩnh vực các quan hệ, cách phân loại sự thể của S.C. Dik khá thỏa đáng nhưng rất khó để tìm kiếm được một giải pháp khả thi mới để kết hợp cả hai cách phân loại của S.C. Dik và M.A.K. Halliday. Bảng trình bày các loại sự tình của S.C. Dik.(nguồn NPCN,tr.50) Sự tình + Động Sự kiện -Động Tình huống + Chủ ý Hành động Tư thế - Chủ ý Quá trình Trạng thái Sự tình quan hệ ở đây được S.C. Dik xem là một thể loại của sự tình trạng thái và cũng dựa trên những phân biệt trong các chỉ định của kết cấu vị ngữ hạt nhân. Ví dụ: (1) The substance is red .(trạng thái) (2) The table stood in the corner. (trạng thái) [-Động,-Chủ ý] (3) John tasted the wine in the soup. (trạng thái) Theo S.C. Dik “ Nếu một kết cấu vị ngữ trạng thái chỉ có một tham tố, tôi cho rằng tham tố đó có chức năng nghĩa là zero. Tôi thấy không có lý do gì để quy gán bất kỳ một chức năng ngữ nghĩa cụ thể nào cho các tham tố như thế. Các tham tố kết cấu vị ngữ trạng thái hai vai thường có hai tham tố chức năng zero, và thậm chí có thể có sự tình trạng thái ba vai với ba tham tố chức năng zero. Tuy nhiên, tham tố thứ hai trong các kết cấu vị ngữ trạng thái cũng có thể có chức năng thời gian hay vị trí.” [29; 54] Ví dụ: (4) Rose ф are red. (5) That man ф is the killer.  ф chức năng nghĩa là zero. (6) The cup ф is on the table. Theo nhận định của Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp chức năng thì tiêu chí (+Động, - Động) và (+Chủ ý, -Chủ ý) của Simon C.Dik rất quan trọng đối với nhiều loại ngôn ngữ trên thế giới. S.C.Dik đã đưa ra được một lược đồ khá cơ bản, thế nhưng sự đơn giản ấy lại làm cho lược đồ của ông trở nên khó ứng dụng, chẳng hạn ô tư thế (+chủ ý,-động) không cân bằng với ba ô còn lại. Các vị từ làm hạt nhân cho loại câu này như đứng, ngồi, nằm, quỳ… có thể đếm trên đầu ngón tay, theo thống kê không tới 0,2% trong số các vị từ làm hạt nhân cho các loại câu nằm ở ô hành động, trạng thái, quá trình. Không chỉ vậy, lược đồ của Dik khó có thể chia ra chi tiết hơn nữa, chẳng hạn không thể xếp các câu tồn tại, câu định vị (ví dụ như câu: “Cá nằm trên thớt” không được xếp vào ô loại tư thế vì thiếu tiêu chí (+ chủ động).), hay câu đẳng thức .v.v… không xếp vào ô nào trong bốn ô phân loại các loại sự tình của Dik). Như vậy, không thể dựa vào bảng phân loại sự tình của S.C. Dik để miêu tả câu quan hệ tiếng Việt. John Lyons, nhà ngôn ngữ học truyền thống ở Anh, tiếp cận vấn đề từ quan điểm logic. Ông cũng đã đưa ra các kết cấu tồn tại, định vị và sở hữu tương tự thuật ngữ “các quá trình quan hệ” mà luận văn đang đề cập. John Lyons cho rằng trong rất nhiều ngôn ngữ có những tương tự hiển nhiên giữa những câu định vị và câu tồn tại, chẳng hạn: Ví dụ: Tiếng Anh (7) Coffee will be here in a moment. không có sự khác nhau (7’) There will be coffee here in a moment. về nghĩa giữa (7) và (7’) John Lyons, tiếp cận vấn đề từ quan điểm logic học, với các câu tồn tại câu định vị, và câu sở hữu, ông phân ra làm hai xu hướng “vị ngữ tính” (tương đương với câu tả trong tiếng Việt) và “vị ngữ danh” (tương đương với câu luận trong tiếng Việt). Tuy nhiên, vì sự phân tích cú pháp của các câu có “vị ngữ danh” phức tạp nên ông quyết định bỏ qua tất cả những điểm khác nhau giữa các tiểu loại và phân tích tất cả như những “vị ngữ danh từ”. Đặc biệt, trong Nhập môn ngôn ngữ học ông nói nhiều đến “động từ là” và “động từ có”, ông cho rằng đó là những câu tồn tại, định vị và sở hữu có quan hệ qua lại trong nhiều ngôn ngữ “…cái thường được gọi là “động từ là”, và “động từ có” trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác là một yếu tố ngữ pháp, vô nghĩa, chỉ dùng để “mang” các dấu hiệu về thời, thức, thể ở cấu trúc nổi của câu.” Theo mô hình của Fawcett, giao điểm của kiểu quá trình và kiểu đương thể cho ra 12 kiểu quá trình quan hệ trong tiếng Anh. Mô hình các quá trình quan hệ trong tiếng Anh của Fawcett: Các hệ thống ban đầu. [40, 273] Hoàng Văn Vân cho rằng “ … đây là một mô hình chi tiết và đã đi sâu vào việc tìm hiểu bản chất của quá trình quan hệ trong tiếng Anh … Mô hình của Fawcett quan tâm đến những kiểu quá trình cụ thể hơn là đến sự khái quát hóa các quá trình quan hệ”. [40, 276]. Cũng theo Hoàng Văn Vân, mô hình các quá trình quan hệ của Fawcett đã không thể hiện được sự khái quát hóa các quá trình quan hệ; đồng thời trong công trình nghiên cứu về các quá trình quan hệ của Fawcett cũng không hề đề cập đến hệ thống Dạng (là một Định tính Đương thể đơn Sở hữu Định vị Kiểu đương thể Đương thể bị tác động Đương thể tác nhân Đương thể thứ ba thể thứ ba Kiểu quá trình hệ thống mà chính Fawcett khẳng định không thể thiếu khi nghiên cứu các công trình ngữ pháp) đồng thời “… nếu chấp nhận một mô hình như vậy sẽ làm cho vấn đề trở nên phức tạp vì người ta phải xây dựng lại các tiêu chí định nghĩa” [40, 277] cho tất cả các quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ. Từ việc tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu theo hướng chức năng luận, chúng tôi nhận thấy mô hình miêu tả quá trình chuyển tác quan hệ của M.A.K. Halliday là mô hình lý thuyết phù hợp nhất để miêu tả câu quan hệ tiếng Việt. Tại Việt Nam Đã có khá nhiều công trình ngữ pháp đề cập trực tiếp đến câu quan hệ như Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân, Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lan Anh, Đỗ Thị Kim Liên … Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu về những kiểu câu tương tự câu quan hệ như câu tả, câu luận, trong sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việ t Nam (1983), hay những những động từ chỉ các trạng thái tâm lý hướng tới đối tượng, biểu thị trạng thái tồn tại, sở hữu có thể có thành tố phụ sau là một danh từ, cụm danh từ chỉ đối tượng như : có, còn, xuất hiện, diễn ra … trong Ngữ pháp Việt Nam của Nguyễn Thị Ly Kha, hay những bài viết cùng bàn về cấu trúc “Danh là Danh” và các mối quan hệ của nó của Lê Xuân Thại, Nguyễn Đức Dân, Trần Ngọc Thêm, v.v… Từ những năm 2000 trở lại đây, cũng có một số bài viết đề cập đến một số tiểu loại của câu quan hệ trong tiếng Việt trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, của các tác giả Nguyễn Thị Thanh Phương, Nguyễn Thế Lịch …, hoặc so sánh đối chiếu câu quan hệ tiếng Việt với tiếng Anh của Hoàng Tuyết Minh nhằm tìm ra một số lỗi người Việt thường mắc khi sử dụng động từ quan hệ tiếng Anh … Cao Xuân Hạo kế thừa lược đồ phân loại các loại sự tình cơ bản của S.C. Dik nhưng ông xếp loại câu quan hệ và câu trạng thái vào một loại câu, đó là câu chỉ tình hình : “Trong các câu chỉ tình hình có thể phân biệt câu chỉ trạng thái với câu chỉ quan hệ. Trạng thái là một tình hình có mặt trong bản thân chủ thể (thực thể mang nó, hay ở “trong trạng thái” đó). Quan hệ là một tình hình mà nội dung là một cái gì ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp xúc, một khoảng cách, một mối dây nhân quả, hay một sự so sánh.” [13, 430]. Cao Xuân Hạo đưa thêm sự tình tồn tại (hiện hữu), mà S.C.Dik còn thiếu, vào hàng sự tình cơ bản bậc một ngang hàng với biến cố và tình hình. Cao Xuân Hạo đã thay ô sự tình tư thế (bậc hai) của S.C. Dik bằng loại quan hệ và xem vị trí của nó tương đương với vị trí của sự tình trạng thái trong những sự tình tĩnh [-Động]. Theo khảo sát trên tư liệu tiếng Việt của tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị Lan Anh thì bên cạnh những nét cơ bản phù hợp hệ thống các quá trình mà M.A.K. Halliday nghiên cứu “…có thể nhận thấy chỉ có một số kiểu sự tình quan hệ là được tổ chức theo cả hai phương thức đồng nhất và định tính” [2, 1], chẳng hạn quan hệ cảnh huống (chỉ có loại quan hệ vị trí và quan hệ nguyên liệu là tổ chức theo hai phương thức đồng nhất và định tính; còn các quan hệ cảnh huống khác như: quan hệ mục đích, quan hệ so sánh, quan hệ tương hỗ, quan hệ nguyên nhân, quan hệ nguồn gốc, quan hệ vai diễn thì không tồn tại cả hai phương thức trên.), hay quan hệ sở hữu (chỉ tổ chức theo một phương thức định tính). Trong bài viết “Câu quan hệ tiếng Việt: sự hiện thực hóa các thành tố của sự tình quan hệ ”, tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị Lan Anh đã đưa ra 13 loại sự tình quan hệ trong tiếng Việt theo quan niệm của M.A.K. Halliday. Tiếc là bài viết này không coi “câu quan hệ có từ là” như là một đối tượng nghiên cứu mà chỉ nói chung chung đến các loại sự tình quan hệ trong tiếng Việt. Sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam cũng nhắc đến câu quan hệ nhưng dưới thuật ngữ câu tả và câu luận. Đây cũng chính là hai loại câu chính của câu đơn hai thành phần được làm thành từ một cụm chủ ngữ (C)- vị ngữ (V), chủ ngữ và vị ngữ có quan hệ qua lại với nhau. Câu tả là loại câu để biểu thị một quá trình miêu tả đối tượng trong hoạt động, trạng thái hay tính chất của nó. Câu tả có nghĩa về trạng thái tồn tại của sự vật (câu tồn tại) có phần đề do từ loại danh từ, phần thuyết do tiểu loại động từ tồn tại đảm nhận (có, còn, hết…), đây là loại câu khá đặc biệt, tương đương câu quan hệ mang đặc điểm “không có từ là”. Vì ở luận văn này chúng tôi nghiên cứu loại “câu quan hệ sâu có từ là” trong tiếng Việt, nên chúng tôi sẽ nhắc nhiều đến loại câu luận là loại câu tương đương câu quan hệ đặc biệt “có dùng động từ là”. Câu luận là kiểu câu biểu thị một quá trình tư duy và thông báo mang tính suy luận, phán đoán. Nó có thể đưa ra một nhận xét, một ý kiến đánh giá và đôi khi mang tính triết lý. Vị từ “là” trong câu luận có thể coi là động từ mang trọng trách đặc biệt, làm “chính tố”, “động từ thuyết tính của câu luận”. Ví dụ: (8) Tổ chức là biện pháp cơ bản để thực hiện chính sách . (mô hình A là B) A B (9) Ruộng rẫy là chiến trường. (mô hình A=B) A B Câu luận trong tiếng Việt là loại câu tương đương “câu quan hệ sâu có từ là”. Đó là một loại câu có cách thể hiện khá đa dạng. Ví dụ: Câu luận “A là B” (10) Cuốc cày là vũ khí. [39, 185]  có thể thay đổi vị trí A và B [57, 185] (11) Nguyên tắc là nguyên tắc. [39, 185]  có thể thay đổi vị trí A và B. (12) Hà là một cán bộ nhà nước.[39, 183] không thể thay đổi vị trí A và B Như trên có thể thấy loại câu luận có mô hình “A là B” tương đương câu quan hệ sâu đồng nhất và định tính,“là” ở câu luận đóng vai trò là động từ (vị từ) chứ không phải trợ từ. Diệp Quang Ban đã đưa ra cách phân loại chi tiết và khá bao quát cho các loại câu tồn tại. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm ấy, cách phân loại của ông không đưa ra được “một mô hình toàn diện nhất để giải thích các kiểu quá trình quan hệ.” tức là phải đáp ứng “… ba điều kiện: (i) nó phải xem ‘quan hệ’ như là một đặc điểm của cả cú chứ không phải chỉ là một đặc điểm của động từ; nghĩa là, nó phải được trừu tương hóa để có đủ sức giải thích cho những đặc điểm cụ thể của các quá trình quan hệ trong tiếng Việt; và (ii) nó phải được kiểm chứng bằng sự phù hợp của cả hai tiêu chí ngữ nghĩa và ngữ pháp-từ vựng’’[40, 271]. Lê Thị Lan Anh bàn nhiều về sự tình quan hệ trong bài viết “Đặc trưng ngữ nghĩa của sự tình quan hệ so sánh trong tiếng Việt”. Tác giả đã đưa ra vị tố biểu thị quan hệ so sánh trong tiếng Việt gồm: như, như thể, in như, như, giống, khác, khác biệt, bằng, hơn, kém, tựa, hệt, sánh, ví, tày ... và tổ hợp của các vị tố này: như là, hệt như, giống như là, y hệt như là …, đồng thời đưa ra khá đầy đủ những ví dụ để phân tích, chứng minh làm nổi bật các đặc trưng ngữ nghĩa của sự tình so sánh trong tiếng Việt. Tuy nhiên bài viết không nhắc đến vị từ “là”, trong khi “là” cũng có thể là một vị từ so sánh trong một số trường hợp. Bài “Phương thức định tính và đồng nhất trong sự tình quan hệ thâm nhập” của Lê Thị Lan Anh dùng thuật ngữ “thâm nhập” thay vì thuật ngữ “sâu” của M.A.K. Halliday, nhưng về cơ bản cũng dựa trên mô hình “x is a”, dựa trên cơ sở lý thuyết của M.A.K. Halliday để xem xét loại sự tình quan hệ thâm nhập ở hai phương thức: định tính và đồng nhất trong tiếng Việt “Đồng nhất thể và định tính là hai phương thức quan hệ hoàn toàn khác nhau, mỗi phương thức sẽ cho chúng ta một loại sự tình riêng với những đặc trưng ngữ pháp, ngữ nghĩa đặc thù của nó” [54,số 2, tr.62]. Theo tác giả, trong tiếng Việt, các vị tố : là, biểu hiện, biểu đạt, minh họa, thể hiện… thường chỉ xuất hiện trong câu biểu thị sự tình quan hệ thâm nhập định tính. Ví dụ: (13) Cây nguyệt quế biểu hiện sự vinh quang. (Yêu thơ văn em tập viết)[54, số 2; tr.62] (14) Sài Gòn tức Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố đầy nắng gió phương Nam với những chiều mưa về hối hả. (Yêu thơ văn em tập viết) [54; số2, tr.62] Còn các vị tố : là, tức là, nghĩa là, có nghĩa (có nghĩa là), đồng nghĩa, đóng vai, làm … là những vị tố quan hệ xuất hiện trong câu quan hệ thâm nhập đồng nhất. Ví dụ: (15) Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân. (Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61] (16) Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. (Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61] Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh chưa trình bày được hết những vấn đề của “câu quan hệ thâm nhập” (theo cách gọi của tác giả), câu quan hệ sâu (cách gọi của Halliday). Tuy nhiên, bài viết đã gợi ra một số vấn đề cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi. Hoàng Văn Vân, người trực tiếp dịch công trình “Dẫn luận ngữ pháp chức năng” của M.K.A. Halliday, … Trong công trình “Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”, Hoàng Văn Vân đã tiếp thu quan điểm của M.A.K. Halliday: quan điểm chức năng hệ thống. Công trình của Hoàng Văn Vân nghiên cứu bình diện kinh nghiệm của cú tiếng Việt, dựa vào mô hình kinh nghiệm của Halliday để mô hình hóa các khu vực chuyển tác khác nhau trong cú tiếng Việt. Tuy nhiên, chuyên khảo của Hoàng Văn Vân mới chỉ nghiên cứu giải thích các phạm trù ngữ pháp trong hệ thống chuyển tác (hay hệ thống các kiểu quá trình) trong tiếng Việt, còn ở cấp độ chi tiết hơn như “câu quan hệ sâu có từ “là” trong tiếng Việt” thì Hoàng Văn Vân chưa khảo sát đến. Bàn thêm về cấu trúc “Danh + là + Danh” của Trần Ngọc Thêm có phân ra hai kiểu: “Danh + là + Danh” kiểu 1: tự bản thân hoàn toàn là một câu độc lập, không phụ thuộc bên ngoài cả cấu trúc và nội dung. Cấu trúc này có thể tham gia vào câu lớn hơn với tư cách như một mệnh đề, hay một đối tượng. Đặc biệt, nó không kết hợp được với đại từ chỉ định. “Danh + là + Danh” kiểu 2: không bao giờ là một câu độc lập, và chỉ có thể là một thành phần của một câu độc lập khác. Cấu trúc câu kiểu này luôn kết hợp được với các đại từ chỉ định. Theo Trần Ngọc Thêm, cấu trúc kiểu 1 khi nghĩa của từ “là” biểu hiện quan hệ đồng nhất giữa Danh 1 và Danh 2. Danh 1 là tập hợp được xác định, có thể đơn nhất hay trên một phần tử. Quan hệ ngữ pháp của cấu trúc kiểu 1 là quan hệ chủ - vị. Ví dụ: (17) Em tôi là công nhân. Cấu trúc kiểu 2 khi nghĩa của từ “là” chỉ sự phụ thuộc của Danh 2 vào Danh 1. Danh 1 ở kiểu 2 là tập hợp không đơn nhất và không được xác định. Quan hệ ngữ pháp của kiểu cấu trúc 2 là quan hệ chính - phụ. Ví dụ: (18) Những cô gái là sinh viên. Đỗ Thị Kim Liên trình bày các nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc biểu thị quan hệ so sánh trong các câu tục ngữ Việt cũng có nhắc đến từ so sánh “là”. Tuy nhiên, tác giả cho rằng khi câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc có từ so sánh “là” thì “luôn vắng yếu tố cơ sở so sánh”, ở một số trường hợp có thể lược bỏ “là”. Ví dụ: (20) Cái bị là chị cái thúng.  Cái bị chị cái thúng. [54,số 11, tr.11] (21) Đậu nành là anh nước lã. Đậu nành anh nước lã. [54,số 11, tr.11] Khi lược bỏ “là”, các câu tục ngữ có nhóm danh từ chỉ quan hệ thân tộc có sự bù đắp hết sức tinh tế, từ ba nét nghĩa (giới tính, thứ bậc, quan hệ huyết thống) chúng chỉ còn lại một nét nghĩa. Ví dụ: “là” là vị từ so sánh. (22) Bàng già là bà lim.  Bàng già bà lim. Cái so sánh Cái được so sánh. Trong các câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc, “là” có thể được coi như một vị từ so sánh. Ví dụ: “là”  vị từ so sánh (23) Cờ bạc là bác thằng bần. Cái so sánh Cái được so sánh (24) Chồng già vợ trẻ là tiên. Cái so sánh Cái được so sánh (25) Ruộng rẫy là chiến trường. Cái so sánh Cái được so sánh Nguyễn Thị Thanh Hương với bài viết “Bước đầu tìm hiểu về kiểu câu vị ngữ danh từ tiếng Việt” đã phân ra làm 5 tiểu loại ( câu vị ngữ danh từ nêu đặc trưng về số lượng; câu vị ngữ danh từ nêu lai lịch; câu vị ngữ danh từ nêu đặc trưng về màu sắc, mùi vị, hình thể; câu vị ngữ danh từ xác định thời gian, không gian; câu vị ngữ danh từ nêu quan hệ phân phối). Bài viết này cho thấy khá rõ tác giả đồng quan điểm với John Lyons, khi cho là cách dùng động từ “có” và động từ “là” trong các “câu vị ngữ động” khi chuyển qua kiểu “câu vị ngữ danh” của tiếng Việt có thể loại bỏ hoặc ngược lại khá thú vị. Tiểu loại câu vị ngữ DT xác định thời gian cho rằng “Tất cả các câu xác định thời gian, không gian cũng có thể được diễn đạt theo cấu trúc câu vị ngữ động từ, mà trong đó từ “là” làm thành tố chính” [55,số 4, 10] nhưng nếu diễn đạt theo cấu trúc vị ngữ DT (tức là lược bỏ vị từ “là”) thì sẽ cho ra cấu trúc câu ngắn gọn hơn, độc đáo hơn, mang đậm sắc màu Á Đông hơn. Ví dụ: (26) Lạt theo chân Keng đi luôn. Đến đầu ngõ thì gặp Ngọ. Hôm nay chủ nhật. (…) Cô lên phố huyện chơi với bạn làm công trường trên đó. (Anh Keng- Nguyễn Liên) [55,số 4; tr.9] (27) Đây suối Lê-nin, kia núi Mác. (Hồ Chí Minh) [55,số 4, tr.9] Với tiểu loại “câu vị ngữ danh từ nêu đặc trưng về số lượng” thì “trừ các câu nêu số lượng tuổi, các câu nêu số lượng khác của tiếng Việt đều có thể kết hợp được với động từ có hay các tính từ khác mà không tạo ra sự khác biệt với người giao tiếp” [55, số 4; tr.8] Ví dụ: (28) Chiếc xe này ba bánh.  Chiếc xe này có ba bánh. [55,số 4; tr.8] (28) Vườn nhà tôi hai sào.  Vườn nhà tôi rộng hai sào. [55,số 4; tr.8] Tiểu loại “câu vị ngữ danh nêu lai lịch của con người” đều có thể kết hợp với động từ “là” để tạo thành câu có nghĩa tương đương. Ví dụ: - Cháu tên gì? (29) - Tui tên Nhọn. [55,số 4,8]  - Tui tên là Nhọn. (30) - Anh ấy kỹ sư. [55,số 4,8]  - Anh ấy là kỹ sư. Nói tóm lại, các nhà nghiên cứu trên ở những mức độ khác nhau đều đã đề cập đến câu quan hệ, hay tương tự “câu quan hệ sâu có từ là trong tiếng Việt”, nhưng vẫn chưa có sự phân tích kỹ lưỡng về kiểu câu này và chưa đưa ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt. 0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Câu quan hệ của tiếng Việt là một loại câu rất phong phú và đa dạng. Điều kiện của một luận văn thạc sĩ không cho phép nghiên cứu toàn bộ những kiểu câu quan hệ như câu quan hệ sở hữu, câu quan hệ chu cảnh và các phương thức quan hệ của chúng nên chúng tôi chỉ xin giới hạn đề tài trong một phạm vi nhất định. Mục đích của luận văn là tìm hiểu câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt theo quan niệm ngữ pháp chức năng; xác định cái nhìn tổng quan về câu quan hệ trong tiếng Việt; thống kê, khảo sát các dữ liệu về câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm nêu lên được đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của chúng, tần số xuất hiện của kiểu câu này trong các loại phong cách văn bản. Về cơ sở lý thuyết luận văn này dựa trên quan điểm của M.A.K. Halliday trong “ Dẫn luận ngữ pháp chức năng”. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm tương đồng giữa kiểu và hai phương thức quan hệ định tính và đồng nhất của “câu quan hệ sâu” trong tiếng Anh mà Halliday nghiên cứu với câu quan hệ trong tiếng Việt. Bên cạnh đó, chúng tôi có tham khảo thêm các công trình nghiên cứu của các nhà ngữ pháp trong và ngoài nước khác như S.C. Dik, John Lyons, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân, Nguyễn Thị Lan Anh, các tác giả quyển Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam …. 0.4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 0.4.1. Phương pháp nghiên cứu Ngoài những phương pháp và thủ pháp nghiên cứu khoa học chung như: thu thập dữ liệu, phân loại, luận văn chủ yếu sử dụng những phương pháp sau: - Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – cú pháp : Phương pháp này dùng để phân tích ngữ nghĩa, cấu trúc của các loại câu quan hệ trong tiếng Việt. - Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được dùng khảo sát, miêu tả các loại câu quan hệ trong tiếng Việt. - Phương pháp thống kê: Thống kê ngữ liệu về mặt số lượng nhằm xác định tần số xuất hiện của loại “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt trong văn bản thuộc những phong cách khác nhau. 0.4.2. Nguồn ngữ liệu Về ngữ liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng giới hạn cụ thể như sau: Một số bài nghiên cứu khoa học (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội), các bài nghiên cứu trong tạp chí nghiên cứu và phê bình văn học (phong cách ngôn ngữ khoa học) Truyện ngắn của các tác giả như Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Lý Biên Cương …. (phong cách ngôn ngữ văn chương) Các tin tức trên một số báo điện tử, báo viết, truyền hình, lời kêu gọi của Bác … (phong cách ngôn ngữ chính luận) Một số nghị quyết, nghị định, thông tư, hợp đồng, báo cáo, thông báo …(phong cách ngôn ngữ hành chính) 0.5. Bố cục luận văn Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được cấu trúc thành hai chương. Chương 1: Chương này tóm tắt quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ trong và ngoài nước như Simon C. Dik, M.A.K. Halliday, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân …. về câu quan hệ, chủ yếu là quan điểm của M.A.K. Halliday về câu quan hệ. Đây là chương làm tiền đề cho việc miêu tả và khảo sát câu quan hệ trong tiếng Việt ở chương sau. Chương 2: Chúng tôi đi vào chức năng ngữ nghĩa của từ “là” trong câu quan hệ (câu quan hệ sâu theo Halliday), hình thức các tham thể xung quanh vị từ “là” trong câu quan hệ, thống kê và đưa ra tần số xuất hiện của kiểu câu này trong văn bản mà chúng tôi chọn làm ngữ liệu, có chú ý khảo sát trong một số phong cách văn bản. Chương này thông qua những dữ liệu thu thập, làm nổi rõ chức năng ngữ nghĩa và đặc điểm cấu trúc của loại câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt. Chương 1 : NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Khái niệm câu Các công trình nghiên cứu và sách về ngữ pháp tiếng Việt từ trước đến nay thường nêu lên nhiều định nghĩa về câu. Cho đến nay đã có ._.đến hàng trăm định nghĩa về câu được đưa ra. 1.1.1. Theo ngữ pháp truyền thống. Từ những thế kỷ thứ III-II trước Công nguyên, học phái ngữ pháp Alêcxăngđria đã nêu định nghĩa: “Câu là đơn vị ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói,hoặc có thể kèm theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ”.[4,tập 2; tr.107]. Aristoteles thì đề cao cấu trúc chủ - vị biểu hiện mệnh đề, theo ông cấu trúc chủ - vị là điều kiện giúp cho câu có tính trọn vẹn, Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Nga, viện sĩ Vinogradov đã định nghĩa về câu như sau: “Câu là sự hoàn chỉnh về lời nói được hình thành về mặt ngữ pháp theo các quy luật của một ngôn ngữ nhất định, làm công cụ quan trọng nhất để cấu tạo, biểu đạt và truyền đạt tư tưởng. Trong câu không phải chỉ có sự truyền đạt tư tưởng mà còn có cả mối quan hệ của người nói và hiện thực.” [40, 58]. Nhà ngôn ngữ học cổ điển của Mỹ, L.Bloomfield, coi câu là kết cấu lớn nhất trong bất kỳ lời nói nào. Bystrov, Nguyễn Tài Cẩn, Stankevich đã đưa ra bốn tiêu chí xác định câu tiếng Việt: “Câu là một đơn vị ngôn ngữ biểu thị một tư tưởng tương đối trọn vẹn; câu không chỉ phản ánh hiện thực mà còn chứa đựng sự đánh giá hiện thực về phía người nói nữa; câu có những đặc trưng bên ngoài là các tiểu từ tình thái dứt câu và chỗ ngắt câu; câu có những đặc trưng bên trong là cấu trúc của nó” [40, 58]. Như vậy, câu theo quan điểm các nhà ngôn ngữ học từ trước đến nay là “sự tổng hợp của các từ biểu thị một tư tưởng trọn vẹn” (học phái ngữ pháp Alêcxangđria); là “đơn vị cơ bản của lời nói, của ngôn từ, của văn bản’’ (Benveniste), là đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng vào việc giao tế. Nói cách khác, câu là ngôn bản (văn bản) nhỏ nhất. Định nghĩa về câu của Trần Trọng Kim : “Câu lập thành do một mệnh- đề có nghĩa lọn hẳn, hoặc do hai hay nhiều mệnh- đề.” [23, 27], và ông phân ra làm ba thứ mệnh- đề, thứ nhất là mệnh đề phụ (gồm có mệnh đề phụ bổ túc, mệnh đề chỉ trường hợp và mệnh đề chỉ định), thứ hai là mệnh đề độc lập và thứ ba là mệnh đề chính. Theo Trần Trọng Kim một câu có bao nhiêu tiếng tĩnh từ biểu diễn một cái thể hay tiếng động từ biểu diễn một cái dụng của chủ từ, là có bấy nhiêu mệnh đề, đồng thời một mệnh đề có thể là một câu hay là một vế trong câu. Định nghĩa về câu của Hoàng Trọng Phiến: [(…), câu là ngữ tuyến được hình thành một cách trọn vẹn về ngữ pháp và về ngữ nghĩa với một ngữ điệu theo các quy luật của một ngôn ngữ nhất định, là phương tiện diễn đạt, biểu hiện tư tưởng về thực tế và về thái độ của người nói đối với hiện thực] Hay cách phân tích câu tiếng Việt theo mô hình Chủ - Vị với chức năng thông báo: “ Chủ ngữ là phần nêu lên một cái gì đó, vị ngữ là phần nói về chủ ngữ” [32, 31] Câu nói chung gồm câu đơn và câu ghép được định nghĩa ngắn gọn: “Câu là đơn vị dùng từ hay đúng hơn dùng ngữ mà cấu tạo nên trong quá trình tư duy, thông báo; nó có nghĩa hoàn chỉnh, có cấu tạo ngữ pháp, và có tính chất độc lập” [39, 167]… Hoàng Dân đã đúc kết khái niệm chung về câu thật đơn giản trong “Tiếng Việt cho mọi nhà” theo ngữ pháp truyền thống, câu là đơn vị ngôn ngữ có một hình thức hoàn chỉnh, khởi đầu bằng một chữ cái viết hoa, kết thúc bằng một dấu ngắt câu. Cấu trúc hoàn chỉnh hay chưa hoàn chỉnh ấy được xác định dựa trên sự có mặt của thành phần chủ ngữ , vị ngữ hay khuyết vắng thành phần chủ ngữ, vị ngữ. Câu phải có một nội dung thông báo hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh kèm theo một ngữ điệu nhất định. Vấn đề ngữ điệu kết thúc câu cũng như vấn đề câu là đơn vị của ngôn ngữ hay đơn vị lời nói đã và còn rất nhiều ý kiến tranh luận. Trong ngữ pháp truyền thống, thuật ngữ “câu” được dùng khi người ta muốn nói đến một đơn vị ngữ pháp lớn nhất mà đơn vị ngữ pháp ấy chính là đơn vị được làm thành từ một mệnh đề hay hơn một mệnh đề, là đơn vị nằm ở bậc cao nhất của tổ chức ngữ pháp và được làm thành từ các đơn vị nhỏ hơn nó (chẳng hạn: cụm từ, từ, hình vị)… Nói tóm lại, ngôn ngữ học truyền thống khi phân tích, nghiên cứu câu thì đặt câu dưới dạng hằng thể, câu chỉ được chú trọng về mặt cú pháp và hình thức mà chứ không chú trọng đến hai bình diện rất quan trọng khác, đó là bình diện nghĩa và dụng pháp của câu. Một định nghĩa về câu đơn giản, dễ hiểu và được coi là khá hoàn chỉnh nhất của ngữ pháp truyền thống có lẽ là định nghĩa của nhóm Alêcxăngđria: “Câu là sự tổng hợp của các từ biểu thị một tư tưởng trọn vẹn”. 1.1.2. Theo ngữ pháp chức năng Ngữ pháp chức năng là một trào lưu ngữ pháp được kế thừa di sản chủ yếu của ba trường phái: Trường Prague (The Prague School) đứng đầu là ba nhà ngôn ngữ người Nga: N.S.Trobeckoj, R.O. Jackobson, và Karccuski (học trò của F. de .Saussure) và những nhà ngôn ngữ Tiệp Khắc: V. Mathesius, J. Vachk. Trường London (The London School) với những tên tuổi như J.R. Firth, V. Malinonski, M.A.K. Halliday … Lý thuyết của C.S. Peirce về ba bình diện của ký hiệu (trong đó có bình diện dụng pháp hay dụng học). “Ngữ pháp chức năng là một hệ lý thuyết và hệ phương pháp được xây dựng trên quan niệm coi ngôn ngữ là một phương tiện thực hiện sự giao tiếp giữa người và người” [13, 11]. “Ngữ pháp chức năng tự đặt cho mình cái nhiệm vụ nghiên cứu, miêu tả và giải thích các quy tắc chi phối hoạt động của ngôn ngữ trên các bình diện của mặt hình thức và nội dung trong mối liên hệ có tính chức năng (trong mối liên hệ giữa những phương tiện và những mục đích) thông qua việc quan sát cách sử dụng ngôn ngữ trong những tình huống giao tế hiện thực … để theo dõi cách hành chức của ngôn ngữ qua các biểu hiện sinh động của nó trong khi sử dụng.” [13, 16]. Khác với ngôn ngữ học truyền thống, khi bàn về nghĩa, người ta chỉ nói đến nghĩa của từ chứ không bàn về nghĩa của câu. Câu theo quan niệm của ngữ pháp chức năng được định nghĩa như sau: “… Câu là sản phẩm của ba quá trình biểu nghĩa diễn ra đồng thời. Nó vừa là một sự trao đổi có tính chất tác động lẫn nhau, vừa là một thông điệp.” [13, 24]. Cũng theo ngữ pháp chức năng, câu là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ mà đơn vị nhỏ nhất ấy được đặt trên ba bình diện khác nhau: bình diện ngữ nghĩa- bình diện cú pháp - bình diện dụng pháp, các bình diện này có quan hệ khăng khít và cùng bổ sung cho mô hình lưỡng phân “năng biểu – sở biểu”. Theo M.A.K. Halliday, câu và từ là hai đơn vị ngữ pháp không được ngăn cách nhau rõ ràng lắm, cụm từ - group, cú đoạn – phrase là các đơn vị trung gian giữa câu-từ. Ông cho rằng cú phức là đơn vị ngữ pháp duy nhất trên cú được công nhận, vì vậy không nhất thiết phải đưa ra một khái niệm câu tách biệt. Một câu sẽ được định nghĩa như một cú phức, dùng đơn thuần để chỉ một đơn vị văn tự nằm giữa hai dấu chấm. “… Trong ngữ pháp chức năng, cú ở bất kỳ chỗ nào cũng giống nhau, cho dù nó đóng chức năng một mình (như một câu đơn) hay một phần của cú phức (câu phức/câu ghép)”. Cao Xuân Hạo cho rằng “lời nói hay ngôn từ, phát ngôn, văn bản ngắn nhất là câu”, tuy nhiên ông cũng công nhận không phải câu nào cũng có thể độc lập làm thành một văn bản hay một ngôn từ. Có những câu tự nó đã mang được một ý nghĩa trọn vẹn mà không cần sự bổ sung nghĩa của các câu khác gọi là “câu tự lập”. Bên cạnh đó cũng có những câu chỉ trọn vẹn ý nghĩa khi có sự hỗ trợ ý nghĩa từ những câu kế cận nó (câu tỉnh lược, câu chứa các từ ngữ hồi chỉ hay khứ chỉ…) là những câu liên đới hoặc là câu ứng tiếp. Những câu như vậy bao giờ cũng giả định một câu kế cận và không tự mình làm thành một văn bản, một ngôn từ độc lập. Trong giao tiếp hàng ngày, muốn khôi phục dạng trọn vẹn và độc lập cho các câu ứng tiếp chúng ta thêm cho nó những từ ngữ bị tỉnh lược, thay thế những từ ngữ hồi chỉ bằng những ngữ đoạn đồng sở chỉ và tách riêng các kết từ. Khi thực hiện một hoạt động giao tiếp, cái đơn vị cơ bản nhất mà mỗi đối tượng tham gia giao tiếp phải sử dụng chính là câu. Bản thân mỗi câu không chỉ là một đơn vị giao tiếp mà nó còn có khả năng độc lập về mặt ngữ pháp. Nguyễn Thị Ly Kha khẳng định “Việc định nghĩa câu nan giải không khác gì việc định nghĩa từ mặc dù ta vẫn cảm nhận được sự hiện hữu của nó” nên khi định nghĩa câu các nhà ngôn ngữ học luôn phải thể hiện được bốn yếu tố quan trọng nhất, đó là yếu tố hình thức (Câu có cấu tạo ngữ pháp nhất định, có tính tự lập, có ngữ điệu kết thúc), yếu tố nội dung (câu biểu thị một nội dung sự tình nhất định, và có thể kèm theo thái độ của người nói, tình cảm của người nói), yếu tố tiếp theo là yếu tố chức năng (vì câu là đơn vị thông báo nhỏ nhất, các chức năng như hình thành –biểu hiện –truyền đạt tư tưởng – tình cảm phải được thể hiện rõ ràng trong câu), yếu tố cuối cùng là câu là đối tượng nghiên cứu của ngữ pháp học nên nó thuộc lĩnh vực nghiên cứu. Từ đó, tác giả đưa ra định nghĩa : “Câu là đơn vị lời nói có cấu tạo ngữ pháp nhất định, mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị lời nói nhỏ nhất có chức năng thông báo.”… Như vậy, với ngữ pháp chức năng, câu và những vấn đề hữu quan của nó được đem ra xem xét, nghiên cứu dưới cả ba bình diện : nghĩa, cú pháp và dụng pháp chứ không chỉ đơn thuần qua tâm tới mặt cấu trúc hình thức. Đặc biệt, ở mặt nghĩa thì nghĩa miêu tả của câu (hay còn gọi là nghĩa phản ánh một sự tình được nói đến trong câu) được quan tâm hơn hết. 1.2. Khái niệm câu quan hệ 1.2.1. Theo quan niệm của M.A.K. Halliday Vật chất, tinh thần, và quan hệ là ba kiểu quá trình chính trong hệ thống chuyển tác tiếng Anh. “Nếu quá trình vật chất là những quá trình hành động, quá trình tinh thần là quá trình cảm giác thì kiểu quá trình chính thứ ba, quá trình quan hệ, có thể được coi là quá trình tồn tại.”[24, 223]. Theo M.A.K. Halliday một quá trình bao gồm có 3 thành phần, thứ nhất đó là chính quá trình đó, thứ hai là các tham thể tham gia trong quá trình, và thứ ba là các chu cảnh liên quan đến quá trình. ‘Quan hệ’ không phải là ‘tồn tại’ theo nghĩa hiện hữu mà M.A.K. Halliday cho rằng “Trong cú quan hệ có hai phần của ‘sự tồn tại’: cái này được cho là của cái kia … một mối quan hệ được thiết lập giữa hai thực thể tách biệt” [24, 223]. Các quá trình quan hệ (relational) phản ánh thế giới các quan hệ trừu tượng gồm có : Quan hệ sâu (intensive): x is a  ‘x là a’: là quá trình tìm hiểu sâu về một mối liên hệ giống, tương đương, đồng nhất của các đối tượng. Ví dụ: (31) Paula is a poet. (Paula là một nhà thơ.) [24, 224] (31’) Tom is the leader. (Tom là lãnh tụ.) [24, 224] Quan hệ chu cảnh (circumstantial): ‘x is at a’  ‘x ở a’: tìm hiểu sâu về các cảnh huống của đối tượng. Ví dụ: (32) The fair is on Tuesday. (Hội chợ mở vào thứ ba.) [24, 224] (32’)Tomorrow is the 10th. (Ngày mai là mùng 10.) [24, 224] Quan hệ sở hữu (possessive): x has a  ‘x có a’: nêu lên quan hệ sở hữu của đối tượng. Ví dụ: (33) Tom has piano. (Tom có một đàn piano) (33’) The piano is Peter’s. (Chiếc đàn piano là của Peter.) Giao điểm của ba kiểu và hai phương thức quan hệ của Halliday cho ra sáu loại cú quan hệ, đó là : quan hệ sâu định tính (31), quan hệ sâu đồng nhất (31’), quan hệ chu cảnh định tính (32), quan hệ chu cảnh đồng nhất (32’), quan hệ sở hữu định tính (33), quan hệ sở hữu đồng nhất (33’). M.A.K. Halliday cũng khẳng định: “Mọi ngôn ngữ đều chứa đựng trong ngữ pháp của nó một cấu trúc có hệ thống các quá trình quan hệ”. [24, 223],. Như vậy, tiếng Việt cũng có hệ thống các quá trình quan hệ đó. 1.2.2. Theo quan niệm của S.C.Dik Như ở phần trình bày lịch sử vấn đề chúng tôi đã nói đến cách phân loại sự thể (sự tình) của S.C. Dik, S.C. Dik dựa trên hai thông số cơ bản là tính động (Dynamism) và tính có chủ ý (Control) để xác lập ra bốn loại hình sự thể: Trạng thái, Quá trình, Tư thế, Hành động (xem bảng trình bày các sự tình của Dik ở phần trình bày LSVĐ) trong đó không có loại hình sự thể quan hệ. Đến năm 1989, S.C. Dik đưa thêm vào Tính thành quả (Telicity) vào bộ thông số và cho ra một bảng phân loại gồm sáu sự thể: Tư thế (Position), Trạng thái (State), Hành động hoàn thành (Accomplishment), Hành động diễn tiến (Activity), Quá trình biến đổi (Change), Quá trình biến động(Dynamism). Tuy nhiên, vẫn có những khiếm khuyết như Siewierska (1991) nhận xét: “Những loại hình sự thể lọt ra ngoài bảng phân chia loại nhỏ này thì không được nêu tên gọi.” [11B, số 10, tr.12]. Theo Diệp Quang Ban, ngoài lĩnh vực các quan hệ, cách phân loại sự thể của S.C. Dik khá thỏa đáng. Nhưng phải tìm kiếm được một giải pháp khả thi mới có thể dùng kết hợp hai cách phân loại của S.C. Dik và M.A.K. Halliday. 1.2.3. Theo quan niệm của John Lyons John Lyons đề cập đến loại câu quan hệ nhưng dưới một tên gọi khác, đó là “các kết cấu tồn tại, định vị và sở hữu”. Theo John Lyons, cái thường được gọi là “động từ là” trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác là một yếu tố ngữ pháp, vô nghĩa, chỉ dùng “mang” các dấu hiệu về thời, thể và thức ở cấu trúc nổi của câu, ông lấy dẫn chứng trong tiếng Anh: Ví dụ: Tiếng Anh: Mary is beautiful  Mary beautiful Mary is a child  Mary child Tiếng Nga: Marija krasivaja Mary đẹp (krasivaja là hình thức giống cái của tính từ hợp dạng với Marija ) Hay tiếng Latin và Hy Lạp “động từ là” có hay không có cũng được trong một số câu như thế, trừ trường hợp câu trong thời quá khứ hay ở một thức khác, thức trần thuật “Sự kiện đó cho rằng chính các động từ là trong tiếng Anh và Latin được dùng như một định vị ở cấu trúc nổi để đánh dấu thời, thức, thể ” “… bản thân “là” không phải là một yếu tố của cấu trúc chìm, mà là một động từ “câm” rỗng nghĩa được tạo sinh do các quy tắc ngữ pháp của tiếng Nga, Hylap và Latin để quy định một số phân biệt. Như đã xác nhận, trong mọi câu đơn thông thường đều có hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ. Chủ ngữ luôn là danh từ hay một đại từ thay thế cho danh từ đó. Còn vị ngữ có thể là động từ nội động; động từ ngoại động và tân ngữ của nó; hay động từ “là”. 1.2.4. Theo quan niệm của Cao Xuân Hạo Theo Cao Xuân Hạo có hai cách phân loại câu, theo lực ngôn trung và theo nghĩa biểu hiện. Theo lực ngôn trung thì có các loại câu như câu nghi vấn, câu trần thuật có giá trị ngôn trung được đánh dấu, câu ngôn hành. Theo nghĩa biểu hiện “phân loại hình các nghĩa biểu hiện của câu là một trong những công việc tất yếu của ngữ pháp chức năng” [13,427], câu gồm có ba loại: thứ nhất là câu tồn tại; thứ hai là câu chỉ sự tình động hay sự việc, biến cố; thứ ba là câu chỉ sự tình tĩnh hay tình hình. Câu quan hệ mà chúng ta nghiên cứu thuộc loại câu thứ ba, “quan hệ là tình hình mà nội dung là một cái gì đó ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp xúc, một khoảng cách, một mối dây nhân quả, hay một sự so sánh, ...”. Câu quan hệ ở đây là loại câu [- động,- nội tại] của sự tình tình hình. Trong Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, tác giả Cao Xuân Hạo phân loại câu quan hệ trong tiếng Việt thành 4 loại lớn, đó là: - Quan hệ giữa một thực thể với một thực thể. Quan hệ so sánh: A hơn B, A kém B A giống B, A khác B A bằng B, A cũng như B. Quan hệ đồng nhất ( quan hệ so sánh hay quan hệ tương đối): A là B, A không phải là B A đồng nhất với B Quan hệ tương liên gồm Quan hệ sở hữu: A là của B, A là sở hữu chủ của B Liên hệ thân thuộc, liên hệ xã hội: A là con của B, A là thầy của B Liên hệ vị trí: A ở trong B, A ở dưới B, A ở bên B, A ở cách B 12 km - Quan hệ giữa một thực thể với một sự tình hay một chu cảnh: Quan hệ nhân quả : A làm cho X Quan hệ liên đới: A có liên quan đến vụ X, A là nạn nhân của vụ X. Quan hệ vị trí: A là nơi xảy ra X - Quan hệ giữa hai sự tình: Quan hệ thời gian: X diễn ra đồng thời với Y, trước Y sau Y Quan hệ tương tác: X làm cho Y, X cản trở Y, X quy định Y, X loại trừ Y, X là mục đích của Y - Quan hệ giữa sự tình với chu cảnh: Quan hệ định vị trong không gian: X diễn ra trong một khoảng từ Y-Z Quan hệ định vị trong thời gian: X diễn ra năm X, thế kỷ Y Như vậy, theo cách phân loại của Cao Xuân Hạo thì loại câu quan hệ sâu (định tính, đồng nhất) mà luận văn chọn nghiên cứu thuộc loại 1 của câu quan hệ “giữa một thực thể với một thực thể ”, tiểu loại quan hệ đồng nhất (A là B, A không phải là B, A đồng nhất với B). 1.2.5. Theo quan niệm của Diệp Quang Ban Khi xét các kiểu câu cơ bản của tiếng Việt, xét theo cấu trúc cú pháp và nghĩa biểu hiện, Diệp Quang Ban nhấn mạnh vai trò quan trọng của vị tố, vị tố có thể do yếu tố có tính chất động từ, tính từ hay yếu tố có tính chất danh từ đảm nhận. Vì vậy ông đưa ra khái niệm “động từ tính”, “tính từ tính”, “danh từ tính” để chỉ các vị tố là động từ, tính từ, danh từ hay hoạt động như động từ, tính từ, danh từ. Theo Diệp Quang Ban, trong tiếng Việt các vị tố - hư từ phong phú và gắn với các hư từ cụ thể sẽ cho ra nhiều kiểu câu quan hệ khác nhau gồm: - Quan hệ thâm nhập đi sâu vào vật, hiện tượng được xem xét, là quan hệ giữa vật, hiện tượng được xem xét với những đặc điểm, tính chất giúp hiểu sâu hơn về nó. Công thức khái quát : x là a . - Quan hệ cảnh huống là quan hệ của vật, hiện tượng xét trong quan hệ với cảnh huống (thời gian, không gian, cách thức, nguyên nhân, vật đi kèm, vai trò hay quan điểm, vấn đề ... của vật, hiện tượng đó). Công thức khái quát: x ở a. - Quan hệ sở thuộc là quan hệ được xem xét với chủ sở hữu của nó. Công thức khái quát: x của a. Ở kiểu quan hệ thứ ba, quan hệ sở thuộc, Diệp Quang Ban phân biệt khá rõ sự khác nhau giữa quan hệ sở thuộc và quan hệ sở hữu, ông cho rằng hai quan hệ này khác nhau cả về phương tiện diễn đạt lẫn quan hệ nghĩa (quan hệ sở thuộc: vật đó thuộc về chủ sở hữu nào? “Chiếc xe này của Giáp” # “Giáp có một chiếc xe” Chủ sở hữu có cái gì thuộc về mình?) . Riêng ý kiến của chúng tôi thì lại cho rằng hai câu trên đều thuộc quan hệ sở hữu, nhưng câu “Giáp có một chiếc xe” là câu quan hệ sở hữu định tính, còn câu “Chiếc xe này của Giáp” là câu quan hệ sở hữu đồng nhất. Diệp Quang Ban cũng nhấn mạnh tất cả các câu gồm có danh từ làm chủ ngữ và danh từ làm vị tố đều mang khả năng diễn dạt quan hệ, có thể là quan hệ thâm nhập đi sâu vào các tính chất của thực thể nêu ở chủ ngữ; có thể là quan hệ cảnh huống chỉ thời gian, không gian, phương tiện đối với các thực thể đã nêu ra ở chủ ngữ; có thể là quan hệ sở hữu nhằm chỉ ra thực thể đã nêu ở chủ ngữ có đặc điểm gì, có cái gì làm dấu hiệu của mình. 1.2.6. Theo quan niệm của Hoàng Văn Vân Theo Hoàng Văn Vân “quá trình quan hệ là quá trình thể hiện các ý nghĩa khái quát như tồn tại (tĩnh tại), sở hữu và định vị. Mỗi ý nghĩa được thể hiện bằng một kiểu quá trình.”, ông đưa ra ba kiểu quá trình quan hệ là quá trình quan hệ tồn tại, quá trình quan hệ chu cảnh và quá trình quan hệ sở hữu, mỗi quá trình ấy xuất hiện dưới hai hình thức quy gán và đồng nhất. Hoàng Văn Vân khái quát hóa quá trình tồn tại quy gán bằng công thức: “A mang đặc điểm của X”, trong đó A là kẻ mang thuộc tính gọi là Đương thể (Đgt), X là đặc tính của A gọi là Thuộc tính (Tht). Còn quá trình quan hệ tồn tại đồng nhất thì khái quát bằng công thức “A được đồng nhất bởi X”, thành phần thứ nhất được gọi là Bị đồng nhất thể hay Biểu hiện (Bh) thành phần thứ hai là Đồng nhất thể hay Giá trị (Gt). Ví dụ: (34) Con chim gáy hiền lành.  tồn tại quy gán.[40, 262] Đgt Tht (35) Tôi là Nhâm.  tồn tại đồng nhất[40, 262] Bh quá trình QH Gt Quá trình quan hệ chu cảnh quy gán là quá trình thể hiện mối quan hệ giữa người hay vật trong một chu cảnh nào đó: thời gian, không gian, phạm vi. Hai thực thể tham gia trong quá trình có thể là cân bằng (đồng nhất) hay không cân bằng (quy gán).Tham thể ở quá trình quan hệ chu cảnh quy gán này cũng được đặt tên là Đương thể (Đgt) và hoàn cảnh mà quá trình đó tham gia là thuộc tính (Tht). Tham thể tham gia quá trình chu cảnh đồng nhất là Biểu hiện (Bh) và Giá trị (Gt). Ví dụ: (36) Ngày mai là chủ nhật. QH chu cảnh đồng nhất [40, 262] Bh quá trình QH Gt (37) Nhà tôi ở dưới đám dâu. QH chu cảnh quy gán [40, 117] Đgt quá trình QH Tht Quá trình quan hệ thứ ba mà Hoàng Văn Vân đề cập đến là quá trình quan hệ sở hữu, đây là một quá trình thể hiện sự sở hữu của một thực thể hay một vật bởi một đối tượng khác, các tham thể tham gia trong quá trình quan hệ sở hữu quy gán được đặt tên là Thuộc tính (Tht) và Đương thể (Đt). Các tham thể tham gia quá trình quan hệ sở hữu đồng nhất được đặt tên là Biểu hiện (Bh) hay Bị sở hữu thể và Giá trị (Gt) hay Sở hữu thể. Ví dụ: (38) Chiếc trống này thuộc về thời đại đồ đồng. QHSH quy gán[40, 308] Đgt quá trình QH Tht (39) Bài viết ấy là của Thành.  QHSH đồng nhất.[40, 310] Bh quá trình QH Gt 1.2.7. Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu khác Hai tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị Lan Anh dựa theo quan niệm của M.A.K. Halliday đưa ra định nghĩa đơn giản “Câu quan hệ là câu mà nòng cốt biểu hiện sự tình quan hệ.”. “Là một sự liên quan, một mối quan hệ nào đó (có thể là so sánh, tiếp xúc, một sự tương hỗ ...) giữa hai hay nhiều thực thể...”. Từ đó, Bùi Minh Toán và Nguyễn Thị Lan Anh đã phân xuất ra ba kiểu sự tình quan hệ với 13 loại sự tình quan hệ trong tiếng Việt. Bùi Mạnh Hùng cho rằng: “Câu quan hệ là câu biểu hiện quan hệ nào đó về xã hội, không gian, thời gian, kích thước, nhân- quả, v.v…” [19, 111] Trên đây là những tóm tắt các quan niệm của các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước về câu quan hệ, các nhà nghiên cứu Việt ngữ học khi nói về câu quan hệ tiếng Việt, nền tảng cơ bản thường là dựa trên mô hình lý thuyết của M.A.K. Halliday. Chúng tôi nhận thấy có thể dùng khái niệm sau, một khái niệm khái quát và dễ hiểu để nói về câu quan hệ trong tiếng Việt: Câu quan hệ là loại câu biểu hiện quan hệ nào đó giữa hai hay nhiều thực thể, các quan hệ ấy có thể là sự tiếp xúc xã hội, không gian, thời gian, địa điểm, một mối dây nhân quả, hay một sự so sánh ... Mục đích cuối cùng nhất của câu là phục vụ cho sự giao tiếp của con người, do vậy khi nghiên cứu về câu nói chung và câu quan hệ nói riêng, luận văn cần thiết nghiên cứu câu trên bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng để làm rõ đặc điểm hình thức- nội dung- hoạt động của câu khi giao tiếp. 1.3. Vị từ quan hệ và tham thể quan hệ 1.3.1. Vị từ quan hệ 1.3.1.1. Vị từ Trong ngữ pháp học truyền thống tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học quen dùng “động từ” khi dịch từ thuật ngữ “verb” (verbe) và “tính từ” khi dịch từ thuật ngữ “Adjective” (Adjectif). Động từ, tính từ là hai trong nhiều từ loại của hệ thống từ loại tiếng Việt như : danh từ, đại từ, phụ từ, quan hệ từ, …. Tuy nhiên, Cadière khi nghiên cứu về tiếng Việt đã phát hiện ra tiếng Việt của chúng ta có khuynh hướng coi “tính từ” như “động từ” : “Việt ngữ có khuynh hướng coi adjectif như verbe”. Theo Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam của Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963) thì: “Việt ngữ không thể theo Pháp ngữ mà phân biệt hai loại verbe và adjectif ngay được”. Trong “Động từ tiếng Việt” (1977), Nguyễn Kim Thản phân thực từ thành hai nhóm từ đối lập nhau cả hình thức và ý nghĩa: thể từ và vị từ. Trong đó vị từ được ông xác định như sau: Về mặt ý nghĩa: vị từ biểu thị quá trình hay tính chất của sự vật. Về mặt hình thức: vị từ có khả năng trực tiếp làm vị ngữ, đặt trước nó là những hư từ: đều, chẳng, sẽ …, và sau nó là những từ phủ định: không, chưa … để tạo câu nghi vấn. Nguyễn Thị Quy cũng chỉ ra nghĩa của vị từ quy định cái khung cho những tham tố có mặt trong sự thể, nó là “linh hồn ngữ nghĩa” của toàn câu, là trung tâm ngữ đoạn, có tác dụng quyết định đối với cấu tạo ngữ pháp của câu. Với Hoàng Phê: “Vị từ là phạm trù từ loại bao gồm động từ và tính từ, thường có khả năng trực tiếp làm vị ngữ trong câu.” [26,1092]. Cao Xuân Hạo cho rằng các “tính từ” giống “động từ” ở chức năng tự mình làm vị ngữ, hay trung tâm vị ngữ . Điều này cho thấy “động từ” và “tính từ” là hai từ loại tương đương nhau. Có thể tạm dựng lên mô hình một vị ngữ có vị từ làm trung tâm như sau: V (vị từ làm trung tâm) S O1 O2 (chủ thể hành động) (Đối thể) (thể thụ hưởng) Mô hình vị ngữ có vị từ là trung tâm Tóm lại, vị từ là một từ có thể tự nó đóng vai trò trung tâm làm hạt nhân ngữ nghĩa của một vị ngữ biểu hiện nội dung của sự tình (hoặc sự thể), vậy có thể hiểu như sau: “Vị từ là loại thực từ có thể tự mình làm thành một ngữ vị từ, làm trung tâm của một vị ngữ”. 1.3.1.2. Vị từ quan hệ Dựa vào nghĩa biểu hiện của vị từ có thể xác định vị từ quan hệ là vị từ biểu thị quá trình quan hệ của đối tượng. Những vị từ quan hệ trong tiếng Việt chẳng hạn như: là, hơn, kém, bằng, đại diện, bao hàm, biến thành, trở nên, … Tương tự như các vị từ hành động, quá trình, trạng thái, tư thế, vị từ quan hệ cũng được phân ra làm nhiều tiểu loại, mỗi tiểu loại ứng với một loại quan hệ khác nhau. Để phân biệt các kiểu quan hệ chính trong hệ thống các quá trình quan hệ trong tiếng Anh, M.A.K. Halliday đưa ra ba nhóm vị từ quan hệ tiêu biểu: Vị từ “là” đại diện cho quá trình quan hệ sâu. Vị từ “ở” đại diện cho quá trình quan hệ chu cảnh. Vị từ “của” , “có” đại diện cho quá trình quan hệ sở hữu. Diệp Quang Ban dùng thuật ngữ “vị tố” quan hệ: chỉ quan hệ đồng nhất “là”; chỉ quan hệ với chất liệu “bằng”; chỉ quan hệ mục đích “để”, “do”; chỉ quan hệ so sánh “bằng”, chỉ quan hệ sở hữu, tồn tại “có”, chỉ quan hệ biến hóa “biến thành”…. Cao Xuân Hạo đưa ra các “vị từ quan hệ: hơn, kém, bằng, (cũng) như, giống, khác, đồng nhất (với), xa, gần, sát, và những danh từ quan hệ như trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau, giữa.” Hoàng Văn Vân đưa ra các vị từ quan hệ trong tiếng Việt gồm: Vị từ quan hệ gây khiến: làm, làm cho, khiến cho, gây cho, khiến, gây … Vị từ quan hệ đồng nhất sâu gồm: minh họa, đại diện, bao hàm, bao gồm, đóng, biểu đạt, hiện thực hóa, nghĩa là … Vị từ quan hệ quy gán (định tính) sâu: trở nên,đâm/ hóa, cảm thấy, bị, trở thành, biến hóa, hóa thành, hóa ra … Như chúng ta đã biết, câu tiếng Việt được cấu tạo bởi hai thành phần nòng cốt : Chủ ngữ và Vị ngữ (theo quan điểm của ngữ pháp truyền thống) hoặc Đề và Thuyết (theo quan niệm của ngữ pháp chức năng). Vị từ là thành phần nòng cốt biểu hiện nội dung của sự thể được thông báo trong câu, thường nằm ở phần thuyết và “Nghĩa của vị từ có một tác dụng quyết định đối với ngữ pháp của cả câu”, vậy vị từ quan hệ là những loại vị từ có khả năng là trung tâm của câu quan hệ, có đặc trưng thể hiện ngữ nghĩa của câu quan hệ. Ví dụ: Văn phạm là phép dạy nói và dạy viết cho đúng mẹo-luật của một tiếng nói. (40) Đề Thuyết [ 23, 13]  câu thể hiện quá trình quan hệ sâu đồng nhất; vị từ “là” là vị từ quan hệ. (41) Ông Garick đóng vai Hamlet. [24, 228] Đề Thuyết  câu thể hiện quá trình quan hệ sâu đồng nhất, vị từ quan hệ là vị từ “đóng vai” (42) Chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình. Đề Thuyết  câu thể hiện quá trình quan hệ sâu định tính, vị từ quan hệ là vị từ “tượng trưng”. Các vị từ “đóng vai”, “tượng trưng” là vị từ trung tâm của các câu thể hiện quá trình QHS (41),(42). Tuy vị từ là thành phần cốt lõi của sự tình, nêu lên đặc trưng hay thể hiện loại sự tình quan hệ, nhưng trong một số trường hợp của câu quan hệ sâu định tính vị từ có thể vắng mặt, lúc này tham thể Thuộc tính thể sẽ đóng vai trò hình thức nhận diện và biểu hiện nghĩa cho sự tình quan hệ định tính. Ví dụ: (43) Tôi tên Ф Trần Thị Hà (44) Gái thương chồng Ф đương đông buổi chợ Trai thương vợ Ф nắng quái chiều hôm. (Ca dao) 1.3.2. Tham thể quan hệ Câu quan hệ sâu là loại câu quan hệ thể hiện, tạo ra một mối quan hệ tương đương, giống hoặc đồng nhất giữa các tham thể tham gia giao tiếp. Cụ thể ở đây là các tham thể Bị đồng nhất thể/ Đồng nhất thể; Đương thể / Thuộc tính thể. Tham thể tham gia trong câu quan hệ sâu biểu thị quan hệ giữa các thực thể, một sự tình quan hệ nhất thiết phải có hai tham thể quan hệ. Chức năng nghĩa của hai tham thể một mặt chịu sự tác động của vị từ quan hệ, một mặt được xác định trong sự tương tác quy định lẫn nhau. Tùy thuộc mối quan hệ nhất định mà xuất hiện những tương quan ngữ nghĩa đặc trưng cho các tham thể tham gia trong sự tình quan hệ đó. * Tham thể Một vị từ có thể có một hay nhiều tham thể xoay quanh nó tạo nên cấu trúc của một sự tình. Nội dung của sự tình có thể là một đặc trưng, một quan hệ có tính động hay tĩnh. Những sự tình được thông báo, các hiển ngôn hay hàm ngôn đều hoặc là trực tiếp, hoặc là gián tiếp dựa vào câu để biểu hiện. Mỗi từ ngữ, mỗi thành phần chức năng trong câu đều có một vai trò riêng của nó, nhưng có thể nói hạt nhân của câu quan hệ là cái khung ngữ vị gồm vị từ trung tâm và các tham thể của nó. Như vậy tham thể (hay tham tố) của vị từ là những yếu tố tham dự vào sự tình, cùng với vị từ để tạo nên ý nghĩa của câu. Theo L.Tesnière, trong hiện thực, mỗi sự tình diễn ra có thể xem như là một màn kịch nhỏ, trong màn kịch ấy, vị từ sẽ đóng vai trò trung tâm còn các tham thể (tham tố) là các vai nghĩa. Nghĩa của vị từ sẽ quy định cái khung tham thể (tham tố) của nó, số lượng và tính chất của các tham tố tham gia trong sự tình biểu hiện trên câu có vị ngữ làm trung tâm. Ví dụ: (45) Cây nguyệt quế (1) biểu hiện sự vinh quang. (2) (Đương thể) vị từ quan hệ (Thuộc tính thể) Các tham thể của ví dụ (45) gồm 2 tham thể (đương thể, thuộc tính thể) và còn có thể có cả chu tố chỉ thời gian hay địa điểm, nguyên nhân khác nữa. Như vậy, ở (45) tham thể 1 và 2 là tham thể bắt buộc, còn tham thể chỉ thời gian, địa điểm không bắt buộc (chu tố). Tham thể diễn tố là tham thể tất yếu, đặc trưng ch._. là người đáng 37 X thương. 13 Đấy là một đồng chí tân binh vui, khỏe, xốc vác nhưng tính tình hơi lẳng lơ một tý. 7 X 14 Con đường miền Tây dạo ấy đang mùa mưa, nhưng địch đánh rát lắm; những quãng qua khe ngầm, nhất là quãng cầu đá xanh, anh chị em giao thông đang vật nhau với địch để quyết giữ con đường biên giới. 8 X 15 Nhưng dầu sao nó cũng là một việc riêng. 8 X 16 Rõ ràng tiếng trả lời của một người đàn bà, tiếng nói trong lắm và rất bình tĩnh, cứng cỏi nữa là khác. 10 X 17 Thôi đi cô, đáng lý tôi đã mời cô xuống xe, đây là xe chở hàng quân sự. 10 X 18 Em là công nhân giao thông. Nguyễn Minh Châu, Mảnh trăng cuối rừng [,] 376 câu 10 X 19 Trong tổ đá của chị tôi có một cô tên là Nguyệt. 11 X 20 Phải, Nguyệt là trăng. 11 X 21 Em là ... Nguyệt. 13 X 22 Ở trong đội ngầm của cô có nhiều cô tên là Nguyệt lắm thì phải? 13 X 23 Chúng em thường gọi đùa là chị Nguyệt “lão”. 14 X 24 Một trong hai người, ai là người tôi sắp tìm đến? 14 X 25 Người tôi sắp tìm đến là ai? 14 X 26 Tôi tin chắc chắn người con gái ngồi cạnh mình là Nguyệt, chính cái người mà chị tôi từng nhắc đến. 15 X 27 Mà cô có xuống từ dưới kia tôi cũng không bao giờ nghĩ cô là một người khi khó khăn thì bỏ người khác. 17 X 28 Tôi chợt nhận ra 18 X mình đang đứng giữa một cái khe chỉ vừa một người, hai bên là hai gốc cây to. 29 Lát sau, mới biết chị là tổ trưởng nấu ăn của đội, đấy chính là chị Nguyệt lão, một người bạn thân thiết của chị tôi từ lâu. 20 X 30 Khuôn mặt tròn, hơi trẻ con là đằng khác. 180 X 31 Gọi là mới ấy là so với anh. 180 X 32 Tôi là Trần Thị Hà. 181 X 33 Đấy, quê anh nghèo khổ thân yêu là thế. 181 X 34 Anh là Tiên, có cái tên để người đời chê hoặc khen. 181 X 35 Chẳng lẽ em là kỹ sư nghề hàn, em lại không nghe thấy tiêng nói lòng anh ? 182 X 36 Chính tao, tao là du kích đấy. 183 X 37 Người ngoài nhìn nó, ví von là sao, là hoa Lý Biên Cương, Hồ Quang [,] 381 câu 184 X cà hoa cải. 38 Ấy là những ngày đầu Hà đến với anh, chóng thế. 185 X 39 Cứ thế cho đến chuyện xô xát trưa hôm nay, Nhàn không nhớ là lần thứ bao nhiêu nữa. 317 X 40 Tổ đổi công của anh hồi ấy rất em thấm, rất ít khi trong tổ có chuyện xô xát, bà con lại còn bầu anh là người gương mẫu sản xuất. 317 X 41 Đám nam nữ thanh niên trong làng thì chê Nhàn là người đa thê, lạc hậu, phong kiến. 317 X 42 Thực ra chị ta vốn là người tốt. 318 X 43 Ngoài cái tính lắm điều hay ghen của chị làng xóm láng giềng ai cũng phải công nhận chị ta là người chăm làm. 319 X 44 Giống người hay Trần Dũng, Hai vợ [,] 465 câu 323 X giống chó mà không biết ngượng là gì ? 45 Anh muốn kéo vợ vào đất liền, kiếm một căn nhà, một mảnh đất và muốn vợ mình chỉ còn là một người vợ thuần túy. 127 X 46 Ấy là một chuyến vượt biển khó quên. 128 X 47 Hai đốm lửa cháy kia là đảo gọi riêng em. 129 X 48 Tôi là Quyền, Nguyễn Duy Quyền, pháo thủ số 1 khẩu đội 2. 133 X 49 Giá nói, là các cụ lại cho là vợ chồng là cái duyên cái số đây. 137 X 50 Mình nghĩ khác, vợ chồng đến được với nhau, chẳng qua là hợp nhau. 137 X 51 Ấy là những năm xa cách nhau. 138 X 52 Con ơi là con, nhà mình có năm có bảy gì cho cam, chỉ có mỗi mống ... Lý Biên Cương, Đảo nhỏ [,] 612 câu 138 X 53 Trong Len, anh là đảo. 139 X 54 ... thuốc «Ngọc bình phong» là thuốc cầm mồ hôi rất diệu. Ngô Tất Tố, Tôi còn sống vì tôi không uống thuốc, tập truyện ngắn Dao cầu thuyền tán (59câu) X Nguồn : Internet Thư viện online v 55 Rút cục, cụ thứ nhất thắng, vì đã nói đến sách Phùng thị, thứ sách mà nhà chủ nói là môn vương đạo. X 56 Cái lệ cụ lang đến sau phải công kích cụ lang đến trước là cố nhiên rồi. X 57 Ai uống thuốc của họ mà khỏi, chỉ là sự ngẫu nhiên. X 58 Thật là tấn thối lưỡng nan! Sơn Nam, Mùa len Trâu, Tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau. 196câu X 59 Trăm con, chết chừng đôi ba con là nhiều. X 60 Như vậy là mình bất nhân. X 61 Như, tiều, canh, mục là bốn điều quan trọng nhất. X 62 Voi đi một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai ba con là nhiều. X 63 Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ rối... X 64 Ðằng xa kia là Bảy Núi, nơi mà giờ này thằng Nhi và hai con trâu của chú đang tung hoành, sắp lội nước hằng mươi cây số để vượt ra mé biển đến vùng rừng tràm miệt Linh Quỳnh. X 65 Mừng con, tiếc của là một lẽ. X 66 Nghe dễ là gần sáng. Tô Hoài, Cái áo tế, Tập truyện ngắn Tô Hoài. 393 câu X 67 Thế này là trái tiết, người ta dễ ốm, con cua con ếch thì lo xa X tránh rét nghe sấm đã ẩn vào trong hang cả rồi. 68 Cũng chẳng biết “đâu khắc có đấy rồi” là thế nào, lão đâm ra cuống, đến lúc lại nghe yên tâm nói thế, ông Đợ lại yên tâm vu vơ, lại thấy ông từ Hoả mới là tay tháo vát. X X 69 Chỉ nửa buổi, đã đẽo xong đôi guốc gộc tre, gọi là đôi guốc, đôi giày, đôi hia gộc tre cũng được. X 70 Thế mới biết Tây người ta nói “phú quý sinh chữ nghĩa” là phải. Nguyễn Công Hoan, Bà chủ mất trộm, tập truyện ngắn Tuyển tập Nguyễn Công Hoan. 91câu X 71 Nhất là thời thường, dăm bẩy ông Tây, bà đầm đến dự tiệc khi về, ai cũng tươi cười, bắt tay, cảm ơn bà rất vui vẻ X 73 Bà mới biết lời quan X ông thường nói khi trước là chí lý. 74 Giống An-nam là giống nói dối và ăn cắp. X 75 Thực là đàn bà hiếm có, quảng giao mà tháo vát đủ việc. X Tổng số câu khảo sát 3284 câu/ 10vb 30 45 Tỷ lệ phân bố tính theo tỷ lệ % 2,3 0,093 1,37 Phụ lục 2 Ngữ liệu lấy từ các văn bản nghị quyết định, thông báo ... stt Câu quan hệ sâu có từ ‘‘là’’ Nguồn, tổng số câu từng văn bản tr Câu qhs định tính có từ ‘‘là’’ Câu qhs đồng nhất có từ ‘‘là’’ Ghi chú * Không Bộ giáo dục và đào tạo, Quy định về lề lối và chế độ làm việc của cán bộ hướng dẫn thực hành. 26 câu 1 Tuyệt nhiên không có câu quan hệ có từ «là» * Không PGĐ. PGS. Tô Huy Rứa, Quyết định v/v ban hành tạm thời về tổ chức thao giảng, dự giờ ở các trường chính trị tỉnh, thành phố. 14 câu 1 nt * Không PGĐ. PGS Tô Huy Rứa, Quy định tạm thời về việc tổ chức thao giảng dự giờ ở các trường chính trị, thành phố. 91 câu Tuy nhiên có 3 câu quan hệ sở hữu có «là», và 4 câu quan hệ cảnh huống. (xem phụ lục) * Không Thông báo v/v triển khi kế hoạch học và thi ngoại ngữ đối với cán bộ giảng dạy. 17 câu Tuyệt nhiên không chứa câu qhs có từ «là» 1 Tại mỗi tiểu mục phải có ít nhất hai tiểu mục, nghĩa là không thể có tiểu mục 2.1.1 mà không có 2.1.2 tiếp theo. Quy định về đề cương nghiên cứu và luận văn thạc sĩ 3 X 2 Việc trình bày phương trình toán học trên một dòng đơn hay dòng kép là tùy ý, tuy nhiên phải thống nhất trong toàn luận án. X 3 Chế độ giãn dòng là Exactly 17 pt. 132 câu 5 4 Tác giả là người nước ngoài : xếp thứ tự ABC theo họ. 6 X 5 Tác giả là người Việt Nam: xếp thứ tự ABC theo tên, nhưng vẫn giữ thứ tự thông thường của tên Việt Nam, không đảo tên trước họ. 6 X 6 Tài liệu là sách, báo luận văn phải ghi đầy đủ các thông tin sau. 6 X * Không PGĐ. Nguyễn Văn Sáu, Thông báo v/v tổ chức thi giảng viên dạy giỏi các trường chính trị thành phố năm 2005. 16 câu Có chứa một số câu quan hệ có từ « là » chu cảnh, sở hữu. * Không Định mức chi phí ... của bộ Xd 67 câu Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là. * Không Chỉ thị của hiệu trưởng v/v tổ chức giảng dạy, kiểm tra và thi học kỳ (1998) 32 câu Chỉ có 1 câu qh chu cảnh có từ là * Bộ giáo dục và đào tạo trường ĐHTS số 591/Qđ tạm thời về đảm bảo chất lượng giảng dạy. 32câu Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là. * Nguyễn Tấn Dũng, Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Các văn bản pháp quy, số 39, tr 1- 5 155 câu 4 Có chứa một số câu quan hệ có từ « là » chu cảnh, và sở hữu. * Thủ tướng chính phủ, quyết định ban hành quy chế quản lý tài chính đối với họat động tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, ứng phó thiên tai, thảm họa, số 118/2008/Qđ-TTg [các văn bản pháp quy, tr6-11] 146câu Có chứa một số câu quan hệ có từ « là » chu cảnh, và sở hữu. * Không Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn, Thông tư hướng dẫn thi hành một số biện pháp xử lý nợ đọng thuế. [VBPQ, tr 23- 26] 108câu Có chứa một số câu quan hệ có từ « là » chu cảnh * Không Thứ trưởng Trần Xuân Hà, Quýêt định về cơ chế quản lý, điều hành giá bán xăng dầu [VBPQ, tr 38-39] 16 câu Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là * Không Thứ trưởng thường Tuyệt trực Lê Nam Thắng, Quyết định bàn về ban hành giá cứơc bản tin nhắn và tỷ lệ phân chia giá cước bản tin nhắn đến cổng thông tin điện tử nhân đạo Quốc gia [VBPQ,tr53] 19câu nhiên không chứa câu quan hệ có từ là * Không Thứ trưởng Đinh Trung Tụng, Quyết định phê duyệt kế hoạch triển khai Nghị định số 66/2008/Nđ- Cp ngày 28/05/2008 của chính phủ về việc hỗ trợ cho doanh nghiệp, [VBPL,số 39, tr.74] 105 câu Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là Không TT Nguyễn Tấn Dũng, Nghị định quy định chức năng, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp [VBPQ,tr1-4] 113 câu Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là Không Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, Quyết định Ban hành Quy chế 93 Tuyệt nhiên không bảo vệ bí mật nhà nước trong ngành Công Thương [văn bản pháp quy số 41,tr.91-96] 179câu chứa câu quan hệ có từ là Không Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, Quyết định Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú,[VBPQ,87-91] 131 câu 88 Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là Tôi tên là: NguyễnVăn A Văn bản cam kết về tài sản. 13câu Vợ là : Nguyễn Văn B Tổng số câu khảo sát 1384 câu/ 19 văn bản 0 7 Tần số xuất hiện tính theo tỷ lệ % 0,51 0 0,51 Phụ lục 3 Ngữ liệu được chọn là văn bản : Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch, Lời kêu gọi của Hội nghị Quốc tế Nạn nhân chất Da cam/dioxin Hà Nội, Nước cờ sai của Saakahvili của Hiếu Trung, Tôi tự hào là người Việt Nam của Báo tuổi trẻ.com, .. stt Câu quan hệ sâu có từ “là” Tác giả, tác phẩm, số câu từng văn bản khảo sát tr Câu qhs định tính có từ “là” Câu qhs đồng nhất có từ “là” Ghi chú 1 Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập. (45câu) X 2 Nhiều cháu sinh ra không hề biết chiến tranh là gì nhưng đã phải mang hình hài đầy dị tật khiến cho các cháu không bao giờ được hưởng hạnh phúc đơn giản nhất là được sống như một người bình thường! Lời kêu gọi của Hội nghị Quốc tế Nạn nhân chất Da cam/dioxin Hà Nội (11/05/2006) (35) X 3 Đó là một chất cực độc. X 4 Tôi tự hào là người B.D, Tôi tự hào X VN. là người Việt Nam. (12câu) 5 Một trong hai công cụ hữu ích của Internet đối với đại đa số giới trẻ là Yahoo . X 6 Không chỉ là những câu chuyện phiếm, những icon buồn - vui, mà còn là một nhắn gửi thiêng liêng: tự hào dân tộc. X 7 Cách đây không lâu, một bạn SV trường ĐH KHXH&NV TP.HCM email về cho Tuổi Trẻ với mong muốn được chào cờ đầu tuần như cái thuở còn là học sinh. X 8 Một thông điệp không lời nhưng cũng đủ gửi đến cộng đồng bạn bè trên mạng, người cậu du học sinh ấy quen biết: rằng tôi là người VN và tôi tự hào là người VN. X 9 Trong đó đa số là đôla và gần 40 điện thoại di động. Xã luận xã hội, Sòng bạc các quý bà. (9 câu) X 10 Con bạc thắng nhiều nhất là "nữ quái" Năm Bê (56 tuổi, ngụ phường Bình Hưng Hòa A). X 11 Năm Bê là một tay cờ bạc nữ chuyên nghiệp. X * Không Việtnamnet, Thủ tướng yêu cầu xử lý xe công đi chợ, đi chùa. (7câu) 12 Trong 3 bạn, Anh Tuấn là người giỏi tiếng Việt nhất. Để giữ "xuân" cho tuổi trẻ Việt Nam trong và ngoài nước (84câu) X 13 Năm 2006 là năm kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống Hội Liên hiệp thanh niên VN, là năm tăng tốc đẩy mạnh hoạt động Hội, đưa phong trào thanh niên lên tầm X cao mới gắn với việc mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên, trong đó thanh niên Việt kiều là bộ phận quan trọng. 14 Thật sự đây là buổi họp mặt rất thú vị và bổ ích. X 15 Tôi muốn cho con tôi giao lưu văn hóa với người Việt, biết cội nguồn, biết thanh niên VN là như thế nào. X 16 Tôi lo nhất con mình là người Việt mà lại không biết tiếng Việt. X 17 Chị muốn đưa con gái về nước thường xuyên hơn, và đặc biệt là đến giao lưu tại những buổi họp mặt như thế này để cháu có điều kiện tiếp xúc, hiểu biết, gần gũi hơn với đất mẹ, với truyền thống và văn hóa Việt… 18 Có một điều mà tôi muốn chia sẻ cùng anh chị và các bạn: cho dù tôi ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì cũng luôn tự hào mình là người VN. X 19 15.000m2 là Dinh đào và khu “mẫu chín” có lẫn cả 58 hộ dân đang sinh sống. Nguyễn Thị Kim Loan, Đào Nhật Tân còn hay mất. (58câu) X 20 Hoa đào Nhật Tân là di sản văn hoá vật thể và phi vật thể. X 21 10 ha đào di sản; 20 ha đào thương phẩm cho làng Nhật Tân thực tế là bao nhiêu? X 22 Ai cũng nhìn thấy khu đô thị là to, người nông dân là nhỏ, cây đào cũng là nhỏ nhưng bảo vệ được quyền lợi của họ mới thể hiện được tính nhân văn của một xã hội tốt đẹp. X 23 Năm nay cây đào của làng Nhật Tân xưa chỉ còn ở 2 khoảng đất, một gần chùa Tảo Sách 7.000m2 và một là đuôi Dinh đào 5.000m2. X 24 Năm mới Bính Tuất, nhiều người đã chọn xuất hành vào sáng mùng Một Tết vì đây là ngày tốt, đa số đến viếng chùa xin lộc đầu năm, sau đó ra đường hoa Nguyễn Huệ để du Xuân, thay vì đến thăm nhà ai đó vì ngại phải “xông đất đầu năm”. Vietnamnet, Đường hoa Nguyễn Huệ : nơi xuất hành đầu năm của người dân Sài gòn. (23câu) X 25 Không tiện nói tên, nhưng cô cho biết, cô là Việt kiều Mỹ, về Việt Nam lần này là lần thứ hai và đều vào dịp Tết Nguyên đán vì cô và chồng rất thích không khí Tết tại quê nhà. X 26 Anh tên Vũ, cùng vợ là Anh Thư, Việt X kiều Mỹ về quê ăn Tết. 27 Quan liêu tham ô lãng phí là tội ác. Hồ Chí Minh Tòan tập, Lời dạy của Bác Hồ về chống tham nhũng, tham ô, quan liêu, lãng phí NXB Sự Thật, HN,t4 (21câu) 94 X 28 Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai ... Một số lời dạy của Bác Hồ về đạo đức. (92câu) 95 X 29 Cần là luôn cố gắng, luôn chăm chỉ cả năm, cả đời. 96 X 30 Như vậy không phải là Cần. 96 X 31 Kiệm là tiết kiệm, không hoang phí, không bừa bãi. 97 X 32 Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột chứ không phải là Kiệm. 97 X X 33 Như thế mới đúng là Kiệm. 97 X 34 Hao phí vật liệu là xa xỉ. 98 X 35 Việc đáng làm trong một giờ mà kéo dài đến 2,3 giờ là xa xỉ. 98 X 36 Việc đáng tiêu 1 đồng, mà tiêu 2,3 đồng là xa xỉ. 98 X 37 An sang mặc đẹp trong lúc nhiều đồng bào đang thiếu cơm, thiếu áo, là xa xỉ. 98 X 38 Liêm là trong sạch, không tham lam. 98 X 39 Ngày nay, nước ta là nước dân chủ cộng hòa. 98 X 40 Chính có nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. 98 X 41 Điều gì không thẳng thắn, đứng đắn, tức là tà. 99 X 42 Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có hoa, lá, quả, mới là cây hòan toàn. 99 X 43 Làm việc Chính là người Thiện. 99 X 44 Làm việc Tà là người Ác. 99 X 45 Siêng năng (cần), tằn tiện (Kiệm), trong sạch (Liêm) Chính là Thiện. 99 X 46 Lười biếng, xa xỉ, tham lam, là tà, là ác. 99 X 47 Vạch rõ ranh giới là cần phải nhận rõ ai là bạn, ai là thù ? 99 X 48 Đối với người, ai làm gì có lợi cho dân cho Tổ Quốc ta đều là bạn. 99 X 49 Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và tổ quốc ta đều là kẻ thù. 99 X 50 Đối với mình những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. 99 X 51 Những tư tưởng và hành động có hại X cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù. Tổng số câu khảo sát 386 19 32 10 vb Tần số xuất hiện tính theo tỷ lệ % 13,2 4,9 8,3 Phụ lục 4 Ngữ liệu nghiên cứu lấy từ các văn bản mang phong cách khoa học (bao gồm khoa học tự nhiên và khoa học xã hội), các bài viết trong tạp chí Nghiên cứu văn học, kỷ yếu khoa học ... Stt Câu quan hệ sâu có từ “là” Tác giả, tác phẩm, số trang tr Câu qhs định tính có từ “là” Câu qhs đồng nhất có từ “là” Ghi chú 1 Ở vùng biển miền Trung, tôm hùm bông đực tham gia sinh sản lần đầu có chiều dài giáp đầu ngực là 110.06mm và tôm hùm bông cái là 98,00mm. Nguyễn Thị Bích Thủy, Một số đặc điểm sinh học sinh sản của tôm hùm bông ở vùng biển miền Trung, tr35-49 (138câu) 35 X 2 Tuổi và kích thước thành thục sinh dục của tôm hùm bông là một đặc điểm thích nghi. 39 X 3 Trọng lượng ống dẫn tinh của H.americanus là 0,4g, của P.japonnicus là 1,7g. 40 X 4 Song áp dụng P.ornatus ở Việt Nam là vô cùng khó 40 X khăn. 5 Thời kỳ này được gọi là giai đoạn phôi dâu. 46 X 6 Ngày thứ 10 hoặc ngày thứ 8 sau khi thụ tinh gọi là giai đoạn phôi vị. 46 X 7 “Vua chết rồi hoàng hậu qua đời” là một câu truyện(story) Lê Huy Bắc, “Cốt truyện trong tự sự”, nghiên cứu văn học Tạp chí nghiên cứu lý luận, phê bình và lịch sử văn học. 7/2008 35 X 8 “Vua chết rồi hoàng hâu qua đời vì u buồn” là một cốt truyện” (plot) (104câu) 35 X 9 Có lẽ Arirtotle là nhà nghiên cứu duy nhất quan tâm đến cốt truyện. 35 X 10 Theo đó, từ thế kỷ XIX trở về trước, cốt truyện tự sự chủ yếu là cốt truyện kịch tính. 36 X 11 Từ thế kỷ XX trở đi, cơ bản là cốt truyện thơ (hoặc trữ tình). 36 X Bản tính phiên lưu là luôn tuân thủ hai nguyên tắc tất nhiên và ngẫu nhiên. 36 X 12 Đến nay nhiều nhà nghiên cứu khẳng định thần thoại là thể loại văn học không tự giác, có nghĩa mục đích ra đời của thần thoại không phải là văn chương mà chỉ là tín ngưỡng, niềm tin vào tôn giáo cổ xưa của con người. 36 X 13 Thời gian là phi vật thể, cho nên nó không màu, không mùi, không vị. Nguyễn Thị Gấm,“Các dấu hiệu của thơ tượng trưng trong bài Màu thời gian của Đòan Phú Tứ”, Nc văn học Tạp chí ....7/2008 (85câu/6tr) 133 X 14 Đó là một thời gian biến ảo, sinh động. 134 X Vì thơ ca là lời nói của linh cảm, của bản năng, của vô thức; cho nên lời lẽ của thơ ca là không chính xác, là lấp lửng, là mơ hồ. 137 X 15 Trong cả bài thơ, mỗi từ là một nốt nhạc. 138 X 16 Bạn bè của Đoàn phú Tứ cho biết ông không phải là típ người sống phi thực tế, cho nên những cảm nhận về thời gian ở đây chỉ có thể là sự cảm nhận trong bề sâu tâm hồn ông. 138 X 17 Và cả bài thơ là một bản nhạc du dương, êm đềm, gợi cảm. 138 X 18 Đó là màu yêu, là nhịp tim, điệu hồn. 138 X 19 Thơ là thơ. Đặng Thu Thủy, Sự vận động của quan niệm thơ và nhà thơ thời kì đổi mới. [NCVH 7-2008] 68 X 20 Nhà thơ Việt Nam sớm ý thức được mình là một chiến sĩ, thơ Việt Nam sớm ý thức được mình là một vũ khí. (270 câu) 68 X 21 Tính chất hướng ngoại của thơ là rất mạnh. 68 X 22 Thơ trước hết phải là thơ. 68 X 23 Thơ không thể là công cụ. 69 X 24 Chức năng bồi đắp tâm hồn tình cảm của thơ được đề cao hơn bao giờ hết nhất là trong hoàn cảnh sự sa sút về đời sống tinh thần không chỉ còn là một nguy cơ. 69 X X 25 Thiên chức của thơ là «để cho người ta yêu nhau». 69 X 26 Đây là «sự tiếp nối quan niệm truyền thống». 69 X 27 Bên cạnh xu hướng «thánh hóa thơ» là xu hướng «đời 69 X thường hóa thơ ca». 28 Nếu thơ làm rung động cả triệu con tim, như thơ Tố Hữu, thì đó là điều hay. 69 X 29 Nguy cơ mất dần bạn đọc là điều không thể tránh khỏi. 70 X 30 Làm nghệ sĩ là để tả sự thật. 70 X 31 Khái niệm hiện thực ở đây là khái niệm được hiểu theo nghĩa hẹp. 71 X 32 Thơ là đau thương. 71 X 33 Thơ là hạnh phúc. 71 X 34 «Thơ là cái thăm thẳm.» 73 X 35 Thơ là cái chưa biết. 73 X 36 Nhiều khi thơ không chỉ là một văn bản ngôn từ đơn thuần (khi nó kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác : hội họa, sân khấu, vũ đạo, âm 73 X nhạc, trình diễn, ...) 37 Thơ là một trò chơi. 73 X 38 Thơ truyền thống của ta về cơ bản là mực thước, trang nhã. 73 X 39 Nhà thơ là người sáng tạo ra trò chơi, đề xuất trò chơi. 73 X 40 Trong xã hội đương đại, nếu thơ làm được như một trò chơi thỏa mãn được nhu cầu của đời sống tinh thần, làm vui, làm ý nghĩa cho cuộc đời vốn có rất nhiều niềm lạc thú cuốn hút thì cũng đã là một thành công. 73 X 41 Thời nay, không ít người coi văn chương là trò chơi, thơ là trò chơi ; nhưng là «chơi thật», «chơi nghiêm túc», chơi chuyện nghiệp chứ không phải «chơi đùa» ; không «chơi ẩu, vì phải chơi với nhiều 74 X người». 42 Hơn nữa, đây là «trò chơi nguy hiểm ». 74 X 43 Ông đã được mệnh danh là «người cách tân số một» 74 X 44 Làm thơ tức là làm tiếng Việt. 74 X 45 Thơ Việt Nam hiện nay, dòng chủ lưu chủ là thơ ý niệm, thơ tư tưởng. 75 X 46 Tuyên ngôn cũng như thực tế sáng tác của những người đi tiên phong đã gây ảnh hưởng nhất định đối với các nhà thơ đương đại nhất là các nhà thơ trẻ. 76 X 47 «Áo em mặc còn xanh» là tập thơ mang tính trò chơi rất rõ. 76 X 48 Họ là Phan Bá Thọ, Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán –bốn sinh viên mới tốt nghiệp ra trường. 77 X 49 Thơ của họ là một thứ thơ phản thơ. 77 X 50 Nhiều người khác lại cho rằng nhà thơ cũng là một người thường như bao người khác. 79 X 51 Nhà thơ là nhà thơ, nhà thơ là người thường. 80 X 52 Lê Minh Quốc tự nhận mình là «nhà thơ cà chớn». 80 X 53 Tôi là một nhà thơ solo. 82 X 54 Thế nhưng phát ngôn chỉ là phát ngôn, dù nó có táo bạo, hào hùng đến đâu chăng nữa. 82 55 Một nhà thơ nghiệp dư coi con đường đến với thơ ca của mình là một cuộc chơi, thích thì làm, không thích thì thôi. 83 X 56 Lê Đạt tự nhận mình là phu chữ, Trần Dần nhận mình là «kẻ cầm trạch trên 83 X hành tinh quốc ngữ». 57 Coi làm thơ là một nghề có nghĩa thơ ca cũng là một thứ hàng hóa (hàng hóa đặc biệt). 84 X 58 Đó là một lực lượng sáng tác hùng hậu. 84 X 59 Ấn độ coi giải thoát là vấn đề trung tâm, cốt lõi. Phạm Thảo Hương Ly, Hình tượng không gian trong sử thi Ramayana, Kỷ yếu hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm học 2006-2007 26 X 60 Văn học là nhân học. (88câu) 22 X 61 Giá trị của văn học, xét cho cùng, là sự chiêm nghiệm về con người. 22 X 62 Trong Ramayana, kinh thành là một khoảng không gian vô cùng tráng lệ, vừa mang tình hiện thực, vừa thấm đẫm chất tưởng tượng, huyền thoại và tín ngưỡng. X 63 Có thể thấy núi rừng trong Ramayana là khỏang không gian mềm mại, thế tục. 25 X 64 Bên cạnh không gian vũ trụ hoành tráng phóng đại tầm vóc người anh hùng, Ramayana còn miêu tả chiến trường là một không gian hỗ độn, khốc liệt. 25 X 65 Hành động với ý thức bổn phận cũng chính là hành động vô cầu. 26 X 66 Triết học Ấn độ coi giải thoát là vấn đề trung tâm, cốt lõi. 26 X 67 Có nhiều công thức đúc kết mối liên hệ này, sau đây là một công thức bao quát. Đặng Anh Đào, Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong kể chuyện. 7-2008 (107 Câu) X 68 Về thuật ngữ, nhãn quan, điểm nhìn, và tiêu điểm đã được sách lý luận coi là 26 X một. 69 NKC là một thực thể đơn nhất và giới hạn. 27 X 70 Điều này được gọi là điểm nhìn. 27 X 71 Theo suy nghĩ của chúng tôi, vế thứ nhất của định nghĩa đặt ra một yêu cầu không chính xác đối với NKC, kể cả đối với loại chuyện ta gọi là cổ điển. 27 X 72 Tiêu biểu là từ điển Wikipedia. 29 X 73 Riêng Manfred Jahn, chuyển mối quan tâm từ NCK sang một tác nhân mới mà ông gọi là focalizer. 29 X 74 Dẫu sao, rút cục, Jahn vẫn đi tới vấn đề tiêu điểm theo hướng phân loại kết hợp số lượng và vị trí : đơn lẻ, hỗn hợp, và cuối củng là tiêu điểm tập thể. 29 X 75 Tuy nhiên, Genette cho rằng xét đến cùng, đây không phải là tác giả lựa chọn mà là hai thái độ kể chuyện. 31 X 76 Bởi lẽ khuân khổ của lí luận vốn định hình, còn tác phẩm là một thế giới đa dạng. 32 X 77 Trong di sản văn học của Lỗ Tấn, Thuốc là một truyện ngắn đặc biệt, độc đáo. Lê Nguyên Cẩn, Những nét độc đáo trong Thuốc của Lỗ Tấn. 11-2008 (196 câu) 117 X 78 Không gian quán trà lão Hoa với ba phần và không gian nghĩa địa với phần còn lại mà độ dài không kém ba phần kia là 117 X bao. 79 Phần khai chuyện, tương ứng với phần khai đề của một bài thơ cổ điển, được mở ra từ không gian thứ nhất bằng một buổi sớm, chưa sáng hẳn song cũng đã chuyển sang một ngày mới với nội dung chính là mua thuốc. 117 X 80 Số lượng nhân vật trong truyện có thể nói là nhiều, song hiện rõ nét chỉ có bốn. X 81 Số nhân vật khác hiện dưới dạng các đám đông «tụm năm tụm ba» mà không thể biết số lượng là bao. 119 X 82 Một ý kiến độc đáo, một phát hiện mới mẻ thường không gây được một phản ứng nào đáng kể, dù tích cực hay tiêu cực, có lẽ là do một Sái Phu, lời giới thiệu,Viết nhịu – lapsus calami: Dọn vườn ngôn ngữ học, X thái độ nể nang hay kính nhi viễn chi nào đó. Net (19 câu) 83 Chúng tôi không quan niệm rằng nói ngược lại những điều đã được mọi người công nhận là một lỗi. X 84 Nếu nói dịch thuật là quan trọng, chắc ít ai phản đối, nhưng nếu nói người dịch chỉ là kẻ ăn theo tác giả, có lẽ số người đồng ý cũng không ít hơn. Ngô Tự Lập, Viết như là dịch thuật, http:// ngonngu.net (157câu) X 85 Khi còn làm biên tập viên nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, tôi thường được nghe nhiều người nhất là các nhà văn, nói : « ... » X 86 Người ta sáng tác sẵn, các cậu chỉ cần chuyển ngữ là xong, có tiền tiêu. X v 87 « Các anh chỉ là lũ kí sinh, cả đời chỉ làm mỗi việc "chuyển ngữ" tác X phẩm của người khác để lấy tiền! » 88 So với những lời này, danh hiệu "con khỉ" đúng là vinh dự hơn nhiều, vì dù sao nó cũng mang dáng dấp nghệ sĩ! X 89 Anh/chị ta tạo nên một tác phẩm trọn vẹn và người đọc chỉ việc thưởng thức, còn giữa họ, người dịch chỉ đơn thuần là kẻ trung gian. X 90 Là một người luôn luôn phải phân thân giữa viết và dịch, từ lâu lắm tôi đã lờ mờ nhận thức được rằng đó là một quan niệm sai lầm. X 91 Khó khăn lớn nhất là các điển tích. X 92 Thuật ngữ chuyên môn, từ lóng đều là những dạng điển tích khác nhau. X 93 Và nói cho cùng thì mỗi từ là một điển X tích. 94 Khi chưa biết tên phim bằng tiếng Pháp, tôi nghĩ "chiều" là "buổi chiều". X 95 Cái tên gợi rất nhiều suy nghĩ, bởi nó rất thơ, rất triết, và nhất là nó rất khác thường. X 96 Tôi đã thử hỏi rất nhiều người và nhiều người trong số họ cũng nghĩ "chiều" ở đây là «một buổi chiều». X 97 Cái tên còn gợi mở hơn nữa vì "chiều" cũng có thể hiểu là "phương". X 98 Thú thật, tôi đã hơi thất vọng khi biết, nhờ cái tên tiếng Pháp, rằng "chiều" chỉ đơn thuần là từ "phương". X 99 Tôi tin tưởng sâu sắc rằng sống cũng chính là dịch thuật. X 100 Sau từ "partir" (ra đi) và từ "yêu" là dấu phẩy. X 101 Cái tên tiếng Pháp chỉ đơn thuần là "Phương thẳng đứng của mùa hè", hay "Mùa hè phương thẳng đứng". X 102 Không cần phải suy nghĩ quá cao siêu để thấy rằng câu trả lời là phủ định. X 103 Như vậy, về thực chất, sáng tác chính là dịch thuật. X 104 Trong bài Cám dỗ và vinh quang của dịch thuật tôi có viết rằng mặc dù dịch là phản, đối với đa số người đọc không phải là bản ngữ, bản dịch phản bội ít hơn. X 105 Nhưng nói một cách chặt chẽ thì tất cả các bản dịch đều là X phỏng dịch. 106 Chẳng hạn, từ "rice" trong tiếng Anh trong những truờng hợp cụ thể phải dịch là "lúa", "thóc", "gạo", "cơm".. X 107 Đối với ông, đối tượng chủ yếu của ngôn ngữ học là Ngôn ngữ, nhưng ông cũng hình dung được trong tương lai một ngành ngôn ngữ học của lời nói. Cao Xuân Hạo, lời nói đầu bản dịch giáo trình Ngôn ngữ học đại cương. (33câu) X 108 Xin đừng hiểu lầm rằng ngôn ngữ học và các khoa học nhân văn khác là những “khoa học chủ quan”. X 109 Khoa học, do chính định nghĩa của nó, chỉ có thể là khách quan. X 110 Một số tác giả gọi ngôn ngữ học trước 1957 là “structuralist” X Tổng số câu khảo sát 1197 câu 39 71 Tần số phân bố tính theo tỷ lệ % 9,2 3,3 5,9 10 vb ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7203.pdf
Tài liệu liên quan