Giải pháp đảm bảo cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt nam

Tài liệu Giải pháp đảm bảo cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt nam: ... Ebook Giải pháp đảm bảo cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt nam

doc113 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2308 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp đảm bảo cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo hiểm xã hội ở nước ta là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Nhà nước ta đã ban hành chính sách về BHXH. Trong quá trình thực hiện, chế độ chính sách về BHXH không ngừng được bổ sung, sửa đổi để phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi đối với người tham gia BHXH và góp phần ổn định thu nhập cho nhân dân lao động. Quỹ BHXH là một công cụ quan trọng trong chính sách BHXH, nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội cao và là điều kiện, cơ sở vật chất quan trọng để đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Ý nghĩa và vai trò của Quỹ BHXH ngày càng trở nên quan trọng và gắn bó mật thiết với nền kinh tế - xã hội hơn khi đời sống nhân dân ta ngày càng được cải thiện, nhu cầu về an sinh xã hội đang trở thành một trong những vấn đề quan trọng đối với một quốc gia như Việt nam chúng ta. Theo quy định hiện hành, Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của người lao động; người sử dụng lao động; Nhà nước đóng và hỗ trợ; lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng và một số nguồn thu khác. Quỹ BHXH dùng để chi trả các chế độ BHXH cho người được thụ hưởng, chi quản lý hoạt động, chi đầu tư và chi khác. NSNN đảm bảo đủ nguồn chi cho những đối tượng đang hưởng các chế độ BHXH từ 1/1/1995 trở về trước. Quỹ BHXH đảm bảo chi trả cho những người hưởng các chế độ BHXH từ 1/1/1995 trở đi. Trong những năm qua, mặc dù số dư của Quỹ BHXH ngày càng tăng, nhưng nếu đứng trên góc độ quản lý vĩ mô và theo tính toán gia tăng số học, ta có thể thấy rằng Quỹ BHXH đang tiềm ẩn những nguy cơ bị mất cân đối trong dài hạn. Theo số liệu thống kê trong giai đoạn 2000 - 2004, thu BHXH có tỷ lệ tăng bình quân là 20,7%, trong khi tỷ lệ chi BHXH bình quân 5 năm là 38,1%, tăng gấp 1,84 lần so với tỷ lệ tăng thu BHXH; bên cạnh đó là xu hướng tăng chi chế độ BHXH do số người lao động thuộc diện Quỹ BHXH phải đảm bảo nghỉ hưu ngày càng nhiều. Để đảm bảo nguồn kinh phí chi trả chế độ BHXH cho hàng triệu người đang tham gia và hưởng các chế độ BHXH thì việc duy trì ổn định cân đối Quỹ BHXH và tăng số kết dư của Quỹ BHXH là thực sự cần thiết. Việc nghiên cứu đề tài với nội dung "Giải pháp đảm bảo cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt nam" là hết sức cần thiết, làm cơ sở khoa học cho việc tính toán, cân đối Quỹ BHXH; góp phần duy trì và ổn định cân đối dài hạn Quỹ BHXH trong tương lai. 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài. - Hệ thống và làm rõ thêm những vấn đề cơ bản về Quỹ BHXH và cân đối Quỹ BHXH; - Đánh giá thực trạng cân đối Quỹ BHXH ở Việt nam; - Đề xuất những giải pháp, kiến nghị để góp phần đảm bảo ổn định cân đối Quỹ BHXH ở Việt nam. 3. Phạm vi nghiên cứu: Quỹ BHXH có ba Quỹ thành phần là: Quỹ khám chữa bệnh bắt buộc, Quỹ Khám chữa bệnh tự nguyện và Quỹ Hưu trí và tử tuất. Song đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu tính cân đối dài hạn của Quỹ Hưu trí và tử tuất (Quỹ có tính chất dài hạn) trong giai đoạn từ năm 2000 trở về sau. 4. Phương pháp nghiên cứu. Tác giả Luận văn đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, hệ thống, khái quát, đối chiếu và so sánh, thống kê để đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề cần quan tâm. 5. Kết cấu của đề tài. Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương, cụ thể CHƯƠNG I: Các vấn đề cơ bản về đảm bảo cân đối Quỹ BHXH CHƯƠNG II: Thực trạng cân đối Quỹ BHXH ở Việt Nam. CHƯƠNG III: Giải pháp đảm bảo cân đối Quỹ BHXH lâu dài. CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢM BẢO CÂN ĐỐI QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Quỹ Bảo hiểm xã hội : Khái niệm Bảo hiểm xã hội và Quỹ Bảo hiểm xã hội: Đến nay, hầu như chưa có một định nghĩa chính thống về BHXH. Mặc dù gần đây, trong một số tài liệu nghiên cứu về BHXH, các tác giả đã đề cập đến khái niệm này. Đã hơn 100 năm nay, các nước trên thế giới có xu hướng chung là thực hiện hệ thống an sinh xã hội mà trong đó BHXH là một trong các tầng an sinh xã hội chủ yếu và được phân biệt với các nội dung khác trong hệ thống thông qua những đặc trưng cơ bản của BHXH. Trong tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948 có nêu: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH. Quyền đó đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người ...”. Theo Tổ chức lao động thế giới gọi tắt là ILO, BHXH được hiểu là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật, chết; thêm vào đó BHXH bảo vệ việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình. BHXH được định nghĩa như vậy phản ánh tổng quát về mục tiêu, bản chất và chức năng của sự nghiệp này. BHXH có mục đích cuối cùng là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của các cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội với mỗi người. BHXH là một trong những quyền cơ bản của con người trong một xã hội hiện đại và mục tiêu cao cả nhất của nó là vì sự an toàn, phòng tránh được hậu quả về những tổn thất gây ra bởi những rủi ro trong cuộc sống hay trong quá trình lao động. BHXH hướng tới sự phát triển, sự đảm bảo tốt nhất cho con người, góp phần quan trọng vào tạo lập sự ổn định và thịnh vượng của xã hội. Như vậy ta có thể hiểu: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm thông qua sự hình thành và sử dụng một quỹ tài chính độc lập, tập trung do sự đóng góp của người chủ sử dụng lao động và người lao động, nhằm đảm bảo sự an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Để có nguồn lực vật chất bảo đảm hoặc thay thế thu nhập cho người lao động tham gia BHXH khi họ gặp phải rủi ro làm giảm, mất khả năng lao động hoặc chết, nhằm đảm bảo đời sống cơ bản cho bản thân người lao động và gia đình họ cần phải có một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH - đó chính là quỹ BHXH. Như vậy có thể hiểu quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành chủ yếu từ đóng góp của các bên tham gia BHXH (người lao động, chủ sử dụng lao động và Nhà nước), sử dụng để bù đắp, hoặc thay thế thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khoẻ, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết; nhằm đảm bảo mức sống cơ bản cho bản thân người lao động và những người ruột thịt của người lao động trực tiếp phải nuôi dưỡng, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và phát triển kinh tế của đất nước. Đặc điểm của Quỹ bảo hiểm xã hội: Quỹ BHXH có những đặc điểm sau: - Mục đích của Quỹ BHXH là nhằm huy động sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước tạo lập quỹ tài chính để phân phối sử dụng nó bảo đảm bù đắp một phần thu nhập nhất định nào đó cho người lao động khi có những sự cố bảo hiểm xuất hiện như: tai nạn, ốm đau, hưu trí,.... làm giảm hoặc mất hẳn các khoản thu nhập thường xuyên từ lao động nhằm duy trì và ổn định cuộc sống của họ. Điều đó có nghĩa là mục đích của Quỹ BHXH là lấy một phần thu nhập trong thời gian lao động bình thường để dành (bảo hiểm) bảo đảm cho cuộc sống trong những ngày không lao động không có thu nhập. Như vậy, hoạt động của quỹ BHXH không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì phúc lợi, quyền lợi của người lao động, của cả cộng đồng. Phạm vi, đối tượng BHXH là thu nhập của người lao động làm công ăn lương. - Phân phối Quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất không hoàn trả được thể hiện ở chỗ người lao động là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH, đồng thời họ cũng là đối tượng được nhận trợ cấp, được chi trả từ Quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người có khác nhau tùy thuộc vào những biến cố hoặc rủi ro mà họ gặp phải, cũng như mức đóng góp và thời gian đóng BHXH của họ. Tính không hoàn trả được thể hiện ở chỗ, cùng tham gia và đóng góp BHXH nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng cũng có những người được ít lần hơn, thậm chí không được hưởng. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng được hưởng trợ cấp từ Quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện tính chất xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH. - Quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối với Quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, đến lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: Quỹ BHXH là "của để dành" của người lao động phòng khi ốm đau, tai nạn hoặc tuổi già,... Nguồn thu này được đóng góp và tích luỹ lại trong suốt quá trình lao động. Nếu xem xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, Quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể biến động tăng và cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn giá trị và tăng trưởng Quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH. - Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện các chế độ BHXH, người lao động và người sử dụng lao động có thu nhập cao hơn, do đó họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH,... - Quá trình phân phối quỹ BHXH gắn liền chặt chẽ với chức năng kiểm tra giám đốc bằng đồng tiền đối với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ thực hiện chế độ BHXH nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, người sử dụng lao động và ổn định sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. 1.1.2. Nguồn thu của Quỹ BHXH: Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau: - Người lao động đóng góp: Đây là nguồn tài chính quan trọng để hình thành quỹ BHXH, hầu như các nước trên thế giới đều quy định mọi người lao động khi tham gia BHXH đều phải có trách nhiệm đóng góp một phần thu nhập của mình vào quỹ BHXH, đây chính là sự “tiết kiệm bắt buộc” của mọi người lao động khi họ còn có khả năng lao động, còn có thu nhập để bù đắp cho chính mình khi gặp phải rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm tạm thời hoặc chết. - Người sử dụng lao động đóng góp: Các nước trên thế giới đều có quy định mọi người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng góp hình thành quỹ BHXH, để bảo đảm đời sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động được hưởng quyền lợi về BHXH do pháp luật quy định. - Nhà nước với tư cách là chủ sử dụng lao động của mọi người lao động, là người nhận trách nhiệm về tổ chức, đảm bảo toàn bộ đời sống xã hội của một đất nước. Chính vì vậy, trong trường hợp quỹ BHXH không có đủ nguồn lực tài chính để đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ thì nhà nước phải hỗ trợ (hoặc đóng góp theo luật định). - Nguồn lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH: Quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi sẽ tham gia hoạt động đầu tư. Đây là một nguồn vốn trong nước rất quan trọng để tham gia đầu tư, một mặt góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước; mặt khác để bảo toàn quỹ (tránh sự trượt giá) và tăng trưởng quỹ góp phần làm cho nguồn lực của quỹ ngày càng lớn, đảm bảo mọi nhu cầu chi BHXH cho người được hưởng chế độ BHXH. - Các nguồn tài chính khác như: tài trợ, viện trợ... Từ sự tìm hiểu các nguồn hình thành quỹ BHXH, nếu xét trên góc độ phân phối các nguồn lực tài chính của toàn bộ nền kinh tế thì thấy rằng quỹ BHXH được hình thành từ kết quả của cả hai quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại thu nhập quốc dân. Đây là một đặc điểm đặc thù của quỹ BHXH so với những quỹ tiền tệ khác trong hệ thống tài chính quốc gia. Ở nước ta hiện nay, nguồn tài chính hình thành quỹ BHXH gồm có: - Người sử dụng lao động đóng. - Người lao động đóng. - Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. - Lãi đầu tư tăng trưởng và các khoản thu khác. - Các nguồn thu khác như từ viện trợ, tài trợ, đánh giá lại tài sản của quỹ... 1.1.3. Chi của Quỹ BHXH: Xét theo mục đích sử dụng có thể chia thành 2 nhóm nguồn chi chủ yếu sau: Nhóm 1: Nguồn tài chính dùng để chi trả các chế độ BHXH. Nguồn tài chính này chiếm đại bộ phận trong việc sử dụng quỹ BHXH. Các chế độ BHXH được áp dụng đối với người lao động nhiều hay ít, mức độ hưởng thụ của từng loại chế độ cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách BHXH do mỗi nhà nước quy định bằng pháp luật. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) ban hành công ước số 102 ngày 4/6/1952 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, trong đó quy định chế dộ trợ cấp đó là: chăm sóc y tế; trợ cấp ốm đau; trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp tuổi già (hưu bổng); trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp thai sản; trợ cấp tàn tật và trợ cấp tiền tuất. Đối với nước ta hiện nay, đang áp dụng các loại chế độ sau: - Chế độ trợ cấp ốm đau - Chế độ trợ cấp thai sản - Chế độ trợ cấp TNLĐ, bệnh nghề nghiệp - Chế độ hưu trí - Chế độ tử tuất - Chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ - Chế độ khám, chữa bệnh Nhóm 2: Nguồn tài chính dùng để chi cho hoạt động quản lý sự nghiệp BHXH. Đó là những khoản chi cho hoạt động của bộ máy làm công tác quản lý sự nghiệp BHXH và khoản chi phí cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH. Nguồn chi này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số chi từ quỹ BHXH. 1.1.4. Vai trò của quỹ BHXH trong hệ thống tài chính của Nhà nước ta: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hệ thống tài chính của nước ta gồm có các khâu tài chính là: NSNN, Tài chính doanh nghiệp, Tín dụng, Bảo hiểm, Tài chính hộ gia đình và tổ chức xã hội. Các khâu tài chính được đặc trưng bởi sự vận động và chuyển hoá qua lại giữa các nguồn tài chính thuộc các khâu tài chính, phản ánh tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối các nguồn lực tài chính của xã hội được thể hiện thông qua việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hay tích luỹ của các chủ thể trong xã hội. Các khâu tài chính luôn vận động và có mối quan hệ tác động trực tiếp với nhau và có liên hệ với thị trường tài chính. Có thể khái quát hệ thống tài chính của nước ta như sau: Ngân sách Nhà nước Tài chính doanh nghiệp Tài chính hộ gia đình và tổ chức xã hội Bảo hiểm Tín dụng Thị trường tài chính * NSNN là quỹ tiền tệ của Nhà nước, là một khâu tài chính rất quan trọng trong hệ thống tài chính của nước ta. NSNN được tạo lập từ các nguồn tài chính trong xã hội dưới các hình thức như: thu bắt buộc (thuế và lệ phí); tiền lãi thu được từ phần đóng góp vốn của Nhà nước ở các doanh nghiệp; tiền thu bán hoặc cho thuê tài sản của Nhà nước; tiền thu do thực hiện xuất khẩu lao động; thu từ viện trợ, vay nợ... Bất kỳ một nhà nước nào cũng sử dụng NSNN như là một công cụ quan trọng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, xã hội của đất nước, mặt khác sử dụng NSNN để phục vụ cho việc thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước: duy trì bộ máy quản lý nhà nước, bảo đảm về mặt quốc phòng, an ninh, ngoại giao; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; đảm bảo an ninh xã hội... Tóm lại: “Ngân sách Nhà nước được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước - Quỹ ngân sách - để phục vụ cho việc thực hiện chức năng của Nhà nước. NSNN phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội phát sinh do NSNN tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính quốc gia nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng và quản lý kinh tế, xã hội của Nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu”. * Tài chính doanh nghiệp. “ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh ”. Tài chính doanh nghiệp là 1 khâu quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, sự vận động và chuyển hoá các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp luôn gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Dù cho tồn tại ở bất cứ loại hình sở hữu và tổ chức doanh nghiệp như thế nào (Nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp cổ phần,...) thì hoạt động tài chính của doanh nghiệp đều có chung một số đặc điểm sau: Một là, tạo lập, thu hút vốn: để có đủ điều kiện tiến hành sản xuất, kinh doanh, bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có vốn. Muốn có được, doanh nghiệp cần thiết phải thực hiện các quan hệ tài chính như vay vốn, hùn vốn, phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Hai là, thực hiện đầu tư, sử dụng vốn để kinh doanh: trên cơ sở lựa chọn phương án đầu tư tối ưu, doanh nghiệp phải tiến hành phân phối nguồn vốn thu hút, tạo lập được để tạo ra cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp hợp lý, có hiệu quả. Theo đó sẽ hình thành nên các quỹ chuyên dùng là: vốn cố định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ dự trữ, quỹ khấu hao....., mỗi một quỹ đều có một mục đích sử dụng riêng phục vụ mục tiêu cuối cùng là sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp một cách có hiệu quả, đem lại lợi nhuận nhiều nhất. Ba là, hoạt động phân phối kết quả kinh doanh: hoạt động này liên quan đến nhiều chủ thể như: nộp thuế cho Nhà nước, lãi suất cho ngân hàng (khi vay vốn), chia lãi cho các cổ đông, lập các quỹ tích luỹ để đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh.... Tóm lại: “Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động của những nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu doanh lợi trong khuôn khổ của pháp luật. Tài chính doanh nghiệp phản ánh các quan hệ kinh tế đa dạng trong các quá trình đó của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp”. * Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội. Các quỹ tiền tệ của các hộ gia đình được hình thành từ những khoản thu nhập, tiền công của các thành viên trong gia đình, từ những của cải tài sản kế thừa, quà biếu, tặng ... Các hộ gia đình sử dụng các quỹ tiền tệ này để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng từ cuộc sống. Phần quỹ còn dư có thể đem đầu tư kinh doanh để kiếm lời, hoặc tham gia vào thị trường tài chính (cho vay, mua kỳ phiếu, trái phiếu, cổ phiếu...) để tăng thêm thu nhập. Ngoài ra các hộ gia đình còn phải sử dụng một phần quỹ tiền tệ của mình để làm nghĩa vụ đối với Nhà nước (nộp thuế, lệ phí..), làm công ích; tham gia các loại hình bảo hiểm để bảo đảm an toàn cuộc sống, sinh hoạt của mỗi hộ gia đình. Các quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội được tập hợp từ sự đóng góp phí của các hội viên, sự quyên góp, ủng hộ của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước cũng như sự hỗ trợ của Chính phủ. Các tổ chức xã hội sử dụng các quỹ này để chi tiêu phục vụ nhu cầu hoạt động của xã hội. Tuy nhiên, khi chưa có nhu cầu (hoặc chưa đến kỳ chi tiêu) thì các quỹ này cũng được các tổ chức xã hội sử dụng để đầu tư vào thị trường tài chính để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. * Tín dụng Tín dụng là một trung gian tài chính, là một khâu tài chính của hệ thống tài chính quốc gia. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các đơn vị, tổ chức và cá nhân thường có những nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến; những nguồn tài chính này được tập hợp lại thành quỹ tín dụng; quỹ này được sử dụng theo nguyên tắc có hoàn trả và sinh lãi - đó là một loại dịch vụ tài chính đặc biệt được gọi là tín dụng. Như vậy, thực chất của tín dụng là một loại hoạt động dịch vụ thực hiện thu gom, tập hợp các nguồn tài chính tạm thời chưa dùng đến của một bộ phận dân cư, tổ chức, đơn vị trong xã hội hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, sau đó sử dụng quỹ tiền tệ đó chuyển cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng nguồn tài chính đó theo nguyên tắc có hoàn trả và phải trả lãi (lợi tức). * Bảo hiểm: Là một khâu tài chính trong hệ thống tài chính của nước ta. Quỹ bảo hiểm (bao gồm cả BHXH và BHTM) được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của đối tượng tham gia bảo hiểm, được sử dụng để bù đắp, bồi thường tổn thất cho những đối tượng được hưởng quyển lợi về bảo hiểm. Thực chất của bảo hiểm là những mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn lực tài chính thông qua việc tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm để bù đắp, bồi thường những tổn thất xảy ra đối với các đối tượng tham gia bảo hiểm nhằm duy trì, đảm bảo an toàn cho sản xuất kinh doanh và đời sống của người tham gia bảo hiểm. Từ đó cho chúng ta thấy rằng bảo hiểm nói chung (BHTM và BHXH) và BHXH nói riêng là một khâu tài chính không thể thiếu được trong hệ thống tài chính của Nhà nước ta. Quá trình vận động của các nguồn tài chính để hình thành quỹ BHXH, cũng như việc sử dụng quỹ BHXH cho mục đích riêng của nó, có liên quan đến sự vận động các nguồn tài chính của các khâu tài chính khác trong hệ thống tài chính của nước ta và ngược lại. Chẳng hạn như khi Nhà nước tăng tiền lương sẽ trực tiếp tác động đến cả nguồn tài chính làm tăng và giảm quỹ BHXH. Khi Nhà nước tăng lương thì mọi đơn vị, cá nhân phải tăng mức đóng vào quỹ BHXH; đồng thời quỹ BHXH phải tăng tiền chi chế độ bảo hiểm cho những người được hưởng. Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ lớn, có thời gian tạm thời nhàn rỗi dài; vì vậy khi dùng quỹ BHXH để đầu tư, hoạt động kinh doanh - tức là cung ứng vốn vào nền kinh tế sẽ tạo ra những biến đổi về cung và cầu vốn trong nền kinh tế. Theo đó sẽ có tác động đến hướng vận động, chuyển dịch các nguồn tài chính trong nền kinh tế, tất yếu sẽ làm thay đổi các quỹ tiền tệ của các chủ thể khác theo các quy luật của các thị trường; góp phần kích thích, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển tạo ra nhiều của cải vật chất và tinh thần nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu đời sống và sinh hoạt của mọi người trong xã hội. 1.2. Đảm bảo cân đối Quỹ BHXH 1.2.1. Khái niệm cân đối Quỹ BHXH: Để thực hiện vai trò của BHXH trong nền kinh tế và xã hội, với chức năng và nhiệm vụ của mình, Quỹ BHXH thường xuyên trong trạng thái vận động bởi các "luồng tiền vào" và các "luồng tiền ra" của Quỹ. Các "luồng tiền vào" là những nguồn thu của Quỹ BHXH mà thực chất là những nhân tố làm tăng Quỹ BHXH; còn những luồng tiền ra là những nguồn thực hiện nhiệm vụ chi của Quỹ BHXH thực chất là những nhân tố tác động giảm quỹ BHXH. Trên thực tế, không phải bất cứ lúc nào Quỹ BHXH cũng có trạng thái thu vào Quỹ bằng số chi ra của Quỹ BHXH mà ngược lại, Quỹ luôn vận động không ngừng và nó phụ thuộc vào số lượng đối tượng tham gia BHXH, đối tượng hưởng chế độ BHXH, các chế độ chính sách về tiền lương, chế độ phụ cấp và chế độ BHXH. Đến nay, cũng chưa có một định nghĩa cụ thể nào về cân đối quỹ BHXH, tuy nhiên, qua nghiên cứu chính sách thu, chi quỹ BHXH ở một số nước và thực trạng thu chi của quỹ BHXH của Việt nam, ta có thể hiểu: cân đối quỹ BHXH là một trạng thái của quỹ BHXH mà tại đó các nguồn thu vào của quỹ BHXH đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chi của quỹ BHXH. Quỹ BHXH sẽ ở trạng thái bị mất cân đối nếu số thu vào của quỹ thấp hơn so với số chi ra của quỹ BHXH, trong trường hợp này cần phải tìm thêm nguồn thu hoặc có biện pháp để tăng nguồn thu để bù đắp số thiếu hụt của quỹ BHXH nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả BHXH cho các đối tượng theo quy định. 1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đảm bảo cân đối quỹ BHXH: 1.2.2.1. Những nhân tố tác động đến nguồn thu của Quỹ BHXH: Một là, tổng mức đóng góp vào quỹ của người lao động và chủ sử dụng lao động. Trong nền kinh tế - xã hội có nhiều dạng, loại hình tổ chức lao động, nhưng xét trên góc độ quan hệ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động có 2 dạng là: chủ sử dụng lao động và người lao động là 2 cá thể hoàn toàn tách rời, độc lập với nhau; chủ sử dụng lao động đồng thời là người lao động họ là một cá thể. Nhưng dù ở bất kỳ dạng nào thì theo quy định hiện hành việc đóng góp vào quỹ BHXH do chủ sử dụng lao động trực tiếp quan hệ với cơ quan BHXH, nhưng chỉ có người lao động được hưởng nguồn tài chính do quỹ chi trả. Đây là một đặc điểm cần lưu ý đến trong quá trình tổ chức thu và quản lý chi BHXH. Thông thường mức đóng góp của chủ sử dụng lao động và người lao động vào quỹ được xác định theo tỷ lệ (%) trên thu nhập hàng tháng của người lao động. Như vậy tổng mức đóng góp của chủ sử dụng và người lao động vào quỹ BHXH do bốn yếu tố sau đây quyết định đó là: số lượng người lao động tham gia BHXH, mức thu nhập hàng tháng của người lao động, thời gian đóng BHXH và tỷ lệ (%) trích đóng BHXH. Tổng mức đóng vào quỹ BHXH tỷ lệ thuận vào các yếu tố đó. n i=1 Ta có công thức: TMT= å TNi x TGĐi x TLĐi TMT: Tổng mức đóng góp vào quỹ BHXH của chủ sử dụng lao động và người lao động. i : Người lao động thứ i trong đơn vị sử dụng lao động. TNi : Thu nhập hàng tháng của người lao động thứ i. TGĐi : Thời gian đóng vào quỹ BHXH của người lao động thứ i. TLĐi : Tổng tỷ lệ đóng góp của cả chủ sử dụng lao động và người lao động. Tổng mức đóng góp của chủ sử dụng lao động và người lao động là nhân tố quan trọng nhất, chủ yếu nhất tác động làm tăng quy mô quỹ BHXH. Hai là, nguồn lãi từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH. Quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình tồn tích thì đây là một quỹ tiền tệ tập trung rất lớn, đặc biệt là trong điều kiện cụ thể của nước ta, lực lượng lao động còn đang ở độ tuổi trẻ, số lượng lao động tham gia BHXH còn chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số lao động trong xã hội. Nếu hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cao, không bị rủi ro, thất thoát thì chắc chắc nguồn lãi từ hoạt động đầu tư đem lại là một khoản tiền không nhỏ, sẽ là nguồn tài chính bổ sung làm tăng quy mô quỹ BHXH. Đây là nhân tố không thể thiếu được, cần đặc biệt quan tâm trong hoạt động quản lý và sử dụng quỹ BHXH. Ba là, sự hỗ trợ của nhà nước. Trong trường hợp cần thiết, khi nhà nước có những điều chỉnh chế độ đóng góp hay mức hưởng đối với chủ sử dụng lao động và người lao động sẽ ảnh hưởng đến quy mô quỹ, làm cho quỹ mất cân đối, thu không đủ chi thì buộc NSNN phải hỗ trợ để đảm bảo nhu cầu chi trả cho các đối tượng. Hầu hết các nước trên thế giới đang tìm mọi cách để điều chỉnh chính sách, chế độ BHXH sao cho giảm tối đa sự hỗ trợ của NSNN cho quỹ BHXH. Bốn là, chính sách tiền lương của Chính phủ: Khi Chính phủ có sự điều chỉnh về chính sách tiền lương như việc tăng mức tiền lương tối thiểu, điều chỉnh lương nói chung, làm cho thu nhập của người lao động nhìn chung là tăng lên, đặc biệt là nhóm đối tượng làm việc trong khu vực hành chính sự nghiệp của Nhà nước, dó đó làm tăng nguồn thu của Quỹ BHXH. Năm là, việc tuân thủ chính sách BHXH bắt buộc của Nhà nước: Thu BHXH phụ thuộc vào số lượng người tham gia BHXH. Nếu tỷ lệ người năm trong diện phải tham gia BHXH bắt buộc mà không tham gia BHXH vàng lớn thì thất thu BHXH sẽ càng cao. Tỷ lệ này phụ thuộc vào tính hấp dẫn của chính sách BHXH; các chế tài đối với các tổ chức, cơ quan, đơn vị trốn tham gia BHXH; việc thực hiện chính sách BHXH của các tổ chức BHXH;... Sáu là, nhận thức của người lao động về BHXH: Nếu người lao động có sự hiểu biết và nhận thức cao về tầm quan trọng và ý nghĩa của BHXH thì họ sẽ tự giác tham gia vào hệ thống BHXH, làm tăng thu BHXH. 1.2.2.2. Những nhân tố tác động đến chi Quỹ BHXH: Một là, tổng mức chi các chế độ BHXH cho người được hưởng. Mức chi các chế độ BHXH cho người thụ hưởng được xây dựng theo nguyên tắc: người lao động đóng góp càng nhiều vào quỹ BHXH (mức đóng, thời gian đóng) thì sẽ được hưởng mức cao do nguồn quỹ chi trả. Mức hưởng các chế độ còn phụ thuộc vào tình trạng suy giảm sức khoẻ và tuổi đời của người tham gia bảo hiểm. Mức trợ cấp thường thấp hơn thu nhập khi còn đang làm việc. Thông thường mức hưởng các chế độ BHXH của người lao động được xác định trên cơ sở thu nhập bình quân trước thời điểm người lao động được hưởng các chế độ BHXH nhân với tỷ lệ phần trăm (%). Tuy nhiên cũng có 1 số chế độ được quy định mức hưởng tuyệt đối chung cho mọi người có đủ điều kiện được hưởng. Như vậy có thể khái quát công thức chung để tính tổng mức chi cho người được hưởng các chế độ BHXH như sau: n i=1 TMC = å TNi x TGHi x TLHi TMC: Tổng mức chi các chế độ BHXH cho người được hưởng. i : Người được thụ hưởng thứ i. TNi : Thu nhập bình quân của người lao động trước thời điểm họ được hưởng chế độ BHXH. TGHi : Thời gian người lao động được hưởng các chế độ. TLHi : Tỷ lệ được hưởng của người được thụ hưởng. Tổng mức chi các chế độ BHXH cho người được hưởng là nhân tố quyết định, chiếm đại bộ phận trong tổng số chi của quỹ BHXH. Hai là, chi cho hoạt động của bộ máy quản lý và chi phí cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH. Nguồn chi này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn chi từ quỹ. Tuy nhiên nếu tiết kiệm đến mức tối đa nguồn chi này thì cũng có nghĩa là sẽ làm tăng nguồn để chi BHXH. 1.2.2.3. Ngoài nhân tố ảnh hưởng đến thu và chi của Quỹ BHXH, còn có những nhân tố tác động trực tiếp đến công tác quản lý cân đối Quỹ BHXH và nó có tác động gián tiếp đến cân đối Quỹ BHXH như: công tác tổ chức quản lý Quỹ BHXH, năng lực và trình độ của cán bộ BHXH hệ thống thông tin quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật quản lý,...Những nhân tố này nếu được tổ chức quản lý và thực hiện tốt sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lý thu và chi BHXH; đặc biệt là việc cải cách hành chính trong công tác thu và chi quỹ BHXH, từ đó tiết kiệm được các khoản chi không cần thiết từ quỹ BHXH, đóng góp tích cực vào trạng thái cân đối Quỹ BHXH. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật, các chế độ chính sách về BHXH, sự phối kết hợp giữa cơ quan, ban ngành; sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội; dân trí; sự phát triển của thị trường tài chính;... cũng là những nhân tố mang tính khách quan tác động đến tình hình cân đối quỹ BHXH. Nếu cơ chế, chính sách về BHXH được thực hiện đồng bộ và có những định chế rõ ràng, phù hợp với nền kinh tế - xã hội thì sẽ nhận được sự đồng tình của toàn xã hội và sẽ làm gia tăng số người lao động tham gia BHXH và làm tăng thu cho quỹ BHXH. Thị trường tài chính phát triển sẽ là môi trường hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư phát triển nền kinh tế, hàng hóa trên thị trường tài chính sẽ ngày càng phong phú hơn và ngày càng có nhiều phương án đầu tư hơn để chọn lựa đầu tư vừa đem lại hiệu quả cao lại rủi ro thấp rất phù hợp cho các khoản đầu tư từ lượng tiền tạm thời nhàn rỗi của ._.quỹ BHXH chưa sử dụng đến. 1.3. Khái quát về mô hình Quỹ BHXH của một số nước trên thế giới và một số kinh nghiệm đối với nước ta về quản lý và cân đối Quỹ BHXH 1.3.1. Khái quát về mô hình quỹ BHXH. Quá trình hình thành phát triển và hoàn thiện chính sách BHXH của các nước trên thế giới đều gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, điều kiện lịch sử và chế độ chính trị của từng nước. Chính vì vậy, hầu hết ở các nước trên thế giới tuy đã ban hành chính sách chế độ BHXH, nhưng ở mỗi nước chính sách, chế độ BHXH đều có đặc thù riêng; việc triển khai tổ chức thực hiện các chế độ BHXH do nhiều tổ chức (tổ chức của Nhà nước và tư nhân) cùng thực hiện. Thậm chí ngay một chế độ BHXH cũng do nhiều tổ chức đảm nhận thực hiện. Nhưng phần lớn các nước đều đặc biệt quan tâm đến chế độ hưu trí (trợ cấp tuổi già), vì thế chế độ này thường do tổ chức của nhà nước thực hiện. Quỹ trợ cấp hưu trí cũng được nhiều quốc gia chú trọng, không chỉ bởi nó là một quỹ thành phần chiếm tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ quỹ BHXH của quốc gia, mà nó là nguồn lực tài chính quan trọng để đảm bảo chi trả lương hưu cho người được bảo hiểm trong khoảng thời gian dài. Sau khi nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách BHXH, đi sâu vào lĩnh vực quỹ BHXH của các nước như: Canađa, Pháp, Phần Lan, Thuỷ Điển, Đức, Đan Mạch, Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêsia, Nhật, Ấn Độ... đưa ra một số nhận xét sau: Một là: để có nguồn lực tài chính chi trả các chế độ BHXH cho người được bảo hiểm, hầu hết các nước đều quy định, mọi người lao động và chủ sử dụng lao động phải đóng góp vào quỹ BHXH. Nhà nước với tư cách là Người tổ chức, quản lý xã hội, đồng thời là chủ sử dụng lao động của mọi người lao động có trách nhiệm đóng góp hoặc hỗ trợ trong trường hợp quỹ BHXH mất cân đối (thu < chi). Hai là: để được hưởng các chế độ BHXH, người được bảo hiểm phải đạt được một số điều kiện nhất định như: có thời gian đóng góp vào quỹ BHXH, mức độ suy giảm sức khoẻ, tuổi đời. Mức trợ cấp BHXH thường thấp hơn mức thu nhập khi còn đang làm việc (trừ mức trợ cấp cho chế độ thai sản). Ba là: về cân đối quỹ BHXH có hai loại hình chủ yếu sau đây: Thứ nhất là quỹ BHXH được cân đối thu - chi trong từng năm; có nghĩa là mọi nguồn thu để hình thành quỹ BHXH dùng để chi cho người được hưởng các chế độ BHXH ngay trong năm đó, quỹ BHXH không có kết dư. Trường hợp thu BHXH của chủ sử dụng lao động và người lao động không đủ chi thì NSNN sẽ cấp bù. Thứ hai là quỹ BHXH được cân đối dài hạn trong nhiều năm. Trong loại hình này các quốc gia đặc biệt quan tâm đến quỹ trợ cấp hưu trí. Để đảm bảo cân đối được quỹ hưu trí, cũng có hai mô hình quản lý và sử dụng quỹ để chi trả cho người thụ hưởng: * Mô hình chi trả lương hưu 1 lần: Người lao động hội tụ đủ các điều kiện để hưởng chế độ hưu trí, ngay sau khi họ nghỉ làm việc để hưởng chế độ hưu trí thì được cơ quan BHXH chi trả 1 lần bằng toàn bộ số tiền mà người lao động và chủ sử dụng lao động đã đóng góp trước đây (được lưu giữ trong một tài khoản cá nhân) cùng với số tiền lãi phát sinh hàng năm. Thực hiện mô hình này, thì quỹ trợ cấp hưu trí không bao giờ mất cân đối; nhưng sẽ làm mất tính chất bảo hiểm, mà chỉ mang tính chất “tiết kiệm bắt buộc”. Mô hình này có ở các nước như: Nhật Bản, Ấn Độ, Inđônêsia. * Mô hình chi trả lương hưu hàng tháng: Phần lớn các nước trên thế giới thực hiện chi trả lương hưu hàng tháng cho người được bảo hiểm. Căn cứ vào thời gian đóng góp vào quỹ, mức đóng góp hàng năm vào quỹ và tuổi đời của họ để cơ quan BHXH xác định mức chi trả tiền lương hưu hàng tháng cho người được hưởng. Các nước thực hiện quản lý quỹ và chi trả lương hưu theo mô hình này đang gặp phải khó khăn là quỹ trợ cấp hưu trí đang có xu hướng bị mất cấn đối do tuổi thọ bình quân của người hưởng lương hưu có xu hướng ngày càng tăng, trong khi mức đóng góp và tuổi nghỉ hưu không điều chỉnh tăng lên được. 1.3.2. Một số nhận xét qua khảo sát tình hình quản lý và sử dụng quỹ BHXH của các nước trên thế giới. - Nhà nước với tư cách là người tổ chức, quản lý xã hội, là chủ sử dụng lao động của mọi người lao động, có trách nhiệm quản lý và tổ chức triển khai chính sách BHXH đối với mọi người lao động. Chủ động điều chỉnh mức đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động để hình thành quỹ BHXH có đủ nguồn lực để chi trả kịp thời các chế độ BHXH cho người được hưởng. Nhà nước cũng là người bảo hộ, đảm bảo sự cân đối cho quỹ BHXH (đóng và hỗ trợ trong trường hợp quỹ BHXH bị mất cấn đối thu < chi). - Hầu hết mọi quốc gia đều đặc biệt quan tâm đến quỹ trợ cấp hưu trí. Áp dụng hình thức bảo hiểm bắt buộc đối với mọi người lao động thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí. Nhà nước đứng ra tổ chức quản lý và thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí đối với mọi người lao động. Quỹ trợ cấp hưu trí chủ yếu được xây dựng theo mô hình tồn tích và dùng để chi trả lương hưu hàng tháng cho người được thụ hưởng, điều đó thể hiện tính cộng đồng, trách nhiệm của từng cá nhân với chính bản thân mình và với mọi người trong xã hội. - Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung lớn, các quốc gia đều cho phép sử dụng quỹ này để tham gia hoạt động đầu tư một mặt để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mặt khác để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. - Những nước thiết kế mô hình quỹ BHXH cân đối thu - chi trong từng năm, gặp phải khó khăn là: nhu cầu chi từ quỹ BHXH luôn luôn có xu hướng tăng (do nhiều nguyên nhân: yêu cầu tăng về sinh hoạt và đời sống, tăng tuổi thọ...) trong khi việc điều chỉnh tăng nguồn thu gặp phải sự phản ứng của cả chủ sử dụng lao động và người lao động. Chính vì vậy mà NSNN phải cấp bù cho quỹ BHXH ngày càng tăng. Trong trường hợp có điều chỉnh tăng mức đóng góp của chủ sử dụng lao động thì sẽ kéo theo phản ứng dây chuyền tác động xấu tới sản xuất kinh doanh, dịch vụ của xã hội. - Những nước thiết kế quỹ BHXH theo mô hình tồn tích, gặp phải khó khăn là: thông thường các chế độ BHXH do nhiều tổ chức (của cả Nhà nước và tư nhân) đảm nhận thực hiện. Chính vì thế mà quỹ BHXH không được quản lý tập trung, thống nhất. Hình thành nhiều quỹ thành phần do nhiều tổ chức quản lý, điều hành; các quỹ thành phần không điều tiết cho nhau được. Do đời sống xã hội và điều kiện làm việc của người lao động ngày càng được cải thiện, dẫn đến tuổi thọ của con người được nâng cao, đã xuất hiện tình trạng quỹ trợ cấp hưu trí có xu thế bị mất cân đối nghiêm trọng; trong khi các quỹ trợ cấp khác (quỹ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động...) thì lại dư thừa. Một số nước trên thế giới có xu hướng muốn nhập các quỹ thành phần lại thành một quỹ BHXH tập trung, thống nhất nhưng lại mắc phải sự phản ứng mạnh mẽ của các tổ chức đang đảm nhận thực hiện các chế độ BHXH vì làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ - chỉ là một bộ phận trong xã hội. 1.3.3. Một số kinh nghiệm cần tham khảo trong quá trình tổ chức quản lý và cân đối quỹ BHXH đối với nước ta là: - Nhà nước là người duy nhất quản lý và tổ chức thực hiện chính sách BHXH đối với mọi người lao động. Thành lập tổ chức của Nhà nước để thực hiện thống nhất tất cả các chế độ BHXH đối với người lao động. Từng bước thực hiện các chế độ BHXH bắt buộc đối với tất cả mọi người lao động. - Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, hạch toán độc lập với NSNN, được Nhà nước bảo hộ, hỗ trợ trong trường hợp quỹ bị mất cân đối (thu < chi). Trong bất kỳ hoàn cảnh và thời gian nào, quỹ BHXH cũng phải có đủ nguồn lực tài chính để chi trả đầy đủ kịp thời các chế độ BHXH cho người được hưởng. - Quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình tồn tích chuyển giao sử dụng không chỉ giữa những người cùng tham gia BHXH mà còn qua các thế hệ. Quỹ BHXH dùng để chi trả cho người được thụ hưởng chỉ khi họ đạt được một số điều kiện nhất định như đã có thời gian đóng góp vào quỹ BHXH, bị suy giảm sức khoẻ và tuổi đời. Thực hiện chi trả tiền lương hưu cho người được thụ hưởng hàng tháng, không thực hiện chi trả 1 lần như một số nước đã làm. Cân đối quỹ BHXH phải được tính toán kế hoạch hoá trong thời gian dài (từ 20 - 30 năm), trên cơ sở đó xác định được mức đóng góp của các bên tham gia BHXH hình thành quỹ và quy định các chế độ BHXH, điều kiện để được hưởng và mức hưởng của từng chế độ cho từng người được hưởng. - Quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi được tham gia đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ nhưng phải đảm bảo hạn chế rủi ro, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO CÂN ĐỐI QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 2.1. KHÁI QUÁT VỀ QUỸ BHXH Ở VIỆT NAM 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Quỹ BHXH ở Việt nam: Quỹ BHXH ở nước ta được hình thành và phát triển qua các thời kỳ khác nhau, nhưng nhìn chung có thể chia thành 2 thời kỳ chính là: thời kỳ trước năm 1995 và thời kỳ từ năm 1995 đến nay. Thời kỳ trước năm 1995: Ngay từ khi thành lập chính quyền và suốt trong thời kỳ kháng chiến, mặc dù gặp nhiều khó khăn về mọi mặt, song Nhà nước ta đã quan tâm chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động nói chung và công nhân, viên chức Nhà nước nói riêng. Ngoài việc ban hành chế độ tiền lương, Chính phủ đã ban hành các chế độ về phụ cấp, trợ cấp xã hội như: trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp già yếu, trợ cấp cho cá nhân và gia đình công nhân, viên chức khi chết và xây dựng các khu an dưỡng, điều dưỡng, bệnh viện, nhà trẻ,.... Cụ thể, Chính phủ đã ban hành các Sắc lệnh: số 29/SL ngày 13/3/1947; số 76/SL ngày 20/5/1950 về quy chế công chức và số 77/SL ngày 22/5/1950 về quy chế công nhân; Các văn bản nói trên đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc về BHXH. Song do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và kinh tế còn khó khăn nên Nhà nước chưa nghiên cứu chi tiết và thực hiện được đầy đủ các quyền lợi về BHXH cho công nhân viên chức, mà các chế độ chủ yếu mang tính cung cấp, bình quân với tinh thần đồng cam cộng khổ. Ngày 14/12/1961, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước. Nội dung chủ yếu của Điều lệ này là: mở rộng thêm đối tượng tham gia BHXH; quy định mức đãi ngộ căn cứ vào sự cống hiến và thời gian công tác, điều kiện làm việc, tình trạng mất sức lao động; quy định 6 chế độ BHXH là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; mỗi chế độ đã được quy định cụ thể về điều kiện hưởng, tuổi đời, mức hưởng... Nguồn kinh phí đảm bảo chi trợ cấp do Quỹ BHXH của Nhà nước đài thọ từ NSNN. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành một số Nghị định, Quyết định điều chỉnh hoặc quy định rõ hơn về Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 218/CP nói trên. Cụ thể là: Quyết định 219-CP ngày 29/5/1981 quy định các cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường trích nộp hàng tháng vào Quỹ BHXH 4,7% so với tổng Quỹ tiền lương của công nhân viên chức, trong đó 3,7% do Tổng công đoàn Việt nam quản lý để chi trả cho 3 chế độ BHXH ngắn hạn là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; 1% do Bộ Lao động (nay là Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội) quản lý để chi cho 3 chế độ BHXH dài hạn là: mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; Quyết định 131-HĐBT ngày 30/10/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sửa đổi tỷ lệ trích nộp kinh phí BHXH do Tổng công đoàn Việt nam quản lý, theo đó, nâng tỷ lệ trích nộp BHXH do các cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường nộp hàng tháng vào Quỹ BHXH do Tổng công đoàn quản lý từ 3,7% lên 5% so với tổng Quỹ tiền lương của công nhân viên chức; Quyết định 40-HĐBT ngày 16/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sửa đổi tỷ lệ trích nộp kinh phí BHXH do Bộ Lao động thương binh và xã hội quản lý, theo Quyết định này, nâng mức trích tỷ lệ trích nộp BHXH hàng tháng vào Quỹ BHXH do Bộ Lao động - thương binh và xã hội quản lý từ 1% lên 10% so tổng Quỹ tiền lương của công nhân viên chức. Đối với hoạt động quản lý cân đối Quỹ BHXH: Trong thời kỳ này, có nhiều văn bản pháp quy của Nhà nước quy định việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH như: + Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 của Hội đồng Chính phủ quy định: thành lập Quỹ BHXH của Nhà nước để bảo đảm việc chi tiêu cho các chế độ BHXH và các sự nghiệp BHXH; là quỹ độc lập thuộc NSNN. Mọi chi phí về công tác quản lý quỹ BHXH và quản lý các sự nghiệp BHXH đều do quỹ BHXH của Nhà nước đài thọ. + Nghị định số 39/CP ngày 22/03/1962 của Hội đồng Chính phủ quy định nội dung thu, chi quỹ BHXH của Nhà nước: * Nguồn thu của quỹ BHXH của Nhà nước gồm: Tiền do các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các xí nghiệp, công trường, nông trường và lâm trường... của Nhà nước nộp hàng tháng vào quỹ BHXH theo một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng quỹ tiền lương; tiền trợ cấp hàng năm của Nhà nước cho quỹ BHXH trong những trường hợp thật cần thiết; các khoản thu khác thuộc quỹ BHXH của Nhà nước (thu về tiền ủng hộ, về các tặng phẩm). * Quỹ BHXH của Nhà nước có nhiệm vụ đài thọ tất cả các khoản chi theo quy định của Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH là: chi trợ cấp khi công nhân, viên chức nhà nước ốm đau; chi trợ cấp khi nữ công nhân, viên chức nhà nước sinh đẻ, sẩy thai, mất sức; chi trợ cấp khi công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; chi trợ cấp khi công nhân, viên chức về hưu trí; chi trợ cấp chôn cất và tiền tuất khi công nhân, viên chức nhà nước chết; chi phí về công tác quản lý quỹ BHXH và quản lý các sự nghiệp BHXH. Thời kỳ từ năm 1995 đến nay: Ngày 23/06/1994, Quốc hội đã thông qua Bộ Luật Lao động. Để cụ thể hoá những quy định về BHXH của Bộ Luật Lao động, Chính phủ đã ban hành Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 áp dụng đối với công chức, công nhân viên chức Nhà nước, người lao động theo loại hình BHXH bắt buộc và sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Nội dung của Điều lệ BHXH này về cơ bản đã khắc phục được những nhược điểm, tồn tại mà Điều lệ BHXH tạm thời ban hành từ những năm trước đây và có một số điểm mới, trong đó có quy định: - Mở rộng thêm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, như quy định người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên phải tham gia BHXH; - Về chế độ BHXH, Điều lệ quy định 5 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất; bỏ chế độ trợ cấp mất sức lao động mà những người mất khả năng lao động được quy định chung trong chế độ hưu trí với mức hưởng lương hưu thấp. Trong từng chế độ có quy định cụ thể hơn về điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng. - Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu trên cơ sở đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động, Nhà nước chỉ hỗ trợ thêm một phần để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. Mức đóng góp hàng tháng được quy định bắt buộc thuộc trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao động. Với quy định về mức đóng góp rõ ràng đã làm cho người lao động và người sử dụng lao động thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc đóng góp vào Quỹ BHXH. - Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng Quỹ. Quỹ BHXH đảm bảo thu đủ để chi và có kết dư, bảo đảm tính chất của BHXH đoàn kết, tương trợ giữa tập thể người lao động và giữa các thế hệ, đồng thời đảm bảo cho việc thực hiện chính sách BHXH luôn được ổn định lâu dài. Tuy nhiên, các quy định của Bộ Luật Lao động (năm 1994) và Điều lệ BHXH thực hiện từ năm 1995 còn một số điểm cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung, như: đối tượng tham gia BHXH vẫn còn hạn chế, Nhà nước mới chỉ quy định lao động làm việc trong các doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên mới thuộc diện bắt buộc tham gia BHXH, vì vậy đối tượng tham gia BHXH tuy đã được mở rộng hơn so với quy định trước đây, nhưng so với tổng số lao động xã hội còn chiếm tỷ trọng thấp, mới chỉ có khoảng 14% số người trong độ tuổi lao động tham gia BHXH. Để khắc phục những hạn chế nói trên và những tồn tại của Bộ Luật Lao động (năm 1994), ngày 18/04/2002, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ Luật Lao động (năm 1994). Luật sửa đổi, bổ sung lần này tập trung vào việc quy định mở rộng hơn đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, cụ thể: loại hình BHXH bắt buộc được áp dụng đối với các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng có thời hạn từ đủ 03 tháng trở lên và hợp đồng không xác định thời hạn. Đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 03 tháng thì các khoản BHXH được tính vào tiền lương do người sử dụng lao động trả theo quy định của Chính phủ để người lao động tham gia BHXH theo loại hình tự nguyện hoặc tự lo liệu về bảo hiểm. Đối với hoạt động quản lý cân đối Quỹ BHXH, ngày 26/09/1995, Thủ Tướng Chính phủ có Quyết định số 606/TTg về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam, trong đó có nêu rõ: + Nguồn thu quỹ BHXH bao gồm: * Đóng góp của các đối tượng tham gia BHXH theo quy định tại Điều 36 của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ; * NSNN chuyển sang gồm có: chi trả cho các đối tượng đang hưởng các chế độ BHXH trước ban hành Điều lệ BHXH; đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động sau ngày ban hành Điều lệ BHXH. * Đóng bảo hiểm y tế cho người đang được hưởng các chế độ BHXH. * Tiền lãi, tiền sinh lời từ việc thực hiện phương án bảo hiểm và phát triển quỹ BHXH. * Thu từ nguồn tài trợ, viện trợ quốc tế và trong nước. * Giá trị tài sản của BHXH được đánh giá lại theo quy định của Chính phủ. * Thu khác. + Nguồn chi quỹ BHXH gồm có: * Chi thực hiện các chế độ BHXH cho người tham gia BHXH. * Nộp bảo hiểm y tế theo quy định tại Điều lệ BHXH. * Chi hoa hồng, đại lý, trả lệ phí thu, chi BHXH. * Chi thực hiện phương án bảo toàn và phát triển quỹ BHXH. * Chi khác. Tóm lại, trong giai đoạn này, đã có nhiều thay đổi về chính sách BHXH, đặc biệt là sự ra đời của Bộ Luật Lao động, là nền tảng và cơ sở góp phần hoàn thiện hoạt động BHXH của nước ta. Thông qua những quy định mới về đối tượng tham gia BHXH, cơ cấu tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý tài chính của ngành BHXH, số lượng người lao động tham gia đóng BHXH ngày càng tăng, Quỹ BHXH được quy định rõ ràng là một Quỹ tập trung và độc lập với NSNN; việc thực hiện chế độ BHXH đã được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo thực hiện thống nhất trong cả nước, chi trả đầy đủ, kịp thời đến tận tay đối tượng; Cơ chế quản lý tài chính Quỹ đã đi vào nền nếp, được theo dõi chặt chẽ, hạn chế thất thoát Quỹ; thường xuyên cải cách hành chính trong lập hồ sơ và quy trình giải quyết các chế độ BHXH. Quỹ BHXH là Quỹ tài chính tập trung, đảm bảo chi trả kịp thời các chế độ BHXH đối với người lao động, đồng thời góp phần vào nguồn tài chính xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước; góp phần ổn định chi NSNN cho các đối tượng hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp BHXH từ nguồn NSNN. 2.1.2. Về tổ chức bộ máy quản lý quỹ BHXH: Ở Việt nam, hệ thống BHXH được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương. Khi thực hiện thu BHXH, cơ quan BHXH tỉnh thu rồi nộp lên cơ quan BHXH trung ương và hình thành quỹ BHXH tập trung. Trên cơ sở nguồn hình thành quỹ BHXH tập trung, chính sách chế độ của Nhà nước về BHXH và dự kiến số lượng đối tượng tham gia BHXH, cơ quan BHXH trung ương sẽ tiến hành phân bổ số kinh phí chi trả cho các đối tượng theo số đề nghị của từng địa phương. Để công tác quản lý quỹ BHXH đạt hiệu quả, ngày càng tăng số thu và giảm các khoản chi phí không cần thiết cho quỹ BHXH cần có những biện pháp hữu hiệu thông qua việc ban hành các cơ chế chính sách quản lý tài chính về quỹ; chính sách mở rộng đối tượng tham gia BHXH một cách thích hợp; công tác quản lý hồ sơ, quản lý đối tượng tham gia BHXH; công tác quản lý thu BHXH cần được hiện đại hoá và đơn giản thủ tục thu để đảm bảo thu đúng, thu đủ và thu kịp thời tiền đóng BHXH của các đối tượng tham gia; việc thực hiện chi trả cho các đối tượng cũng cần đơn giản hoá thủ tục chi trả và tạo điều kiện tốt và nhanh nhất để các đối tượng nhận được tiền BHXH, tạo niềm tin cho người tham gia BHXH, nhất là đối với người hưu trí, những đối tượng nghèo, khó khăn,… Bên cạnh công tác quản lý thu, chi quỹ BHXH, hoạt động đầu tư tăng trưởng BHXH từ số dư Quỹ BHXH tạm thời nhãn rỗi thông qua việc cho vay, đầu tư tài chính như: mua trái phiếu Chính phủ, công trái,… cần được chú trọng vì thông qua hoạt động này sẽ làm tăng nguồn thu của Quỹ BHXH, góp phần cải thiện chi tiêu hoạt động bộ máy quản lý BHXH. Trong quá trình thu, chi Quỹ BHXH, số thu và số chi trả cho các đối tượng BHXH luôn có sự lệch pha nhau do số thu được thu trên từng đối tượng tham gia BHXH nhưng không phải toàn bộ số thu đó được sử dụng hết để chi trả cho các đối tượng theo các chế độ ở cùng một thời điểm mà một bộ phần số thu còn lại đó sau này sẽ được sử dụng để chi trả trợ cấp cho các đối tượng đến tuổi nghỉ hưu trí, chi chế độ tử tuất, thương tật,…. Lượng tiền tạm thời nhãn rỗi này được phép đầu tư tạo nên sự tăng trưởng Quỹ BHXH. Hoạt động đầu tư Quỹ BHXH được thực hiện theo các nguyên tắc: An toàn; có lợi nhuận và hiệu quả; luôn đáp ứng khả năng thanh toán và đem lại lợi ích kinh tế - xã hội. Điều 17, Chương V, quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt nam được ban hành kèm theo Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thực hiện các biện pháp đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng Quỹ BHXH như: Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước; đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ”. Công tác quản lý Quỹ Bảo hiểm xã hội được thể hiện qua sơ đồ sau: ĐÓNG GÓP CỦA NGƯỜI SDLĐ ĐÓNG GÓP CỦA NGƯỜI LĐ Tài sản đầu tư CHI TRẢ TRỢ CẤP BHXH QUẢN LÝ PHÍ CHI PHÍ ĐẦU TƯ CHI KHÁC Trợ cấp dài hạn Trợ cấp ngắn hạn Lãi đầu tư QUỸ BHXH NỘP PHẠT DO NỘP CHẬM BẢO HIỂM THU KHÁC NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ Khác Thiết bị văn phòng Lương cán bộ 2.2. THỰC TRẠNG CÂN ĐỐI QUỸ BHXH Ở VIỆT NAM: Hiện nay, công tác quản lý thu, chi quỹ BHXH được thực hiện theo quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt nam được ban hành kèm theo Quyết định số 02/2003/QĐ-TTg ngày 02/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Theo Điều 11, quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt nam, quỹ BHXH gồm các quỹ thành phần: quỹ trợ cấp và hưu trí (thực chất là quỹ BHXH trước đây), quỹ Khám chữa bệnh bắt buộc và quỹ Khám chữa bệnh tự nguyện (thực chất là quỹ Bảo hiểm Y tế thuộc Bộ Y tế trước đây); các quỹ thành phần được hạch toán và cân đối thu - chi riêng. Hàng năm, nếu quỹ thành phần có tổng số thu lớn hơn tổng số chi thì số dư được chuyển sang năm sau; nếu tổng số thu nhỏ hơn tổng số chi thì được phép dùng các nguồn quỹ còn dư khác để đảm bảo chi đầy đủ, kịp thời các chế độ cho đối tượng được hưởng theo quy định. Như vậy, quỹ BHXH gồm ba quỹ thành phần, hạch toán thu - chi độc lập nhau; do tính chất xã hội và nội dung quản lý mà các quỹ thành phần có đối tượng tham gia bảo hiểm, cơ chế quản lý tài chính và mục đích sử dụng khác nhau. Các quỹ khám chữa bệnh bắt buộc và khám chữa bệnh tự nguyện là các quỹ cân đối ngắn hạn và mang tính chất là quỹ dự phòng, nghĩa là việc quản lý, hạch toán thu - chi và cân đối các quỹ này được thực hiện trong một năm, khi quỹ hưu trí và trợ cấp bị thâm hụt sẽ sử dụng những quỹ này để bù đắp. Còn đối với quỹ hưu trí và trợ cấp, căn cứ vào đặc điểm của nội dung và đối tượng hưởng mà phần quản lý chi thực hiện các chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được quản lý ngắn hạn; đối với phần chi trả cho các chế độ: hưu trí và tử tuất thì được quản lý dài hạn - tức là hạch toán thu - chi và cân đối quỹ trong nhiều năm. Để thuận tiện cho công tác tính toán cân đối Quỹ BHXH, Bảo hiểm xã hội Việt nam đã chia các quỹ thành phần thành các quỹ ngắn hạn (các quỹ khám chữa bệnh và một phần của quỹ hưu trí và trợ cấp chi cho các chế độ BHXH ngắn hạn: ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp) và quỹ dài hạn (phần quỹ hưu trí và trợ cấp chi cho các chế độ BHXH dài hạn là hưu trí và tử tuất). Vì vậy, khi phân tích, tính toán để đảm bảo cân đối Quỹ BHXH dài hạn thực chất là phân tích, tìm giải pháp để cân đối quỹ hưu trí và trợ cấp (phần chi các chế độ hưu trí và tử tuất) được lâu dài - đây cũng là nội dung chính mà Luận văn sẽ tập trung vào phân tích, đánh giá ở Chương III. 2.2.1. Thực trạng thu BHXH: Thu BHXH là nghiệp vụ quan trọng của ngành BHXH, trực tiếp tác động đến nguồn hình thành và phát triển quỹ BHXH, đồng thời là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách BHXH xây dựng kế hoạch để bảo toàn và phát triển quỹ. Chính vì vậy, chính sách thu BHXH luôn được quan tâm và hoàn thiện hơn để không những nuôi dưỡng và tăng nguồn thu cho quỹ BHXH mà còn thực hiện cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí quản lý hoạt động thu BHXH. Chính sách thu BHXH phải phù hợp với thực tiễn công tác quản lý và phải linh hoạt để vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tập thể và cá nhân những người tham gia BHXH, vừa thu đúng, thu đủ, tránh thất thu cho quỹ BHXH. 2.2.1.1. Đối tượng thu của Quỹ BHXH: 2.2.1.1.1. Đối tượng thu của quỹ Hưu trí và trợ cấp: a. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sau: Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội. Hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác. Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác, lực lượng vũ trang. Cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác. Trạm y tế xã, phường, trị trấn. Cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Các tổ chức khác có sử dụng lao động. b. Cán bộ, công chức, viên chức theo Pháp lệnh cán bộ, công chức. c. Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã. d. Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức quy định tại điểm a, điểm c nói trên, làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng, khi hết hạn hợp đồng lao động mà người lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng lao động mới đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó thì phải tham gia BHXH bắt buộc. e. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d nói trên mà đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc. f. Người lao động làm việc và hưởng tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp. Đối với người lao động làm việc tại các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp đã thực hiện giao khoán đất có quy định riêng.” g. Người lao động làm việc trong các cơ sở xã hội hoá ngoài công lập thuộc các ngành: Y tế, Giáo dục, Văn hoá và thể thao. h. Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội và Công an nhân dân. i. Cán bộ xã, phường, thị trấn. 2.2.1.1.2. Đối tượng thu của Quỹ Khám chữa bệnh bắt buộc: a. Người lao động Việt nam trong danh sách lao động thường xuyên, lao động hợp đồng từ đủ 3 tháng trở lên làm việc trong: + Các doanh nghiệp Nhà nước, kể cả các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang; + Các tổ chức kinh tế thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội; + Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, bao gồm: doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài; các cơ quan, tổ chức nước ngoàI, tổ chức quốc tế tại Việt nam, trừ trường hợp Điều ước Quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác; + Các đơn vị tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên. b. Cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp. Người làm việc trong các cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, cán bộ xã, phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí hàng tháng theo quy định tại Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ; người làm việc trong các cơ quan dân cử từ trung ương đến cấp xã, phường. c. Đại biểu Hội đồng nhân dân đương nhiệm các cấp không biên chế Nhà nước hoặc không hưởng chế độ BHXH hàng tháng. d. Người có công với cách mạng theo quy định tại Nghị định số 28/CP ngày 29/4/1995 của Chính phủ; e. Thân nhân sĩ quan tại ngũ theo quy định tại Nghị định 63/2002/NĐ-CP ngày 18/6/2002 của Chính phủ; g. Lưu học sinh nước ngoài học tại Việt nam quy định tại Thông tư liên tịch 68 LB/TC-KH ngày 4/11/1996 của Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. h. Các đối tượng bảo trợ xã hội được Nhà nước cấp kinh phí thông qua BHXH; i. Người nghèo được hưởng chế độ khám chữa bệnh theo quy định tại Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ; k. Người đang hưởng chế độ trợ cấp BHXH hàng tháng (hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động, công nhân cao su). 2.2.1.1.3. Đối tượng thu của quỹ Khám chữa bệnh tự nguyện là mọi công dân Việt nam (trừ những người có thẻ BHYT bắt buộc; thẻ BHYT được cấp theo chính sách xã hội của Chính phủ) đều có quyền tham gia BHYT tự nguyện theo nguyên tắc tập th._.p với các cơ quan quản lý có liên quan ở Trung ương và ở các địa phương để thực hiện công tác thống kê toàn bộ các đơn vị và người lao động phải tham gia BHXH. Đặc biệt quan tâm để nắm đầy đủ số lượng đơn vị và người lao động đang phải tham gia BHXH ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đối với các đơn vị cần phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp (Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố), cơ quan quản lý và thu thuế ở địa phương. - Tổ chức cấp sổ BHXH cho người lao động để ghi chép toàn bộ quá trình tham gia BHXH và mức đóng góp của họ vào Quỹ BHXH. Cần sớm nghiên cứu và đưa vào sử dụng công nghệ quản lý mới để thay thế cho phương pháp làm thủ công hiện nay, theo dõi quản lý và ghi chép kịp thời, đầy đủ sự biến động về lao động của từng đơn vị, thời gian đóng và mức đóng BHXH của từng người trong đơn vị. - Phân loại đơn vị tham gia BHXH theo quy mô (lớn, vừa và nhỏ), loại hình (hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cán bộ phường, xã ; tổ chức ngoài công lập). Trên cơ sở đó, phân công cụ thể từng đơn vị, từng bộ phần, từng cá nhân thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt nam trực tiếp quản lý thu đối với từng đơn vị sử dụng lao động cho phù hợp với năng lực của họ. Cần chú ý phân công những cán bộ có trình độ nghiệp vụ vững vàng để quản lý các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức thanh tra lao động, Thanh tra Chính phủ, các tổ chức công quyền và các tổ chức chính trị xã hội để kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc kê khai lao động, quỹ tiền lương và đóng BHXH. Cần xử phạt nghiêm minh hoặc có hình thức xử lý cao đối với những trường hợp cố tình trốn tránh, gian lận trách nhiệm tham gia và đóng BHXH. Có thể ngoài việc truy thu BHXH còn tiến hành phạt tài chính nặng nếu cố tính trốn đóng BHXH. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, nơi nào xử lý nghiêm túc sẽ cho kết quả tốt. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích các chế độ, chính sách, quyền lợi và trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động khi tham gia BHXH, để họ hiểu và tự giác tham gia và đóng BHXH đầy đủ, kịp thời. Việc tuyên truyền cần phải được thực hiện thường xuyên qua phương tiện thông tin đại chúng, báo,... Công tác tuyên truyền càn có nội dung dễ hiểu, gắn với đời sống người dân lao động, phù hợp với truyền thống dân tộc. - Định kỳ hàng quý tiến hành thông báo công nợ BHXH ở các đơn vị sử dụng lao động có số tiền lớn cho giám đốc, chủ tịch công đoàn cơ sở, đồng thời báo cáo với cơ quan chủ quản và Đảng uỷ cấp trên. Trên cơ sở đó làm rõ chính sách BHXH là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, do đó phải được xem xét là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị ở mỗi cơ sở Đảng, mỗi đơn vị. - Tăng cường công tác phân công cán bộ chuyên quản trực tiếp đối với các đơn vị sử dụng lao động, thường xuyên bám sát các đơn vị sử dụng lao động để đôn đốc tiến độ nộp BHXH. - Quản lý chặt về mức tiền lương và thu nhập làm căn cứ đóng BHXH. 3.2.3.2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản lý chi trả các chế độ BHXH và quản lý chi hoạt động của bộ máy: * Đối với hoạt động quản lý chi trả các chế độ BHXH: - Tiến hành kiểm tra, rà sóat lại toàn bộ hồ sơ đối với những đối tượng đàn hưởng BHXH có đến truớc thời điểm 01/10/1995. Đối với những đối tượng còn thiếu hồ sơ thì bổ sung cho hoàn chỉnh; đối với những hồ sơ có sai sót thì phải kiên quyết xử lý cắt giảm hoặc cắt hẳn. Nếu phát hiện những hành vi gian lân nghiêm trọng phải chuyển sang cơ quan pháp luật để xử lý. - Đối với những đối tượng mới phát sinh, phải thực hiện đúng quy trình lập, kiểm tra và thẩm định hồ sơ theo 3 cấp. Đơn vị sử dụng lao động chỉ ra quyết định cho người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, cung cấp hồ sơ có liên quan của người lao động. BHXH tỉnh kiểm tra, xác định chế độ và mức được hưởng để ra quyết định hưởng cho người lao động. Định kỳ, Bảo hiểm xã hội Việt nam tổ chức thẩm định. Nếu có sái sót, BHXH tỉnh phải có trách nhiệm thu hồi, nếu không thu hồi được phải bồi thường cho công Quỹ. - Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa BHXH các huyện trong tỉnh, giữa BHXH các tỉnh và với Bảo hiểm xã hội Việt nam trong việc quản lý sự biến động do di chuyển, chết, hết thời gian hưởng của từng đối tượng hưởng BHXH. Kịp thời điều chỉnh tăng, giảm và lập danh sách chi tar hàng tháng (do BHXH tỉnh lập, nghiêm cấm giao cho BHXH huyện và đại lý ở xã, phường lập) để làm căn cứ chi BHXH. - Ở một số địa phương có địa hình phức tạp, đối tượng hưởng BHXH ít; có thể kết hợp với ngành bưu điện để tổ chức chi trả kịp thời hàng tháng cho đối tượng. * Đối với chi hoạt động của bộ máy: - Chi đầu tư xây dựng cơ bản: + Tăng cường năng lực quản lý đầu tư xây dựng ở cả Bảo hiểm xã hội Việt nam và ở các Ban quản lý dự án các địa phương theo hướng bổ sung thêm cán bộ làm công tác quản lý, tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ quản lý. + Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định, trình tự về công tác quản lý đầu tư; thực thi công việc đúng thẩm quyền, trách nhiệm theo phân cấp quản lý. + Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thẩm định ở tất cả các giai đoạn từ khâu lập dự án đến tổ chức thi công, bàn giao đưa công trình vào sử dụng. + Các Ban quản lý dự án kịp thời thông tin, báo cáo tiến độ thực hiện của từng dự án, kiến nghị biện pháp xử lý khi có những phát sinh vượt quá thẩm quyền. Không tự tiện điều chỉnh quy mô, thiết kế kỹ thuật. Bảo hiểm xã hội Việt nam sẽ kịp thời xử lý những đề nghị của địa phương để đáp ứng được yêu cầu tiến độ, chất lượng công trình, đạt được các mục tiêu đầu tư có hiệu quả, tránh thất thóat vốn của Nhà nước, đồng thời tránh phiền hà cho chủ đầu tư và các nhà thầu. - Chi hoạt động thường xuyên của bộ máy: + Tạo điều kiện cho BHXH các cấp và các đơn vị trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt nam chủ động trong hoạt động, tổ chức thực hiện tốt các biện pháp để nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Không ngừng mở rộng thêm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định, đặc biệt là đối với khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh; tổ chức chi trả đúng đối tượng, kịp thời, đầy đủ, góp phần đảm bảo an toàn và ổn định chính trị xã hội. + Tiết kiệm chi và tinh giản biên chế, khuyến khích sử dụng những người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, đúng ngành, đúng nghề được đào tạo. + Nâng cao ý thức, trách nhiệm trong công tác quản lý tài chính; khuyến khích và tăng cường việc sử dụng kinh phí tiết kiệm và có hiệu quả. + Đảm bảo công bằng, công khai, dân chủ trong hoạt động chuyên môn, trong công tác cán bộ và quản lý tài chính trong toàn hệ thống. 3.2.3.3. Giải pháp hoàn thiện phương thức hoạt động đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH: Để hoạt động đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH có hiệu quả, nhằm bảo toàn, tăng trưởng quỹ, đảm bảo sự an toàn và có đủ nguồn lực tài chính đáp ứng kịp thời yêu cầu chi trả các chế độ BHXH cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cần phải tiếp tục nghiên cứu, xem xét để bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với hoạt động đầu tư của quỹ BHXH, dưới đây xin đề xuất một số giải pháp: Thứ nhất: Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH. Đề nghị Chính phủ quy định cụ thể hơn việc phân cấp thẩm quyền ra quyết định (của Thủ tướng Chính phủ, của Hội đồng Quản lý và của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam) đối với việc sử dụng nguồn tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHXH để đầu tư tăng trưởng quỹ, gồm có các nội dung: + Lĩnh vực đầu tư (trong đó quy định tỷ lệ đầu tư vào từng lĩnh vực). + Hình thức đầu tư (thông qua các tổ chức tài chính, tiền tệ của Nhà nước hay đầu tư trực tiếp; tỷ lệ đầu tư theo từng hình thức). + Thời hạn đầu tư và lãi suất tối thiểu khi đầu tư vào từng lĩnh vực, từng hình thức và từng dự án. + Quy trình xây dựng, thẩm định, quyết định phương án (hoặc dự án) đầu tư và quản lý đầu tư. Thứ hai: Về tỷ lệ dùng quỹ BHXH nhàn rỗi để đầu tư: Theo kinh nghiệm của Ngân hàng Thế giới (WB) thì chỉ nên sử dụng khoảng 80% Quỹ BHXH nhàn rỗi để đầu tư vào lĩnh vực đầu tư an toàn mà chủ yếu là đầu tư thông qua các tổ chức tài chính, tiền tệ của Nhà nước (cho NSNN vay, mua trái phiếu, kỳ phiếu của Nhà nước,...); chỉ sử dụng không quá 20% quỹ BHXH nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực khác có khả năng thu được lợi nhuận cao hơn nhiều nhưng có nhiều rủi ro hơn, có thể áp dụng cả hình thức đầu tư qua thị trường tài chính ở nước ngoài. Nhưng theo tác giả, đối với nước ta hiện nay và trong một vài năm tới, không nên dùng Quỹ BHXH để đầu tư ra nước ngoài vì thị trường tài chính trong nước đang cần thu hút nhiều vốn, đặc biệt là nguồn vốn trong nước; mặt khác, chúng ta đang khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta. Chỉ nên dùng không quá 10% quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực đầu tư có khả năng thu lợi nhuận cao hơn khi đầu tư thông qua các tổ chức tài chính, tiền tệ của Nhà nước. Bởi vì thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán mặc dù đã đi vào hoạt động nhưng tính ổn định chưa cao, quy mô còn nhỏ; các doanh nghiệp lớn của Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả còn chưa cao, chưa ổn định. Thứ ba: Về phân cấp quyết định đầu tư: + Đối với các hình thức đầu tư cho: NSNN, các Ngân hàng thương mại Nhà nước, Quỹ Hỗ trợ phát triển vay; mua kỳ phiếu, trái phiếu, công trái do Kho bạc Nhà nước và các Ngân hàng thương mại của Nhà nước phát hành (kể cả phát hành qua thị trường chứng khoán), giao cho Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyết định. + Đối với hình thức đầu tư vốn vào các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hoặc liên doanh góp vốn đầu tư cùng các doanh nghiệp của Nhà nước; thẩm quyền quyết định đầu tư được phân cấp như đối với các Tổng Công ty 91 quy định tại Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây dựng; Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ. + Đối với hình thức đầu tư qua thị trường chứng khoán để đầu tư mua cổ phiếu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát hành do Hội đồng Quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyết định. Thứ tư: Đề nghị Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với hoạt động đầu tư Quỹ BHXH như chính sách ưu đãi về thuế. Ưu tiên một số lĩnh vực, dự án đầu tư bằng quỹ BHXH mà ở đó vốn đầu tư bảo đảm an toàn, ít có rủi ro, mang lại hiệu quả cao về xã hội và bảo toàn, tăng trưởng được vốn. Chẳng hạn như: đầu tư xây dựng nhà ở bán trả chậm cho dân cư (đặc biệt là những người có thu nhập thấp), dự án sản xuất, cung cấp điện, nước sinh hoạt cho các khu dân cư (kể cả thành thị và nông thôn); đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng có thu phí sử dụng như: cầu, đường giao thông, các công trình về y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội và một số dự án mang tính chiến lược của quốc gia. Thứ năm: Hình thành tổ chức đầu tư độc lập trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam khi thực hiện phương thức dùng Quỹ BHXH để đầu tư trực tiếp. Chẳng hạn như thành lập tổ chức đầu tư để thực hiện kinh doanh bất động sản; đầu tư vào các dự án hoặc góp vốn cùng các doanh nghiệp khác để trực tiếp sản xuất kinh doanh; đầu tư trong lĩnh vực thuê, mua tài chính; tham gia vào thị trường chứng khoán... 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 3.3.1. Hoàn thiện các văn bản pháp quy về BHXH. Đề nghị Chính phủ sớm nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện dự Luật Bảo hiểm xã hội để trình ra Quốc hội thông qua. Luật Bảo hiểm xã hội được xây dựng trên cơ sở quán triệt một số quan điểm và nguyên tắc sau: Thứ nhất: Về quan điểm: - Luật Bảo hiểm xã hội cần cụ thể đường lối đổi mới và phát triển chính sách BHXH của Đảng bằng pháp luật là "từng bước mở rộng vững chắc hệ thống Bảo hiểm và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân". Nhằm đảm bảo cho mọi người lao động sự bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Góp phần quan trọng để ổn định cuộc sống cơ bản cho người lao động và gia đình họ khi người lao động bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động. - Việc hoàn thiện cơ chế chính sách BHXH phải được tiến hành đồng bộ cùng với việc hoàn thiện các chính sách xã hội khác; phải phù hợp với điều kiện của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện chính sách BHXH đối với tất cả mọi người lao động. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH theo hướng tạo ra quyền chủ động trong quản lý và phối hợp giữa quyền lợi và trách nhiệm của Nhà nước, của người sử dụng lao động và của người lao động. Nhà nước thành lập một hệ thống tổ chức thuộc Chính phủ để quản lý thống nhất BHXH (từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã). Thứ hai: Về nguyên tắc: + Phải gắn chặt giữa trách nhiệm và quyền lợi. Người lao động phải đóng BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH. Chủ sử dụng phải có trách nhiệm đóng BHXH để người lao động được hưởng chế độ BHXH. Nhà nước đóng và hỗ trợ quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết. + Mức hưởng các chế độ BHXH phải căn cứ vào thời gian đóng, mức đóng, tình trạng suy giảm sức khỏe và tuổi đời của người lao động. + Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng. Quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình tồn tích và có tính chất chuyển dịch thu nhập giữa những người tham gia BHXH theo nguyên tắc "lấy số đông bù số ít". - Trong thời gian từ nay đến khi Luật BHXH được ban hành và có hiệu lực thi hành, các Bộ, ngành và cơ quan của Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ của mình sớm ban hành văn bản hướng dẫn theo thẩm quyền và cần đề xuất với Chính phủ sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh các chế độ, chính sách BHXH phù hợp, sâu sát với thực tiễn, đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta; bảo đảm thực sự công bằng cho mọi người lao động có tham gia BHXH, kể cả đối với những người lao động trong các lĩnh vực đặc thù. 3.3.2. Về quản lý quỹ BHXH. - Nghiên cứu điều chỉnh nâng mức đóng BHXH để vừa đảm bảo tăng thu cho quỹ BHXH nhưng cũng phải phù hợp với khả năng đóng BHXH của người lao động, việc này cần phải được tính toán một cách khoa học và kỹ lưỡng để xác định một tỷ lệ đóng phù hợp và có biện pháp điều chỉnh tỷ lệ đóng nhằm đảm bảo cân đối quỹ lâu dài, không ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của người tham gia đóng góp BHXH. Quá trình điều chỉnh tỷ lệ đóng BHXH có thể được thực hiện dần dần với biên độ phù hợp với nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế và khả năng phát triển của xã hội; - Thực hiện chế độ đóng BHXH bắt buộc đối với nguời lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế, đồng thời cũng tạo điều kiện tăng quy mô quỹ BHXH cũng như giảm nhẹ gánh nặng chi NSNN cho các chương trình xã hội và lao động việc làm; cần ngăn chặn kịp thời các thủ đoạn trốn, tránh đóng BHXH của một số cơ quan, đơn vị; - Thực hiện đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với dịch vụ BHXH nhằm huy động sự tham gia của các nguồn lực khác trong xã hội, chống độc quyền và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình dịch vụ BHXH; - Đổi mới và hoàn thiện cơ chế tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt nam theo hướng gắn thu nhập với kết quả hoạt động, không sử dụng tiền thu BHXH của người lao động để chi cho bộ máy quản lý theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả. Cần sớm ban hành tiêu chuẩn, định mức chi tiêu, nhất là các khoản chi đặc thù đối với Bảo hiểm xã hội Việt nam, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát sử dụng quỹ BHXH nhằm ngăn ngừa mọi thất thóat, tiêu cực. - Đa dạng hóa các hình thức đầu tư của BHXH đảm bảo nguyên tắc đầu tư an toàn, hiệu quả kinh tế cao hơn hiện nay; đẩy mạnh việc thăm dò và tìm kiếm thị trường đầu tư có hiệu quả kinh tế và ít rủi ro; nghiên cứu và xác định rõ tỷ lệ tối đa cho phép quỹ BHXH được đầu tư vào lĩnh vực có tỷ lệ rủi ro cao. - Về phía Nhà nước, cần tạo điều kiện cho BHXH tham gia vào dự án có mức sinh lời cao, tham gia vào thị trường vốn có nhiều hình thức khác nhau để giúp quỹ BHXH có thể tăng trưởng nhanh, bền vững và an toàn. - Đề nghị Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thực hiện thanh tra và xử phạt đối với những hành vi vi phạm về thực hiện các chế độ BHXH, về trách nhiệm thu nộp, chi trả các chế độ BHXH đối với chủ sử dụng lao động và người lao động có vi phạm. - Nâng mức phạt bằng tiền cao hơn gấp từ 5 lần đến 10 lần so với quy định hiện hành trong Nghị định 38/CP ngày 25/06/1996 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động đối với những hành vi vi phạm chính sách BHXH. - Thực hiện phạt tiền đối với các đơn vị chậm nộp BHXH (kể cả trường hợp kiểm tra phát hiện phải truy thu BHXH) đối với đơn vị sử dụng lao động gấp hai lần so với lãi suất của ngân hàng thương mại cho vay cùng thời hạn vay. Thực hiện nhờ thu qua (hệ thống Ngân hàng hoặc Kho bạc nhà nước) không cần chấp nhận của các đơn vị sử dụng lao động khi họ cố tình chậm nộp BHXH. - Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng và ứng dụng hệ thống thông tin hiện đại vào mọi hoạt động của ngành BHXH, đảm bảo cho việc quản lý, điều hành, thống kê, lưu trữ được chính xác,... để từ đó có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành BHXH. KẾT LUẬN Là một trong những chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước, có vai trò quan trọng trong quá trình quản lý xã hội của Nhà nước, BHXH đã và đang góp phần vào việc ổn định đời sống của nhân dân, ổn định xã hội. Qua gần 10 năm hoạt động, Bảo hiểm xã hội Việt nam đã đạt được những bước tiến quan trọng cả về quy mô và chất lượng. Kết quả đạt được trong thời gian qua là nhờ sự nỗ lực phấn đấu của toàn ngành BHXH cũng như việc không ngừng đổi mới, hoàn thiện công tác quản lý thu, chi Quỹ BHXH để tăng thu, tiết kiệm chi, tăng tích lũy vào Quỹ BHXH, góp phần ổn định cân đối Quỹ BHXH. Tuy nhiên, trạng thái cân đối của Quỹ BHXH trong những năm vừa qua đang tiềm ẩn những nguy cơ ảnh hưởng đến khả năng cân đối dài hạn của Quỹ BHXH nói riêng và hạn chế vai trò của hoạt động BHXH nói chung trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Với khả năng nghiên cứu và vốn hiểu biết của mình, tác giả Luận văn hy vọng sẽ đóng góp cho các nhà hoạch định chính sách về BHXH những giải pháp, những bước đi đúng đắn và hợp lý nhằm ổn định và kéo dài "tuổi thọ" của Quỹ BHXH. Trong Luận văn: "Giải pháp đảm bảo cân đối quỹ BHXH ở Việt nam", tác giả đã phân tích những ưu điểm và nhược điểm hiện tại của công tác quản lý thu - chi và cân đối quỹ BHXH; tìm ra những nguyên nhân và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để khắc phục những tồn tại, góp phần mở rộng khả năng cân đối lâu dài của quỹ BHXH. Dự kiến Luận văn sẽ đạt được kết quả là: hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về quỹ BHXH và cân đối quỹ BHXH; đánh giá thực trạng về hoạt động quản lý thu, chi và cân đối quỹ BHXH ở Việt nam. Trên cơ sở phân tích khoa học và tổng kết kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn, đưa ra những quan điểm, nguyên tắc, giải pháp để khắc phục những hạn chế, vướng mắc, từ đó góp phần hoàn thiện nội dung, phương thức quản lý và cân đối quỹ BHXH trong thời gian tới. Hy vọng những kết quả đã đạt được của Luận văn sẽ góp phần hoàn thiện chính sách BHXH, tổ chức thực hiện chính sách BHXH và hoạt động quản lý cân đối quỹ BHXH; góp phần quan trọng đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 150 câu hỏi và trả lời về BHXH Việt nam và văn bản hướng dẫn thi hành - Nhà XB Thống kê. 2 Tạp chí lao động và xã hội các năm: 1998, 1999, 2000, 2001, 2002, 2003 và 2004. 3 Tạp chí BHXH các số năm 2002, 2003, 2004. 4. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (1999), Quyết định số 2902/1999/QĐ-BHXH ngày 23 tháng 11 năm 1999 về việc ban hành quy định quản lý thu BHXH thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam. 5. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2000), Văn bản số 21/BHXH-HĐQL ngày 28 tháng 12 năm 2000 về việc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển ngành BHXH. 6. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (1999), Quyết định số 2903/1999/QĐ-BHXH ngày 24 tháng 11 năm 1999 về việc ban hành quy định quản lý chi trả các chế độ BHXH thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam. 7. Bộ lao động -Thương binh và Xã hội (1993), Một số công ước của tổ chức lao động quốc tế (ILO), Hà Nội. 8. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (1999), Thuật ngữ lao động, thương binh và xã hội, Tập 1, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội. 9. Bộ luật lao động của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Bộ Tài chính - Tổng Công đoàn Việt Nam (1962), Thông tư liên bộ số 17- TT/LB ngày 9 tháng 6 năm 1962 hướng dẫn cách thức tính nộp kinh phí cho quỹ BHXH. 11. Bộ Tài chính (1998), Thông tư số 85/1998/TT-BTC ngày 25 tháng 6 năm 1998 hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam. 12. Bộ Tài chính (1998), Thông tư số 66/2001/TT-BTC ngày 22 tháng 8 năm 2001 hướng dẫn sửa đổi một số điều của Thông tư số 85/1998/TT-BTC ngày 25/6/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam. 13. Nguyễn Văn Châu (1996), Thực trạng quản lý thu BHXH hiện nay và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu, Đề tài khoa học cấp bộ, mã số 96-01-01/ĐT. 14. Chính phủ (1993), Nghị định số 43-CP ngày 22 tháng 6 năm 1993 quy định tạm thời chế độ BHXH. 15. Chính phủ (1993), Nghị định số 66-CP ngày 30 tháng 9 năm 1993 quy định tạm thời chế độ BHXH đối với lực lượng vũ trang. 16. Chính phủ (1995), Nghị định số 12-CP ngày 26 tháng 1 năm 1995 về việc ban hành Điều lệ BHXH. 17. Chính phủ (1995), Nghị định số 19-CP ngày 26 tháng 2 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam. 18. Chính phủ (1995), Nghị định số 45-CP ngày 15 tháng 7 năm 1995 về việc ban hành Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân. 19. Chính phủ (1996), Nghị định số 38/CP ngày 25 tháng 6 năm 1996 quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động. 20. Chính phủ (1998), Nghị định số 93/1998/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 1998 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ. 21. Chính phủ (1999), Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8 tháng 7 năm 1999 về việc ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. 22. Chính phủ (1999), Nghị định số 14/1999/NĐ-CP ngày 5 tháng 5 năm 1999 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ. 23. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 54 ngày 3 tháng 11 năm 1945. 24. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (1947), Sắc lệnh số 29 ngày 12 tháng 3 năm 1947. 25. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 76-SL ngày 20 tháng 5 năm 1950. 26. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 77 ngày 22 tháng 5 năm 1950. 27. Nguyễn Tấn Dũng (1998), "Sự nghiệp BHXH là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta", Thông tin Bảo hiểm xã hội, (3), tr 3-5. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Hội đồng Bộ trưởng (1985), Nghị định số 236-HĐBT nộp BHXH ngày 18 tháng 9 năm 1985 về việc bổ sung, sửa đổi một số chế độ, chính sách về thương binh và xã hội. 30. Hội đồng Bộ trưởng (1986), Quyết định 131-HĐBT ngày 30 tháng 10 năm 1986 về việc sửa đổi tỷ lệ tính nộp kinh phí BHXH do Tổng Công đoàn Việt Nam quản lý. 31. Hội đồng Bộ trưởng (1989), Quyết định số 176-HĐBT ngày 19 tháng 10 năm 1989 về sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh. 32. Hội đồng Bộ trưởng (1990), Quyết định số 60-HĐBT ngày 01 tháng 3 năm 1990 về việc sửa đổi chế độ trợ cấp đối với công nhân viên chức nghỉ việc vì mất sức lao động. 33. Hội đồng Bộ trưởng (1998), Quyết định số 40/HĐBT ngày 16 tháng 3 năm 1998 về việc sửa đổi tỷ lệ tính nộp kinh phí BHXH do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý. 34. Hội đồng Chính phủ (1961), Nghị định số 218-CP ngày 27 tháng12 năm 1961 ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước. 35. Hội đồng Chính phủ (1962), Nghị định số 39/CP ngày 23 tháng 3 năm 1962 quy định nội dung thu chi quỹ BHXH. 36. Hội đồng Chính phủ (1963), Nghị định số 31/CP ngày 10 tháng 3 năm 1963 về việc điều chỉnh một số nhiệm vụ giữa Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, Bộ Công an, Bộ Y tế và Tổng Công đoàn Việt Nam. 37. Hội đồng Chính phủ (1975), Quyết định số 130-CP ngày 20 tháng 6 năm 1975 bổ sung chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã. 38. Hội đồng Chính phủ (1994), Quyết định số 62/CP ngày 10 tháng 4 năm 1994 về việc tính nộp một phần quỹ BHXH giao cho Bộ Nội vụ quản lý. 39. Liên bộ Lao động- Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính (1998), Thông tư liên bộ số 11/TT-LB ngày 9 tháng 6 năm 1998 hướng dẫn thu nộp BHXH do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội quản lý. 40. Liên bộ Tài chính - Lao động-Thương binh và Xã hội (1989), Thông tư liên bộ số 22/TT-LB ngày 16 tháng 6 năm 1989 sửa đổi phưng pháp nộp BHXH do ngành Lao động-Thương binh và Xã hội. 41. Liên bộ Tài chính - Lao động- Thương binh và Xã hội (1994), Thông tư liên bộ số 19 ngày 7 tháng 3 năm 1994 hướng dẫn tạm thời về thu quỹ 15% BHXH do ngành Lao động-Thương binh và Xã hội quản lý. 42. Liên bộ Tài chính - Lao động-Thương binh và Xã hội (1990), Thông tư liên bộ số 29/TT-LB ngày 25 tháng 7 năm 1990 hướng dẫn việc cấp phát và quản lý các khoản lương hưu, trợ cấp thương binh- xã hội. 43. Liên bộ Tài chính - Lao động- Thương binh và Xã hội (1994), Thông tư liên bộ số 33/TT-LB ngày 14 tháng 4 năm 1994 hướng dẫn bổ sung Thông tư số 19 TT/LB ngày 7/3/1994 về việc quản lý thu- chi quỹ BHXH do ngành Lao động- Thương binh và Xã hội quản lý. 44. Thủ tướng Chính phủ (1995), Quyết định số 606/TTg ngày 29/6/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. 45. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 37/2001/QĐ-TTg ngày 21 tháng 3 năm 2001 về việc nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ cho người lao động tham gia BHXH. 46. Tổng Công đoàn Việt Nam (1962), Quy định số 364/QĐ ngày 2 tháng 4 năm 1962 về nguyên tắc quản lý và chi tiết về nội dung thu chi quỹ BHXH Nhà nước. 47. Giáo trình Kinh tế bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế quốc dân. 48. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm - Trường ĐHKTQD. 49. Hệ thống các văn bản hiện hành về BHXH - xuất bản năm 1995. 50. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Báo cáo quyết toán ngân sách từ năm 1995 đến năm 2004. DANH MỤC BẢNG STT Tên bảng Trang Bảng 1 Số liệu thống kê lao động tham gia lao động đến tháng 12/2004 41 Bảng 2 Tổng hợp tình hình thu Quỹ Hưu trí và trợ cấp 42 Bảng 3 Số người tham gia Bảo hiểm Y tế từ năm 1998 đến năm 2004 43 Bảng 4 Tình hình thu Bảo hiểm Y tế từ năm 1998 đến năm 2004 44 Bảng 5 Đối tượng giải quyết mới hàng năm. 48 Bảng 6 Đối tượng hưởng chế độ BHXH hàng tháng 49 Bảng 7 Cơ cấu nguồn chi BHXH từ năm 1996 đến năm 2004 51 Bảng 8 Khám chữa bệnh và số thanh toán BHYT qua các năm 52 Bảng 9 Tổng hợp cân đối Quỹ Hưu trí và trợ cấp qua các năm 55 Bảng 10 Tình hình cân đối Quỹ Khám chữa bệnh 56 Bảng 11 Tình hình thu chi BHXH do BHXH Việt Nam quản lý. 61 Bảng 12 Dự tính cân đối quỹ Hưu trí và tử tuất 63 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. BHXH: Bảo hiểm xã hội 2. NSNN: Ngân sách nhà nước MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢM BẢO CÂN ĐỐI QUỸ BHXH 4 1.1. Những vấn đề cơ bản về Quỹ Bảo hiểm xã hội 4 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của quỹ BHXH 4 1.1.2. Nguồn thu của quỹ BHXH 7 1.1.3. Chi của quỹ BHXH 9 1.1.4. Vai trò của quỹ BHXH trong hệ thống tài chính của Nhà nước ta 10 1.2. Đảm bảo cân đối Quỹ BHXH 14 1.2.1. Khái niệm cân đối Quỹ BHXH 14 1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đảm bảo cân đối quỹ BHXH 15 1.2.2.1. Những nhân tố tác động đến nguồn thu của Quỹ BHXH 15 1.2.2.2. Những nhân tố tác động đến chi Quỹ BHXH 17 1.3. Khái quát về mô hình Quỹ BHXH của một số nước trên thế giới và một số kinh nghiệm đối với nước ta về quản lý và cân đối Quỹ BHXH 19 1.3.1. Khái quát về mô hình quỹ BHXH. 19 1.3.2. Một số nhận xét qua khảo sát tình hình quản lý và sử dụng quỹ BHXH của các nước trên thế giới. 21 1.3.3. Một số kinh nghiệm cần tham khảo trong quá trình tổ chức quản lý và cân đối quỹ BHXH đối với nước ta 23 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO CÂN ĐỐI QUỸ BHXH Ở VIỆT NAM 24 2.1. Khái quát về quỹ BHXH ở Việt nam 24 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Quỹ BHXH ở Việt nam 24 2.1.2. Về tổ chức bộ máy quản lý quỹ BHXH 30 2.2. Thực trạng cân đối quỹ BHXH ở Việt nam 32 2.2.1. Thực trạng thu BHXH 33 2.2.1.1. Đối tượng thu của Quỹ BHXH 33 2.2.1.2. Nguồn hình thành và mức đóng BHXH 36 2.2.1.3. Đối tượng tham gia BHXH và tình hình thu Quỹ BHXH: 40 2.2.2. Thực trạng chi Quỹ BHXH: 44 2.2.2.1. Những nội dung chi từ Quỹ BHXH 44 2.2.2.2. Thực trạng chi BHXH 46 2.2.2.3. Thực trạng cân đối Quỹ BHXH 52 2.3. Đánh giá thực trạng cân đối quỹ BHXH ở Việt nam 59 CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CÂN ĐỐI QUỸ BHXH Ở VIỆT NAM 66 3.1. Định hướng phát triển quỹ BHXH ở Việt nam 66 3.1.1. Mô hình quản lý quỹ BHXH. 66 3.1.2. Chính sách tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. 67 3.1.3 Quản lý cân đối quỹ BHXH. 68 3.2. Giải pháp đảm bảo cân đối quỹ BHXH lâu dài ở Việt nam 71 3.2.1. Nhóm giải pháp về phương thức hỗ trợ từ NSNN cho Quỹ BHXH 71 3.2.2. Nhóm giải pháp về chế độ chính sách: 72 3.2.3. Nhóm giải pháp về công tác quản lý Quỹ BHXH 78 3.3. Một số kiến nghị 85 KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN LÊ MINH CHÂU GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CÂN ĐỐI QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH, LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ TÍN DỤNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN NGÔ THỊ HOÀI THU Hà nội, năm 2005 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCH1258.doc
Tài liệu liên quan