LỜI MỞ ĐẦU
Mùa Xuân là mùa của sức sống đất trời, mùa của sự tốt lành cho vạn vật. Đảng là trí tuệ, Đảng là niềm tin, Đảng là cội nguồn sức mạnh của dân tộc nên Đảng như sức sống của mùa Xuân đất nước, mùa Xuân dân tộc. Chính vì vậy, có thể khẳng định: Nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng tỏ thêm, sâu sắc hơn, thực tiễn hơn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (từ ngày 24 đến 27/6/1991, tại Hà Nội) được tiến hành trong bối cảnh quốc tế và trong nướ
12 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2074 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Cương lĩnh năm 1991 đã được cụ thể hoá và phát triển trong đời sống ra sao? Anh (chị) phải làm gì để góp phần vào… (Lịch sử Đảng), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c đang có những diễn biến phức tạp. Đó là sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá nhiều phía vào CNXH, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ CNXH hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam. Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch ở cả trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn còn khó khăn, đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Cương lĩnh đưa ra quan niệm tổng quát nhất về xã hội XHCN ở Việt Nam và những phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; khẳng định xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một phương hướng chiến lược lớn.
NỘI DUNG
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn cách mạng nước ta, nhất là kinh nghiệm qua 5 năm thực hiện đường lối đổi mới với nhiều thành tựu quan trọng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã nêu những quan niệm về CNXH và những định hướng chủ yếu xây dựng CNXH ở đất nước ta, trong đó xác định: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuát hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ...
- Có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Sáu đặc trưng trên đây, bao quát cả sáu lĩnh vực: chính trị, kinh tế, vǎn hóa, con người, dân tộc, quốc tế. Gọi là đặc trưng, bởi lẽ đây là những khác biệt so với mọi kiểu loại xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử, những khác biệt đem lại sự giải phóng hoàn toàn và triệt để cho dân tộc, cho xã hội và cho con người.
Đảng ta cũng đã nêu ra bảy phương hướng cơ bản cần phải nắm vững trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc:
Một là, xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Bốn là, trong lĩnh vực tư tưởng và văn hoá lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp cảu tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Sáu là, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ.
Những phương hướng này cũng chính là con đường đưa chúng ta đi tới mục tiêu của CNXH, con đường để từng bước hiện thực hóa mô hình CNXH đã vạch ra.
Sau hơn 4 năm từ sau đại hội VI, vừa học vừa làm kinh tế hàng hóa, đến giữa năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta tiếp tục bổ sung tư duy khoa học về kinh tế hàng hóa.
Trước hết, thay vì trước đây chỉ nêu nhiệm vụ "xây dựng nền kinh tế hàng hóa", thì đã nói rõ và đầy đủ hơn: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước".
Thứ hai, kinh tế hàng hóa được đặt ở vị trí trung tâm, thỏa đáng trong phần phương hướng cơ bản xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ. Trong phần những định hướng lớn về chính sách trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc "phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN" được trình bày ở vị trí đầu tiên, đúng với tầm quan trọng hàng đầu và bao trùm của nó.
Thứ ba, nội dung kinh tế hàng hóa được trình bày toàn diện, bao gồm cơ cấu ngành kinh tế; sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế; cơ chế quản lý kinh tế; vị trí của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo trong phát triển kinh tế. Trong đó, nêu lên các luận điểm quan trọng: "Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau", "Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân", "thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu".
Thứ tư, nội dung của cơ chế quản lý nền kinh tế hàng hóa được trình bày đầy đủ và mạch lạc hơn, như sau: "Hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác".
Thứ năm, "xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động...".
Qua 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc phát triển nền kinh tế hàng hóa cùng với các chính sách khác, đem lại nhiều thành tựu quan trọng trên đất nước ta. Đại hội VIII của Đảng nhận định: “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tuy còn một số mặt chưa vững chắc..”. Đại hội VIII phát triển thêm Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và khẳng định: “Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”_ Rõ hơn các chặng đường quá độ ở nước ta: “Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; Rõ hơn định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần: “Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Từ Đại hội VIII, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong chặng đường hiện nay còn phải tiếp tục hoàn thành một số nhiệm vụ của chặng đường trước.
Văn kiện Đại hội chỉ rõ: "Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo".
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước XHCN, nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người phát triển toàn diện, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương của Đảng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) tiếp tục khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt nam từng bước quá độ lên CNXH, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Và nhấn mạnh: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam theo con đường của CNXH, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,… là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Trải qua thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước (1986 - 2001) nhận thức về con đường đi lên CNXH ở nước ta càng ngày càng rõ hơn. Từ quan niệm: “Con đường đi lên CNXH ở nước ta không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” đến việc xác định: Con đường đi lên CNXH ở nước ta “là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN”. Nội hàm của luận điểm “Bỏ qua chế độ TBCN” được Đảng ta làm rõ hơn: “... bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.”
Mô hình về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, không thể vạch ra một cách cụ thể, chi tiết ngay từ đầu và cũng không thể chỉ một lần là xong. Cùng với sự vận động và biến đổi của thế giới hiện nay, của thực tiễn xây dựng CNXH, sẽ cung cấp thêm những cứ liệu mới để bổ sung cho nhận thức của Đảng ta về CNXH về mô hình CNXH và con đường để thực hiện mô hình đó. Nhận thức ấy, hoàn toàn đúng với lời chỉ dẫn của Ănghen: “Cái gọi là “Xã hội, xã hội chủ nghĩa” theo ý kiến của tôi, không phải là cái gì đó nhất thành bất biến, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác, nó cần phải được xem xét như một xã hội được thay đổi và cải tạo thường xuyên”. Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã khẳng định: “Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn”. Đại hội đã xác định: Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng VN bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
- Có Nhà nước pháp quyền CNXH của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đồng thời Đại hội cũng xác định: Con đường đi lên CNXH ở nước ta là phải:
- Phát huy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội;
- Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc;
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
- Đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia;
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Những điểm điều chỉnh, bổ sung và phát triển về mô hình CNXH.
Một là, Đại hội X điều chỉnh: “Do nhân dân làm chủ” (Đại hội VII nêu “Do nhân dân lao động làm chủ”. Lợi ích của sự điều chỉnh này là:
- Quy tụ được sức mạnh của dân tộc để thực hiện mục tiêu.
- Đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh hơn: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”.
Hai là, “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” (Đại hội VII: “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã được thể hiện từ :
- Đại hội VIII khi xác định mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đã xác định: “Quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Đại hội IX: Khi nói về mục đích của kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta cũng xác định “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối”.
Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng CNXH do đó, chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu vẫn còn tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ, đó là sự kế thừa, bổ sung, phát triển và làm sáng tỏ hơn, phù hợp với thực tế hơn.
Ba là, “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”.
(Đại hội VII nêu: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân).
So với Đại hội VII, Đại hội X khát quát lại đặc trưng này ngắn gọn hơn súc tích hơn, rõ ràng hơn và có một sự điều chỉnh, không sử dụng từ “bóc lột” trong đặc trưng này, vì:
- Mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta trước hết không chấp nhận chế độ người bóc lột người.
- Thừa nhận trên thực tế trước mắt còn có hiện tượng bóc lột, có sự phân hoá giàu nghèo, nhưng không dẫn tới sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập.
- Thừa nhận sự tồn tại lâu dài các hình thức thuê mướn lao động, nhưng trong khuôn khổ nhất định, vì trong CNXH ta chấp nhận nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế.
Bốn là: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam, bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”
Đại hội VII nêu: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Cái mới ở đặc trưng này so với Đại hội VII là: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam (chứ không phải chỉ có các dân tộc trong nước).
- Quan điểm này thể hiện rõ cách mạng là sự nghiệp của toàn thể dân tộc Việt Nam - đó cũng là điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Sức mạnh của dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn của mọi thắng lợi, là động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, của công cuộc đổi mới đất nước - là nguồn nội sinh của cách mạng.
Đến đại hội IX Đảng ta nêu rõ hơn: “Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc” trong khi Đại hội VIII chỉ nói “phát huy sức mạnh của cả cộng đồng” .
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam (gồm toàn thể người dân Việt Nam ở trong nước và cả bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài) - Đó là nguồn lực của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, cần phải phát huy để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Năm là, “Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”
- Đây là đặc trưng mới được bổ sung, rút ra từ tổng kết thực tiễn về xây dựng CNXH ở nước ta, từ sự đóng góp lý luận của Chương trình KX 01.
- Tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đã chính thức được các Đại hội VIII và IX nêu ra.
- Đại hội X tiếp tục kế thừa và đưa vào một trong các đặc trưng của mô hình CNXH mà nhân dân ta cần xây dựng.
Sáu là, đặc trưng có tính bao trùm nhất và có thể coi như là mô hình tổng quát về chế độ kinh tế, chính trị – xã hội của nước ta (khác về chất với các chế độ xã hội khác) là: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đây chính là điểm tương đồng để kết nối cộng đồng dân tộc Việt nam theo tinh thần khép lại quá khứ, cùng nhau hướng về tương lai một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh”, “dân cường, nước thịnh” theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động. Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột người, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân lao động thoát khỏi đói nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tạo điều kiện giải phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã nêu lên những đặc trưng của XHCN mà nhân dân ta xây dựng và con đường đi lên CNXH đã được cụ thể hóa qua từng thời kỳ phát triển của đất nước. Sự đúng hướng của cương lĩnh thể hiện ở những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được qua đánh giá, tổng kết, sửa đổi và bổ sung tại các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X của Đảng.
Với tư cách là một đoàn viên, một công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, em nhận thức sâu sắc được những nhiệm vụ chính trị của bản thân trong việc thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH:
- Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật;
- Lãnh đạo và vận động nhân dân thực hiện đường lối chính trị của Đảng;
- Có quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng thực hiện mọi nhiệm vụ mà Đảng giao phó;
- Không ngừng học tập, rèn luyện và nâng cao trình độ; cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN
- Đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân;
- Có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng.
KẾT LUẬN
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã đề ra từ Đại hội VII (6/1991) nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã và đang hướng tới.
Sự lãnh đạo của Đảng ta trong 78 năm qua trong một bối cảnh thế giới và khu vực ngày càng phức tạp, đem lại cho dân tộc ta sự bình yên hôm nay đủ thấy rằng chúng ta dứt khoát đi theo con đường tiến lên CNXH, không lựa chọn con đường nào khác.
Trải nghiệm những thăng trầm của CNXH trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng thức tỉnh của các dân tộc, nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dân tộc ta gặp CNXH, đẹp như một điều hẹn trước. CNXH là mùa Xuân của nhân loại!”. Lịch sử phát triển của đất nước Việt Nam XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định: Đó là con đường chúng ta phải đi, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khám phá khi đọc Luận cương về dân tộc của Lê nin; Con đường ấy tất yếu phải dẫn đến CNXH, đến mùa xuân của nhân loại - đó cũng là quy luật của cách mạng.
Từ khi ra đời đến nay, cương lĩnh năm 1991 đã được cụ thể hóa và phát triển trong đời sống ra sao? Anh (chị) phải làm gì để góp phần vào thực hiện cương lĩnh của Đảng ?”
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37215.doc