Giải pháp thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu sản Xuất nông nghiệp theo hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2006 - 2015 (102tr)

Lời mở đầu ở các nước đang phát triển cũng như ở Việt Nam, nông nghiệp là nguồn sống của đại đa số dân cư. Vai trò của nông nghiệp được thể hiện qua năm hình thức cơ bản: Cung cấp sản phẩm cho sản xuất và xuất khẩu; là thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp; cung cấp lao động cho các lĩnh vực kinh tế; xuất khẩu sản phẩm tạo nguồn ngoại tệ cho công nghiệp hoá và góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước, đảm bảo an toàn lương thực, nâng cao hiệu quả việc sử dụng

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu sản Xuất nông nghiệp theo hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2006 - 2015 (102tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nguồn tài nguyên, xoá đói giảm nghèo và ổn định đời sống kinh tế - xã hội. Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển 10 năm 2001 - 2010 ở Việt Nam đã nêu: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ , kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của đất nước ta trên thị trường quốc tế được nâng cao. Để thực hiện mục tiêu đề ra phải phát triển đồng bộ tất cả các ngành kinh tế, đối với nông nghiệp phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng. Giảm tỷ trọng nông nghiệp tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, sự phát triển kinh tế chung của đất nước là sự đóng góp của tất cả các vùng, các tỉnh trong cả nứơc. Đối với tỉnh Phú Thọ nói riêng, để góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp trên cả nước, tỉnh Phú Thọ đã đề ra định hướng phát triển nông nghiệp : " Phát triển nông nghiệp toàn diện bền vững, hiệu quả. Đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn, gắn với thị trường theo hướng CNH - HĐH, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá, hình thành cơ chế kết hợp và thúc đẩy lẫn nhau giữa sản xuất - chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Phát triển ngành nghề nông thôn, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, làm giàu cho tỉnh và từng bước cải thiện đời sống người lao động và tăng thu nhập". Để sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao, cần tìm ra các giải pháp nhằm đưa nông nghiệp phát triển đi lên đạt mục tiêu đã đề ra. Trong các giải pháp thực hiện nhằm phát triển nông nghiệp thì giải pháp về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một trong các giải pháp quan trọng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là hoạt động nhằm đa dạng sinh học, đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội. Chủ trương này đã được Nghị quyết Trung Ương V khoá VII nêu thành một định hướng lớn và đại hội VIII một lần nữa khẳng định là một giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn trong nhịp cầu đi lên công nghiệp hoá. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là biện pháp cơ bản để tạo ta nhiều việc làm, sản xuất ra nhiều của cải, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thêm giá trị hàng hoá xuất khẩu qua đó góp phần đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên trong thời gian qua, cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ còn nhiều bất cập, cơ cấu nông nghiệp nông thôn thời gian qua chuyển dịch chậm chưa theo sát thị trường, chuyển dịch sản xuất nông nghiệp nông thôn tổng thể ngành tích cực nhưng trong nội bộ ngành còn chậm và chưa hợp lý. Do đó chưa phát huy mạnh vai trò của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đối với sự phát triển của nông nghiệp. Trước yêu cầu cấp bách về phát triển nông nghiệp của tỉnh và nhận thức được tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đối với sản xuất nông nghiệp, em lựa chọn đề tài: "Giải pháp thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2006 - 2015". Chuyên đề gồm 3 chương: Chương I :Vai trò của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đối với phát triển kinh tế. Chương II : Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2001 - 2005 Chương III: Giải pháp chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2006 - 2015. Với khả năng và lượng kiến thức có hạn, luận văn còn nhiều sai sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô, của bạn đọc để em có thể làm tốt hơn trong những bài sau. Em xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Ngọc Linh đã giúp em hoàn thành luận văn này. Chương I : Vai trò của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đối phát triển kinh tế. 1.Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp 1.1. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp: Cơ cấu sản xuất nông nghiệp là mối quan hệ tỉ lệ giữa các bộ phận hợp thành một tổng thể ngành trong sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp gồm cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần, những cơ cấu này có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau. Cơ cấu ngành nông nghiệp là sự phản ánh cao nhất sự tiến bộ của phân công lao động xã hội và trình độ phát triển sản xuất trong nông nghiệp, nhưng nó được thể hiện trên những vùng lãnh thổ nhất định. Cơ cấu ngành nông nghiệp phát triển tiến bộ mang lại sự biến đổi cơ cấu trên các vùng lãnh thổ. Cơ cấu lãnh thổ là sự biểu hiện về mặt không gian của cơ cấu ngành. Tương tự như vậy, cơ cấu thành phần phản ánh tỷ lệ các loại sở hữu trong tổng thể chung cũng như trong các ngành và trên những vùng lãnh thổ và sự cạnh tranh trong quá trình phát triển của các thành phần kinh tế cũng tác động lại sự biến đổi cơ cấu ngành. Trong các loại cơ cấu này, cơ cấu ngành có ý nghĩa quan trọng đến sự phát triển sản xuất nông nghiệp cũng như sự phân công lao động xã hội. Trong nông nghiệp cơ cấu sản xuất truyền thống bao gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng, nghề cá. Bản thân mỗi ngành này lại bao gồm những phân ngành nhỏ hơn. Trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cơ cấu các ngành trong nó cũng vận động, biến đổi và không ngừng mở rộng. Ngoài các ngành truyền thống, cơ cấu nông nghiệp còn có thêm các ngành tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, dịch vụ nông nghiệp. Ngày nay, do trình độ chuyên môn hoá ngày càng sâu, sự phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết thì những ngành trong nông nghiệp tiếp tục được mở rộng. Cơ cấu ngành trong nông nghiệp thường được biểu hiện bằng các quan hệ tỉ lệ giữa trồng trọt và chăn nuôi; giữa cây lương thực và cây công nghiệp - rau quả; giữa chăn nuôi gia súc và chăn nuôi gia cầm; giữa sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn… 1.2. Cơ sở lý luận của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân nói chung và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội của mọi quốc gia. Đó là biệp pháp cơ bản để tạo ra nhiều việc làm, sản xuất ra nhiều của cải, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thêm giá trị hàng hoá xuất khẩu. Qua đó góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hóa đất nước. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng đã được hai nhà kinh tế học là E.Engel và A.fisher nghiên cứu khi đề cập đến sự thay đổi về nhu cầu chi tiêu và sự thay đổi cơ cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỉ 19, E.Engel đã nhận thấy rằng, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm giảm đi nên tất yếu dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật E.Engel được nghiên cứu cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu tiêu dùng cho các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển của các nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm giảm, chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp có tốc độ tăng nhanh hơn. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, bao gồm nông - lâm - thủy sản. Trong nông nghiệp có trồng trọt và chăn nuôi, trong trồng trọt lại có trồng cây lương thực, cây ăn quả, cây công nghiệp và các dịch vụ nông nghiệp như dịch vụ giống cây trồng, dịch vụ thuỷ lợi, dịch vụ phân bón…Trong chăn nuôi có chăn nuôi gia súc, gia cầm. Lâm nghiệp và thuỷ sản tạo ra giá trị kinh tế cao. Sản xuất nông nghiệp tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người. Do đó, cơ cấu sản xuất nông nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của nhu cầu thị trường. Như khi thu nhập của nhân dân tăng lên sẽ tác động đến cơ cấu bữa ăn : Tỷ lệ chất bột giảm, tỷ lệ thịt, trứng, sữa tăng và ngay trong cùng loại sản phẩm như gạo thì nhu cầu về gạo ngon có chất lượng cao ngày càng tăng. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp có xu hướng tăng dần tỷ trọng lâm nghiệp và thuỷ sản, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp ( trồng trọt - chăn nuôi). Trong cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi, đây là hai ngành chủ yếu của nông nghiệp. Trồng trọt cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp, thức ăn cho chăn nuôi, sản phẩm cho xuất khẩu. Chăn nuôi cung cấp những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như trứng, thịt, sữa… đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, cung cấp nguyên, vật liệu quan trọng cho công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm và một số ngành công nghiệp khác ( hoá chất, dược liệu…). Nó cung cấp nguồn hàng xuất khẩu quan trọng ở nhiều nước đang phát triển, cũng như ở Việt Nam hiện nay chăn nuôi còn cung cấp sức kéo cho trồng trọt. Trong nền kinh tế nông nghiệp truyền thống, trồng trọt chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất nông nghiệp, bởi vì sản phẩm của nó đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất cho đời sống nhân dân. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, nhu cầu sản phẩm chăn nuôi ngày càng gia tăng làm cho tỷ trọng ngành chăn nuôi có xu hướng tăng lên. ở Việt Nam, ngành trồng trọt vẫn giữ vai trò chủ đạo, tỉ trọng ngành chăn nuôi có tăng nhưng còn chậm. Trong nội bộ ngành trồng trọt, cơ cấu chủ yếu là giữa cây lương thực với cây công nghiệp rau, quả. Lương thực là bộ phận cấu thành chủ yếu trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày của con người. Lương thực đã và sẽ giữ vai trò chủ yếu, lâu dài trong nguồn thực phẩm mà không thể thay thế được. Tuy nhiên xu hướng chung, cơ cấu bữa ăn sẽ dần thay đổi theo hướng giảm bớt lương thực. Cây công nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ ( công nghiệp dệt, thực phẩm, dược liệu, hoá chất…). Những ngành công nghiệp này lại là những ngành thu hút nhiều lao động, do đó phát triển những ngành này sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Cây ăn quả có tác dụng làm rừng phòng hộ và phát triển nuôi ong… Nhu cầu về rau, hoa quả, cây cảnh ngày càng có xu hướng tăng lên cả trong nhu cầu bữa ăn cũng như trong đời sống xã hội. Chăn nuôi gia súc, gia cầm là một hoạt đông sản xuất quan trọng trong nông nghiệp. ở Việt Nam, trâu, bò, lợn, gà, vịt thường được nuôi phổ biến. Ngoài ra các vật nuôi khác như ngựa, dê, ngan, ngỗng… tuy còn nhỏ bé nhưng cũng góp phần đa dạng hoá sản phẩm. Đặc điểm của việc phát triển chăn nuôi phản ánh điều kiện và thế mạnh của từng vùng. Cơ cấu các loại gia súc, gia cầm có sự chuyển dịch theo hướng tăng các loại gia súc, gia cầm có giá trị phục vụ tiêu dùng với chất lượng cao và xuất khẩu. Cụ thể, thời gian qua ở Việt Nam là giảm tỷ trọng đàn lợn, tăng tỷ trọng đàn bò và gia cầm, nhưng sự chuyển dịch này rất chậm. Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel, quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher cũng làm rõ xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế qua việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, năng suất lao động trong nông nghiệp tăng nhanh nhất, năng suất lao động trong công nghiệp tăng chậm hơn và năng suất lao động trong dịch vụ tăng chậm nhất . Kết quả là, để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là tỷ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm. Lao động trong nông nghiệp được giải phóng và thu hút vào ngành công nghiệp, dịch vụ. Tỷ lệ lao động được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ. Theo nghiên cứu của A.Fisher thì cơ cấu lao động nông nghiệp cũng có sự thay đổi, tỷ lệ lao động trực tiếp sản xuất nông nghiệp giảm, lao động chuyển sang công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phục vụ nông nghiệp như: công nghiệp cơ khí, điện, thủy lợi , công nghiệp chế biến…và dịch vụ nông nghiệp như: dịch vụ giống, dịch vụ phân bón, dịch vụ thuốc trừ sâu, dịch vụ kỹ thuật... Sự tác động của các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cùng với dịch vụ làm cho trong mỗi sản phẩm nông nghiệp thì hàm lượng tác động của sản xuất công nghiệp nhiều hơn; chịu sự chi phối của yếu tố dịch vụ nông nghiệp nhiều hơn. Như vậy, theo E.Engel thì khi thu nhập tăng lên tác động trực tiếp đến nhu cầu của thị trường, điều này lại tác động tới sản xuất nông nghiệp, cơ cấu sản xuất nông nghiệp thay đổi đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Vậy khi thu nhập tăng lên dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp giảm, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng. Sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ lại tạo ra máy móc và các phương thức canh tác hiện đại hơn làm tăng năng suất lao động, nhất là trong nông nghiệp, năng suất lao động nông nghiệp tăng nhanh nhất.Khi đó theo quy luật tăng năng suất của A.Fisher thì cơ cấu lao động trong nông nghiệp cũng sẽ thay đổi. Khi đó thu nhập của ngừơi dân lại tăng lên. Quá trình này tất yếu dẫn đến chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow cũng chỉ ra xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng. Cuốn " Các giai đoạn phát triển kinh tế" của W.Rostow đã tạo ra sự quan tâm lớn về nghiên cứu quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước. Theo W.Rostow, nhìn chung quá trình phát triển kinh tế của một nước có thể chia ra 5 giai đoạn : xã hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, trưởng thành và mức tiêu dùng cao (1).Xã hội truyền thống, đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là : sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh tế. Năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, khoa học - kỹ thuật chưa phát triển mạnh. Hoạt động chung của xã hội kém linh hoạt, sản xuất nông nghiệp còn mang tính tự cung tự cấp, sản xuất hàng hoá chưa phát triển. (2). Giai đoạn chuẩn bị cất cánh được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống và sự cất cánh. Trong giai đoạn này những điều kiện cần thiết để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện. Đó là những hiểu biết về khoa học - kỹ thuật đã bắt đầu được áp dụng vào sản xuất cả trong nông nghiệp và công nghiệp. Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến phù hợp với những yêu cầu mới của sự phát triển. Nhu cầu đầu tư tăng lên thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vốn. Tiếp đó giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước phát triển đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao thông vận tải thông tin liên lạc. Tuy vậy tất cả các hoạt động này chưa vượt qua được phạm vi giơí hạn của một nền kinh tế với những đặc trưng của phương thức sản xuất truyền thống, năng suất lao động thấp. Xã hội truyền thống vẫn tồn tại song song với các hoạt động kinh tế hiện đại đang phát triển. Đây là giai đoạn nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Cơ cấu ngành kinh tế tương ứng là Nông nghiệp - Công nghiệp. (3). Giai đoạn cất cánh là giai đoạn trung tâm của sự phân tích các giai đoạn phát triển của W. Rostow, là gia đoạn mà lực cản của xã hội truyền thống và các thế lực chống đối với sự phát triển đã bị đẩy lùi. Các lực lượng tạo ra sự tiến bộ về kinh tế đang lớn mạnh và trở thành lực lượng thống trị xã hội. Đây là giai đoạn nền kinh tế bao gồm Công nghiệp - Nông nghiệp - dịch vụ. Những phát triển ban đầu của công nghiệp và dịch vụ có tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Khi công nghiệp và dịch vụ phát triển làm nền kinh tế của đất nước cũng phát triển hơn, thu nhập của người dân cũng tăng lên. Và theo nghiên cứu của E.Engel điều này lại tác động tới cơ cấu sản xuất nông nghiệp như đã phân tích ở trên. (4). Giai đoạn trưởng thành: Nhiều ngành công nghiệp mới, hiện đại phát triển; nông nghiệp được cơ giới hóa, đạt được năng suất lao động cao; nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nước hoà dòng vào thị trường quốc tế. Khi đó theo quy luật tăng năng suất của A.Fisher tỷ lệ lao động trong các ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm, tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ tăng và cơ cấu lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp cũng thay đổi. Giai đoạn này cơ cấu ngành kinh tế thích ứng là Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp. (5). Giai đoạn mức tiêu dùng cao: Trong giai đoạn này có hai xu hướng cơ bản về kinh tế. Thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, tới mức phần lớn dân số có nhu cầu tiêu dùng vượt quá đòi hỏi cơ bản về ăn, mặc, ở; thứ hai là cơ cấu lao động thay đổi theo chiều hướng tăng dần tỷ lệ dân cư đô thị và tăng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao; về mặt xã hội các chính sách kinh tế hướng vào phúc lợi xã hội nhằm tạo ra nhu cầu cao về hàng tiêu dùng lâu bền và các dịch vụ xã hội của các nhóm dân cư. Cơ cấu ngành kinh tế thích ứng là: Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp. Cùng với các giai đoạn phát triển kinh tế của một đất nước thì cơ cấu kinh tế cũng có sự thay đổ , giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Và theo xu hướng đó cùng với sự phát triển ngày càng cao của xã hội thì cơ cấu sản xuất nông nghiệp cũng thay đổi. Mặt khác, vấn đề công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là vấn đề lớn, có ý nghĩa quyết định đến thành công của nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đắt nước. Yêu cầu của công nghiệp hoá đòi hỏi sản xuất nông nghiệp phải đồng thời thực hiện ba nhiệm vụ sau: Một là, trong sản xuất nông nghiệp các biện pháp kỹ thuật phải được áp dụng rộng rãi, bao gồm cả điện khí hoá, cơ giới hoá, thủy lợi hoá, sinh học hoá, đồng thời các biện pháp tổ chức dịch vụ phải được phối hợp trong các hình thức hợp tác xã mới và tổ chức trang trại thích hợp để cho diện tích đất khai thác của một đơn vị sản xuất được mở rộng phù hợp với phương thức công nghiệp. Thực hiện tốt điều này sẽ làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp, thu nhập của người dân cũng tăng thoả mãn nhu cầu trong nước và trên thế giới. Khi thu nhập và năng suất lao động trong nông nghiệp tăng, theo nghiên cứu của E.Engel và A.Fisher thì điều này sẽ làm cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch tích cực đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Hai là, công nghiệp vùng nông thôn phải được tạo dựng và phát triển, vừa để phục vụ đầu vào và đầu ra của nông nghiệp, vừa để giải quyết việc làm và nghề nghiệp mới cho lao động dôi dư và mới tăng thêm. Đây là vấn đề lớn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Một phần dôi dư trên có thể bổ sung cho đô thị và các khu công nghiệp mới, nhưng phần lớn vẫn ở lại vùng nông thôn nhưng chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Việc phát triển công nghiệp nông thôn cũng tác động trực tiếp đến cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Vì khi đó, sự tác động của công nghiệp và dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều, hàm lượng sản xuất công nghiệp và chịu sự chi phối của yếu tố dịch vụ trong mỗi sản phẩm nông nghiệp nhiều hơn. Tỷ lệ lao động trong nông nghiệp cũng thay đổi. Tỷ lệ lao động trực tiếp sản xuất nông nghiệp giảm, lao động chuyển sang công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp. Ba là, vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới, cần mở rộng mạng lưới đường xá ( kể cả đường thủy) nối các vùng nông thôn với đô thị lớn và hải cảng để tạo điều kiện thông thương cho hàng hoá cung ứng về nông thôn và hàng hoá nông thôn tiêu thụ ra ngoài. Vấn đề cung cấp điện và nước sạch, kể cả nước công nghiệp cũng cần quan tâm. Sự thuận lợi do cơ sở hạ tầng cũng tạo điều kiện cho cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp. Qua nghiên cứu của các nhà kinh tế học có thể khẳng định rằng xu hưóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là quy luật mang tính khách quan của tất cả các nước cũng như ở Việt Nam. 1.3. Cơ sở thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. * Môi trường quốc tế: - Nền kinh tế thế giới sau một thời kỳ giảm sút nay đang có xu hướng phục hồi và phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ 3 - 4%/năm, đặc biệt các nước là đối tác chính của nước ta có mức tăng trưởng kinh tế còn khá hơn, sẽ có những tác động tích cực đến sự phát triển nền kinh tế nước ta. Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ tới là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có tác động sâu sắc, nhiều chiều tới quá trình chuyển dịch cơ cấu, kinh tế, cải cách hành chính, tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế phát triển - xã hội của nước ta.Và tất yếu sẽ tác động tới sự phát triển của nông nghiệp bởi cho đến nay nông nghiệp vẫn là ngành chiếm ưu thế ở nước ta và cơ cấu sản xuất nông nghiệp sẽ có sự chuyển dịch theo hướng ngày càng tích cực hơn đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội, tiến tới công nghiệp hóa nông nghiệp ở nước ta và tiến lên con đường CNH - HĐH đất nước. - Bước vào thế kỷ XXI nền kinh tế thế giới sẽ chịu sự tác động sâu sắc mạnh mẽ của sự phát triển khoa học - công nghệ: công nghệ tin học, sinh học, năng lượng mới, vật liệu mới v.v... sẽ có tác dụng thúc đẩy các nước và thế giới phải cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu nội bộ mỗi ngành để đạt năng suất lao động cao. Nền kinh tế thế giới sẽ đạt được những thành tựu to lớn, nhưng cũng để lại một số hậu quả xấu về xã hội, môi trường (phân hóa giầu, nghèo, các tệ nạn xã hội v.v.. gia tăng). Trong xu thế đó, các nước đang phát triển như Việt Nam phải lựa chọn bước đi phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Hiện nay, các nước công nghiệp phát triển có xu hướng chuyển sang cơ cấu kinh tế hiện đại, xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức với những ngành công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng và công nghệ sạch. Đồng thời chuyển giao những ngành sử dụng nhiều lao động, có khả năng gây ô nhiễm, tốn nhiều năng lượng sang các nước đang phát triển. Trong những năm gần đây các nước phát triển và các nước công nghiệp mới có tình trạng thừa vốn, nên đã thúc đẩy họ chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài, trong đó họ quan tâm nhiều đến các quốc gia, lãnh thổ đang phát triển. Chính trong điều kiện đó, nước ta cần tranh thủ thời cơ để thu hút đầu tư bằng sự thông thoáng môi trường đầu tư, nhưng cần chú ý lựa chọn thu hút những công nghệ thích hợp và tranh thủ những lĩnh vực có điều kiện sớm đi nhanh vào công nghệ hiện đại nhất, gắn với việc sử dụng có hiệu quả năng lực nội sinh. Cần tính toán cụ thể để phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên, lao động, khả năng đất đai phát triển công nghiệp, đô thị và thị trường đang rộng mở v.v... Với xu thế đó nông nghiệp nước ta sẽ tiếp tục có thêm vốn đầu tư để phát triển, cơ cấu sản xuất nông nghiệp tất yếu sẽ có sự chuyển dịch để góp phần phát triển kinh tế nước nhà. * Môi trường trong nước: Môi trường nước ta là một môi trường hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, do nước ta còn nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, tình hình chính trị ổn định. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ trên thế giới thì càng ngày người ta càng tìm thấy nhiều loại cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn, dó đó sẽ có sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Nhận thức về sự cần thiết và tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp không phải mới được đề xuất trong những năm gần đây mà được nêu ra ngay sau khi đất nước ra khỏi chiến tranh bước vào thời kì phát triển kinh tế trong điều kiện hoà bình. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội IV của Đảng ( 12- 1976) đã viết: "Phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp… nhằm đảm bảo đủ lương thực dự trữ, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu… phát triển tất cả các vùng: đồng bằng, trung du, miền núi và miền biển, phát huy kinh doanh tổng hợp nghề rừng, trồng cây công nghiệp và chăn nuôi". Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới nông nghiệp và kinh tế nông thôn xét trên cả ba nghĩa. Thứ nhất, nó là kết quả của quá trình tháo gỡ thể chế cũ, giải phóng các tiềm năng, nguồn lực cho phát triển của mọi thành phần, lực lượng, mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Thứ hai, là động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo ra một trạng thái phân công lao động mới là tiền đề cho CNH và phát triển kinh tế thị trường ở khu vực này. Thứ ba, là con đường cơ bản để tạo thêm việc làm ở nông thôn ngoài lĩnh vực nông nghiệp, giúp người nông dân thoảt ra khỏi sự ràng buộc của thể chế cũ gắn chặt với nghề nông, với ruộng đất, thu nhập thấp, đời sống khó khăn, từng bước vươn lên làm giàu bằng ngành nghề, dịch vụ phi nông nghiệp. Làm nông nghiệp nhất là trồng trọt ở một nước đất chật, người đông thì đủ ăn đã khó, cho nên muốn làm giàu phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đa dạng hóa cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp, từng bước đưa chăn nuôi làm ngành sản xuất chính cân đối với trồng trọt. Để phát triển nông nghiệp vấn đề trước tiên là phải xây dựng một cơ cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý. Tuy nhiên có cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn nước ta còn một số bất cập. Đó là: + Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn vẫn mang nặng tính chất thuần nông, xét trên cả ba chỉ tiêu chủ yếu: Cơ cấu lao động, thu nhập và thu từ sản xuất kinh doanh. Thực trạng này không những bất cập so với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo tinh thần NQ TW V ( khóa VII) mà còn lạc hậu so với tinh thần của NQ 09/2000/NQ-CP của Chính Phủ về một số chủ trương chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trong giai đoạn CNH - HĐH. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay không những lạc hậu, chuyển dịch chậm mà còn không đồng đều giữa các vùng và các địa phương. + Cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản chuyển dịch chậm và không đều. Nhược điểm này trước hết và chủ yếu thể hiện rõ nét ở cơ cấu sản xuất và nội bộ khu vực nông - lâm nghiệp - thuỷ sản mở rộng trong từng ngành nông, lâm và thuỷ sản theo nghĩa hẹp. + Cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính độc canh, tự cấp tự túc, phân tán, quy mô nhỏ. Để khắc phục những bất cập về cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn hiện nay, cần thực hiện các giải pháp sau: -+ Củng cố thị trường đã có, mở rộng thị trường mới để tiêu thụ nông sản hàng hoá dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn. + Hoàn chỉnh quy hoạch sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản và ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn theo hướng kinh tế hàng hoá gắn với thị trường. + Đổi mới phương thức sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần gắn với chuyên môn hoá, tập trung hoá cao hơn. + ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất và dịch vụ nhằm tăng năng suất lao động, năng suất đất đai, chất lượng sản phẩm giảm chi phí sản xuất tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá và sản phẩm ngành nghề và dịch vụ nông thôn. + Tổng kết thực trạng, nhân rộng các mô hình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn đồng thời uốn nắn xu hướng lệch lạc, bảo thủ của hộ nông dân. + Đổi mới nội dung và phương pháp tuyên truyền, vận động hộ nông dân và hộ ngành nghề, dịch vụ nông thôn. + Tăng cường vai trò của Nhà nước: Các biện pháp khắc phục những bất cập trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay đều liên quan đến cơ chế, chính sách của Nhà nước. Tính khả thi của từng giải pháp riêng biệt cũng như hệ thống những giải pháp phụ thuộc vào cơ chế chính sách của Nhà nước. Vì vậy tăng cường vai trò của Nhà nước trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn nước ta trong giai đoạn CNH - HĐH là có ý nghĩa quyết định. - Nghiên cứu, rà soát lại các cơ chế và chính sách đã ban hành để bổ sung hoàn thiện nó phù hợp với yêu cầu và điều kiện hiện nay, đồng thời hợp lòng dân. - Đổi mới nội dung và phương pháp đầu tư trong nông nghiệp nông thôn. - Hoàn thiện cơ chế chính sách vĩ mô nhằm thu hút mạnh mẽ mọi nguồn vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài và ở nông thôn. Vậy để nông nghiệp thực sự đạt kết quả cao trong sản xuất phát huy vai trò đối với nền kinh tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp thì nhu cầu cấp thiết trong sản xuất nông nghiệp là cần phải có cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý. Muốn vậy, phải khắc phục được những bất cập trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Đứng trước tình hình đó, Nhà nước ta đã đề ra những quan điểm cơ bản về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong tương lai. * Những quan điểm cơ bản về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn đến năm 2010: + Quan điểm phát triển toàn diện và tăng trưởng bền vững. + Quan điểm kinh tế hàng hoá gắn với thị trường. + Quan điểm hiệu quả kinh tế và xã hội: một cơ cấu kinh tế hợp lý tất yếu phải đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. + Quan điểm kinh tế mở và hội nhập quốc tế. + Quan điểm công bằng xã hội. + Kết hợp truyền thống và hiện đại. + Cơ cấu kinh tế gắn với lao động nông thôn. + Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn gắn với quy hoạch, chất lượng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân cả nước. + Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn gắn với công nghiệp hoá, đô thị hoá và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. 2. Những yếu tố tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp: 2.1. Điều kiện tự nhiên: Đất đai, khí hậu, thời tiết, nguồn nước là tư liệu sản xuất chủ yếu của nông nghiệp. Quy mô và cơ cấu sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào qũy đất nông nghiệp trong tổng quỹ đất tự nhiên cũng như độ phì nhiêu và cấu tạo thể nhưỡng. Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề đầu tiên của mọi quá trình sản xuất. Đất đai tham gia vào tất cả mọi quá trìn._.h sản xuất của xã hội, nhưng tuỳ thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Trong nông nghiệp ruộng đất tham gia với tư cách yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Ruộng đất là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, nó xuất hiện và tồn tại ngoài ý muốn của con người, vì thế đất đai là tài sản quốc gia. Nhưng từ khi con người khai phá đất đai, đưa ruộng đất vào sử dụng nhằm phục vụ lợi ích của con người, trong quá trình lịch sử lâu dài, lao động của nhiều thế hệ được kết tinh ở trong đó thì ngày nay ruộng đất vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động. Trong nông nghiệp ruộng đất vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động. Ruộng đất là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác động vào đất làm cho đất thay hình đổi dạng như cày, bừa…quá trình đó làm tăng chất lượng của ruộng đất, tạo điều kiện thuận lợi để tăng năng suất cây trồng. Ruộng đất là tư liệu lao động khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác động lên đất thông qua các thuộc tính lý học, hoá học, sinh vật học và các thuộc tính khác của đất để tác động lên cây trồng. Sự kết hợp đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm cho ruộng đất trở thành tư liệu sản xuất trong nông nghiệp. Không những thế, ruộng đất còn là tư liệu sản xuất chủ yếu, tư liệu sản xuất đặc biệt, tư liệu sản xuất không thể thay thế được. Độ phì nhiêu của đất là thuộc tính quan trọng nhất, là dấu hiệu chất lượng của ruộng đất. Nó ảnh hưởng lớn đến năng suất cây trồng, đến hiệu quả sử dụng lao động sống và lao động quá khứ được sử dụng. Khí hậu, thời tiết khác nhau cũng là điều kiện quan trọng trong việc bố trí cơ cấu nông nghiệp. ở mỗi vùng có thời tiết khác nhau thì cơ cấu sản xuất nông nghiệp cũng khác nhau do mỗi loại cây trồng vật nuôi thường thích hợp với từng đặc điểm thời tiết khí hậu khác nhau. Do đó khí hậu ảnh hưởng lớn tới cơ cấu nông nghiệp và quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Điều kiện thủy văn cũng chi phối mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp. ở những vùng đồng bằng, mưa nhiều, lúa nước chiếm ưu thế, ở những vùng cao nguyên, thiếu nước, thích hợp với các cây công nghiệp dài ngày. 2.2. Yếu tố chính sách. Chính sách nông nghiệp được hiểu là tổng thể các biện pháp kinh tế hoặc phi kinh tế có liên quan đến nông nghiệp và các ngành có liên quan, nhằm tác động vào nông nghiệp theo những mục tiêu nhất định, trong một thời hạn nhất định. Sự tồn tại của một chính sách luôn luôn phục vụ cho một hoặc một vài mục tiêu nhất định. Chính vì vậy chính sách sẽ trở nên vô nghĩa khi không có mục tiêu hoặc mục tiêu không rõ ràng. Mặt khác, mục tiêu không tự nhiên sinh ra mà do chủ thể quản lý đưa ra với chủ định cần đi tới, thay đổi theo thời gian vì vậy chính sách và mục tiêu có mối quan hệ khăng khít gắn bó hữu cơ với nhau, nhưng không đồng nhất. Những chính sách nông nghiệp có tác động lớn đến qúa trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Các chính sách nông nghiệp như : chính sách trợ giá nông sản, chính sách đất đai, chính sách vốn cho sản xuất nông nghiệp, chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học, chính sách tiêu thụ sản phẩm… 2.3. Yếu tố lao động: Lao động là yếu tố có ý nghĩa hai mặt. Một mặt lao động là những người tham gia vào quá trình sản xuất, trực tiếp tạo ra sản phẩm, làm nên sự phát triển. Mặt khác cũng chính họ là những người hưởng lợi ích từ những thành quả mà họ làm ra. Khi lao động tham gia vào sản xuất, nếu họ có trình độ, có hiểu biết, có kiến thức chuyên môn chắc chắn năng suất làm việc của họ sẽ cao hơn. Họ biết sử dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từ đó có thể làm cho một người làm việc được nhiều hơn, giải phóng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ góp phần thực hiện CNH - HĐH đất nước, khắc phục được tình trạng thất nghiệp trá hình ở nông thôn. Người lao động là người tham gia sản xuất sẽ quyết định đến kết quả thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp có hiệu quả hay không. 2.4. Yếu tố vốn: Là nguồn lực hạn chế đối với các ngành kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng. Vốn sản xuất vận động không ngừng từ phạm vi sản xuất sang phạm vi lưu thông và trở về sản xuất. Vốn sản xuất trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Sự tác động của vốn sản xuất vào quá trình sản xuất và hiệu quả kinh tế của nó không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua đất cây trồng, vật nuôi. Cơ cấu chất lượng của vốn sản xuất phải phù hợp với yêu cầu của từng loại đất đai, từng đối tượng sản xuất là sinh học. Vốn là yếu tố quan trọng trong quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nó đóng vai trò quyết định rất lớn đến sự thành công hay thất bại của người sản xuất. 2.5. Trình độ phát triển khoa học - công nghệ, cơ sở hạ tầng: Các hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN góp phần quan trọng vào việc cung cấp luận cứ khoa học phục vụ cho chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh. KH&CN đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu, vận hành, làm chủ và khai thác có hiệu quả các công nghệ mới, từng bước nâng cao trình độ công nghệ trong một số ngành nâng cao năng suất lao động, tạo ra sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, KH&CN đã góp phần quyết định tới việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn, đã tạo ra bước đột phá về năng suất và sản lượng lương thực thực phẩm, KH&CN đã góp phần đào tạo và nâng cao trình độ nguồn nhân lực, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, bảo vệ môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá. Những thành tựu khoa học - công nghệ đã tác động mạnh đến cơ cấu nông nghiệp. Như công nghệ sinh học với các công nghệ tế bào, công nghệ gen, công nghệ vi sinh đã tạo ra những giống cây trồng và vật nuôi có năng suất và chất lượng cao. Kết quả phát triển các cơ sở hạ tầng như thủy lợi, giao thông, điện, giáo dục… cũng có tác động tích cực vào chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Các công trình thuỷ lợi vừa đem lại năng suất cao, vừa cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư, vừa có thể cải tạo các vùng đất hoang hoá thành đất sản xuất nông nghiệp và những vùng định cư mới. 2.6. Tác động của công nghiệp và dịch vụ đối với sản xuất nông nghiệp: Sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ làm cho nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển, thu nhập của người dân tăng lên, đời sống của nhân dân được nâng cao. Mặt khác, sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ sẽ tạo ra máy móc và các phương thức canh tác hiện đại hơn làm năng suất lao động tăng. Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế học E.Engel và A.Fisher thì sự tăng lên của thu nhập làm cho nhu cầu trên thị trường thay đổi và sự tăng năng suất lao động làm tỷ lệ lao động trong các ngành kinh tế có xu hướng chuyển dịch đã tác động trực tiếp tới cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Sự phát triển của công nghiệp, dịch vụ nhất là những ngành công nghiệp và dịch vụ có tác động tới sản xuất nông nghiệp sẽ làm cho trong mỗi sản phẩm nông nghiệp hàm lượng tác động của sản xuất công nghiệp nhiều hơn, chịu sự chi phối của yếu tố dịch vụ nông nghiệp nhiều hơn. Điều này được thể hiện rõ qua quá trình sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Trước đây, người nông dân sản xuất ra sản phảm chủ yếu mang tính tự cấp, tự túc. Nếu được xuất khẩu thì cũng chủ yếu là những sản phẩm thô sơ chưa qua chế biến và trong quá trình sản xuất vẫn là bằng các công cụ thô sơ chưa có máy móc. Khi xã hội càng phát triển, sự ra đời của công nghiệp và dịch vụ đã tác động đến sản xuất nông nghiệp.Ngừơi lao động đã sử dụng những máy móc, công cụ sản xuất ngày càng hiện đại và ứng dụng các phương thức canh tác mới vào sản xuất, sản phẩm làm ra được xuất khẩu nhiều hơn và những sản phẩm này cũng được qua chế biến nhiều hơn. Các ngành công nghiệp và dịch vụ tác động tới sản xuất nông nghiệp đó là: các ngành công nghiệp tiêu thụ sản phẩm của ngành nông nghiệp như công nghiệp giấy, dược liệu, công nghiệp chè, công nghiệp chế biến nông sản… Phát triển các ngành công nghiệp dựa vào nguồn nguyên liệu từ nông lâm thủy sản trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá là đặc biệt quan trọng. Các ngành công nghiệp này yêu cầu vốn đầu tư không lớn, có khả năng giải quyết việc làm cho khu vực nông nghiệp và nông thôn, tạo mối liên kết công nghiệp - nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Tăng tỷ lệ nguyên liệu từ nông, lâm, thủy sản đa vào chế biến công nghiệp nhằm nâng cao giá trị gia tăng nhờ chế biến. Nâng cao trình độ công nghệ, tăng dần khả năng chế biến sâu, giảm tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm sơ chế. Nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là vệ sinh công nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường; Các ngành công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp như công nghiệp cơ khí, công nghiệp điện, thủy lợi sẽ góp phần thực hiện cơ khí hóa, điện khí hoá nông nghiệp và nông thôn, đưa nông nghiệp phát triển theo hướng CNH-HĐH. Đồng thời với việc phát triển công nghiệp thì việc phát triển các dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như dịch vụ giống, dịch vụ phân bón, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ thu mua hàng nông sản, dịch vụ tài chính tín dụng nông thôn… sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bà con nông dân làm nông nghiệp, dẫn đến tăng năng suất cây trồng, vật nuôi và tăng thu nhập của người nông dân, đời sống của người dân được nâng cao, kiến thức và trình độ chuyên môn cũng được nâng cao hơn, vốn đầu tư cho phát triển kinh tế tăng, những yếu tố đó làm cho cơ cấu sản xuất nông nghiệp thay đổi, chuyển dịch theo xu hướng tích cực. Phát triển công ngiệp nông thôn, tiểu thủ công nghiệp và hệ thống dịch vụ nông thôn là nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.Cho đến nay, nhóm ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nông thôn đã thu hút được khoảng 30% lao động ở nông thôn và tạo ra khoảng 1/4 GDP khu vực nông thôn. Mức độ phát triển của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nông thôn và dịch vụ nông thôn sẽ góp phần quyết định mức độ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 2.7. Yếu tố thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người. Do đó, cơ cấu sản xuất nông nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, như khi thu nhập của người dân tăng sẽ tác động đến cơ cấu bữa ăn: Tỷ lệ chất bột giảm, tỷ lệ thịt, chứng, sữa tăng và ngay trong cùng loại sản phẩm như gạo thì nhu cầu về gạo ngon có chất lượng cao ngày càng tăng. Hoặc trong những năm gần đây, sự biến động giá cả trên thị trường quốc tế tác động lên đến cơ cấu một số cây công nghiệp của Việt Nam. Người nông dân sống bằng những sản phẩm nông sản mà họ làm ra, chính vì vậy thị trường tiêu thụ là yếu tố vô cùng quan trọng, là động lực giúp người nông dân yên tâm sản xuất. Mặt khác, có thị trường tiêu thụ vững chắc thì sản phẩm của họ sẽ không bị ép giá, họ cũng không lo sợ không tiêu thụ được, sản phẩm của họ sẽ bị hỏng khi để lâu hoặc phải tốn chi phí, công sức bảo quản. 3. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đối với phát triển kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân nói chung và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển lực lượng sản xuất, phân công lao động của xã hội của mọi quốc gia. Đó là biện pháp cơ bản để tạo ta nhiều việc làm, sản xuất ra nhiều của cải, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thêm giá trị hàng hoá xuất khẩu qua đó góp phần đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Nhận thức về sự cần thiết và tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp không phải mới được đề xuất trong những năm gần đây mà đã được nêu ra ngay sau khi đất nước ra khỏi chiến tranh bước vào thời kỳ phát triển kinh tế trong điều kiện hoà bình. Ban chấp hành Trung Ương tại Đại hội IV của Đảng ( 12 - 1976) đã viết: " Phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp… nhằm đảm bảo đủ lương thực dự trữ, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu… phát triển tất cả các vùng: đồng bằng, trung du, miền núi và miền biển, phát huy thế mạnh của mỗi vùng… phát triển mạnh công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và các nông sản khác… ở miền núi kết hợp lâm nghiệp, nông nghiệp với công nghiệp kinh doanh tổng hợp nghề rừng, trồng cây công nghiệp và chăn nuôi ". Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là hoạt động nhằm đa dạng sinh học, đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội. Chủ trương nói trên đã được Nghị quyết Trung Ương V khoá VII nêu thành một định hướng lớn và đại hội VIII một lần nữa khẳng định là một giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn trong nhịp cầu đi lên công nghiệp hoá. Sự đóng góp của ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn vào hoạt động kinh tế được thể hiện qua năm hình thức cơ bản: cung cấp sản phẩm cho sản xuất và xuất khẩu; là thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp; cung cấp lao động cho các lĩnh vực kinh tế; xuất khẩu sản phẩm tạo nguồn ngoại tệ cho công nghiệp hoá và góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội cho đất nước. Vai trò của nông nghiệp trong việc cung cấp sản phẩm bao gồm việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho người tiêu dùng và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Lương thực - thực phẩm được coi là sản phẩm thiết yếu, không thể thiếu được cho đời sống con người. Sự phát triển của công nghiệp chế biến từ san phẩm nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong thời kì đầu công nghiệp hóa. Nó tạo ra sự tác động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp để thúc đẩy nhau cùng phát triển. ở những giai đoạn sau của sự phát triển, công nghiệp chế biến tiếp tục góp phần đảm bảo nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của con người. Thời kỳ đầu của công nghiệp hóa, sản phẩm nông nghiệp là một nguồn xuất khẩu chủ yếu tạo ra tích luỹ ban đầu cho đất nước. Nhờ những sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu mà Nhà nước có ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, thiết bị cũng như nguyên, nhiên, vật liệu cần thiết cho sự phát triển công nghiệp, xây dựng và các hoạt động dịch vụ khác. Hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp về mặt xã hội - môi trường: ở các nước đang phát triển như ở Việt Nam, nông nghiệp là nguồn sống của đại đa số dân cư, do đó phát triển sản xuất nông nghiệp và khu vực nông thôn còn là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước, đảm bảo an toàn về lương thực, nâng cao hiệu qủa việc sử dụng các nguồn tài nguyên, xoá đói giảm nghèo và ổn định đời sống kinh tế - xã hội. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đẩy mạnh phát triển sản xuất sẽ tăng thêm việc làm cho hàng vạn lao động nông thôn; đồng thời thực hiện phân công lại lao động xã hội, chuyển một phần lao động nông lâm nghiệp sang các ngành khác. Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế giữa các vùng, khai thác tiềm năng của mỗi địa phương. Đời sống nhân dân vùng nông thôn được cải thiện.Đẩy mạnh phát triển vốn rừng, nâng cao độ che phủ rừng đảm bảo môi trường sinh thái gắn du lịch với phát triển lâm nghiệp. Đối với một nước nông nghiệp như nước ta thì việc phát triển nông nghiệp là một việc quan trọng. Để nông nghiệp phát huy được vai trò đối với phát triển kinh tế, cần có một cơ cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý. Quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp sẽ góp phần thực hiện sự phát triển tiêu dân giàu nước mạnh. Mấy năm nay, với đặc điểm đất đai khí hậu, hệ sinh thái, về lợi thế thị trường, nông dân tất cả các vùng bắt đầu tìm hướng chuyển dịch cơ sản xuất nông nghiệp. Sự chuyển dịch đó là rất phong phú, đa dạng: - Chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống, tăng vụ, tăng vòng quay của đất, nhất là các vùng nông nghiệp ven đô, ven các trục giao thông, vùng có bình quân ruộng đất thấp. - Chuyển dịch cơ cấu chủng loại cây trồng trên đất bãi, đất vàn( đất cao), đất trũng vùng ngập trồng lúa chi phí lớn, hiệu quả đem lại thấp sang cơ cấu nông nghiệp mới với cây ăn quả, rau xanh, nuôi trồng thuỷ sản. - Cải tạo vườn tạp, ao hoang, chuồng trống làm vườn thâm canh nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi các loại gia súc, hình thành cơ cấu VAC hệ sinh thái VAC, hệ thống nông nghiệp làng xã, làm sạch môi trường, đẹp cảnh quan nông thôn. Nhờ đó mặc dầu đất vườn ít nhưng với cơ cấu kinh tế hiệu quả, nhiều hộ nông dân đã có thu nhập cao và giàu có. - Thực hiện nông - lâm nghiệp kết hợp, cân đối lâm nghiệp quốc doanh ( mô hình lâm trường) sang lâm nghiệp xã hội, bố trí cơ cấu hợp lí rừng, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản đã là giải pháp hạn chế phá rừng phát triển kinh tế xã hội miền núi. - Hình thành các vùng cây công nghiệp tập trung gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, tín dụng và dịch vụ, hình thành cơ cấu kinh tế mới ở các vùng trung du miền núi, đưa nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường như hiệp hội mía đường Lam Sơn là một minh chứng cụ thể. - Chuyển chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản theo kiểu tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá quy mô nhỏ với nhiều chủng loại phong phú: Nuôi lợn thịt, bò thịt, bò sữa, dê sữa các loại cá nước ngọt, nước lợ, thuỷ đặc sản với các loại giáp xác, loài lưỡng cư. loài bò sát, loài nhuyễn thể. Đây là một hiện tượng mới nổi lên, đang vận động và phát triển trong đời sống kinh tế nông thôn. Tuy còn là bước đầu, nhưng nó phản ánh tính năng động sáng tạo của hộ nông dân, là một xu thế phát triển hợp quy luật. Các hộ nông dân ở nhiều địa phương đang tự vận động tìm nguồn vốn, học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu kỹ thuật và công nghệ mới, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, tận dụng tiềm năng đất đai, mặt nước, đồi gò từ trong nhà ra đồng để phát triển kinh tế theo hướng " dân giàu nước mạnh". Chương II : Đánh giá Thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2001 - 2005 I. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp tỉnh Phú thọ giai đoạn 2001- 2005: 1. Phương hướng: - Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, gắn sản xuất với thị trường và công nghiệp chế biến. Thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nhằm mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. - Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đảm bảo trong mối tương quan với cơ cấu kinh tê chung và giữa nội bộ trong từng lĩnh vực ngành nông lâm nghiệp theo hướng: Giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. + Tập trung phát triển các loại cây con, ngành nghề có lợi thế sản xuất, có thị trường tiêu thụ, thu hút nhiều lao động. Coi trọng tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng các sản phẩm nông lâm sản. + Coi trọng an toàn lương thực, đồng thời đẩy mạnh phát triển nông nghiệp bền vững vừa khai thác tốt hơn tiềm năng hiện có về đất đai, lao động, tài nguyên… đồng thời đảm bảo sự phát triển sản xuất bền vững trong tương lai. 2. Mục tiêu: a) Mục tiêu chung: Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp tạo được sự chuyển biến nhanh, vững chắc, sản xuất theo hướng hàng hoá, có sức cạnh tranh, có hiệu quả bền vững trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân; Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. b) Mục tiêu cụ thể: Phấn đấu năm 2005 đạt các chỉ tiêu: - Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp tăng bình quân 4,5 - 5%/ năm, tỷ trọng kinh tế nông nghiệp trong GDP toàn tỉnh từ 28,6% năm 2001 xuống còn 24,5% năm 2005. - Trong nông nghiệp giảm tỷ trọng trồng trọt xuống còn 62%, tăng tỷ trọng chăn nuôi lên 31%, phát triển thuỷ sản, công gnhiệp, tiểu thủ công nghiêp, ngành nghề dịch vụ ở nông thôn. - Sản xuất lương thực ( lúa, ngô) : + Phấn đấu đến năm 2005 ổn định diện tích lúa cả năm 68000 ha, năng suất lúa đạt 5 tấn/ha,vụ; diện tích ngô 18500 ha, năng suất 39 - 40 tạ/ha. Sản lượng lương thực 40 - 41 vạn tấn. + Nâng cao giá trị bình quân đạt 25 - 30 triệu đồng/ha.Từng bước mở rộng quy mô những mô hình đạt giá trị từ 50 - 70 triệu đồng/ ha - Giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân ( thu nhập tăng 1,5 - 2 lần so với hiện nay). - Cây công nghiệp hàng năm: mía, đỗ tương, lạc, sắn. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2005: + Đỗ tương: diện tích 5.000 ha, năng suất 16 tạ/ha, sản lượng 8.000 tấn ( tăng 5.000 tấn). + Lạc: diện tích 8.000 ha, năng suất 18 tạ/ha, sản lượng 14.400 tấn( tăng 6.000 tấn so với năm 2001). + Mía: diện tích mía vùng nguyên liệu 1.300 ha, sản lượng 170.000 tấn + Sắn : diện tích 8500 ha, năng suất 150/ha, sản lượng 127.500 tấn. - Phát triển chè: Mục tiêu phấn đấu đến 2005: + Quy mô diện tích chè: 12000 ha. + Sản lượng chè búp tươi: 60 - 62 ngàn tấn. + Xuất khẩu (chè khô) : 10 -11 ngàn tấn. - Phát triển cây ăn qủa: Mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2005, diện tích cây ăn quả 13.000 ha. Trong đó diện tích thu hoạch 10.000 ha, sản lượng quả đạt kkhoảng 100.000 tấn trong đó xuất khẩu 40 ngàn tấn. Đế năm 2010; diện tích cây ăn quả đạt 20.000 ha trong đó diện tích cho thu hoạch 15.000 ha. Sản lượng quả 200.000 tấn xuất khẩu 100.000 tấn. - Phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu: Mục tiêu: + Đẩy nhanh tốc độ phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu gọp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao tỷ trọng giá trị chăn nuôi lên 30 - 35% vào năm 2005. + Đến năm 2005: xuất khẩu lợn mảnh 1000 - 1200 tấn lợn choai, lợn sữa 500 tấn/ năm. Nội tiêu 4000 tấn/năm. - Phát triển chăn nuôi bò sữa: Mục tiêu phấn đấu đến năm 2005: Tổng đàn bò sữa đạt khoảng 4.400, trong đó bò cho sữa đạt 1260 con năng suất bình quân ³ 3.000 kg/ chu kì, sản lượng 4000 tấn. - Phát triển thủy sản: Mục tiêu phấn đấu đến năm 2005: + Diện tích nuôi trồng thuỷ sản: 6300 ha. + Sản lượng thuỷ sản đạt 15.000 tấn trong đó cá thịt nuôi 11.000 tấn, năng suất bình quân : 1,75 tấn/ ha. - Phát triển lâm nghiệp: Mục tiêu: + Phấn đấu đưa độ che phủ rừng lên 45% vào năm 2005. + Bảo vệ rừng hiện có : 125.965 ha. + Trồng mới rừng: 22.400 ha. + Khoanh nuôi rừng tự nhiên: 8.216 ha II. Đánh giá thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp: 1. Sự tác động của các yếu tố đến quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua: Sự tác động của các yếu tố đến cơ cấu sản xuất nông nghiệp được biểu hiện qua các chương trình sản xuất nông nghiệp trọng điểm: 1.1. Trong chương trình sản xuất lương thực: - Trong sản xuất lương thực, các TBKT mới được áp dụng vào trong sản xuất, kỹ thuật thâm canh của địa phương có rất nhiều tiến bộ. Những nghiên cứu khoa học công nghệ về những giống lúa, ngô mới, chất lượng cao như giống lúa NX30, NĐ1, Xi23, Nhị ưu số 7, DT1, HT122, Nếp thơm, giống ngô HQ2000… được đưa vào sản xuất và đang được phát triển mạnh mẽ làm cho cơ cấu giống, cơ cấu trà lúa có nhiều chuyển biến tác động mạnh đến cơ cấu cây trồng và góp phần nâng cao sản lượng thu hoạch. Việc thu hẹp trà mùa muộn xuống còn từ 3 - 5% và mở rộng trà mùa sớm, mùa trung lên 93 - 95% đã tạo điều kiện phát triển cây vụ đông. - Chính sách của tỉnh: Việc cung ứng giống có trợ giá, nhất là lúa lai tuy khó khăn nhưng vẫn đáp ứng yêu cầu sản xuất. Sự phát triển của khoa học công nghệ, các chương trình nghiên cứu ứng dụng TBKT, chính sách ưu đãi của tỉnh đối với sản xuất lương thực đã làm cho sản xuất lương thực có bước phát triển nhanh và vững chắc. Sản lượng lương thực từ 35 vạn tấn năm 2001 lên 42,1 vạn tấn năm 2004, về trước mục tiêu so với NQ tỉnh Đảng bộ lần thứ XV trước 2 năm. Bình quân tăng 8,4%/năm, bình quân lương thực đầu người năm 2004 đạt 320,8kg/người/năm đảm bảo an toàn lương thực, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu trồng trọt, cơ cấu sản xuất theo hướng ngày càng tích cực đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của tỉnh. 1.2. Chương trình phát triển chè: - Từ năm 2001 trở lại đây tỉnh đã tập chung đầu tư phát triển chè, trong đó khâu giống và tiến bộ kỹ thuật canh tác cũng được coi là khâu then chốt có tính bứt phá. Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sản xuất chè chất lượng cao, sản xuất chè an toàn, nghiên cứu biện pháp nhân giống chè tím ( Thanh Ba). Từ sau năm 2001, các giống chè mới chất lượng cao (LDP1, LDP2) có thể chế biến chè đen, chè xanh diện tích được mở rộng. - Sở Nông nghiệp đã phối hợp cùng Công ty chè Phú Bền tổ chức hội nghị triển khai thực hiện ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm chè búp tươi giữa Công ty chè Phú Bền và các xã của huyện Thanh Ba, Hạ Hoà và Đoan Hùng bước đầu đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, trên thực tế các hộ dân chưa nghiêm túc thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết. - Về thực hiện chính sách khuyến khích phát triển chè của tỉnh: Công tác quản lý Nhà nước được củng cố và tăng cường. Theo báo cáo của các huyện, Ngành Ngân hàng đã giải ngân cho 6.249 hộ vay vốn để trồng mới, thâm canh, cải tạo chè với tổng số tiền vay 31.560 triệu đồng. Tỉnh đã chi ngân sách hỗ trợ theo Quyết định 1961/2001/QĐ-UB số tiền là 6.151 triệu đồng. - Chế biến chè: Mạng lưới công nghiệp chế biến chè đã hình thành từ lâu, trên địa bàn vùng chè có 7 nhà máy chế biến chè ( trong đó 1 nhà máy do tỉnh quản lý) được phân bố tương đối đều giữa các khu vực. Đặc biệt có 2 liên doanh chế biến chè đem xuất khẩu lớn nhất cả nước là thế mạnh trong sản xuất và chế biến chè của tỉnh Phú Thọ. Tổng công suất thiết kế 600 tấn búp tươi/ ngày, nhu cầu nguyên liệu cả năm trên 100 ngàn tấn búp tươi, năng lực của các công ty hàng năm có thể chế biến khoảng trên 10 ngàn tấn thành phẩm. Ngoài ra còn có trên 45 xưởng chề biến tư nhân, công suất 5 - 7 tấn búp tươi/ngày/xưởng. Chè sau khi sản xuất được chế biến rồi mới đem tiêu thụ đã làm tăng tính hàng hóa và tăng tính cạnh tranh sản phẩm chè của tỉnh. Việc thâm canh, cải tạo chè giống cũ, đưa TBKT, IPM ( phòng trừ dịch bệnh tổng hợp), phát triển công nghiệp chế biến chè, tìm kiếm thị trường tiêu thụ và chính sách ưu đãi của tỉnh về vốn cho sản xuất chè đã làm cho diện tích chè toàn tỉnh tăng 4.426,9 ha, năng suất tăng 18,2 tạ/ha, sản lượng tăng 31.176,4 tấn so với trước khi triển khai thực hiện chương trình phát triển chè ( năm 2000). Xuất khẩu chè búp khô năm cao nhất 17,5 ngàn tấn ( 2001) năm thấp nhất 9,25ngàn tấn ( 2003) và trên 11 ngàn tấn ( 2004). Đã đạt và vượt Nghị quyết XV đề ra trước 1 năm. Góp phần thực hiện đưa công nghiệp, dịch vụ vào sản xuất nông nghiệp làm cho hàm lượng sản xuất công nghiệp, dịch vụ trong mỗi sản phẩm nông nghiệp ngày càng nhiều hơn. 1.3. Chương trình phát triển cây ăn quả: - Việc nghiên cứu, ứng dụng thành công công nghệ sản xuất cây giống cây ăn quả có múi ( cây Bưởi Đoan Hùng) bằng công nghệ vi ghép đỉnh sinh trưởng đảm bảo nhân giống nhanh giống Bưởi Đoan Hùng đáp ứng nhu cầu cây giống cho dự án đầu tư phát triển trồng mới 1000 ha bưởi đặc sản Đoan Hùng. - Ngành nông nghiệp khẩn trương triển khai xây dựng 5 nhà lưới sản xuất cây giống, huyện Đoan Hùng thành lập Ban quản lý về giống Bười Đoan Hùng. Cây bưởi được quan tâm chỉ đạo về quy hoạch, quản lý kỹ thuật, quản lý chất lượng cây giống - thực hiện đề tài khoa học. - Về chính sách hỗ trợ: Ngân hàng đã giải ngân cho vay tổng số tiền là 1.984,5 triệu đồng. Tỉnh đã trích hỗ trợ 630 triệu đồng ( trung tâm giống cây trồng 300 triệu đồng và huyện Đoan Hùng 330 triệu đồng). Kết quả: Diện tích cây ăn quả đến hết 2004 đạt 10.176,9 ha, diện tích cho sản phẩm là 8.259,4 ha, sản lượng 87.150 tấn. 1.4. Chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa: - Về chính sách: Ngày 22/6/2004 tỉnh đã quyết định trích ngân sách 740 triêụ đồng để thực hiện chính sách đợt 1, số này đủ chi trả hết năm 2003 ( số còn thiếu của năm 2004 là 1.236,440 triệu đồng) để tạo vốn cho người chăn nuôi bò sữa tiến hành Sind hoá đàn bò, cải tạo đàn bò địa phương thành bò có chất lượng cao và sức kéo cao. - Vùng chăn nuôi bò sữa tập trung tuyển chọn bò lai Sind đủ tiêu chuẩn để nuôi theo hướng sữa, kết hợp nhập giống HF và F1, F2, F3 để phát triển chăn nuôi bò sữa. Đã hình thành vùng chăn nuôi bò sữa ở 3/6 huyện vùng trọng điểm là Thanh Thủy, Tam Nông, Lâm Thao có số lượng bò F2, F3 và HF thuần là 95 con, bê cái hướng sữa F1 có 154 con; 1.546 bò cái lai sind đã thẩm định, bấm số tai đưa vào quản lý, lý lịch/2000 con tuyển chọn củ 7 địa phương. Chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa không những tạo việc làm cho người lao động mà còn làm tăng thu nhập của người dân. Sự phát triển này làm cơ cấu chăn nuôi thay đổi và góp phần nâng cao tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp. 1.5. Chương trình phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu: Hai năm qua chăn nuôi lợn đã có bước phát triển mạnh mẽ. Tổng đàn lợn tăng mạnh, năm 2004 đạt 542.386 con ( tăng 74.398 con, trong đó đàn nái 52.069 con tăng 7.446 con so với năm 2001). Các huyện có số con đầu lợn nhiều là Thanh Sơn, Lâm Thao, Phù Ninh, Đoan Hùng… - Phương thức chăn nuôi có sự thay đổi căn bản: áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, tư duy sản xuất năng động hơn. Hình thành một số trang trại quy mô lớn. Công tác quản lý chất lượng giống và hướng dần chuyển giao TBKT được tăng cường nên chất lượng con giống đưa vào sản xuất khá hơn trước. - Đã hình thành vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trên thị trường: Lâm Thao, Phù Ninh, Việt Trì và 2 xã thuộc Thị xã Phú Thọ, có 26 xã và 96 hộ tham gia ( 62 hộ nuôi nái ngoại, 6 hộ nuôi Móng cái thuần và 30 hộ nuôi lợn thịt). Số hộ tham gia chăn nuôi lợn xuất khẩu, cũng như số hộ nuôi theo quy mô trang trại tăng khá. - Sau 3 năm thực hiện khẳng định phát triển chăn nuôi chế biến thịt lợn xuất khẩu vùng trọng điểm là một chủ trương đúng của tỉnh. Đã hình thành vùng chăn nuôi lợn trọng điểm, phát triển cả về số lượng và chất lượng, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất ( tổng đàn tăng, đầu nái ngoại tăng 9 lần, tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 28,1% năm 2001 lên 37,3% năm 2003. - Về hiện chính sách: Tỉnh đã tích ngân sách 1.152,694 triệu đồng hỗ trợ cho nông dân. Tuy nhiên số tiền đó mới đủ chi trả hết năm 2003. Kinh phí đề nghị hỗ trợ cho năm 2004 là 707,719 t._. hướng dẫn các chủ đầu tư viết dự án khuyến công. - Tiến hành chuyển Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thành trung tâm khuyến công để phù hợp với chức năng và nhiệm vụ. - Hỗ trợ cung cấp thông tin, tiếp thị, tìm kiếm thị trường, đối tác kinh doanh, tổ chức triển lãm, hội chợ và giới thiệu sản phẩm. - Tiến hành phổ biến kiến thức luật lệ, các chính sách thương mai quốc tế, kiến thức về hội nhập và lộ trình hội nhập kinh tế của địa phương cũng như của cả nước. Tổ chức tập huấn làm khuyến công cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công nghiệp. - Tuyên truyền, phổ biến lợi ích của việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến ISO. - Rà soát và điều chỉnh các cơ chế chính sách cho phù hợp với Nghị định 143/2004/NĐ - CP về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. Quyết định 143/2004/QĐ - TTg của Chính Phủ phê duyệt chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2004 - 2008. - Tiếp tục hỗ trợ các dự án sản xuất sản phẩm, truyền thống, sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu, dự án phát triển nhân cấy làng nghề. Tạo điều kiện để các cơ sở liên doanh liên kết, hợp tác kinh tế, tham gia các hiệp hội ngành nghề. - Thực hiện tốt các giải pháp cụ thể của từng chương trình đã đề ra. + Giải pháp cụ thể từng chương trình: a. Chương trình chế biến nông, lâm, thủy sản: - Quy hoạch chi tiết vùng nguyên liệu tập trung gắn các cơ sở chế biến với vùng nguyên liệu, ưu tiên đảm bảo nguyên liệu cho các cơ sở có thế mạnh xuất khẩu. - Tiếp tục duy trì các cơ sở chế biến nhỏ cho dân tự trồng và thu hút nguyên liệu ngoài vùng. Đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ tiên tiến nâng chất lượng sản phẩm, nhất là sản phẩm xuất khẩu. - Đối với chế biến chè: Đầu tư và nâng cao năng lực sản xuất một số xưởng chè mini đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, nâng cao trình độ về kinh tế đối ngoại, xúc tiến thương mại để xuất khẩu sản phẩm mang thương hiệu chè Phú Thọ. - Đối với chế biến sắn: Chỉ đạo công ty có nhà máy chế biến hợp đồng liên minh, liên kết giữa doanh nghiệp với các địa phương mở rộng diện tích trồng sắn, nhất là giống sắn có năng suất và hàm lượng tinh bột cao. -Đối với chế biến quả: Quy hoạch và mở rộng các vùng trồng quả để chế biến xuất khẩu, tiếp tục hỗ trợ và phát triển thêm các cơ sở sấy bảo quản long nhãn, long vải, mít, táo, chuối, bưởi. - Phát triển thêm các cơ sở chế biến diêm, đũa, chiếu tre, mành phục vụ cho xuất khẩu. b. Chương trình sản xuất vật liệu xây dựng: - Cần quy hoạch chi tiết quỹ đất dùng cho sản xuất gạch ngói. - Tiếp tục phát triển gạch, ngói, vôi xây dựng tại chỗ. Khuyến khích và hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư lò gạch tuynel, lò đứng liên hoàn, phát triển vật liệu không nung như: Gạch xỉ, gạch ganito, gạch bông nhằm đáp ứng nhu cầu ở các vùng nông thôn và miền núi. c. Chương trình khai thác, chế biến khoáng sản, tận thu chế biến phế liệu phế thải, dịch vụ công nghiệp: - Đầu tư mở rộng khai thác và chế biến của các cơ sở hiện có, tiến hành đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng các sản phẩm chế biến. Quản lý chặt chẽ việc khai thác cát sỏi ở Sông Lô, sông Chảy và khai thác các mỏ khoáng sản. - Đầu tư nâng sản lượng và chất lượng bao bì ở Công ty Việt Đức, duy trì và nâng cao chất lượng các loại bao bì ở PP, bao bì catton ở Công ty Tân Phong, Đại Hà, Công ty Đức Trung, Hợp tác xã Thành Trung. - Đẩy mạnh việc tận thu bột thải, giấy thải của công ty giấy Bãi Bằng, duy trì 2 cơ sở sản xuất phèn chua ở Hợp tác xã Thành Trung ( thị xã Phú Thọ), Hợp tác xã Hưng Long ( Phù Ninh) công suất 2000 tấn/năm để cung cấp cho Công ty giấy Bãi Bằng và tận thu than qua lửa các lò hơi công nghiệp khắc phục cho nung vôi, nung gạch. d. Chương trình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, xuất khẩu: - Tiếp tục đầu tư mở rộng và phát triển thêm các cơ sở sản xuất mành tre, gỗ, chế biến chè. Tổ chức nhân cấy các nghề thủ công mỹ nghệ như mây tre đan, mây song kết hợp gỗ, trạm khắc gỗ đá, sơn mài. - Khôi phục và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống như đũa son, ấm ủ, sơn mài. - Nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm lưu niệm, hàng phục vụ lễ hội Đền Hùng. - Mở rộng trồng trúc quân tử tại Hạ Hoà, Cẩm Khê để chủ động nguyên liệu, tổ chức chế biến gỗ ở Thanh Sơn, Đoan Hùng. Nâng cao chất lượng sản phẩm và trình độ kinh doanh tiến tới xuất khẩu trực tiếp. e. Chương trình cơ khí nhỏ và hàng tiêu dùng: - Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất công cụ và ứng dụng máy móc vào sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế khác. Phát triển mạnh cơ khí hoá nông thôn. Đến năm 2005, đã từng bước thực hiện cơ giới hoá ở một số khâu làm đất, gieo hạt, thu hoạch lúa, tẽ hạt ngô, vận chuyển, chế biến hạt giống. Sau năm 2005, cần mở rộng quy mô cơ giới hoá đồng thời đẩy mạnh cơ giới hoá một số khâu khác trong sản xuất tốn nhiều lao động và lao động nặng nhọc như: cấy lúa, thu mua chè, đỗ tương, lạc, ngô, khoai tây, vắt sữa bò, bón phân, phun thuốc trừ sâu, thu gom chất thải trong chuồng trại chăn nuôi… từng bước ứng dụng tự động hoá vào một số lĩnh vực: tưới phun tự động, dâu chuyền cho ăn tự động ở các cơ sở chăn nuôi lớn, tự động háo tạo môi trường tiểu khí hậu trong các nhà kính. - ứng dụng tiến bộ vào sản xuất máy móc, công cụ cải tiến phục vụ nông nghiệp và các ngành nghề khác. f. Về hệ thống thủy lợi, hệ thống điện: - Ưu tiên phát triển hệ thống thủy lợi đầu mối phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Tập trung đầu tư cho dự án thuỷ lợi tưới cây trên đồi, dự án tưới đồng cỏ nuôi bò sữa. - Đảm bảo cung cấp nước sạch cho sinh hoạt ở nông thôn được 100% số dân năm 2010. - Công tác đê điều và phòng chống lụt bão: Hàng năm công trình đê, kè, cống luôn được tu bổ thường xuyên nhất là công trình bảo vệ bờ, ven sông, công trình chậm lũ ( đường giao thông, trường học…) và cứng hoá mặt đê. Trong 5 năm qua chưa để xảy ra sự cố ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống, nhìn chung đảm bảo chống lũ ở mực nước thiết kế ( theo từng cấp đê). Tuy nhiên, điều kiện thời tiết có nhiều biến động, hệ thống đê điều và phòng chống lụt bão phải luôn được quan tâm chú trọng để đối phó với những điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên, hạn chế những thiệt hại về sản xuất và đời sống của người dân ở mức tối thiểu. - Phát triển hệ thống điện phục vụ sản xuất và đời sống. Đến nay ở tỉnh Phú Thọ 100% số xã đã có điện nhưng vẫn còn nhiều thôn, xóm và hộ gia đình chưa có điện sử dụng. - Triển khai chương trình bưu chính viễn thông ở nông thôn, phục vụ sản xuất và đời sống. Đến năm 2005, 100% số xã có điểm bưu điện, điểm bưu điện văn hoá. Trong thời gian tới, cần phát triển các điểm bưu điện, điểm bưu điện văn hoá ở từng thôn, xóm đáp ứng nhu cầu của người dân. 2.2.Phát triển hệ thống dịch vụ nông thôn: Củng cố và phát triển các ngành dịch vụ đã có ở nông thôn, tiếp tục mở mang những dịch vụ mới. Trước hết cần tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ có nhiều lợi thế, có nhu cầu để tạo việc làm cho lao động nông thôn, tăng nhanh thu nhập và nâng cao đời sống dân cư nông thôn như: dịch vụ thương mại cung ứng vật tư, dịch vụ kỹ thuật cây trồng vật nuôi, dịch vụ cơ khí nông thôn, dịch vụ tài chính tín dụng nông thôn. 3. Giải pháp về lao động: Thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động: tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo giảm tỷ lệ lao động thủ công, không qua đào tạo. Tăng tỷ lệ lao động chăn nuôi, làm thủy sản. Tiếp tục giải phóng lao động nông thôn nhằm chuyển bớt lao động nông nghiệp sang ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Tiếp tục đầu tư cho các trung tâm dạy nghề nhằm nâng cao tay nghề của người lao động, tăng số lượng lao động có tay nghề tạo điều kiện thuận lợi cho những người lao động có cơ hội tìm việc làm. Trồng rừng, phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản, mở rộng các ngành nghề và dịch vụ nông thôn để giải quyết việc làm cho người nông dân. Ngoài ra các hoạt động khác như xuất khẩu lao động cũng là một hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Mở lớp tập huấn hướng dẫn cho người nông dân để họ có thêm kiến thức trong sản xuất, nâng cao năng suất lao động, năng suất cây trồng vật nuôi, hạn chế được dịch bệnh. Để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2006 - 2015 nhằm mục tiêu CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn, về vấn đề lao động Tỉnh Phú Thọ cần quan tâm đến việc phát triển nhiều hình thức tổ chức đào tạo tay nghề có trình độ kỹ thuật và kiến thức quản lý của Nhà nước và các thành phần kinh tế, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nông thôn. 4. Giải pháp về vốn. Vốn là yếu tố quan trọng trong quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Vì vậy, trước hết chúng ta phải có biện pháp hữu hiệu để huy động vốn từ nhiều nguồn: ngân sách Nhà nước, các nguồn vốn tín dụng trong và ngoài nước và phần quan trọng là nguồn vốn tự có của nhân dân… Do vốn đầu tư từ ngân sách có hạn nên tỉnh cần có chính sách hấp dẫn để khuyến khích nhân dân và các nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất nông nghiệp. Các biện pháp huy động vốn cho nông nghiệp: + Phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế nhiều thành phần để tạo vốn cho sản xuất nông nghiệp. + Thực hiện chuyên môn hóa sản xuất kết hợp phát triển tổng hợp ở từng ngành và trong các xí nghiệp từng trang trại là biện pháp tạo vốn quan trọng trong nông nghiệp. Chuyên môn hóa sản xuất kết hợp phát triển tổng hợp vừa để lợi dụng đầy đủ điều kiện tự nhiên, tư liệu sản xuất và sức lao động, vừa tạo ra các nguồn thu nhập tương đối đồng đều giữa các tháng trong năm, Đó là biện pháp tạo vốn tại chỗ đáp ứng kịp thời cho sản xuất và tăng hiệu quả sử dụng vốn. +Từng bước thực hiện cổ phần hoá trong nông nghiệp: nhằm đẩy mạnh quá trình tích tụ vàtập trung vốn để phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá nông sản, đồng thời giải quyết tốt cơ chế quản lý vốn, phân định rõ quyền của người sử hữu tài sản và quyền của người sử dụng tài sản và quyền quản lí của tỉnh, nó còn nâng cao trách nhiệm làm chủ của người sử hữu cổ phần, thúc đẩy hoạt động sản xuất của xí nghiệp có hiệu quả. + Đẩy mạnh hợp tác đầu tư với nước ngoài để thu hút nguồn vốn phát triển nông nghiệp. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nông nghiệp tại tỉnh Phú Thọ cần thực hiện các biện pháp sau: + Trước hết phải xác định đúng đắn phương hướng đầu tư vốn: Phải xuất phát từ phướng hướng bố trí cơ cấu sản xuất nông nghiệp để xây dựng cơ cấu đầu tư cho phù hợp. trên cơ sở đó lựa chọn phương án đầu tư vốn tối ưu. Nông nghiệp được coi là mặt trận hàng đầu cần tập trung giải quyết nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực và thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp và là nguồn xuất khẩu quan trọng. Vốn xây dựng cơ bản phải tập trung giải quyết những nhiệm vụ to lớn đó, trong từng giai đoạn tập trung vào cây gì, con gì, ở vùng nào là ần được tính toán và lựa chọn một cách đúng đắn. + Xây dựng cơ cấu vốn cố định hợp lý bao gồm: cơ cấu vốn cố định có tính chất sản xuất và phi sản xuất vật chất, cơ cấu hợp lý các yếu tố trong vốn cố đinh để sử dụng đầy đủ và có hiệu quả các tài sản cố định đã được trang bị tránh tình trạng mất cân đối trong dây truyền sản xuất, gây nên sự lãng phí lớn. Thực hiện tốt khấu hao tài sản cố định và quỹ khấu hao. Coi trọng việc cải tạo, trang bị lại máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng lực sản xuất và sử dụng có hiệu quả tài sản cố định trong các doanh nghiệp nông nghiệp. + Xây dựng định mức đúng đắn và quản lý vốn lưu động theo định mức, quản lý tốt vật liệu, sản phẩm dự trữ, dụng cụ thông thường, chi phí sản xuất dở dang, chi phí chờ phân bổ, thành phẩm, tiền mặt… + Tổ chức tốt việc cung ứng vật tư, đảm bảo vật tư cần thiết và kiẹp thời vụ, hạn chế vật tư bị ứ đọng. Phấn đấu hạ thấp chi phí sản xuất trên đơn vị khối lượng công việc và trên đơn vị sản phẩm. Tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm vàcông tác thanh toán để thu hồi vốn kịp thời, tăng cường công tác kiểm soát tài sản lưu động nêu cao kỷ luật tài chính, tránh tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau. 5. Giải pháp về khoa học công nghệ: Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, vấn đề phát triển KH&CN là một biện pháp quan trọng để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp và phát triển kinh tế tỉnh Phú Thọ. Mục tiêu chủ yếu phát triển KH&CN là KH&CN phải góp phần giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận và thực tiễn, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để phát triển KT - XH, giữ vững an ninh, quốc phòng; đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong nền kinh tế; chú trọng chuyển giao kỹ thuật và thành tựu KH&CN cho nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; lựa chọn và phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao; đổi mới tổ chức, quản lý KH&CN, tạo động lực phát huy năng lực nội sinh, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động KH&CN; phát triển thị trường KH&CN. Đối với phát triển nông nghiệp : Đẩy mạnh rộng rãi việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ thích hợp vào khu vực nông thôn và miền núi, đặc biệt chú trọng vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Tập trung để chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp, kinh tế nông thôn; tập trung nghiên cứu về khâu giống, quy trình kỹ thuật sản xuất thâm canh, tưới tiêu khoa học, tưới cây vùng đồi, phát triển kinh tế trang trại. Ưu tiên nghiên cứu lựa chọn, lai tạo, đưa vào sản xuất các giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao phù hợp các vùng sinh thái, xây dựng các mô hình sản xuất trên cơ sở ứng dụng KH&CN đạt hiệu quả kinh tế cao ( cánh đồng, khu đồi rừng, hộ nông dân có thu nhập cao, các mô hình liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ…); ứng dụng rộng rãi tiến bộ công nghệ sinh học, công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch. Tập trung cho các sản phẩm có lợi thế như chè, cây ăn quả, cây nguyên liệu giấy, chăn nuôi lợn xuất khẩu, thủy sản nước ngọt. Nhằm đạt được các mục tiêu phát triển KH&CN đến năm 2010, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau: - Tăng kịnh phí đầu tư cho công tác nghiên cứu KH&CN đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH. - Củng cố và phát triển tăng năng lực của hệ thống khuyến nông, khuyến ngư phục vụ chuyển giao đưa KH&CN vào sản xuất một cách có hiệu quả. - áp dụng TBKT công nghệ sinh học, công nghệ cao vào sản xuất, trước hết là tập trung cho khâu sản xuất giống cây - giống con - giống thủy sản. Trong sản xuất lương thực tăng nhanh và chủ động giống lúa ngô cao sản, siêu cao sản, giống chất lượng cao, giống lai. Đối với cây ăn quả đảm bảo sản xuất giống Bưởi Đoan Hùng, Hồng không hạt theo phương pháp tiên tiến. Đối với sản xuất chè tiến hành trồng mới, cải tạo, phục hồi bằng các loại giống mới như: LDP1, LDP2 và một số giống chè ấn Độ, chè chất lượng cao. Đối với chăn nuôi, thuỷ sản di thực và nhập nội giống bò sữa, bò thịt chất lượngtốt; sử dụng đàn nái sinh sản có trên 70% nái ngoạivà một số loài thủy sản cho năng suất và giá trị thương phẩm cao, tiến hành đầu tư tăng năng lực sản xuất và quản lý chất lượng về giống. ứng dụng các mô hình công nghệ cao vào sản xuất rau an toàn, hoa, chế biến chè, rau quả, sản xuất cây con giống. Nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về canh tác như canh tác bền vững trên đất dốc, ứng dụng công thức 2 giảm 3 tăng, IPM, làm đất tối thiểu các mô hình đạt doanh thu, hiệu quả kinh tế cao… - Thông qua công tác khuyến nông, xây dựng mô hình trình diễn đẩy mạnh tập huấn, đào tạo tại chỗ để chuyển giao đến người sản xuất. Đồng thời nâng cao chất lượng, nội dung đào tạo, trong đó chú trọng đào tạo các ngành kỹ thuật tập huấn cho người lao động nông thôn, nghiệp vụ quản lý cho cán bộ hợp tác xã, chủ trang trại chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. - Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN: + Củng cố hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về KH&CN từ tỉnh đến cấp huyện; + Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội đông KH&CN tỉnh và Hội đồng KH&CN của các ngành, các cấp. + Đổi mới tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ KH&CN theo hướng mở rộng sự tham gia của các nhà khoa học và doanh nghiệp, bảo đảm dân chủ, cạnh tranh công khai, khách quan áp dụng rộng rãi phương thức tuyển chọn tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ KH&CN, đổi mới công tác đánh giá nghiệm thu. + Xây dựng các chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng KH&CN. + Xây dựng cơ chế liên kết giữa khoa học và sản xuất… - Phát triển tiềm lực KH&CN: + Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực KH&CN: chính sách tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, xếp lương, khen thưởng, các chế độ đãi ngộ… + Chính sách đào tạo cán bộ KH&CN. + Phát triển hệ thống thông tin về KH&CN trên địa bàn tỉnh. + Kiện toàn hệ thống các cơ quan nghiên cứu, chuyển giao KH&CN của địa phương. + Huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính cho KH&CN: đa dạng hoá nguồn vốn, thành lập quỹ phát triển KH&CN của tỉnh, tăng đầu tư từ ngân sách… - Xây dựng và phát triển thị trường KH&CN: + Đổi mới cơ chế và chính sách kinh tế - xã hội nhằm tạo nhu cầu ứng dụng thành tựu KH&CN vào sản xuất và đời sống. chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, chú trọng doanh nghiệp vừa và nhỏ… + Tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động của thị trường KH&CN: thị trường vốn, thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. + Phát triển, hỗ trợ các tổ chức dịch vụ KH&CN, chuyển giao KH&CN… - Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về KH&CN: + Mở rộng hợp tác về KH&CN. + Ban hành chính sách thu hút chuyên gia giỏi. + Đào tạo chuyên gia ở nước ngoài… Trong các giải pháp trên, giải pháp đổi mới cơ chế quản lý KH&CN để khai thác mọi tiềm năng sáng tạo KH&CN và sử dụng hiệu quả tiềm lực KH&CN hiện có là giải pháp có ỹ nghĩa đột phá. 6. Giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: Tăng cường công tác thị trường tiêu thụ nông sản; - Xúc tiến xây dựng chiến lược thị trường tiêu thụ nông sản, tổ chức và tham gia các hội chợ, triển lãm, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, chắp nối bạn hàng và đối tác kinh doanh, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. - Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích thương mại tư nhân ( cá nhân và hộ kinh doanh) cùng hợp tác xã tạo thành mạng lưới đại lý tiêu thụ nông sản cho nông dân thông qua ký kết hợp đồng. - Tăng cường công tác thông tin và dự báo thị trường đáp ứng yêu cầu định hướng đầu tư phát triển sản xuất. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mai: tổ chức và tham gia các hội chợ triển lãm sản phẩm nông nghiệp, xúc tiến đăng ký thương hiệu Bưởi Đoan Hùng gây dựng danh chè, xây dựng các điểm bán hàng chất lượng tin cậy: Bưởi Đoan Hùng, Hồng Hạc Trì, chè sạch, rau an toàn, gạo chât lượng cao. 7. Về quản lý Nhà nước của ngành trên các lĩnh vực : - Rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển nông nghiệp - nông thôn, trong đó chú trọng quy hoạch và xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với chế biến tiêu thụ ( như vùng chè, vùng cây ăn quả đặc sản, vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu, vùng bò sữa…vùng nguyên liệu). Phát triển mạnh các sản phẩm có tiềm năng, lợi thế và có thị trường như chè, cây nguyên liệu giấy… - Chỉ đạo các đơn vị trong ngành và các địa phương xây dựng và thực hiện các dự án ưu tiên thuộc các chương trình kinh tế sản xuất Nông - lâm - thủy sản hàng năm. Từng bước chỉ đạo thực hiện tổ chức sản xuất theo tinh thần quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về hợp đồng sản xuất tiêu thụ nông sản giữa hộ nông dân - HTX - Hội, hiệp hội, nhóm hộ - Doanh nghiệp nhằm giúp nông dân làm quen và đi vào quỹ đạo sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường. - Tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong nông nghiệp về quản lý chất lượng hàng hoá, thực hiện quy trình kỹ thuật trong sản xuất. Trước mắt tập trung chỉ đạo thực hiện các pháp lệnh: giống cây trồng, vật nuôi, thú y, bảo vệ và kiểm dịch thực vật, dần đưa công tác sản xuất kinh doanh vật tư nông lâm vào nề nếp. Tăng cường hướng dẫn kiểm tra thực hiện quy trình, định mức kỹ thuật trong sản xuất ( kỹ thuật trồng chăm sóc Bưởi, Hồng, nuôi lợn, bò sữa…). - Phối hợp các ngành chỉ đạo thực hiện chương trình mục tiêu như xoá đói giảm nghèo, chương trình 135, chương trình giải quyết việc làm. - Thực hiện tốt nghị quyết 18 của Ban thường vụ Tỉnh Uỷ về " tiếp tục dồn đổi ruộng đất nông nghiệp" để tạo ra những vùng chuyên canh lớn. Củng cố HTX nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 ( khoá IX) theo luật HTX và Kết luận số 629/KL-TU ngày 12/12/2003 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ về kinh tế tập thể, hình thành hội, hiệp hội … trong lĩnh vực ngành. - Tiếp tục chỉ đạo hình thành vùng sản xuất tập trung gắn với cơ sở chế biến, các vùng sản xuất an toàn dịch bệnh. Khuyến khích việc thành lập và tạo điều kiện hoạt động của các hội, hiệp hội những vùng sản xuất cùng lĩnh vực để giúp đỡ nhau về vốn, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục đẩy mạnh liên kết 4 nhà thực hiện ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa người sản xuất và chế biến. Kết luận và kiến nghị 1. Kết luận: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nêu, đối với mục tiêu phát triển KT- XH nói chung, cần phải phát triển kinh tế, xã hội nâng cao đời sống nhân dân, đáp ứng các yêu cầu ngày càng lớn của con người, xã hội ngày càng phát triển, các nhu cầu về nâng cao mức sống cả về vật chất và tinh thần của người dân nói chung và của người dân tỉnh Phú Thọ nói riêng cũng được quan tâm, chú trọng, trong đó nhu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp của cả nước và của riêng tỉnh Phú Thọ đang đòi hỏi phải có những bước tiến mới nhằm mục tiêu công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Đứng trước tình hình đó tỉnh Phú Thọ đã đề ra phương hướng phát triển nông nghiệp đến 2020: "Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa bền vững, hiệu quả. Chuyển dịch nhanh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Hình thành cơ chế kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Phát triển ngành nghề ở nông thôn tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn và tăng thu nhập cho nông dân và làm giàu cho Tỉnh.Với phương hướng đề ra để đạt được mục tiêu đề ra phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để đưa nông nghiệp phát triển. Trong đó giải pháp về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu. Đại hội VIII đã khẳng định chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn trong nhịp cầu đi lên công nghiệp hoá. Để thực hiện được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp tỉnh Phú Thọ thì việc nghiên cứu, tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch là rất quan trọng.Đó là các yếu tố: chính sách của Nhà nước và của tỉnh, điều kiện tự nhiên ( đất đai, khí hâu, nguồn nước), vốn đầu tư, lao động, thị trường tiêu thụ nông sản, yếu tố khoa học công nghệ, cơ sở vật chất…Các yếu tô này trực tiếp tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó Phú Thọ là một tỉnh nghèo, đa số sống bằng nghề nông. Vậy để Phú Thọ ngày càng phát triển theo kịp nhịp độ phát triển của cả nước thì vấn đề trước mắt và vô cùng bức thiết là phải phát triển nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp.Muốn vậy yêu cầu tất yếu là phải có cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý. Việc lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý để đạt mục tiêu luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Quan điểm tổng quát về lựa chọn cơ cấu kinh tế là đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế so sánh vào phát triển kinh tế. Tăng nhanh năng suất lao động, hình thành những động lực, mũi nhọn cho quá trình hội nhập. Cơ cấu kinh tế phải năng động, thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường trong tỉnh, trong nước và trên thế giới . 2. Một số kiến nghị: Trên cơ sở thuận lợi và những khó khăn thách thức của việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới, để tiếp tục đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất nông lâm thủy sản như mục tiêu đề ra xin kiến nghị : - Tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu, chuyển giao TBKT vào sản xuất trước hết là đầu tư cho công nghệ sinh học và khuyến khích chuyển giao đưa công nghệ vào sản xuất. Tăng cường năng lực cho hệ thống khuyến nông cả về tổ chức, cán bộ, chính sách và các nguồn lực đầu tư cho khuyến nông góp phần đẩy nhanh ứng dụng TBKT tới nông dân thông qua hoạt động từ hệ thống khuyến nông. - Đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong đó chú trọng đầu tư thuỷ lợi ( nhất là thuỷ lợi vùng đồi), hạ tầng cơ sở trong nông nghiệp - nông thôn cải tạo và nâng cấp các cơ sở chế biến nông lâm sản hiện có với việc từng bước xây dựng công nghiệp chế biến cho các sản phẩm như cây ăn quả, thủy sản… để nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm. - Tỉnh có chiến lược về công tác xúc tiến thương mại và tổ chức hệ thống thông tin giới thiệu sản phẩm cũng như các thông tin về thị trường để giúp nông dân định hướng sản xuất và xây dựng thương hiệu sản phẩm. - Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất các chương trình nông lâm nghiệp trọng điểm của tỉnh. Bố trí nguồn vốn để đáp ứng đầy đủ, kịp thời các chính sách đã ban hành. Xây dựng chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông lâm nghiệp nhất là những ngành có tiềm năng của tỉnh,những sản phẩm sử dụng công nghệ mới, công nghệ cao, sản phẩm sử dụng nhiều lao động và có thị trường tiêu thụ, sản phẩm có tính cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo đến năm 2015. - Để làm tốt công tác dự tính, dự báo phòng trừ dịch bệnh tỉnh cần củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng biên chế và đầu tư cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho hệ thống BVTV; hệ thống thú y từ tỉnh đến cơ sở. Phụ lục: Kết quả sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005. TT Chỉ tiêu ĐVT MT đến 2005 Thực hiện 2001 Tốc độ tăng BQ %) 2001 2002 2003 2004 DK 2005 01 - 04 01 - 05 (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) 1 Giá trị sản xuất ( giá 1994) Tỷ đ 1858 1616 1829 2027 2103 2186 8,72 7,74 - Nông nghiệp - 1420 1614 1769 1741 1915 8,72 7,76 + Trồng trọt - 1026 1147 1231 1313 1350 8,34 7,21 + Chăn nuôi - 394 467 538 528 565 9,68 9,14 - Lâm nghiệp - 128 134 170,9 171,2 175 9,02 7,62 - Thuỷ sản - 68 81 87,2 91,1 96 8,07 7,52 * Trồng trọt - Diện tích gieo trồng hàng năm Ng.ha 125 121,5 124,18 127,5 126,72 126,5 0,95 0,73 + Diện tích cây lương thực " 91,2 100,43 108,3 92,7 92,8 91,5 -2,37 -2,17 + Sản lượng lương thực Ng.tấn 410,6 357,2 400,5 417 421,4 420 6,73 5,28 - Cây lương thực + Cây lúa Diện tích Ng.ha 71,2 71,1 73,0 73,45 72,66 72 0,37 0,11 Năng suất Tạ/ha 47 43,5 47,33 47,7 48,12 49 5,13 4,46 Sản lượng Ng.tấn 334,6 309,1 345,6 350,1 349,6 352,8 5,49 4,56 (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) + Cây ngô Diện tích Ng.ha 20,0 14,9 16,2 19,3 20,1 19,5 5,47 3,71 Năng suất Tạ/ha 38,0 32,4 33,9 34,5 35,7 36,0 8,13 6,64 Sản lượng Ng.tấn 76,0 48,10 55,0 66,5 71,8 70,2 14,00 10,56 - Cây công nghiệp ngắn ngày + Lạc Diện tích Ng.ha 7,0 6,7 6,0 5,79 7,0 6,5 0,91 -0,75 Năng suất Tạ/ha 12 12,3 12,54 15,06 12 16,3 -1,79 4,79 Sản lượng Ng.tấn 8,4 8,3 7,6 8,7 8,4 10,6 0,91 5,53 + Đậu tương Diện tích Ng.ha 1,8 2,3 2,87 2,47 3,8 3,2 22,45 13,62 Năng suất Tạ/ha 11 11,7 11,96 13,49 11 15,6 1,91 8,87 Sản lượng Ng.tấn 2,0 2,7 3,4 3,3 4,2 5,0 24,79 23,74 - Cây công nghiệp dài ngày + Chè Diện tích Ng.ha 12,0 8,43 9,71 10,8 12,1 12 11,35 8,75 Diện tích cho sản phẩm " 10,0 7,15 7,66 8,35 9,1 9,77 7,98 7,84 Năng suất Tạ/ha 72 43,8 50,97 50,9 62,7 68 9,57 9,35 Sản lượng Ng.tấn 72,0 31,3 39,0 45,1 57,2 66,4 18,20 17,78 (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) + Bưởi Diện tích Ha - - - 948 1088 1488 Trồng mới (bưởi Đoan Hùng) " - - - - 140 400 Diện tích cho sản phẩm " - - - 782 790 810 + Hồng Hạc Trì ( Trồng mới) " - - - - - 50 * Chăn nuôi - Tổng đàn trâu Ng.con 100 90,6 92,3 94,5 96,1 98 2,08 2,06 - Tổng đàn bò " 115 97,1 99,7 105,2 115,1 116,7 3,45 3,03 - Tổng đàn lợn " 580 468 490,4 530,4 542,4 580 4,88 5,29 - Tổng đàn gia cầm " - 6360 7060 7757 7205 8000 2,38 4,05 - Thịt hơi các loại Ng.tấn 38,7 44,3 50,7 52 54 9,33 * Thuỷ sản - Diện tích nuôi trồng Ha 7000 4720 6632 6950 6969 7310 10,31 9,21 - Sản lượng khai thác Tấn 10600 10.749 12126 12576 12955 15000 7,73 9,30 * Lâm nghiệp - Trồng rừng tập trung Ng.ha 7,3 6,34 6,05 5,27 6,38 6,1 5,14 3,16 - Chăm sóc rừng trồng " 12,0 11,0 11,3 10,8 14,9 11,8 9,94 2,96 - Khoanh nuôi, bảo vệ rừng " 42 38 38,3 38,4 38 42 4,39 5,59 - Độ che phủ rừng % 42 37 39,6 42 44,33 45 5,49 4,68 Danh sách tài liệu tham khảo Báo cáo kết quả thực hiện các mục tiêu cơ bản và giải pháp chủ yếu về phát triển kinh tế nông nghiệp – nông thôn của sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Phú Thọ năm 2005. Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2006- 2010 của ở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Phú Thọ năm 2005. Báo cáo đánh giá tình hinh thực hiện một số chương trình, dự án kinh tế trọng điểm của tỉnh Phú Thọ năm 2004. Quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ V/v phê duyệt đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn để thực hiện CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2002 – 2005 và định hướng đến năm 2010. Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2005 – 2020. Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ năm 2003. Niên giám thống kê Việt Nam 2003. Giáo trình kế hoạch hoá kinh tế xã hội. Báo cáo khoa học công nghệ của sở khoa học công nghệ tỉnh Phú Thọ năm 2005. Giáo trình kinh tế phát triển I. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT200.doc
Tài liệu liên quan