Đánh giá bước đầu hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới Việt Hưng, Quận Long Biên, Hà Nội

LỜI NÓI ĐẦU Trong xu thế của thế giới hiện nay, quá trình đô thị hoá đang diễn ra một cách nhanh chóng và mạnh mẽ. Các đô thị trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều với qui mô và chất lượng ngày càng tốt hơn. Hiện tại ở Việt Nam nhất là ở thủ đô Hà Nội là một trong những đô thị có vai trò quan trọng là đầu tầu cho việc phát triển kinh tế xã hội của nước ta đang có rất nhiều biến đổi phù hợp với xu thế của thế giới. Thực hiện kế hoạch phát triển của thủ đô Hà Nội đến năm 2020, trong những năm q

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1666 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá bước đầu hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới Việt Hưng, Quận Long Biên, Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ua Nhà Nước và thành phố Hà Nội rất quan tâm đến việc quy hoạch cải tạo, xây dựng thủ đô và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhiều trục đường chính đã được cải tạo và mở rộng như trục đường QL1A, đường QL6, đường Láng-Hoà Lạc,… Giao thông được cải thiện rất nhiều đã thúc đẩy cho việc hình thành các KDTM là đô thị vệ tinh cho thành phố như khu Mỹ Đình, Đinh Công, Linh Đàm, Trung Hoà-Nhân Chính, Trung Yên, Nghĩa Đô… Tuy nhiên ở khu vực phía Bắc sông Hồng có diện tích rộng và địa chất khá thuận lợi cho xây dựng công nghiệp và đô thị song hiện nay kinh tế chưa phát triển, dân số ít, mật độ dân số thấp, văn hoá xã hội còn ở trình độ thấp. Chính vì vậy Chính phủ đã phê duyệt dự án cho xây dựng KDTM Việt Hưng ở đây để từng bước giải quyết các vấn đề đã nêu trên. Và để các KDTM này có thể hoạt động một cách hiệu quả nhằm tránh lãng phí nguồn lực một cách vô ích thì công tác đánh giá hiệu quả xây dựng cơ sở hạ tầng là rất cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác này trong đề tài “Đánh giá bước đầu hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KDTM Việt Hưng, Quận Long Biên, Hà Nội.” em xin đưa ra một số đánh giá về hiệu quả tài chính và kinh tế xã hội của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng KDTM Việt Hưng. Mục đích của bài nghiên cứu để thấy đựơc những ưu, nhược điểm cũng như thuận lợi và khó khăn của việc thực hiện dự án từ đó rút ra được những giải pháp giải quyết và bài học kinh nghiệm cho các dự án trong tương lai. Đề tài nghiên cứu của em ngoài phần mở đầu và kết luận được chia làm 3 phần chính như sau: CHƯƠNGI: TỔNG QUAN VỀ HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐẰU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở KHU ĐÔ THỊ MỚI. CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ THUẬT Ở KHU ĐÔ THỊ MỚI VIỆT HƯNG, QUẬN LONG BIÊN, HÀ NỘI. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VIỆC ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DỰ ÁN ĐẦU TƯ. CHƯƠNG I: TÔNG QUAN VỀ HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở KHU ĐÔ THỊ MỚI I.1> KHÁI QUÁT VỀ KHU ĐÔ THỊ MỚI I.1.1> Khái niệm về khu đô thị mới Hệ thống đô thị của nước ta được hình thành chủ yếu từ thời Pháp thuộc với đặc điểm là số lượng và qui mô rất nhỏ bé. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của đất nước hiện nay, quá trinh đô thị hoá đang diễn ra rất mạnh mẽ với mục đích là tăng số lượng, qui mô, chất lượng các khu đô thị để đáp ứng nhu cầu về ăn ở, sinh hoạt và làm việc của người dân. Trong hoàn cảnh đó các khu đô thị mới đã lần lượt được ra đời trong sự quản lý và qui hoạch của nhà nước. * Khái niệm niệm khu đô thị mới (KDTM) là khu đô thị có diện tích tương đối lớn đang được phát triển tập trung theo dự án đầu tư xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ các công trình cơ sở hạ tầng, các công trình sản xuất, công trình phúc lợi nhà ở. Trong KDTM thường có 3 thành phần chính: Cơ sở hạ tầng, công trình sản xuất, công trình phúc lợi và nhà ở. Quy mô của một KDTM có thể từ 5-10 ha trở lên được sử dụng vào mục đích kinh doanh hoăc không kinh doanh. Các KDTM thường được gắn với một đô thị hiện có hoặc với một đô thị mới đang hình thành. Trên phương diện pháp luật, KDTM phải có ranh giới và chức năng xác định, phù hợp với quy hoạch xây dựng đô thị được cơ quan nhà nước có thâm quyền phê duyệt. I.1.2> Sự cần thiết ra đời của các khu đô thị mới Việc hình thành các KDTM là sự cần thiết khách quan và được khẳng định bởi 3 lí do sau: Thứ nhất: Xây dựng các KDTM là quá trình “Từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước, có cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và kỹ thuật hiện đại, môi trường đô thị trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lí trên địa bàn cả nước, đảm bảo cho mỗi đô thị, theo vị trí và chức năng của mình, phát huy đầy đủ thế mạnh, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng xã hội chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc” (Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 10/1988/QĐ-Ttg). Thứ hai: Xây dựng các KDTM là kết quả của việc thực hiện chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đất nước. Biểu hiện cụ thể của đô thị hoá là sự mở rộng đô thị hiện có và xây dựng các đô thị mới. Việc xây dựng các đô thị mới chỉ có thể thực hiện trong điều kiện kinh tế cho phép và đặc biệt với sự đầu tư của nước ngoài. Thứ ba: Xuất phát từ yêu cầu thực tế cải tạo, chỉnh trang những thành phố quá chật chội, quá tải về dân số, được xây dựng thiếu quy hoạch trong những năm trước đây. I.1.3> Các nguyên tắc qui hoạch khu đô thị mới Trái với ý tưởng ban đầu của các KDTM ở Anh quan niệm chỉ là chỗ ngủ khi đi làm về. Ngày nay ý tưởng về sự cân bằng, sự phát triển song song nhà ở việc làm và công trình công cộng càng trở nên quan trọng do đó việc qui hoach KDTM ngày nay có một số nguyên tắc sau: Giảm thiểu những cuộc di dân luân phiên xen kẽ (hướng tâm, li tâm) và tạo thuân lợi cho việc giải quyết các vấn đề về giao thông vận tải tại các vùng đô thị liên quan. KDTM có tầm quan trọng dành cho trung tâm đô thị. Không có đô thị mới nào không có trung tâm để tạo nên hạt nhân đô thị vì lợi ích của KDTM, Những KDTM nào có rất sớm một trung tâm đô thị lại càng nhanh chóng tạo được uy tín và hình ảnh tốt đẹp cho riêng minh. Khu giải trí ngoài trời ngày càng chiếm được vị trí quan trọng trong KDTM. KDTM không thể bị chia cắt với thành phố hiện hữư và lân cận vì nếu không sẽ phải xây dựng xa lộ nối liền với thành phố chính. Việc lựa chọn KDTM khá gần với thành phố chính ngày nay được đánh giá là đúng đắn vì các thành phố khá xa thành phố chính đều kém năng động. Khi qui hoạch KDTM cần quan tâm đến sự phát triển tương lai do vậy phải có được tối đa tính linh hoạt. Theo quan điểm hiện đại việc qui hoạch xây dựng các KDTM xoay quanh các yếu tố như trong sơ đồ sau: Công Nghệ Nhân văn Môi trường Trung tâm * Các định chế giáo dục * Các cơ sở viễn thông * Các cơ sở tiếp cận thông tin * Cơ sở kinh tế dân cư, thưong mai, giải trí * Các cơ sở giao thông Quản lý môi trường (MT) * Bền vững về MT * Xử lý và quản lý chất thải * Giám sát môi trưòng Cộng đồng * Cơ sở giải trí * Cơ sở thể thao * Y tế * Du lịch và trao đổi văn hoá * Các công việc môi trường Thành phố công nghệ * Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực * Các dịch vụ ytế tiên tiến * Truyền thông và giải trí * Phần mềm và hệ thống vi tính I.2> MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ SỞ HẠ TẦNG ĐÔ THỊ Cơ sở hạ tầng đô thị là một loại hàng hoá công cộng có tầm quan trọng về kinh tế-xã hội và giữ vai trò không thể thiếu trong mỗi đô thị. Để có thể hiểu được một cách khái quát về cơ sở hạ tầng em xin nêu ra một số vấn đề lý luận về cơ sở hạ tầng đô thị. I.2.1> Khái niệm cơ sở hạ tầng đô thị Có rất nhiều khái niệm về cơ sở hạ tầng đô thị theo các quan điểm khác nhau. Sau đây là một số khái niệm và được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Toàn bộ các công trình giao thông vận tải, bưu điện thông tin liên lac, dịch vụ xã hội như: đường sá, kênh mương, dẫn nước, cấp thoát nước, sân bay, nhà ga xe lửa, ô tô, cảng song, cảng biển, cơ sở năng lượng, hệ thống mạng điện, đường ống dẫn xăng, dẫn khí ga, hơi đốt, kho tàng, , giao thông vận tải, giáo dục phổ thông và chuyên nghiệp, y tế, dịch vụ ăn uống công cộng, nghỉ ngơi du lịch, vui chơi giải trí, rác thải môi trường đô thị… được gọi là cơ sở hạ tầng đô thị. Theo từ chuẩn Anh - Mỹ, thuật ngữ “cơ sở hạ tầng” được thể hiện trên 4 bình diện: 1/Tiện ích công cộng: năng lượng, viễn thông, nước sạch, khí đốt, hệ thống thu gom sử lí rác thải trong thành phố. 2/Công chánh: đường sá, các công trình xây dựng, kênh phục vụ tưới tiêu… 3/Giao thông: Các trục và tuyến đường bộ, đường sắt chính quy, đường sắt vận chuyển nhanh, cảng và mát bay, đường thuỷ…4/ Hạ tầng xã hội: trường học, bệnh viện,… Tóm lại, cơ sở hạ tầng đô thị là những tài sản vật chất và các hoạt động hạ tầng có liên quan dùng để phục vụ các nhu cầu kinh tế-xã hội của cộng đồng dân cư đô thị. I.2.2> Phân loại cơ sở hạ tầng đô thị Có nhiều cách để phân loại cơ sở hạ tầng đô thị. Tuỳ theo các căn cứ, có thể phân cơ sở hạ tầng đô thị thành nhiều loại khác nhau như sau: Thứ nhất: Về tính chất ngành cơ bản - Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị - Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đô thị - Cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội Thứ hai: Về tính chất phục vụ - Cơ sở hạ tầng đô thị phục vụ cho sản xuất vật chất - Cơ sở hạ tầng phục vụ về nhu cầu văn hoá tinh thần Thứ ba: Về trình độ phát triển - Cơ sở hạ tầng đô thị phát triển cao - Cơ sở hạ tầng đô thị phát triển trung bình - Cơ sở hạ tầng đô thị phát triển thấp Thứ tư: Về quy mô đô thị - Cơ sở hạ tầng siêu đô thị - Cơ sở hạ tầng đô thị cực lớn - Cơ sở hạ tầng đô thị lớn - Cơ sở hạ tầng đô thị trung bình - Cơ sở hạ tầng đô thị nhỏ I.2.3> Vai trò, ý nghĩa cơ sở hạ tầng đô thị * Theo định nghĩa đô thị : “Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng đồng bộ thích hợp,..” như vậy ta thấy ngay vai trò rất quan trọng của cơ sở hạ tầng đối với mỗi đô thị. Sự phát triển các ngành của cơ sở hạ tầng đô thị có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất xã hội, dịch vụ xã hội và việc nâng cao hiệu quả của nó. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, vai trò của cơ sở hạ tầng không ngừng được tăng lên. Các hình thức mới về giao thông vận tải và thông tin liên lạc xuất hiện và phát triển không những trong khuôn khổ từng nước, mà còn trên phạm vi quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá. Do đó, hình thành cơ sở hạ tầng vật chất của sự hợp tác quốc tế mới, đó là toàn bộ các bộ phận của các hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong nước và nước ngoài, nhằm phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại, cung như các công trình và đối tượng phối hợp với nhau, đảm bảo cho việc bảo vệ mội trường xung quanh, sử dụng hợp lý các nguồn nước và các nguồn tài nguyên khác, đảm bảo trông tin liên lạc của các cơ quan khí tượng thuỷ văn, quản lý Nhà nước, các cơ quan phục vụ xã hội và an ninh quốc phòng… nhằm mục đích phát triển dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. * Việc quản lý và phát triển cơ sở hạ tầng đô thị một cách khoa học và hợp lý có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì cơ sở hạ tầng là cơ sở nền tảng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của cả một hệ thống đô thị quốc gia nói riêng và sự phát triển bền vững của cả một quốc gia nói chung. Một quốc gia giàu mạnh, hiện đại và văn minh phải có một cơ sở hạ tầng đô thị vững mạnh, tiện lợi, hiện đại và đầy đủ. I.3> HIỆU QUẢ CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG ĐÔ THỊ Do giữ vai trò đặc biệt quan trọng và là một yếu tố cấu thành không thể thiếu của mỗi đô thị nên việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thật tốt là điều mà mọi người đều rất quan tâm vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và sự phát triển của khu đô thị. Sau đây là một số vấn đề lý luận về việc xem xét hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị. I.3.1> Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng I.3.1.1> Một số khái niệm về dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Theo NĐ 42 CP, ngày 16/7/1996 của Chính Phủ thì: “ Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đặt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định”. Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là một bộ phận trong dự án đầu tư xây dựng cơ bản . Đối với dự án đầu tư xây dựng cơ bản có thể được xem xét trên nhiều góc độ. Về mặt hình thức: Dự án đầu tư XDCB là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những muc tiêu nhất định trong tương lai. Về mặt kế hoạch: Dự án đầu tư xây dựng cơ bản là công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư XDCB, làm tiền đề để chi ra các quyết định đầu tư và tài trợ. Về mặt quản lý: Dự án đầu tư XDCB là một công cụ quản lý việc sử dụng các nguồn lực để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế xã hội trong một thời gian dài. Theo Quy chế quản lý đầu tư xây dựng ngày 08/07/1999 của Chính Phủ: Dự án đầu tư xây dựng cơ bản là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm dịch vụ trong khoảng thời gian xác định. Như vậy nói tới dự án đầu tư có xây dựng là nói tới: - Tập hợp những đề xuất kinh tế - kỹ thuật liên quan tới việc bỏ vốn đầu tư - Tập hợp đề xuất đó phải hướng tới làm tăng về số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ và thu lợi cao - Tập hợp đề xuất đó được thực hiện trong khoảng thời gian xác định. Trong khuôn khổ bài viết này em xin sử dụng khái niệm về dự án xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy chế quản lý đầu tư xây dựng ngày 08/07/1999 của Chính Phủ vì đây là khái niệm đang được sử dụng hợp pháp trong các dự án. I.3.1.2> Phân loại: Căn cứ theo tính chất, hình thức, qui mô đầu tư ngày 8/7/1999 Chính Phủ đã ban hành Nghị định 52/1999/NĐ-CP phân chia dự án xây dựng thành ba nhóm: * Dự án nhóm A bao gồm: 1. Các dự án thuộc bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị xã hội quan trọng (khônng phụ thuộc qui mô vốn đầu tư). 2. Các dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ, khai thác chế biến khonág sản quí hiến: vàng bạc, đá quí, đất quí ( không phụ thuộc vào qui mô dự án) 3. Dự án BOT trong nước xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, hạ tầng đô thị có vốn từ 100 tỷ trở lên. 4. Dự án ODA có vốn từ 1,5 triệu USD vốn nước ngoài trở lên. 5. Các dự án phi sản xuất: nghành y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh truyền hình, xây dựng, du lịch, nghiên cứu khoa học… trên 75 tỷ đồng (không kể trụ sở nhà làm việc của cơ quan nhà nước) 6. Các dự án có tổng mức đầu tư lớn: Trên 400 tỷ đồng đối với dự án thuộc ngành công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, ximăng, luyện kim, khai thác khoáng sản, cảng biển, sân bay, đường quốc lộ. Trên 200 tỷ đồng đối với các dự án về thuỷ lợi, giao thông cấp thoát nước, và công trình hạ tầng đô thị, khu công nghiệp, kỹ thuật điện, điện tử tin học, công trình cơ khí, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông. Đối với dự án nhóm A tiến hành 2 bước: nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi loại trừ những trường hợp đặc biệt được thủ tướng Chính Phủ cho phép chỉ lập nghiên cứu khả thi. * Dự án nhóm B 1. Các dự án sử dụng OSA và BOT dưới mức qui định ở nhóm A. 2. Các dự án có tổng mức đầu tư trên mức qui định ở nhóm C và dưới mức qui định ở nhóm A. 3. Các dự án của các nghành còn lại chưa nêu ở nhóm A và có tổng mức đầu tư trên qui định ở nhóm C. Đối với dự án nhóm B xét cần thiết tiến hành 2 bước: nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi. * Dự án nhóm C 1. Các dự án có tổng mức vốn đầu tư dưới mức qui định sau: Dưới 30 tỷ đồng đối với dự án thuộc các nghành: điện, hoá chất, phân bón, dầu khí, cơ khí, giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát nước đô thị, vật liệu xây dựng, bưu chính viễn thông. Dưới 20 tỷ đồng đối với dự án thuộc các nghành: kỹ thuật điện, điện tử tin học, công nghiệp nhẹ, sành sứ thuỷ tinh, giấy, da, dệt, may mặc, chế biến nông lâm thuỷ sản, hoá học, thuốc chữa bệnh. 2. Các dự án không thuộc điểm (1) nhóm A và (1) nhóm B có mức vốn dưới 7 tỷ đồng Dự án nhóm C chỉ cần thực hiện 1 bước nghiên cứu khả thi. I.3.1.3> Đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Mỗi dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đều có qui mô, tính chất, mức vốn, thời gian thực hiện,.. là khác nhau. Tuy nhiên hầu hết chúng đều có 6 đặc điểm chung sau đây: Thứ nhất: Dự án có tính duy nhất mỗi dự án đều có đặc trưng riêng biệt lại được thực hiện trong những điều kiện khác biệt nhau cả về địa điểm, không gian thời gian, và môi trường luôn thay đổi đã tạo nên tính duy nhất. Thứ hai: Dự án bị hạn chế về thơi gian và qui mô. Mỗi dự án đều phải có điểm khởi đầu và điểm kết thúc rõ rang và thường có một số kỳ hạn liên quan. Có thể ngày hoàn thành được ấn định một cách tuỳ ý, nhưng dù sao đi nữa nó cũng trở thành điểm trọng tâm của dự án. Sự thành công của dự án được đánh giá bằng khả năng có đạt được đúng thời điểm kết thúc đã được định trước hay không? Thứ ba: Dự án có liên quan đến nhiều nguồn lực khác nhau. Để thực hiện một dự án phải sử dụng rất nhiều nguồn lực như nguồn lực về tài chính, máy móc kỹ thuật, con người, tài nguyên, đất đai,… Các nguồn lực có thể không phải xuất phát từ một chủ thể cung cấp ma` được huy động từ nhiều chủ thể khác nhau. Thứ tư: Sản phẩm của dự án mang tính đơn chiếc, độc đáo mới lạ: Khác với quá trình sản xuất liên tục và gián đoạn, kết quả của dự án không phải là sản phẩm hàng loạt mà có tính khác biệt cao. Sản phẩm và dịch vụ mà dự án đem lại là duy nhất. Lao động đòi hỏi kĩ năng chuyên môn cao, nhiệm vụ không lặp lại… Thứ năm: Môi trường hoạt động “va cham”. Quan hệ giữa các dự án là quan hệ chia nhau cùng một nguồn lực khan hiếm của một tổ chưc. Dự án cạnh tranh lẫn nhau và với các bộ phận chức năng khác cùng một nguồn lực khan hiếm của một tổ chức như tiền vốn, nhân lực, thiết bị… Một số trường hợp, các thành viên quản lý dự án thường có “hai thủ trưởng” trong cùng một thời gian nên gặp khó khăn không biết thực hiện theo quyết định nào của cấp trên khi hai lện mâu thuẫn. Thứ sáu: Tính bất định và rủi ro cao. Hầu hết các dự án đòi hỏi lượng tiền vốn, vật tư và lao động rất lớn để thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Mặt khác, thời gian đầu tư và vận hành kéo dài nên các dự án đầu tư phát triển thường có độ rủi ro cao. I.3.1.4> Các hình thức tổ chức quản lý thực hiện dự án Theo từng điều kiện cụ thể của dự án các chủ đầu tư có thể lựa chọn các hình thức quản lý dự án sau: - Chủ đầu tư trực tiếp thực hiện dự án: Chủ đầu tư tổ chức tuyển chọn và trực tiếp kí hợp đồng với một hoặc nhiều tổ chức tư vấn thực hiện công tác khảo sát, thiết kế công trình, soạn thảo hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu. Sau khi chủ đầu tư ký hợp đồng với nhà thầu xây lắp, nhiệm vụ giám sát, quản lý thi công bảo đảm tiến độ và chất lượng công trình vẫn do tổ chức tư vấn đã lựa chọn đảm nhận. - Chủ nhiệm điều hành dự án: Chủ đầu tư tổ chức tuyển chọn và trình cấp thẩm quyền quyết định tổ chức tư vấn thay mình làm chủ nhiệm điều hành dự án chịu trách nhiệm giao dịch, ký kết hợp đồng với các tổ chức khảo sát thiết kế, cung ứng vật tư, thiết bị xây lắp để thực hiện các nhiệm vụ của quá trình thực hiện dự án đồng thời chịu trách nhiệm giám sát quản lý toàn bộ quá trình thực hiện dự án. Hình thức chủ nhiệm điều hành dự án chỉ được áp dụng đối với các dự án có qui mô lớn, kỹ thuật phức tạp và thời hạn xây dựng dài. - Chìa khoá trao tay: Chủ đầu tư tổ chức thực hiện đấu thầu dự án để chọn một nhà thầu (tổng thầu xây dựng) thực hiện toàn bộ khâu: thiết kế, mua vật tư thiết bị, xây lắp… Chủ đầu tư chỉ trình duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, nghiệm thu và bàn giao khu dự án hoàn thành đưa vào sử dụng. Tổng thầu xây dựng có thể giao thầu lại việc giám sát, thiết kế , mua sắm máy móc hoặc một phần khối lượng công tác xây lắp cho nhà thầu phụ. Hình thức này áp dụng trong việc xây dựng các công trình nhà ở, công trình dân dụng và công trình sản xuất-kinh doanh có qui mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản. - Tự làm. Chủ đầu tư sử dụng lực lượng được phép hành nghề xây dựng của mình để thực hiện khối lượng xây lắp tự làm. Hình thức này chỉ áp dụng với những công trình sửa chữa, cải tạo qui mô nhỏ, công trình chuyên ngành đặc biệt (xây dựng nông, lâm nghiệp và các công trình tự đâù tư xây dựng cơ sở vật chất của các doanh nghiệp xây dựng) I.3.2> Hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng I.3.2.1> Khái niệm và phân loại hiệu quả đầu tư xây dựng * Trong cuộc sống người ta luôn cân nhắc đến hiệu quả của hành động của mình để từ đó ra quyết định có nên thực hiện hay không. Do đó trong việc đầu tư xây dựng một lĩnh vực khi thực hiện có liên quan đến khối lượng vật chất lớn, cần sử dụng đến rất nhiều nguồn lực thì việc xem xét hiệu quả không thể thiếu và ta cần phải hiểu rõ để có một quyết định đúng. Vậy, hiệu quả đầu tư xây dựng là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế xã hội đạt đựơc của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kỳ nhất định. Như vậy khi xét hiệu quả đầu tư ta phải xem xét một cách toàn diện. Không chỉ dựa trên hiệu quả kinh tế của dự án mà phải dựa trên cả hiệu quả xã hội mà dự án đem lại. * Để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý và nghiên cứu các nhà kinh tế đã phân loại hiệu quả đầu tư theo các tiêu thức sau: Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội có hiệu quả kinh tế, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả xã hội, hiệu quả quốc phòng. Theo phạm vi tác dụng của hiệu quả đầu tư của từng dự án, từng doanh nghiệp, từng ngành , địa phương và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Theo phạm vi lợi ích có hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu quả tài chính hay được gọi là hiệu quả hạch toán kinh tế là hiệu quả kinh tế được xem xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế-xã hội của hoạt động đầu tư là hiệu quả tổng hợp được xem xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Theo mức độ phát sinh trực tiếp hay gián tiếp có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp. Theo cách tính toán có hiệu quả tuyệt đối và tương đối. Hiệu quả tuyệt đối được tính bằng hiệu sô giữa kết quả và chi phí, hiệu quả tương đối được tính bằng tỷ số giữa kết quả và chi phí. Trong bài viết này cách phân loại được em sử dụng đó là phân loại hiệu quả dự án theo phạn vi lợi ích bao gồm: Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hôi. I.3.2.2> Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư I.3.2.2.1> Khái niệm Hiệu quả tài chính (Etc) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong cơ sở các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ trên cơ số vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác, các cơ sở káhc hoặc so với định mức chung. Chúng ra có thể biểu diễn khái niệm này qua công thức sau đây: Etc = Các kết quả mà cơ sở thu được do thực hiện đầu tư Số vốn đầu tư mà cơ sở đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên Etc được coi là có hiệu quả khi Etc > Etc0 Trong đó: Etc0 là chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của kỳ khác mà cơ sở đã đạt được được chọn làm kết quả so sánh, hoặc của đơn vị khác đạt tiêu chuẩn hiệu quả. Do đó, để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư người ta phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và được sử dụng trong điều kiện nhất định. Trong đó, chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền được sử dụng rộng rãi nhất. I.3.2.2.2> Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư * Thời gian thu hồi vốn đầu tư (ký hiệu T): là số thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chính là khoảng thời gian để hoàn trả vốn đầu tư ban đầu bằng các khoản lợi nhuận hoặc tổng lợi nhuận thuần khấu hao thu hồi hàng năm. * Giá trị hiện tại ròng (kí hiệu NPV): là thu nhập thuần của dự án sau khi đã trừ đi các khoản chi phí của cả đời dự án được tính về mặt bằng hiện tại. * Suất thu hồi vốn nội bộ (Kí hiệu IRR): là mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng hiện tại thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi. * Chỉ tiêu tỷ số lợi ích – chi phí (kí hiệu B/C): được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích và chi phí. Chỉ tiêu này có thể được tính về thời điểm hiện tại hoặc tương lai. Việc quy về thời điểm tương lai để tính chỉ tiêu này ít được sử dụng. Chỉ tiêu này ít được sử dụng hơn chỉ tiêu NPV, thường được sử dụng để phân tích trong các dự án công cộng. Bảng số 1: Các chỉ tiêu phân tích tài chính của dự án đầu tư Tên chỉ tiêu Công thức tính Giải thích kí hiệu Nguyên tắc chọn Thời hạn thu hồi vốn đầu tư - Tth = V/P - Tth = V/(P+KHCB) Rt: suất thu hồi ròng tại năm t. Ct: vốn đầu tư tại năm t. i: lãi suất chiết khấu. t: năm thứ t. T: thời gian hoàn vốn nội bộ. Thời gian thu hồi vốn nhỏ nhất Giá trị hiện tại ròng NPV Bi: doanh thu năm t. Ct: chi phí bỏ ra ở năm t. i: lãi suất chiết khấu. t: năm thứ t. n: tuổi thọ dự án. - NPV>0: dự án có lời, có thể đầu tư. - NPV=0: dự án chỉ hoà vốn. - NPV<0: dự án bị lỗ. Suất thu hồi vốn nội bộ IRR IRR là lãi suất chiết khấu mà ứng với nó giá trị hiện tại ròng NPV=0 r: suất thu lưọi nhuận tối thiểu Một phương án được coi là có hiệu quả khi IRR>= r Tỷ số lợi ích trên chi phí (B/C) B/C>1: dự án có thu nhập lớn hơn chi phí. B/C=1: thu nhập vừa đủ bù chi phí. B/c<1: dự án bị lỗ (Nguồn: Ths Từ Quang Phương, 2001,NXB Giáo dục, Quản lý dự án) I.3.2.3> Hiệu qủa kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư I.3.2.3.1> Khái niệm Trong điều kiện nền kinh tế thị trương có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động đầu tư phải đựơc xem xét từ hai góc độ, người đầu tư và nhà kinh tế. Trên góc độ người đầu tư là các doanh nghiệp, mục đích cụ thể có nhiều, nhưng quy tụ lại là lợi nhuận. Khả năng sinh lợi của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Khả năng sinh lời càng cao thì càng hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên không phải mọi hoạt động đầu tư có khả năng sinh lời đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đẹp đối với nền kinh tế và xã hội. Do đó, trên góc độ quản lý vĩ mô phải xem xét mặt kinh tế - xã hội của đầu tư, xem xét những lợi ích kinh tế - xã hội do thực hiện đầu tư đem lai. Điều này giữ vai trò quyết định để được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư, các định chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho hoạt động đầu tư. Vậy hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế- xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và xã hội phải bỏ ra để thực hiện đầu tư. Những lợi ích mà xã hội thu được là sự đáp ứng của đầu tư với việc thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những sự đáp ứng này có thể được xem xét mang tính chất định tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước, góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh…, hoặc đo lường bằng các tính toán định lượng như mức tăng thu cho ngân sách, mức tăng số người có việc làm… Chi phí của xã hội phải gánh chịu khi một công cuộc đầu tư được thực hiện bao gồm toàn bộ các tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động mà xã hội dành cho đầu tư thay vì sử dụng vào công việc khác trong tương lai không xa. I.3.2.3.2> Các tiêu chuẩn đánh giá Đối với mọi quốc gia, mục tiêu chủ yếu của nền sản xuất xã hội là tối đã hoá phúc lợi. Mục tiêu này thường được thể hiện qua các chủ trương chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Các hế hoạch dài hạn để ra phương hướng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược trong thời gian dài (từ 10 năm trở lên). Các kế hoạch trung hạn nêu lên các bước đi tương đối cụ thể trong thời gian từ 5 đến 10 năm. Các kế hoạch hay chương trình kinh tế ngắn hạn được đưa ra nhằm điều chỉnh kịp thời các sai lệch cung như bổ sung các khiếm khuyết phát hiện trong quá trình thực hiện kế hoạch. Ở các nước đang phát triển, các mục tiêu chủ yếu được đề cập trong kế hoạch phát triển dài hạn được đo lường băng các tiêu chuẩn sau: * Gia tăng số lao động có việc làm: Đây là một trong những mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các nước thừa lao động, thiếu việc làm. * Nâng cao mức sống dân cư: Được thể hiện gián tiếp thông qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc gia, mức gia tăng thu nhập, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. * Phân phối thu nhập và công bằng xã hội: Thể hiện qua sự đóng góp của công cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển và đẩy mạnh công bằng xã hôi. * Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ: Những nước đang phát triển không chỉ nghèo mà còn là nước nhập siêu. Do đó đẩy mạnh suất khẩu, hạn chế nhập khẩu là những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế tại các quốc gia này. Các mục tiêu kế hoạch kinh tế quốc dân khác bao gồm: * Tận dụng hay khai than tài nguyên chưa đựoc quan tâm hay mới phát hiện được. *Nâng cao năng suất lao động, đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật để hoàn thiện cơ cấu sản xuất của nền kinh tế. * Phát triển các nghành công nghiệp chủ đạo có tác dụng gây phản ứng dây chuyền thúc đẩy phát triển các nghành nghề khác. * Phát triển kinh tế-xã hội ở các địa phương nghèo, các vùng xa xôi, dân cư thưa thớt nhưng có nhiều triển vọng về tài nguyên để phát triển kinh tế. I.3.3> Một số kinh nghiệm trên thế giới trong việc đánh giá hiệu quả dự án đầu tư xây dựng khu đô thị mới: Trong thời gian qua chúng ta đã có rất nhiều cố gắng để hoàn thiện công tác đánh giá hiệu quả dự án nhằm có thể xác định được chính xác và khách quan đảm bảo lợi ích cá nhân và công bằng xã hội. Tuy nhiên để chúng ta cũng còn rất nhiều điều cần phải học hỏi thêm từ kinh nghiệm của các nước phát triển đi truớc. I.3.3.1> Mô hình của nước Pháp: Là một nước có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ và các chính quyền địa phương. Chính Phủ có ban thư kí về đô thị mới (General Secretarial for New Towns) là cơ quan điều phối, nhằm tập hợp các nhà chính trị và kinh tế thuộc nhiều ban của Chính Phủ trong việc chỉ đạo thực hiện các dự án đô thi mới. Ban là đầu mối giữa chính quyền Trung ương, chính quyền địa phương và công ty xây dựng công cộng có trách nhiệm xem xét hiệu quả các dự án và quyết định dự án có phù hợp và đem lai hiệu quả cần thiết để triển khai thực hiện hay không. Còn hội đồng liên tỉnh về phát triển đô thị (Internunicipal Development District) là cơ quan quản lý việc cấp phép xây dựng các công trình. Theo mô hình này,việc tách rời 2 khâu xem xét hiệu quả các công trình và cấp phép xây dựng cho các công trình xẽ làm cho 2 khâu này được khách quan, chính xác hơn và đều do nhà nước quản lý sẽ đảm bảo lợi ích xã hội. I.3.3.2> Mô hình của Hàn Quốc Thực hiện việc xây dựng đô thị mới trên cơ sở phối hợp giữa Chính phủ và khu vực tư nhân. Cơ quan xây dựng hạ tầng đô thị mới là công ty phát triển đất Hàn Quố._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32576.doc
Tài liệu liên quan