Đề tài Ảnh hưởng của một số nhân tố dinh dưỡng đến khả năng sinh trưởng phát triển hệ sợi của giống nấm sò Pleurotus ostreatus

PHẦN I. MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề an toàn thực phẩm, sức khỏe và bảo vệ môi trường luôn được coi trọng ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Để giải quyết vấn đề thực phẩm sạch và giàu dinh dưỡng, việc tăng cường sử dụng nấm ăn trong khẩu phần ăn hàng ngày của con người đang là một giải pháp hữu hiệu. Sản phẩm nấm ăn đặc biệt tốt với sức khoẻ người sử dụng, an toàn và chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho con người. Đặc biệt, nghề nuôi trồng nấm đã mang lại hiệu quả k

docx28 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của một số nhân tố dinh dưỡng đến khả năng sinh trưởng phát triển hệ sợi của giống nấm sò Pleurotus ostreatus, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế cao cho người lao động, tận dụng lao động phổ thông lúc nông nhàn, sử dụng nguồn phế phụ phẩm nông lâm nghiệp góp phần bảo vệ môi trường sống, phế liệu sau nuôi trồng nấm có khả năng tái tạo đất, làm phân bón rất tốt cho cây trồng [4]. Một trong những nấm ăn đã được nuôi trồng ở nhiều nước trên thế giới từ lâu là nấm sò(Pleurotus ostreatus). Nấm sò chứa nhiều protein, vitamin và các axit amin có nguồn gốc thực vật, để hấp thụ cho cơ thể con người. Đặc biệt với hàm lượng protein chiếm tới 33-43%. Nấm sò hoàn toàn có thể thay thế lượng đạm từ thịt, cá có nguồn gốc từ động vật. Do đó, nấm sò còn được gọi là thịt chay hay thịt sạch khi được sử dụng như nguồn cung cấp protein chủ yếu qua các bữa ăn. Ở Việt Nam, nghề nuôi trồng nấm sò đã chứng minh được hiệu quả trong thực tiễn. Hiện nay, nghề nuôi trồng nấm cũng đã được các Sở Nông nghiệp, Trung tâm ứng dụng khoa học và công nghệ của các tỉnh như Thái Nguyên, Nam Định, Hải Phòng, Hưng Yên, Quảng Ninh, Lào Cai, Tuyên Quang, Phú Thọ, một số tỉnh phía nam chú trọng phát triển, phổ biến và nhân rộng cho người dân từ khoảng 15 năm trở lại đây [3], [15]. Tuy nhiên, một trong những công việc mà người nuôi trồng nấm sò hiện nay chưa chủ động thực hiện được hoặc thực hiện chưa hiệu quả là công tác nhân giống nấm. Vì vậy, để góp phần thuận lợi cho công tác nhân giống nấm sò cấp I tại Phòng thí nghiệm Công nghệ Sinh học, Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại học Hùng Vương, đề tài: “Ảnh hưởng của một số nhân tố dinh dưỡng đến khả năng sinh trưởng phát triển hệ sợi của giống nấm sò Pleurotus ostreatus” đã được lựa chọn thực hiện. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Xác định được ảnh hưởng của một số nhân tố dinh dưỡng như nguồn cacbon, nguồn nitơ và nguồn khoáng đến khả năng sinh trưởng phát triển hệ sợi của giống nấm sò P. ostreatus trong điều kiện hiện tại của PTN Công nghệ Sinh học, Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại học Hùng Vương, từ đó lựa chọn được điều kiện dinh dưỡng thích hợp nhất sử dụng trong nhân giống nấm sò cấp I. 1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo có giá trị khoa học trong việc thực hiện nhân giống nấm sò cấp I bằng hệ sợi, giúp cho người dân và các cơ sở sản xuất có nhu cầu sản xuất giống nấm sò cấp I có được các căn cứ khoa học để thực hiện công tác nhân giống nấm sò cấp I tại cơ sở đạt hiệu quả cao. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cung cấp chủ động nguồn giống nấm sò cấp I phục vụ cho việc nhân giống nấm sò cấp II và cấp III, từ đó cung cấp chủ động nguồn giống trong nuôi trồng nấm sò đại trà. PHẦN II. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Sơ lược về nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu và nấm sò 2.1.1. Nghiên cứu nghề nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu và nấm sò trên thế giới Từ xa xưa, con người đã biết dùng nấm làm thức ăn và làm thuốc. Từ thời hoàng đế La Mã cổ đại, nấm đã được sử dụng trong các buổi yến tiệc của nhà vua. Ở Châu Âu việc nuôi trồng nấm ăn đã được mô tả từ thế kỷ thứ III. Nấm phần lớn có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng trong đời sống, cũng như trong nền kinh tế và trong nghiên cứu khoa học. Trên thế giới đã xác định được gần 2000 loài nấm ăn và nấm dược liệu. Trong số đó, trên 80 loài nấm đã được nghiên cứu công nghệ nuôi trồng nhân tạo. Nấm sò (P. ostreatus) là một loài nấm ăn được trồng lần đầu ở Đức để ăn trong thế chiến lần thứ nhất. Năm 1970, nấm sò mới được nuôi trồng đại trà phổ biến trên thế giới. Cho đến nay, nghề nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu đã lan rộng sang nhiều nước và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đóng góp tỷ lệ không nhỏ vào nền kinh tế của các nước như: Mỹ, Pháp,... đặc biệt là các nước khu vực Bắc Mỹ và Châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Ấn Độ... Ngày nay, nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... đã tự động hoá hầu hết các khâu trong sản xuất nấm và sản phẩm nấm tạo ra được xuất khẩu ra các nước khác trên thế giới hàng triệu tấn nấm mỗi năm như nấm hương, nấm linh chi, nấm mỡ, nấm bào ngư (nấm sò)... Thông thường nấm xuất khẩu được bảo quản tươi, hoặc ở dạng sản phẩm chế biến hoặc bào chế thành trà và các loại thuốc quý... đã mang về một nguồn ngoại tệ khổng lồ cho các nước này. Nấm sò mọc trên các thân cây khô hoặc suy yếu tạo thành những tai nấm xen kẽ nhau như hình bậc thang. Nấm sò được xem là một nấm dược liệu do nó có chứa các hoạt chất sinh học như lovastatin có tác dụng giảm cholesterol. Ngoài ra, đã có một số đề tài nghiên cứu về khả năng chống ung thư của nấm sò do có sự hiện diện của lovastatin trong tai nấm, tập trung ở phiến nấm và đặc biệt ở bào tử nấm. Nấm sò có hương thơm của hồi do sự hiện diện của benzaldehyde. Nấm sò là một trong những loài nấm hoang dã có thể nuôi trồng dễ dàng trên rơm rạ và các loại vật liệu khác. Trong số các loài nấm ăn, nấm sò được nuôi trồng phổ biến, rộng rãi, sớm nhất và thường có nhiều loại. Chúng thường mọc hoang trên thân gỗ, mọc đơn độc hay mọc chồng lên nhau và nhiều loại khác nhau về màu sắc, hình dạng, khả năng thích nghi với các điều kiện nhiệt độ, ít bệnh và rất dễ trồng. Nấm có dạng phễu lệch, mọc đơn lẻ hay mọc thành cụm tập trung, bao gồm 3 phần: mũ, phiến, cuống. 2.1.2. Nghiên cứu nghề nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu và nấm sò ở Việt Nam Ở Việt Nam từ xưa nhân dân ta đã biết thu hái nấm tự nhiên như mộc nhĩ, nấm hương, để làm thức ăn. Tuy nhiên mãi đến năm 1970 việc nghiên cứu và phát triển sản xuất nấm ăn mới bắt đầu được thực hiện. Hơn 10 năm trở lại đây nghề trồng nấm mới được phổ biến ở các vùng nông thôn và được xem là nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao. Một số tỉnh miền bắc như Nam Định, Hà Nam, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nội, Bắc Giang, Thái Nguyên, đã có nhiều trang trại sản xuất và chế biến nhiều nơi hình thành hợp tác xã nấm, sản phẩm nấm tiêu thụ và xuất khẩu đều có giá trị kinh tế cao [12], [14]. Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía Bắc, việc sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu được phát triển từ năm 2000 trở lại đây, nhất là sau khi triển khai dự án “Xây dựng mô hình sản xuất nấm hàng hóa” thuộc “Chương trình nông thôn miềm núi giai đoạn 2005-2010”, trong đó Bộ Khoa học và Công nghệ đầu tư với tổng kinh phí 4 tỷ đồng cho giai đoạn 2005-2007 [12]. Thực hiện chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, Bắc Giang đã xây dựng “Đề án phát triển sản xuất nấm giai đoạn 2007-2010” với tổng kinh phí hơn 43,7 tỷ đồng , trong đó ngân sách tỉnh hỗ trợ 6 tỷ đồng, còn lại là vốn đối ứng của nhân dân. Riêng trong năm 2007, ngân sách tỉnh hỗ trợ các địa phương trong vùng quy hoạch 1,35 tỷ đồng xây dựng 30 lán trại, 2 cơ sở chế biến nấm, đồng thời hỗ trợ giống cho hơn 1500 tấn nguyên liệu. Đây là đề án có quy mô, mức hỗ trợ lớn nhất từ trước tới nay về phát triển nghề trồng nấm trên địa bàn [6], [7], [15]. Hiện nay, nghề nuôi trồng nấm sò tại Tỉnh Phú Phọ đang được phát triển mạnh. Đặc biệt năm 2011 tại xã Đồng Cam - huyện Cẩm Khê - Tỉnh Phú Thọ đã thành lập nên hợp tác xã nuôi trồng nấm với quy mô lớn. Theo chủ nhiệm hợp tác xã cho biết với diện tích hơn 2000 m2 quy hoạch nuôi trồng nấm sò và nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương rất thuận lợi cho nuôi trồng nấm sò, trung bình mỗi tấn nguyên liệu cho thu từ 7-8 tạ nấm tươi cho thu nhập từ 20-25 triệu đồng. Đây là hướng phát triển mang lại hiệu quả kép. Không những tận dụng được nguồn phế thải lớn từ nông nghiệp như rơm rạ, mùn cưa mà còn tạo ra một nguồn thực phẩm sạch, giàu dinh dưỡng, mang lại lợi ích kinh tế cao, giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hiện nay việc phát triển sản xuất nấm ở Việt Nam nói riêng, trên thế giới nói chung đã và đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, đem lại nhiều lợi nhuận cho người sản xuất, đồng thời giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. 2.2. Giá trị dinh dưỡng và giá trị dược liệu của nấm sò P. ostrearus 2.2.1. Giá trị dinh dưỡng Nấm ăn là nguồn thực phẩm quý, vừa thơm ngon vừa có giá trị dinh dưỡng cao, hàm lượng protein trong nấm nhiều hơn trong sữa, chiếm 8,41-47,42% trọng lượng khô với nhiều axit amin quan trọng, trong đó có 25-35% là axit amin tự do. Protein của nấm không giống protein của động vật, nó không gây sơ cứng động mạch và không làm tăng cholesterol trong máu [9]. Bảng 2.1. Giá trị dinh dưỡng của một số nấm ăn phổ biến và nấm sò so với trứng gà (Tỷ lệ % so với chất khô) [15] Thành phần/ sản phẩm Độ ẩm (W) Protêin Lipit Hydratcacbon Tro Calo Trứng 72 13 11 1 0 156 Nấm mỡ 89 24 8 60 8 381 Nấm hương 92 13 5 78 7 392 Nấm sò 91 30 2 58 9 345 Nấm rơm 90 21 10 59 11 369 Bảng 2.2. Hàm lượng vitamin và chất khoáng của một số nấm ăn phổ biến và nấm sò so với trứng gà (mg/100g khô) [15] Thành phần/ sản phẩm Axit nicotinic Rboflavin Thiamin Axit ascobic Iron Canxi Phos-phorus Trứng 0,1 0,31 0,4 0 2,5 50 210 Nấm mỡ 42,5 3,7 8,9 26,5 8,8 71 912 Nấm hương 54,9 4,9 7,8 0 4,5 12 171 Nấm sò 108,7 4,7 4,8 0 15,2 33 1348 Nấm rơm 91,9 3,3 1,2 20,2 17,2 71 677 Bên cạnh đó nấm ăn còn chứa nhiều vitamin, axit amin, chất xơ, chất khoáng, không chứa chất béo, hàm lượng calo thấp. Ngoài các chất dinh dưỡng, một số loài nấm còn chứa hàng loạt các chất thơm có hoạt tính sinh học, chính các chất này đã tạo nên hương vị đặc biệt của nấm, làm cho chúng không chỉ là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, mà còn trở thành loại gia vị không thể thiếu trong nghệ thuật ẩm thực [15], [12]. Do đặc tính sinh học, các chất dinh dưỡng và vi chất có lợi cho sức khỏe con người dễ dàng được chuyển hóa thành năng lượng cho cơ thể, phù hợp với các giải pháp “ăn kiêng” dành cho các bệnh nhân tiểu đường, gút, mỡ máu cũng như người có thói quen ăn chay. Đối với người suy nhược cơ thể, các món ăn chế biến từ nấm giúp phục hồi sinh lực nhanh chóng. Việc chế biến các món ăn cũng không đòi hỏi cầu kì mà vẫn rất ngon miệng như nấu cháo, xào, nấu canh, luộc vừa có tác dụng bổ dưỡng, vừa có tác dụng trị bệnh. Cũng trong một bữa ăn gia đình, nấm sò có thể xuất hiện trong nhiều món khác nhau mà không gây nhàm chán về khẩu vị, phù hợp với mọi người trong gia đình. 2.2.2. Giá trị dược liệu Trước đây nhiều người còn nghi ngờ về khả năng chữa bệnh của nấm vì sợ độc tính và các chất gây chết người của các loài nấm độc, nhưng gần đây với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại người ta đã chứng minh được tác dụng thần kì của các loài nấm dược liệu. Nấm Linh Chi nổi tiếng và được biết đến với nhiều tác dụng chữ bệnh trong y học như: tăng cường khả năng miễn dịch, ngăn ngừa các bệnh tim mạch, hô hấp, các bệnh cao huyết áp, suy nhược thần kinh. Linh Chi cũng hỗ trợ trong việc điều trị ung thư, thấp khớp, đau thận, đau dạ dày, tiểu đường[12]. Những người dùng Linh Chi sẽ chống được lão hóa, kéo dài tuổi thọ, tăng trí nhớ, ngăn ngừa và chống khối u [8]. Nấm hương chứa chất Lentinan có tác dụng nâng cao tính miễn dịch của cơ thể, chống ung thư không chỉ trong tế bào chủ phát sinh mà còn là chất ức chế những phát sinh ung thư gây nên do virut [6], [7]. Gần đây người ta còn phát hiện được một loại glycoprotein chiết từ nấm hương có hiệu quả chống virut HIV còn mạnh hơn cả thuốc AZT [11]. Ngoài ra nấm hương còn có tác dụng chống đông máu, bảo vệ gan, giảm lượng cholesterol trong máu Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã chỉ ra rằng mộc nhĩ có khả năng chữa các bệnh như bướu cổ, máu xấu, nóng trong, tóc bạc sớm, có tác dụng chống ung thư tới 42% [12]. Ngoài ba loại nấm điển hình trên còn có nhiều loại nấm có tính dược liệu cao như nấm đầu khỉ, đông trùng hạ thảo, nấm đồng tiền, nấm búp, nấm sò Trong y học, các nhà khoa học đã phân tích thành phần có trong nấm sò tươi : Protein 4%, gluxit 3,4%, vitamin C, vitamin PP, axit fotoric, các axit béo không no Khi nấm sò dưới dạng sinh khối khô, hàm lượng protein chiếm tới 33–43%, ngoài ra còn thấy các axit amin như glutamic, valin, isoluxin Các nghiên cứu khác có tác dụng làm giảm thiểu đối với cholesterol và đường máu cho kết quả khả quan. Đối với Đông y, nấm sò có vị ngọt, tính ấm, công năng tán hàn và thư cân Nấm sò còn có nhiều đặc tính của biệt dược: Có khả năng phòng và chữa các bệnh như làm hạ huyết áp, chống béo phì, chữa bệnh đường ruột, tẩy máu xấu, hỗ trợ người bị bệnh gút trong chế độ dinh dưỡng. Đặc biệt là đã có một số công trình nghiên cứu còn cho rằng nấm sò có khả năng chống bệnh ung thư. Tác dụng chống ung thư của nấm sò do sự hiện diện của lovastatin trong tai nấm, tập trung ở phiến nấm và ở bào tử nấm, hạ huyết áp, làm tan cholesterol trong máu kể cả ở dạng kết tinh, có khả năng giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Bên cạnh đó, chất Pleurotin trong nấm sò có khả năng ức chế vi khuẩn gây bệnh Gram âm và Gram dương, ức chế sự phát triển của tế bào khối u... [2], [9]. 2.3. Phân loại và đặc điểm sinh học của hệ nấm sò P. ostreatus 2.3.1. Phân loại học Nấm sò trắng tên khoa học là Pleurotus ostreatus hay còn gọi là nấm bào ngư, về mặt phân loại học thuộc: Họ : Pleurotaceae Bộ : Agaricales Lớp phụ : Hymenomycetidae Lớp : Holobasidiomycetes Ngành phụ : Basidiomycotina Ngành : Nấm thật (Eumycota) [1] Giới : Nấm (Mycota hay Fungi) [1], [4] 2.3.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của hệ nấm sò P. ostreatus Hệ sợi nấm gồm hệ sợi nguyên có vách ngăn và sợi cứng không vách ngăn ngang, màng dày, đường kính sợi khoảng 3,5-6,5 nm [13]. Quả thể vừa hoặc lớn, mũ nấm có đường kính khoảng 5-21 cm, khi nhiệt độ cao mũ nấm có màu gần trắng, khi nhiệt độ thấp mũ nấm có màu tro hay màu nâu tro. Phiến nấm màu trắng, xếp khít nhau, men dài xuống cuống và có thể dính lại thành dạng phân nhánh. Cuống nấm màu trắng, có khi có sắc thái nâu nhạt [8]. Khi nuôi ở nhiệt độ thích hợp và thoáng khí, cuống nấm ngắn, khi gặp điều kiện lạnh và kém thoáng khí, cuống nấm dài, phần gốc có phủ lông ngắn hay mọc dính liền với các cuống khác, kích thước 1-3 x 2-3 cm. Thịt nấm màu trắng, lúc đầu mềm, sau đó khi già sẽ hơi dai. Khi phơi khô có mùi rơm. Bào tử hình elip dài, không màu, kích thước 3-4,5 x 7-9 nm. 2.4. Đặc điểm nuôi cấy và nhân giống nấm sò P. ostreatus Nấm sò mọc tốt trên môi trường giàu xenlullo, ưa lạnh hoặc ưa ấm, sợi nấm sinh trưởng mạnh ở nhiệt độ tối ưu 20-25oC, ở giai đoạn ra quả thể nhiệt độ thích hợp từ 17-20oC. Nuôi trồng nấm sò thích hợp nhất ở điều kiện độ ẩm môi trường nguyên liệu nuôi cấy 60-65%, độ ẩm không khí khi nuôi sợi 70-80%, khi ra quả thể cần độ ẩm 85-95%, pH 5,0-7,5 và cần có độ thông thoáng trong nhà nuôi do nấm sò là hiếu khí, ánh sáng 200-1000 lux [5,6]. Trong kỹ thuật nhân giống nấm sò được chia ra giống nấm cấp I, cấp II và giống nấm cấp III. Giống nấm cấp I là giống mới được tách từ giống ban đầu, được nhân trên môi trường thạch trong ống nghiệm hoặc đĩa petri. Giống nấm cấp II là giống được tiếp tục nhân lên từ giống nấm cấp I, thường được nhân trên môi trường sử dụng nguyên liệu hạt hoặc phế phụ phẩm nông nghiệp. Giống nấm cấp I, II thường được lưu giữ trong phòng nhân giống của các cơ sở nhân giống nấm để làm nguồn giống chủ động và do người có kỹ thuật phụ trách. Giống nấm cấp III là giống được cấy chuyển tiếp từ giống nấm cấp II trên môi trường tương tự về nguồn nguyên liệu nhằm cung cấp giống nấm cho thị trường và người dân nuôi trồng sản xuất nấm phục vụ cho việc nuôi trồng nấm đại trà. Trong nhân giống nấm sò, hai phương pháp thường được sử dụng là phương pháp nhân giống bằng hệ sợi và nhân giống dịch thể. Mỗi phương pháp có ưu nhược điểm riêng. Tuy nhiên phương pháp nhân giống nấm sò bằng hệ sợi được sử dụng phổ biến hơn cả do có ưu điểm nuôi cấy đơn giản, phù hợp với các quy mô vừa và nhỏ, chi phí thấp [10]. PHẦN III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG, NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Chủng nấm sò P. ostreatus thuần chủng, quả thể màu trắng được mua tại Trung tâm Công nghệ Sinh học Thực vật - Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 3.2. Phạm vi và nội dung nghiên cứu + Nghiên cứu ảnh hưởng của ba nguồn cacbon là tinh bột, saccaroza, maltoza đến khả năng sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm sò P. ostreatus. + Nghiên cứu ảnh hưởng của ba nguồn nitơ là pepton, (NH4)2SO4, NaNO3 đến khả năng sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm sò P. ostreatus. + Nghiên cứu ảnh hưởng của ba nguồn khoáng là CaCl2, FeSO4, MgCl2 đến khả năng sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm sò P. ostreatus. Lựa chọn ra nguồn dinh dưỡng phù hợp nhất sử dụng trong nhân giống nấm sò cấp I. 3.3. Nguyên vật liệu sử dụng trong nghiên cứu Nguyên vật liệu: Khoai tây, giá đỗ. Hóa chất sử dụng: Glucoza, tinh bột, maltoza, saccaroza, cồn 70-95 độ, pepton, (NH4)2SO4, NaNO3, CaCl2, FeSO4, MgCl2, cao nấm men, thạch(Agar). Thiết bị: Tủ ấm, tủ lạnh, tủ sấy, nồi thanh trùng, box cấy, lò vi sóng, máy đo pH. Dụng cụ: Bình tam giác, ống nghiệm, đĩa petri, que cấy, ống đong, cốc đong, cân điện, bếp điện và các dụng cụ thông thường khác. 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp giữ giống trên môi trường đối chứng Môi trường đối chứng(môi trường chuẩn nhân và môi trường giữ giống nấm sò) gồm các thành phần(g/l): + Khoai tây: 250 + Glucoza : 20 + Thạch : 20 Khoai tây rửa sạch, gọt vỏ, cắt nhỏ, đun sôi trong nước sau 30 phút lọc qua vải màn, bổ sung nước và các thành phần khác của môi trường đủ 1 lít, khuấy tan thạch, đun sôi, phân môi trường vào các ống nghiệm, bình tam giác và đĩa petri. Môi trường được khử trùng ở 0,8 atm trong 30 phút. Để môi trường nguội, cấy chuyển giống và nuôi giữ giống cấp I ở điều kiện 25oC. 3.4.2. Phương pháp xác định ảnh hưởng của nguồn cacbon Sử dụng môi trường nuôi giữ giống cấp I nhưng nguồn glucoza đã được thay thế bằng các nguồn cacbon thí nghiệm là tinh bột, saccaroza, maltoza ở nồng độ 1%, 2%, 3%, 4% và 5%. Phân môi trường vào đĩa petri/ống nghiệm có cùng kích thước, mỗi đĩa 5ml, khử trùng môi trường ở 0,8 atm trong 30 phút, khi môi trường nguội tiến hành cấy 1% giống gốc. Nuôi nấm ở nhiệt độ 25oC, trong vòng một tuần. Sau đó quan sát và đo sự sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm trong 5 ngày liên tiếp, 24 giờ đo 1 lần. 3.4.3. Phương pháp xác định ảnh hưởng của nguồn nitơ Sử dụng môi trường nuôi giữ giống cấp I có bổ sung thêm các nguồn nitơ là pepton, (NH4)2SO4, NaNO3 ở nồng độ 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5%. Phân môi trường vào đĩa petri/ống nghiệm có cùng kích thước, mỗi đĩa 5ml, khử trùng môi trường ở 0,8 atm trong 30 phút, khi môi trường nguội tiến hành cấy 1% giống gốc. Nuôi nấm ở nhiệt độ 25oC, trong vòng một tuần. Sau đó quan sát và đo sự sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm trong 5 ngày liên tiếp, 24 giờ đo 1 lần. 3.4.4. Phương pháp xác định ảnh hưởng của nguồn khoáng Sử dụng môi trường nuôi giữ giống cấp I có bổ sung thêm các nguồn khoáng thí nghiệm là CaCl2, MgCl2, FeSO4 ở nồng độ 0,05%, 0,1%, 0,15%, 0,2% và 0,25%. Phân môi trường vào đĩa petri/ống nghiệm có cùng kích thước, mỗi đĩa 5ml, khử trùng môi trường ở 0,8 atm trong 30 phút, khi môi trường nguội tiến hành cấy 1% giống gốc. Nuôi nấm ở nhiệt độ 25oC, trong vòng một tuần. Sau đó quan sát và đo sự sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm trong 5 ngày liên tiếp, 24 giờ đo 1 lần. 3.4.5. Phương pháp xử lý số liệu Kết quả nghiên cứu thể hiện trong đề tài sử dụng giá trị trung bình của ba lần lặp lại thí nghiệm. Số liệu được xử lý trên máy tính với ứng dụng chương trình Excel. Dùng hàm AVERAGE để tính trung bình và hàm STDEV để phân tích sai số với ba lần lặp lại thí nghiệm. PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Ảnh hưởng của các nguồn cacbon đến sự sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Nguồn cacbon là nhân tố có ý nghĩa hàng đầu đối với sự sống của tất cả vi sinh vi vật nói chung và nấm nói riêng. Trong đó, mỗi loại nấm lại thích hợp nhất với một nguồn cacbon khác nhau và ở một nồng độ nhất định. Để xác định nguồn cacbon phù hợp nhất cho giữ giống và nhân giống nấm chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên nguồn cacbon là tinh bột, sacaroza, maltoza. Nấm P. ostreatus được nuôi cấy trên môi trường chuẩn đã được thay đổi lần lượt chỉ chứa một trong ba nguồn cacbon nói trên ở các nồng độ 1%, 2%, 3%, 4%, 5%. 4.1.1. Ảnh hưởng của nồng độ tinh bột đến sự sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus: Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ tinh bột đến sự sinh trưởng và phát triển hệ sợi nấm P. ostreatus được thể hiện ở bảng 4.1, hình 4.1và ở phụ lục 4.1: Bảng 4.1. Ảnh hưởng của nồng độ tinh bột đến sự sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Tinh bột Ngày Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm (X ±m, mm) MTC 1% 2% 3% 4% 5% 1 23 ± 1 18 ± 1 20 ± 1 23 ± 1 25 ± 1 30 ± 2 2 34 ± 1 27 ± 0 30 ± 1 33 ± 1 35 ± 2 41 ± 2 3 45 ± 1 37 ± 0 41 ± 2 45 ± 2 45 ± 2 53 ± 1 4 57 ± 1 48 ± 2 52 ± 2 58 ± 2 59 ± 2 66 ± 1 5 70 ± 1 59 ± 1 61 ± 2 69 ± 1 70 ± 2 77 ± 2 Hình 4.1. Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus trên môi trường khác nhau Kết quả ở bảng 4.1, hình 4.1 và ở phụ lục 4.1 cho thấy khi nuôi cấy nấm P. ostreatus trên môi trường chứa nguồn tinh bột ở nồng độ khác nhau có ảnh hưởng rõ rệt đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm. Các kết quả cũng cho thấy nồng độ tinh bột càng tăng thì nấm sò phát triển càng mạnh. Ở nồng độ tinh bột 5% nấm sò phát triển mạnh nhất (77 mm), nấm phát triển tốt hơn trên môi trường chuẩn và phát triển kém dần ở nồng độ 4% trở xuống. Ở nồng độ tinh bột 1% phát triển kém nhất (59 mm). Nồng độ 5% hệ sợi dày, bện kết chặt chẽ với nhau và ăn sâu vào cơ chất.Vì vậy, khi nhân giống nấm này có thể thay thế nguồn glucoza bằng nguồn tinh bột từ 4, 5% vào môi trường. 4.1.2. Ảnh hưởng của nồng độ saccaroza đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ saccaroza đến sự sinh trưởng và phát triển hệ sợi nấm P. ostreatus được thể hiện ở bảng 4.2, hình 4.2 và ở phụ lục 4.2: Bảng 4.2. Ảnh hưởng của nồng độ saccaroza đến sự sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Saccaroza Ngày Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm (X ±m, mm) MTC 1% 2% 3% 4% 5% 1 23 ± 1 31 ± 2 32 ± 1 22 ± 1 20 ± 1 21 ± 1 2 34 ± 1 41 ± 1 44 ± 2 32 ± 2 30 ± 2 31 ± 1 3 45 ± 1 52 ± 1 54 ± 2 44 ± 2 41 ± 2 40 ± 1 4 57 ± 1 62 ± 2 65 ± 2 54 ± 2 52 ± 1 50 ± 1 5 70 ± 1 73 ± 2 70 ± 1 65 ± 1 62 ± 2 59 ± 2 Hình 4.2. Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus trên môi trường khác nhau Kết quả ở bảng 4.2, hình 4.2 và ở phụ lục 4.2 cho thấy khi nuôi nấm trên môi trường chứa nồng độ saccaroza khác nhau đã có ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus. Nồng độ saccaroza càng cao thì sợi nấm phát triển càng kém. Sợi nấm P. ostreatus phát triển mạnh nhất trên môi trường chứa saccaroza 1% với (73 mm), tốt hơn môi trường chuẩn (70 mm), ở nồng độ 1% hệ sợi dày, bện kết chặt chẽ với nhau và ăn sâu vào cơ chất. Hệ sợi phát triển kém dần ở nồng độ 5% chỉ còn (59 mm).Vì vậy, khi nhân giống nấm này có thể thay thế bằng nguồn saccaroza 1% vào môi trường. 4.1.3. Ảnh hưởng của nồng độ maltoza đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ maltoza đến sự sinh trưởng và phát triển hệ sơi nấm P. ostreatus được thể hiện trong bảng 4.3, hình 4.3 và ở phụ lục 4.3: Bảng 4.3. Ảnh hưởng của nồng độ maltoza đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Maltoza Ngày Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm (X ±m, mm) MTC 1% 2% 3% 4% 5% 1 23 ± 1 32 ± 2 31 ± 1 23 ± 1 20 ± 1 21 ± 1 2 34 ± 1 42 ± 2 41 ± 1 34 ± 1 32 ± 2 31 ± 1 3 45 ± 1 53 ± 1 52 ± 2 45 ± 1 43 ± 2 44 ± 1 4 57 ± 1 64 ± 2 63 ± 2 55 ± 1 53 ± 1 50 ± 2 5 70 ± 1 74 ± 1 73 ± 2 66 ± 1 65 ± 2 59 ± 2 Hình 4.3. Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus trên môi trường khác nhau Kết quả ở bảng 4.3, hình 4.3 và ở phụ lục 4.3 cho thấy khi nuôi nấm trên môi trường chứa nồng độ maltoza khác nhau đã có ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus. Nồng độ maltoza càng cao thì sợi nấm phát triển càng kém. Sợi nấm P. ostreatus phát triển mạnh nhất trên môi trường chứa maltoza 1% và 2% với (74 mm) và (73 mm), tốt hơn môi trường chuẩn (70 mm), ở nồng độ này hê sợi dày, bện kết chặt chẽ với nhau và ăn sâu vào cơ chất. Hệ sợi nấm phát triển kém dần ở nồng độ 5% chỉ còn (59 mm). Vì vậy, khi nhân giống nấm này có thể thay thế bằng nguồn maltoza 1%, 2% vào môi trường. Qua kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn cacbon gồm: tinh bột, saccaroza, maltoza cho thấy khi sử dụng nguồn tinh bột nồng độ 5% thì hệ sợi của giống nấm sò cấp I có khả năng sinh trưởng phát triển mạnh nhất và đạt (77 mm). Vì vậy, nồng độ tinh bột 5% được lựa chọn là nguồn cacbon sử dụng trong nhân giống nấm sò cấp I. 4.2. Ảnh hưởng của nguồn nitơ đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Nguồn nitơ trong cơ chất có vai trò rất quan trọng quyết định tốc độ phát triển của hệ sợi nấm. Các nguồn nitơ khác nhau ở các nồng độ khác nhau thì có tác động khác nhau đến sự phát triển sợi nấm. Để xác định nguồn nitơ phù hợp nhất cho giữ giống và nhân giống nấm chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên ba nguồn nitơ là pepton, (NH4)2SO4, NaNO3 ở các nồng độ 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4%, 0,5% và thu được kết quả như sau: 4.2.1 Ảnh hưởng của nguồn pepton đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Bảng 4.4 Ảnh hưởng của nồng độ pepton đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Pepton Ngày Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm (X ±m, mm) MTC 0,1% 0,2% 0,3% 0,4% 0,5% 1 23 ± 1 30 ± 1 31 ± 1 22 ± 1 22 ± 1 15 ± 1 2 34 ± 1 41 ± 1 41 ± 1 31 ± 2 30 ± 1 24 ± 2 3 45 ± 1 51 ± 1 52 ± 1 41 ± 1 42 ± 2 35 ± 2 4 57 ± 1 62 ± 1 60 ± 2 52 ± 2 51 ± 2 46 ± 2 5 70 ± 1 72 ± 2 69 ± 1 63 ± 1 61 ± 1 56 ± 2 Hình 4.4. Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus trên môi trường khác nhau Kết quả ở bảng 4.4, hình 4.4 và ở phụ lục 4.4 cho thấy khi nuôi nấm trên môi trường chứa nồng độ pepton khác nhau đã có ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển của sợi nấm P. ostreatus. Nồng độ pepton càng cao thì sợi nấm phát triển càng kém. Sợi nấm P. ostreatus phát triển mạnh nhất trên môi trường chứa pepton 0,1% (72 mm), tốt hơn cả môi trường chuẩn (70 mm), ở nồng độ này hệ sợi dày, bện kết chặt chẽ với nhau và ăn sâu vào cơ chất. Hệ sợi nấm phát triển kém dần ở nồng độ 0,5% chỉ còn (56 mm). Vì vậy, khi nhân giống nấm này có thể thay thế bằng nguồn pepton 0,1% vào môi trường. 4.2.2. Ảnh hưởng của nồng độ (NH4)2SO4 đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Bảng 4.5. Ảnh hưởng của nồng độ (NH4)2SO4 đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus (NH4)2SO4 Ngày Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm (X ±m, mm) MTC 0,1% 0,2% 0,3% 0,4% 0,5% 1 23 ± 1 19 ± 1 28 ± 1 31 ± 1 25 ± 1 22 ± 1 2 34 ± 1 27 ± 2 38 ± 1 42 ± 2 35 ± 1 34 ± 1 3 45 ± 1 37 ± 2 49 ± 2 53 ± 2 47 ± 1 44 ± 2 4 57 ± 1 48 ± 2 59 ± 1 63 ± 1 57 ± 1 55 ± 2 5 70 ± 1 59 ± 1 68 ± 1 75 ± 2 68 ± 1 65 ± 1 Hình 4.5. Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus trên môi trường khác nhau Kết quả ở bảng 4.5, hình 4.5 và ở phụ lục 4.5 cho thấy khi nuôi nấm trên môi trường chứa nồng độ (NH4)2SO4 khác nhau đã có ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus. Sợi nấm P. ostreatus phát triển mạnh nhất trên môi trường chứa (NH4)2SO4 0,3% với (75 mm), tốt hơn môi trường chuẩn (70 mm), ở nồng độ này hệ sợi dày, bện kết chặt chẽ với nhau và ăn sâu vào trong cơ chất. Hệ sợi nấm phát triển kém dần ở nồng độ 0,5% và nồng độ 0,1% chỉ còn (65 mm) và (59 mm). Nồng độ (NH4)2SO4 phát triển ở nồng độ 0,1% là kém nhất. Vì vậy, khi nhân giống nấm này có thể thay thế bằng nguồn (NH4)2SO4 0,3% vào môi trường. 4.2.3 Ảnh hưởng của nồng độ NaNO3 đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Bảng 4.6. Ảnh hưởng của nồng độ NaNO3 đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus NaNO3 Ngày Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm (X ±m, mm) MTC 0,1% 0,2% 0,3% 0,4% 0,5% 1 23 ± 1 25 ± 1 30 ± 1 37 ± 1 41 ± 1 45 ± 2 2 34 ± 1 37 ± 2 41 ± 1 47 ± 1 51 ± 1 46 ± 2 3 45 ± 1 47 ± 2 51 ± 2 58 ± 1 62 ± 2 58 ± 1 4 57 ± 1 58 ± 2 60 ± 1 69 ± 1 72 ± 1 68 ± 1 5 70 ± 1 67 ± 1 70 ± 1 78 ± 1 83 ± 1 79 ± 2 Hình 4.6. Sự sinh trưởng và phát triển của sợi nấm P. ostreatus trên môi trường khác nhau Kết quả ở bảng 4.6, hình 4.6 và ở phụ lục 4.6 cho thấy khi nuôi nấm trên môi trường chứa nồng độ NaNO3 khác nhau đã có ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển của sợi nấm P. ostreatus. Nồng độ NaNO3 càng cao thì sợi nấm phát triển mạnh ở nồng độ 0,2%, 0,3%, 0,4%, 0,5%. Sợi nấm P. ostreatus phát triển mạnh nhất trên môi trường chứa NaNO3 0,4% với (83 mm), tốt hơn môi trường chuẩn (70 mm), ở nồng độ này hệ sợi dày, bện kết chặt chẽ với nhau và ăn sâu vào cơ chất. Hệ sợi nấm phát triển kém dần ở nồng độ 0,1% chỉ còn (67 mm). Vì vậy, khi nhân giống nấm này có thể thay thế bằng nguồn NaNO3 0,4%, 0,5% vào môi trường. Qua kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn nitơ gồm: pepton, (NH4)2SO4, NaNO3 cho thấy khi sử dụng nguồn NaNO3 nồng độ 0,4% thì hệ sợi của giống nấm sò cấp I có khả năng sinh trưởng phát triển mạnh nhất và đạt (78 mm). Vì vậy, nồng độ NaNO3 0,4% được lựa chọn là nguồn nitơ sử dụng trong nhân giống nấm sò cấp I. 4.3. Ảnh hưởng của nguồn khoáng đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Nguồn khoáng trong cơ chất có vai trò rất quan trọng quyết định tốc độ phát triển của hệ sợi nấm. Các nguồn khoáng khác nhau ở các nồng độ khác nhau thì có tác động khác nhau đến sự phát triển sợi nấm. Để xác định nguồn khoáng phù hợp nhất cho giữ giống và nhân giống nấm chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên ba nguồn khoáng là CaCl2, FeSO4, MgCl2 ở các nồng độ 0,05%, 0,1%, 0,15%, 0,2%, 0,25% và thu được kết quả như sau: 4.3.1 Ảnh hưởng của nồng độ CaCl2 đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Kết quả ở bảng 4.7, hình 4.7 và ở phụ lục 4.7 cho thấy khi nuôi nấm trên môi trường chứa nồng độ CaCl2 khác nhau đã có ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển của hệ s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxde_tai_anh_huong_cua_mot_so_nhan_to_dinh_duong_den_kha_nang.docx
Tài liệu liên quan