Luận án Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của tây ban nha ở thuộc địa philippines từ cuối thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XIX

ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC -------- TRẦN THỊ QUẾ CHÂU CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES TỪ CUỐI THẾ KỈ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ THẾ GIỚI Huế, 2018 ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC -------- TRẦN THỊ QUẾ CHÂU CHÍNH SÁCH “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES TỪ CUỐI THẾ KỈ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX Chuyên ngành: Lịch sử thế giới Mã số: 62.22.03.11 LUẬN ÁN TI

pdf272 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 264 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của tây ban nha ở thuộc địa philippines từ cuối thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
IẾN SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Văn Chương HUẾ, 2018 i LỜI CAM ĐOAN Tơi cam đoan luận án này hồn tồn do tơi thực hiện. Các kết quả nghiên cứu, đoạn trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận án đều được dẫn nguồn và cĩ độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tơi. TP. Huế, ngày 26/3/2018 Người viết cam đoan Trần Thị Quế Châu ii LỜI CẢM ƠN Tơi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Đặng Văn Chương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên, khích lệ tơi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Tơi xin trân trọng cảm ơn Khoa Lịch sử và Phịng Đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình tơi theo học Nghiên cứu sinh, khĩa (2013-2017). Tơi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Huế, Ban Chủ nhiệm và các đồng nghiệp Khoa Lịch sử đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành nhiệm vụ nghiên cứu. Tơi xin bày tỏ sự cảm kích của mình đến Th.S Nguyễn Thị Minh Nguyệt (Khoa Lịch Sử - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội) và Giảng viên Michael Bernal (Khoa Lịch Sử- Đại học Philippines ở Diliman), nếu khơng cĩ sự giúp đỡ của các bạn về tư liệu, tơi khơng thể hồn thành luận án này. Cuối cùng, tơi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã khích lệ, ủng hộ tơi trong suốt thời gian thực hiện luận án. Huế, ngày 26 tháng 3 năm 2018 Tác giả Trần Thị Quế Châu iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii MỤC LỤC ................................................................................................................ iii MỘT SỐ THUẬT NGỮ TÂY BAN NHA SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN ....... vi DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ x DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ................................................................................... x MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 3 4. Các nguồn tài liệu .................................................................................................... 6 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 7 6. Đĩng gĩp của luận án .............................................................................................. 8 7. Kết cấu luận án ........................................................................................................ 8 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .................... 9 1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nước ............................................................ 9 1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ngồi ......................................................... 11 1.3. Nhận xét về kết quả nghiên cứu ......................................................................... 17 1.4. Những vấn đề đặt ra cho luận án ........................................................................ 18 CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH “ĐĨNG CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES (1593-1762) ............................................................................ 19 2.1. Cơ sở hình thành và bối cảnh Tây Ban Nha thực thi chính sách “đĩng cửa” .... 19 2.1.1. Quá trình xác lập quyền cai trị của Tây Ban Nha ở Philippines (1521-1571) 19 2.1.2. Chính sách thương mại của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines trong những thập niên đầu cai trị (1571-1593) .............................................................................. 34 2.1.3. Sự gia tăng những mối đe dọa an ninh chính trị và sức ép cạnh tranh thương mại..................................................................................................... 41 2.1.4. Truyền thống độc quyền thương mại của Tây Ban Nha và ảnh hưởng của “Chủ nghĩa trọng thương” ......................................................................................... 46 2.2. Nội dung và quá trình triển khai thực hiện chính sách “đĩng cửa” ................... 51 iv 2.2.1. Chính sách hạn chế, độc quyền thương mại ................................................... 51 2.2.2. Chính sách hạn chế nhập cư, kiểm sốt chặt chẽ đối với di trú của người nước ngồi ... 67 CHƯƠNG 3. TỪ NỚI LỎNG “ĐĨNG CỬA” ĐẾN CHÍNH SÁCH “MỞ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES (1764-1898) ...................... 77 3.1. Nhân tố tác động đến sự thay đổi chính sách “đĩng cửa” sang “mở cửa” ......... 77 3.1.1. Sự suy yếu của đế chế Tây Ban Nha và sự kém hiệu quả trong quan lý độc quyền thương mại thế kỉ XVIII, XIX ........................................................................ 77 3.1.2. Sự ra đời của tư tưởng kinh tế chính trị mới ở châu Âu vào thế kỷ XVIII ..... 79 3.1.3. Anh xâm chiếm Manila (1762-1764) và nhu cầu phục hồi thương mại quốc tế, duy trì quyền cai trị của Tây Ban Nha ở Philippines ................................................ 83 3.2. Nội dung và quá trình triển khai thực hiện chính sách “mở cửa” ...................... 84 3.2.1. Chính sách nới lỏng “đĩng cửa” (1764-1789) ............................................... 84 3.2.2. Chính sách “mở cửa hạn chế” (1789-1833) ................................................... 92 3.2.3. Chính sách “mở cửa rộng rãi” (1834-1898) ................................................... 97 CHƯƠNG 4. NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH “ĐĨNG CỬA” VÀ “MỞ CỬA” CỦA TÂY BAN NHA Ở THUỘC ĐỊA PHILIPPINES .................................... 110 4.1. Chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” là kết quả của tác động nội tại với bối cảnh quốc tế, khu vực ...................................................................................................... 110 4.2. Tây Ban Nha đã chú trọng mục tiêu chính trị, tơn giáo hơn lợi ích kinh tế trong quá trình thực thi chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” ở Philippines .................... 116 4.3. Khoảng cách lớn giữa ban hành và thực thi chính sách “đĩng cửa” ở thuộc địa Philippines ............................................................................................................... 120 4.4. Chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” ở thuộc địa Philippines nằm trong “quỹ đạo” chung của đế chế Tây Ban Nha ...................................................................... 122 4.5. Tác động ........................................................................................................... 124 4.5.1. Đối với Philippines ........................................................................................ 124 4.5.2. Đối với Tây Ban Nha .................................................................................... 133 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 138 DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ ............... 141 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 143 v DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG NƯỚC NGỒI Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ Nghĩa Tiếng Việt AGI Archivo General de Indias Lưu trữ chung của thuộc địa Tây Ban Nha NAP National Archive of Philippines Lưu trữ quốc gia Philippines EIC East India Company Cơng ty Đơng Ấn Anh VOC Vereenigde Oost-Indische Compagnie Cơng ty Đơng Ấn Hà Lan BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ CNTT Chủ nghĩa trọng thương ĐNA Đơng Nam Á vi MỘT SỐ THUẬT NGỮ TÂY BAN NHA SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN STT Thuật ngữ tiếng Tây Ban Nha Nghĩa Tiếng Anh Nghĩa Tiếng Việt 1 Abaca Inner fiber of the plant woven into hemp Sợi tơ chuối, dệt thành gai dầu 2 Alcaldias Provinces Tỉnh 3 Alcade mayor Governor of a province, was appointed by governor-general Tổng đốc, Người đứng đầu một Tỉnh, được chỉ định bởi Tồn quyền 4 Ancabala Tax on goods Thuế đánh vào hàng hĩa 5 Almojarifazgo Tax applies to goods exported from Seville to the West Indies. Thuế áp dụng đối với hàng hĩa xuất khẩu từ Seville đến Tây Ấn 6 Audiencia Tribulnal which performed the triple function of hearing important cases, advising the governor, and sometimes initiating legislation. Tịa án với 3 chức năng: lắng nghe những vấn đề quan trọng, tư vấn cho Tồn quyền, và đơi khi thực hiện chức năng dự thảo pháp luật. 7 Barangay A kinship group composed of 30-50 families. By the nineteenth century it had evolved into a mere political unit. Một nhĩm quan hệ họ hàng gồm 30-50 gia đình. Đến thế kỷ XIX nĩ phát triển thành một đơn vị chính trị 8 Boleta Voucher for shipping-space on the Galleon Phiếu dành cho khoang chở hàng trên các Galleon 9 Cabezas de barangay Barangay chiefs Thủ lĩnh của các barangay, thay thế cho Datu thời kì tiền Tây Ban Nha 10 Caja real Royal treasury Ngân khố hồng gia 11 Casa de Contractacion House of trade Phịng thương mại 12 Cedulas Decrees Sắc lệnh 13 Consulado Exclusive traders class Tầng lớp thương nhân độc quyền 14 Consulado de Manila Consulate of Manila Lãnh sự Manila vii STT Thuật ngữ tiếng Tây Ban Nha Nghĩa Tiếng Anh Nghĩa Tiếng Việt 15 Consejo de Indias Council of the Indies Hội đồng thuộc địa 16 Datu Chieftain in preconquest times. Tộc trưởng trong thời kỳ tiền Tây Ban Nha 17 Encomienda Territories entrusted to one's care. Each encomienda was administered by a comendador. Right to collect tribute from people in certain areas, with the corresponding responsibility of providing protection and spiritual administration. Các vùng lãnh thổ được uỷ thác cho một người cai quản. Mỗi encomienda được quản lý bởi một chỉ huy được chỉ định. Họ cĩ quyền thu thuế từ người dân ở một số khu vực, cĩ trách nhiệm tương ứng về bảo vệ và quản lý tinh thần. 18 Galleon A big sailboat Thuyền buồm lớn 19 Gobernadorcillos Little governors, was elected yearly by prominent citizens of the town Người đứng đầu các quận, huyện, thành phố (dưới Tỉnh), được bầu lên hằng năm bởi những cơng dân sống lâu dài của thị trấn. 20 Guardia Civil Legislative Council in the Philippines Hội đồng lập pháp ở Philippines 21 Indio Full–blooded Malay. A native Filipino. Người bản xứ Philippines, mang dịng máu Malay 22 Ilustrado The intellectual class. Tầng lớp trí thức 23 Inter caetera Bull of Alexander VI Sắc lệnh của Giáo hồng Alexander VI về phân chia thế giới giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha 24 Intramuros “Within the walls”, “Walled city” Trong các bước tường, thành phố bị cơ lập 25 Las Leyes de Indias Law of Indias Luật thuộc địa 26 Mestizo Half-blooded Chinese Người Hoa lai 27 Moors Muslim Tiếng Tây Ban Nha dùng để gọi người Hồi giáo 28 Nueva Espađa New Spain Tân Tây Ban Nha (lãnh thổ thuộc Tây Ban Nha gồm Trung Mĩ, Cuba, Puerto Rico và Philippines) 29 Obras pías Making loans for the Acapulco trade Tổ chức cung cấp vốn cho hoạt động thương mại Manila Galleon viii STT Thuật ngữ tiếng Tây Ban Nha Nghĩa Tiếng Anh Nghĩa Tiếng Việt 30 Pancada whole-sale purchase Hệ thống mua sĩ hàng hĩa Tây Ban Nha áp dụng ở Manila 31 Polo Forced labor service Chế độ lao động cưỡng bức 32 Pueblo Town Thị trấn 33 Puerto de Japon The port of Japan Cảng Nhật Bản 34 Real Compania de Filipinas The Royal Philippine Company Cơng ty Hồng gia Philippines (1785-1834) 35 Reconquista Reconquest of Spain from the Moors. Phong trào tái chiếm đất đai của người Tây Ban Nha từ tay người Hồi giáo ở bán đảo Iberia, từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XV 36 Royal Audiencia Supreme Court Tịa án tối cao 37 Regidor Town council Hội đồng thị trấn 38 Sangleys Chinese merchants Thuật ngữ Tây Ban Nha dùng để gọi người Hoa. Ghép của hai âm Xiang – ley, nghĩa là thương nhân di động 39 Tribulnal de Cuentas Court of Auditors Tịa Kiểm tốn ix ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG, TIỀN TỆ CỔ SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN STT Đơn vị tiền tệ Quy đổi 1. Arroba 1 arroba = 11.5kg 2. Duro Tiền xu Tây Ban Nha, 1 Duro = 20 reales vellon 3. League Đơn vị đo chiều dài, 1 league=3 dặm Anh hoặc = 4,8 km 4. Peso Đơn vị tiền tệ Tây Ban Nha, 1 peso=8 reals 5. Pico 1 pico=125 pounds=125x453.59237g= 56,699g 6. Picul Đơn vị đo lường sử dụng ở Trung Quốc, Nhật Bản, Đơng Nam Á, 1picul=60-64kg 7. Quintal Đơn vị đo lường, 1 quintal= 50,8kg (Anh), hoặc =45.36kg (Mĩ) 8. Reals Reals of silver, 8 reals=1peso 9. Toneladas 1 toneladas=1.42 m3 x DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số lượng thuyền buơn trung bình từ Trung Quốc đến Manila (XVI, XVII) . 59 Bảng 2.2: Số thuyền buơn trung bình từ Trung Quốc đến Manila thế kỷ XVIII ........... 59 Bảng 3.1: Giá trị xuất nhập khẩu của các tàu buơn Mĩ với Philippines (1834 – 1854) . 98 Bảng 3.2: Tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu của Anh trong tổng giá trị xuất nhập khẩu Philippines (1837-1865) ..................................................................................................... 99 Bảng 3.3: Khối lượng xuất khẩu tơ chuối từ Philippines đến Anh và Mĩ (1850-1890) ........................................................................................................................................... 101 Bảng 3.4: Xuất-nhập khẩu của Philippines (1810-1894) ............................................... 102 Bảng 4.1: Số lượng bạc xuất khẩu từ Tây Ấn đến Tây Ban Nha .................................. 111 Bảng 4.2: Ngân sách Philippines năm 1757 ................................................................... 118 Bảng 4.3: Ngân sách Philippines năm 1884 – 1897 ....................................................... 119 Bảng 4.4: Tổng giá trị hàng hĩa trên Galleon (XVII-XVIII) ........................................ 121 Bảng 4.5: Đường, Tơ chuối, cà phê xuất khẩu giai đoạn 1840-1895 (phần trăm trong tổng số xuất khẩu, chọn lựa một số năm) ....................................................................... 128 Bảng 4.6: Hàng hĩa xuất khẩu Philippines phân phối theo địa lý (phần trăm trong tổng số xuất khẩu, lựa chọn một số năm từ 1818-1894). ....................................................... 129 Bảng 4.7: Thuế nhập khẩu các thuyền buơn nước ngồi nộp cho chính quyền Tây Ban Nha trong 3 năm 1895, 1896, 1897 ................................................................................. 135 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Sự dao động của số lượng người Nhật ở Philippines (1571-1637) ........... 74 Biểu đồ 3.1: Sự gia tăng số lượng người Hoa ở Philipines (XVI-XIX) ....................... 108 Biểu đồ 4.1: Giá trị xuất khẩu của hàng hĩa nội địa Philipines ..................................... 127 Biểu đồ 4.2: Cán cân xuất nhập khẩu của Philippines một số năm từ 1841 đến 1894 130 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cĩ lẽ nhiều người sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng vào đầu thế kỉ XV châu Âu là một vùng trì trệ và khốn khổ, khi họ đang phục hồi sau những thiệt hại của Cái Chết Đen- đại dịch đã làm giảm một nửa dân số. Cuộc “Chiến tranh Trăm Năm” (1337-1453) giữa Anh và Pháp vẫn đang tiếp diễn. Một số vương quốc trên bán đảo Iberia vẫn chịu sự cai trị của tín đồ Hồi giáo. Các vùng phồn thịnh nhất của châu Âu thực sự chỉ cịn những thành bang Bắc Italy là Florence, Genoa, Pisa, và Venice. Những người giàu trí tưởng tượng nhất cũng khơng thể nghĩ rằng châu Âu sẽ vươn lên thống trị thế giới trong bốn thế kỉ tiếp theo. Bằng cách nào châu Âu cĩ thể chinh phục được các đế chế phương Đơng vĩ đại, thần phục châu Phi, châu Mĩ và châu Úc? Nhà khoa học người Mỹ Jared Diamond trong bài tiểu luận mang tựa đề How to get Rich năm 1999 đã lý giải như sau: “trên bình nguyên phía Đơng của lục địa Âu Á, các đế chế phương Đơng vững như bàn thạch đã bĩp nghẹt mọi canh tân; trong khi đĩ tại rìa phía Tây trập trùng đồi núi và bị chia cắt bởi những con sơng, nhiều nền quân chủ và các thành bang đều tham gia vào hoạt động cạnh tranh và giao lưu đầy sáng tạo”1. Hẳn là đĩ là một câu trả lời chưa đầy đủ về vấn đề lớn của lịch sử nhưng phải thừa nhận đĩ là căn nguyên sâu xa nhất. Sự cạnh tranh đưa đến sự xác lập vị trí thống trị của châu Âu được mở đầu bằng sự ganh đua quyết liệt giữa hai quốc gia trên bán đảo Iberia trong “kỉ nguyên khám phá” (Age of Discovery) vào cuối thế kỉ XV. Với người châu Âu, việc tìm ra tuyến đường biển mới khơng chỉ là sự “phơ trương quyền thế” mà cịn để vượt trước các đối thủ khác cả về kinh tế, lẫn về chính trị. Nĩ là một cuộc tranh giành khơng gian hoặc đúng hơn là cuộc tranh giành vàng, gia vị và hương liệu giữa các nước châu Âu. Mặc dù nằm ở vùng Viễn Đơng xa xơi, Đơng Nam Á vẫn bị lơi cuốn vào vịng xốy của sự tranh giành thương mại và sự thiết lập thuộc địa của các đế chế thực dân với những người tiên phong Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Trên chuyến hành trình hướng về phương Đơng nhằm tìm kiếm con đường đến quần đảo hương liệu Moluccas, Magellan đã đặt chân đến quần đảo Philippines vào năm 1521. Sau 43 năm phát hiện và khám phá, Tây Ban Nha chính thức tiến hành xâm lược và thơn tính Philippines thơng qua cuộc viễn chinh của Lopez de Legazpi, đến 1 Dẫn theo Furguson, Nail (2017), Văn minh phương Tây và phần cịn lại của thế giới, Nxb Hồng Đức, tr.51 2 năm 1571 về cơ bản Tây Ban Nha đã chinh phục được Philippines (trừ các quốc gia Hồi giáo ở phía Nam). Song song với quá trình xâm chiếm, Tây Ban Nha bắt đầu thiết lập bộ máy chính quyền và thâu tĩm tồn bộ quan hệ đối ngoại của Philippines. Vào thời kì đầu của sự thống trị, để cạnh tranh với “người láng giềng” Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha theo đuổi chính sách khuyến khích thương mại, thu hút các nhà buơn châu Á đến Philippines. Trong mơi trường buơn bán tự do, Manila phát triển thịnh vượng, trở thành trung tâm của các hoạt động thương mại giữa châu Á và châu Mĩ, được mệnh danh là “hịn ngọc phương Đơng”. Từ cuối thế kỷ XVI, Tây Ban Nha chuyển sang chính sách “đĩng cửa”, cơ lập thuộc địa Philippines. Chính sách này được thực hiện một cách nghiêm ngặt thơng qua các biện pháp như hạn chế hoạt động ngoại thương của Philippines với các nước, độc quyền sản xuất và tiêu thụ nhiều mặt hàng cơng nghiệp, ngăn cấm người nước ngồi sinh sống ở Philippines. Từ nửa sau thế kỷ XVIII, Tây Ban Nha dần từ bỏ “đường lối cơ lập” chuyển sang “đường lối cởi mở” trong quan hệ với các quốc gia. Việc “mở cửa” đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế Philippines, xuất khẩu tăng lên và những sản phẩm sản xuất trong nước đã dần thay thế hàng hĩa nước ngồi. Tại sao Tây Ban Nha lại thực hiện hai chính sách khác nhau trong quá trình cai trị Philippines? Chính sách “đĩng-mở” cửa thuộc địa Philippines cĩ phải chỉ do ý muốn chủ quan của thực dân Tây Ban Nha hay cịn do những nhân tố khách quan tác động? Mục đích của Tây Ban Nha khi thực hiện những chính sách này là gì? Các phương diện và mức độ thực hiện các chính sách đĩ như thế nào? Và chính sách đĩ đã tác động ra sao đến Philippines và Tây Ban Nha? Làm sáng tỏ những câu hỏi này luận án sẽ cĩ những đĩng gĩp về cả phương diện khoa học và thực tiễn. Về gĩc độ khoa học, nghiên cứu chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines chúng ta sẽ gĩp phần lí giải sâu sắc hơn những chính sách của Tây Ban Nha đối với thuộc địa Philippines dưới tác động của các nhân tố nội tại (Tây Ban Nha và Philippines) và quốc tế. Qua đĩ, giúp chúng ta rút ra những đặc điểm và tác động của chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” đối với Tây Ban Nha và Philippines. Đồng thời, nghiên cứu đề tài này chúng ta cĩ cơ sở để nhìn nhận khách quan hơn những tương đồng và khác biệt trong chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” ở các nước Đơng Nam Á từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. 3 Về gĩc độ thực tiễn, làm rõ chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở Philippines thời thuộc địa là gĩp phần làm phong phú thêm bức tranh “đĩng cửa” – “mở cửa” ở thời đại châu Á phải đối mặt với sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Đĩ là việc một nước thực dân là chủ thể thực hiện chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” ở một nước thuộc địa. Từ những lý do nĩi trên, chúng tơi quyết định chọn vấn đề “Chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX” làm đề tài luận án tiến sĩ thuộc Chuyên ngành Lịch sử thế giới, mã số 62.22.03.11 nhằm làm rõ tính đặc thù và bản chất chính sách thuộc địa của Tây Ban Nha ở Philippines nĩi chung, chính sách đối ngoại nĩi riêng, từ đĩ gĩp phần nhận diện, so sánh các chính sách thuộc địa của Phương Tây ở Đơng Nam Á cũng như trên thế giới thế kỷ XVI-XIX. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống hĩa chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, luận án sẽ làm rõ bức tranh tồn cảnh cũng như chỉ ra bản chất của chính sách cai trị và tác động của nĩ đối với Tây Ban Nha và Philippines. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để hồn thành những mục tiêu trên, chúng tơi sẽ thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau: - Phân tích bối cảnh lịch sử và nguyên nhân chủ yếu đưa đến việc Tây Ban Nha chinh phục Philippines và thực hiện chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” tại thuộc địa này. - Làm rõ những nội dung cơ bản chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở Philippines (cuối thế kỷ XVI – cuối thế kỷ XIX) trên hai phương diện chủ yếu là chính sách thương mại và chính sách đối với vấn đề di trú của người nước ngồi. - Rút ra những đặc điểm trong chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines. - Phân tích những tác động, hệ quả của những chính sách này đối với Tây Ban Nha và Philippines trong giai đoạn nghiên cứu 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu về chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa” của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines trong ba thế kỷ (từ cuối thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XIX). 4 Vì vậy, để xác định rõ đối tượng nghiên cứu, trước hết chúng ta phải làm rõ nội hàm hai khái niệm cơ bản của luận án đĩ là chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa”. Khái niệm chính sách “đĩng cửa” được các nhà nghiên cứu sử dụng khá phổ biến trong những thập kỉ gần đây nhưng cho đến nay vẫn chưa cĩ một định nghĩa đầy đủ. Theo từ điển Cambridge, thuật ngữ “closed – door policy” thường được sử dụng với 3 nội hàm cơ bản: (1) Thực thi sự hạn chế thương mại với các quốc gia, cơng ty và tổ chức khác; (2) Thực hiện việc cấm người nước ngồi đi lại hoặc chuyển đến quốc gia của bạn; (3) Thực hiện cơng việc một cách bí mật và khơng để cơng chúng biết về nĩ.2 Trong luận án Tiến sĩ sử học của tác giả Nguyễn Văn Kim, thuật ngữ “chính sách đĩng cửa” được dùng nhằm để chỉ “một nội dung tổng quát, quán xuyến tồn bộ quan hệ quốc tế của đất nước trong một thời kì chứ khơng phải là riêng một chính sách cụ thể nào” [14]. Bởi lẽ, trong từng thời điểm lịch sử, cũng cĩ thể cĩ những chủ trương đối ngoại khác nhau. Chính sách “đĩng cửa” được thực hiện thơng qua các biện pháp chính trị, kinh tế khác nhau như kiểm sốt chặt chẽ địa điểm buơn bán, số lượng tàu, thuyền, chủng loại, số lượng hàng hĩa xuất nhập khẩu hằng năm, hạn chế trong quan hệ ngoại giao. Như vậy, qua những cách giải thích trên, chúng ta hiểu chính sách “đĩng cửa” cĩ nghĩa là các chủ thể chính trị hạn chế (limit/restrict) quan hệ thương mại với bên ngồi, kiểm sốt gắt gao vấn đề nhập cư và di cư và thực hiện cơng việc quốc gia một cách bí mật. Khi đề cập đến khái niệm chính sách đĩng cửa của một quốc gia, chúng ta hiểu đĩ khơng phải là một chính sách cụ thể vào một thời điểm lịch sử nào đĩ, mà là một nội dung bao quát tồn bộ quan hệ đối ngoại của cả một thời kì. Chính sách “mở cửa” (open-door policy) cĩ nội hàm trái ngược với khái niệm chính sách “đĩng cửa” nĩi trên. Đĩ là các chủ thể chính trị khuyến khích những quốc gia khác thiết lập quan hệ thương mại và đầu tư với quốc gia của mình và mọi người được tự do đến sống và làm việc tại quốc gia đĩ. Từ những khái niệm và cách hiểu trên, để làm rõ chính sách “đĩng cửa” và “mở cửa”, luận án tập trung vào hai phương diện nghiên cứu chủ yếu đĩ là chính sách thương mại và chính sách di trú đối với người nước ngồi của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối XVI đến cuối XIX. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về phạm vi thời gian, luận án nghiên cứu gần như trọn vẹn thời kì thống trị của Tây Ban Nha ở Philippines từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX. Trong đĩ chúng tơi tập trung vào những mốc thời gian quan trọng như sau: 2 www.dictionary.cambridge.org/closed-door 5 + Năm 1593: Hồng gia Tây Ban Nha ban hành sắc lệnh hạn chế thương mại ở thuộc địa Philippines. Đây được xác định là mốc khởi đầu của chính sách “đĩng cửa” thuộc địa Philippines. + Năm 1764: Sau sự kiến Anh xâm chiếm Manila (1762-1764). Đây được xem là mốc khởi đầu cho sự chuyển biến từ “đĩng cửa” sang “mở cửa” + Năm 1789: Tây Ban Nha ban hành sắc lệnh cho phép các thuyền buơn nước ngồi đến Manila trao đổi hàng hĩa miễn là khơng mang theo hàng hĩa từ châu Âu. Đây được xem là mốc khởi đầu cho chính sách “mở cửa hạn chế” thuộc địa. + Năm 1834: Cơng ty Hồng gia Tây Ban Nha chấm dứt hoạt động, độc quyền thương mại thuộc địa Philippines của Tây Ban Nha kết thúc. Nữ hồng Isabel tuyên bố Manila mở cửa một cách tự do đối với thương mại thế giới. Đây được xem là mốc khởi đầu của giai đoạn “mở cửa hồn tồn” Philippines. + Ngồi ra để làm rõ bối cảnh Tây Ban Nha đi đến chính sách “đĩng cửa” vào cuối thế kỉ XVI, chúng tơi đã tập trung phân tích chính sách thương mại của Tây Ban Nha ở Philippines trong giai đoạn 1571-1593. - Về phạm vi khơng gian, luận án nghiên cứu chính sách của Tây Ban Nha ở trên lãnh thổ quần đảo Philippines (trừ vùng Hồi giáo ở phía Nam khơng chịu sự thống trị của người Tây Ban Nha). Ngồi ra, vì đây là đề tài nghiên cứu cĩ liên quan đến vấn đề đối ngoại, nên chúng tơi luơn đặt thuộc địa Philippines trong bối cảnh quốc tế, khu vực và cả chính quốc, đặc biệt là sự tranh giành độc quyền thương mại giữa Tây Ban Nha với các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Mĩ ở Đơng Nam Á từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. - Về phạm vi nội dung: Trong suốt hơn ba thế kỉ (1571-1898) hiện diện ở Philippines, về cơ bản chính sách của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines cĩ thể chia thành hai giai đoạn lớn: (1)1593-1762 chính sách “đĩng cửa”, cơ lập Philippines; và (2) 1789-1898 chính sách “mở cửa” Philippines. Trong quá trình nghiên cứu chúng tơi nhận thấy rằng việc chuyển từ chính sách “đĩng cửa” sang “mở cửa” thực chất nĩ cịn phải trãi qua một giai đoạn “chuyển tiếp” (hay cịn gọi “buổi giao thời” (Transition period) trong chính sách của Tây Ban Nha). Giai đoạn này cĩ thể được tính từ 1764 (sau sự kiện Anh chiếm Manila) đến năm 1789 khi Tây Ban Nha tuyên bố Manila trở thành hải cảng tự do đối với thuyền buơn các nước miễn là khơng mang theo hàng hĩa từ châu Âu. Vì thế, để thấy rõ sự chuyển biến trong chính sách của Tây Ban Nha, cũng như để nhận thức được vấn đề một cách logic và biện chứng, chúng tơi sẽ trình bày nội dung này vào trong giai đoạn trước khi Tây Ban Nha chính thức ban hành sắc lệnh “mở cửa” thuộc địa Philippines vào năm 1789. 6 4. Các nguồn tài liệu Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài luận án đã kế thừa một số tư liệu, những kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngồi nước, cụ thể là: - Tài liệu gốc + Các sắc lệnh của Hồng gia Tây Ban Nha, thư từ trao đổi giữa vua Tây Ban Nha với quan chức ở Philippines về các vấn đề thuộc địa. Tất cả những văn bản này được tập hợp trong một cơng trình khá đồ sộ (gồm 55 tập) của các nhà nghiên cứu của Mỹ Blair, E,H. and Robertson (1903-1909), “The Philippines Islands (1493 - 1898): Explorations by early navigators, descriptions of the islands and their peoples, their history and records of the Catholic missions, as related in contemporaneous books and manuscripts, showing the political, economic, commericial and religious conditions of those islands from their earliest relations with European nations to the beginning of the nineteenth century”. Tài liệu này lưu trữ tại thư viện của Đại học Michigan. AnalyticalIndextotheSeriesAI + Những ghi chép của những nhà du hành châu Âu về tình trạng Nhà nước, cư dân, thương nhân ở Philippines vào cuối thế kỷ XVIII, đầu XIX được tập hợp trong cơng trình The Former Philippines thru Foreign Eyes (1916) (Lịch sử Philippines thơng qua con mắt của người nước ngồi), được biên tập bởi Austin Craig, University of the Philippines, Manila. + Những ghi chép của Tổng đốc Antonio de Morga về quan hệ của quần đảo Philippines với các nước trong khu vực tại thời điểm người Tây Ban Nha đặt chân đến và 30 năm sau đĩ. Cơng trình này được xuất bản ở Mexico vào thế kỷ XVII và dịch sang tiếng Anh vào thế kỷ XIX với tiêu đề “History of the Philippine Islands - Molucca, Siam, Cambodia, Japan and China at close of the sixteenth century” (Lịch sử quần đảo Philippines-Molucca, Xiêm, Campuchia, Nhật Bản và Trung Quốc vào cuối thế kỷ XVI) + Sắc lệnh thành lập cơng ty Hồng gia Philippines năm 1785 và mở cửa cảng Manila đối với các nước châu Á của vua Charles III (1759-1788) được biên soạn bẳng tiếng Tây Ban Nha bởi Ibarra, D...và Alan) đã vượt qua dãy núi Pyrenees để tiến vào Tây Ban Nha. Người Visigoth sau đĩ đã tiếp quản Tây Ban Nha vào năm 415. Sau khi cải đạo theo Cơng giáo Roma, vương quốc Visigoth đã trở thành một triều đại lớn ở bán đảo Iberia. Vào thế kỉ VIII, bán đảo Iberia bị người Berber theo Đạo Hồi từ Bắc Phi vượt eo Gibralta xâm lược (711-718) và chiếm đĩng. Đây là một bước trên đà bành trướng của triều đại Omeyyad từ Arap. Từ thời điểm này, tại đây đã diễn ra thời kỳ Reconquesta (tái chiếm/khơi phục lại) lãnh thổ bị người Arab chiếm đĩng kéo dài suốt 800 năm. Cơng cuộc tái chiếm là một phong trào mở rộng về phía Nam của các vương quốc Cơng giáo trên bán đảo Iberia, tấn cơng vào những khu vực của người Hồi giáo (người Tây Ban Nha gọi là Moors). Một loạt tiểu quốc xuất hiện trong quá trình đấu tranh chống người Arab như Axturia, Navara, Leon, Galaxia, Castila, Bồ Đào Nha, Aragon, Catalonia, Valenxia,Cho đến thế kỉ XIII, mặc dù hầu hết những tiểu quốc trên bán đảo Iberia đã thốt khỏi sự kiểm sốt của người Arab (ngoại trừ Grenada ở phía Nam) nhưng các tiểu quốc này vẫn khơng thể hợp nhất lại và xĩa bỏ tình trạng phân tán về chính trị. 3 Nằm ở phía Tây Nam châu Âu, với diện tích 582.000km2, bán đảo Iberia lớn thứ hai ở châu Âu (chỉ sau bán đảo Scandinavian). Tên gọi của bán đảo Iberia bắt nguồn từ những cư dân cổ xưa mà người Hy Lạp gọi là Iberia, cĩ thể là sơng Ebro (Iberus), con sơng dài thứ hai của bán đảo (sau sơng Tagus). Dãy núi Pyrenees tạo thành lá chắn ở phía Đơng Bắc, tách bán đảo Iberia khỏi phần cịn lại của châu Âu, và ở phía Nam eo biển Gibralta tách bán đảo khỏi Bắc Phi. Phần lớn lãnh thổ của bán đảo Iberia thuộc hai quốc gia Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, ngồi ra cịn cĩ Andorra và một phần nhỏ của Pháp. 20 Vào cuối thế kỷ XV, những biến cố quan trọng đã diễn ra làm thay đổi căn bản tình hình chính trị trên bán đảo Iberia. Năm 1469, vương quốc Tây Ban Nha bước đầu được thống nhất bằng cuộc hơn nhân giữa vua Ferdinand II xứ Aragon (1468 – 1516) với nữ hồng Isabella I xứ Castille (1474 – 1504). Cuộc hơn nhân chính trị này “đã liên hợp các lợi ích Địa Trung Hải của Liên bang Aragon với các lợi ích Đại Tây Dương của vương quốc Castilla, với sự khác biệt ngày càng sâu sắc: Biển Địa Trung Hải đã mất đi vai trị chính, trong khi những hứa hẹn ở Đại Tây Dương vạch ra những hiện thực vơ bờ bến” [23, tr. 178]. Sự kiện này mốc quan trọng trong lịch sử bán đảo Iberia, tạo ra tiền đề cho sự vươn lên mạnh mẽ của Tây Ban Nha trong những thế kỷ sau, dựa trên sự khai thác tối đa ưu thế về vị trí địa lý. Năm 1492, Grenada-tiểu quốc cuối cùng của miền Nam được giải phĩng hồn tồn khỏi tay đế quốc Arab. Chính quyền chuyên chế Tây Ban Nha được thiết lập trên tồn bộ lãnh thổ và bước đầu củng cố vững chắc. Lãnh thổ Tây Ban Nha thống nhất bao gồm hầu hết các tiểu quốc trên bán đảo Pirene, trừ Bồ Đào Nha. “Hai biến cố to lớn này-sự củng cố bước đầu của chủ nghĩa chuyên chế và hồn thành thắng lợi thời kì khơi phục-đã tạo nên những tiền đề chính trị thuận lợi cho sự phát triển kinh tế Tây Ban Nha ở thế kỉ XVI. Tây Ban Nha biến thành một cường quốc thế giới và bắt đầu chế ngự đời sống chính trị Tây Âu” [25, tr.504]. Dưới triều đại Ferdinand (1479-1516) và Charles V (1516-1556), quá trình củng cố nền chuyên chế Tây Ban Nha diễn ra mạnh mẽ. Quá trình củng cố nền chuyên chế bao gồm việc thống nhất hệ thống tiền tệ; ban hành luật Toro (1505) quy định quyền lực của nhà vua đối với việc ban hành, giải thích và hủy bỏ các điều luật; đàn áp các cuộc nổi dậy địi ly khai của thành phố Castille (1520-1521), cải cách Nghị viện theo hướng hạn chế thẩm quyền của các đại diện. Nhờ vậy, vua Tây Ban Nha đã nắm trong tay tồn bộ quyền lực từ kinh tế, chính trị đến quân đội.  Cạnh tranh với Bồ Đào Nha trong “kỉ nguyên khám phá” (Age of Discovery) Sau khi thốt khỏi sự thống trị của người Hồi giáo, thiết lập nước thống nhất và củng cố chế độ chuyên chế trung ương tập quyền, Tây Ban Nha cĩ được những điều kiện thuận lợi để tham gia vào cuộc cạnh tranh quyết liệt với Bồ Đào Nha trong “kỷ nguyên khám phá” và xâm chiếm thuộc địa. Bồ Đào Nha là quốc gia đầu tiên thực hiện cải tiến trong việc đĩng tàu với sự thành lập của Trường hàng hải đầu tiên trên thế giới tại Sagres Point vào năm 1419 bởi “Nhà hàng hải” Henry. Từ năm 1451 đến 1470, người Bồ Đào Nha đã khám phá và thực dân 21 hĩa tất cả những đảo của Azores ở Đại Tây Dương. Được thúc đẩy bởi sự nhiệt huyết bất tận, người Bồ Đào Nha tiếp tục đeo đuổi giấc mơ đến Phương Đơng bằng con đường biển trực tiếp. Động lực thúc đẩy đằng sau những chuyến hành trình này là khác nhau. Ham muốn vàng, hương liệu, xa hơn là những cuộc viễn chinh thập tự chống người Hồi giáo ở Bắc Phi4. Sau khi vua Henry mất, vua John II lên ngơi, mục tiêu của Bồ Đào Nha lúc này là thực hiện chuyến vịng quanh châu Phi đến Ấn Độ bằng đường biển. Người được giao trọng trách này chính là Bartolome Dias. Trong khi Dias đang thực hiện nhiệm vụ tìm đường biển vịng qua châu Phi đến Ấn Độ thì Columbus đề nghị với Ủy ban hành chính rằng ơng cĩ thể đến Ấn Độ bằng cách dong buồm đi về phía Tây. Tuy nhiên, sự thỉnh cầu của Columbus bị vua Bồ Đào Nha khước từ. Rời Bồ Đào Nha, Columbus đến Pháp, Anh và Tây Ban Nha, với hy vọng tìm được sự hỗ trợ cho chuyến đi về phía Tây từ những đối thủ của Bồ Đào Nha. Nữ hồng Isabel của Tây Ban Nha (cháu gái của vua John II), đã chấp nhận đề nghị của Columbus. Tháng 4-1493, Columbus trở về trong chiến thắng đến diện kiến Isabel tại cung điện Hồng gia ở Barcelona vì đã khám phá ra châu lục mới và tin rằng ơng đã đến được Ấn Độ. Phát hiện này một lẫn nữa đưa đến sự tranh cãi giữa hai quốc gia trên bán đảo Iberia. Bởi vì theo Hiệp ước Alcasovas ,Tây Ban Nha đã nhượng cho Bồ Đào Nha tất cả những vùng đất Nam Canaries và cho rằng những khám phá của Columbus là nằm trong vịng khu vực đĩ. Vua John II, một mặt phái cơng sứ đến vương triều Tây Ban Nha, mặt khác chuẩn bị một cuộc viễn chinh dưới sự chỉ huy của Francisco de Almeida để giành quyền sở hữu những quần đảo bằng vũ lực. Để ngăn chặn chiến tranh đang sắp diễn ra, nữ hồng Isabel của Tây Ban Nha đã tiến hành đàm phán ngay lập tức với Bồ Đào Nha đồng thời thuyết phục Giáo hồng Alexander VI (người Tây Ban Nha) ban hành sắc lệnh nổi tiếng Inter Cetera. Các học giả Tây Ban Nha và Philippines đều cho rằng lịch sử Philippines trong mối quan hệ với Tây Ban Nha bắt đầu với sắc lệnh này bởi vì nĩ đã cung cấp sự khích lệ trực tiếp cho Tây Ban Nha khám phá và thực dân hĩa Philippines. Inter Cetera trở thành văn kiện tham khảo gốc cho hàng loạt các sắc lệnh được ban hành bởi Alexander VI trong thời gian hơn hai năm. “Inter Cetera gốc ban hành ngày 3-5-1493, chia tất cả những vùng đất được khám phá dong buồm phía Tây cho 4 Trong suốt thế kỉ XV, cả Castile và Bồ Đào Nha đều xem châu Phi là thị trường giàu cĩ và là địa bàn cho sự mở rộng cuộc đấu tranh tơn giáo của họ với thế giới Hồi giáo. Người Bồ Đào Nha thiết lập thuộc địa và trồng mía ở vùng Azores và quần đảo Madeira và người Castile làm điều tương tự ở Canaries. 22 Tây Ban Nha; Eximinae Devotionis ban hành vào 3-5-1493, thừa nhận những quyền và đặc quyền ở phía Tây địa cầu cho Tây Ban Nha ngang với những phần chia của Bồ Đào Nha ở châu Phi [36, tr. 70-71]; sau đĩ Inter Cetera được ban hành 4-5-1493, thiết lập một đường biên giới – kinh tuyến 100 leagues phía Tây của Azores, theo đĩ, mọi thứ phía Tây là của Tây Ban Nha và mọi thứ phía Đơng là của Bồ Đào Nha [45, vol I, tr. 97-138]. [Xem PL2] Tuyên bố của Giáo hồng Alexander VI là rất quan trọng bởi vì nĩ giao cho Tây Ban Nha quyền tối cao để thực dân hĩa những vùng đất chưa được khám phá của những người ngoại đạo, truyền giảng phúc âm, gửi những đồn truyền giáo, xây dựng nhà thờ, và những thứ cần thiết để truyền bá niềm tin cho những người của những quốc gia mới được khám phá. Tuyên bố này cũng là cơ sở cho việc kí kết Hiệp ước Tordesillas năm 1494 giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Hai quốc gia đồng ý dàn xếp những chi tiết của đường phân chia – gọi là Đường giới tuyến 370 leagues phía Tây của Cape Verde. Vùng đất nằm về phía Đơng của đường phân chia là dành cho Bồ Đào Nha, và những lãnh thổ về phía Tây là dành cho Tây Ban Nha. Cả hai quốc gia đều đồng ý truyền bá giáo lí Thiên chúa giáo ở những vùng đất mới khám phá của mình [45, vol I, tr.124; 36, tr. 70-71]. Hiệp ước Tordesilas đã trung thành theo sắc lệnh của Giáo hồng năm 1493, giao Tân thế giới cho Tây Ban Nha, châu Phi và Ấn Độ được dành cho một mình Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, hiệp ước đã thay đổi đường phân chia 370 leagues xa hơn về phía Tây, vì thế chia Brasil cho Bồ Đào Nha. Đây là một lợi ích thực sự của Bồ Đào Nha. Vào thời điểm thơng qua Hiệp ước dường như khơng cĩ điều gì xảy ra đối với bất cứ bên nào, ranh giới phân chia là cần thiết để hai nước cĩ cơ sở tiếp tục những cuộc hành trình vịng quanh thế giới đến những phía khác của tồn cầu. Sau đĩ, khi những kiến thức địa lý trở nên rõ ràng là Tân thế giới mà Columbus phát hiện hồn tồn khơng tiếp cận châu Á, những lí thuyết liên quan đến sự mở rộng của đường phân chia quanh thế giới bắt đầu được xúc tiến. Trung tâm của vấn đề này là cuộc tranh luận đường ranh giới ở Moluccas – quần đảo hương liệu thèm muốn của phương Đơng [47, tr.24-25]. Giữ sự trung lập suốt Hiệp ước Tordesillas, 10 năm sau chuyến đi của Dias, Bồ Đào Nha mới tiến hành chuyến đi dài đến Ấn Độ. Khi John II mất và anh họ Manuel I (1495-1521) trở thành vua, nhiệm vụ này được giao cho Vasco da Gama. Hạm đội của ơng đã băng qua Ấn Độ Dương đến Calicut năm 1498. Sau 13 năm sau, Albuquerque 23 tiến hành chinh phục Malacca của bán đảo Malay, một hải cảng quan trọng của tuyến đường buơn bán hương liệu. Sau khi chiếm được Malacca vào ngày 24-8-1511, Bồ Đào Nha tiếp tục sử dụng sức mạnh quân sự để nhanh chĩng xâm nhập vào quần đảo hương liệu Moluccas. Tuy nhiên, mãi đến năm 1513, dưới sự chỉ huy của Serrano, Bồ Đào Nha mới đạt được mục tiêu của mình bằng việc thiết lập hai thương điếm nhỏ ở các đảo thuộc quần đảo hương liệu, một ở Ternate và một ở Batjan. Sau bảy năm làm việc ở phương Đơng, Magellan trở lại Lisbon vào năm 1513. Với những kinh nghiệm và kiến thức cĩ được, ơng muốn thuyết phục vua Manuel ủng hộ kế hoạch đi đến Moluccas bằng con đường phía Tây để tham gia cùng với Serrano5. Tuy nhiên, do vua Manuel bị tác động từ những lời buộc tội về sự khơng trung thành của Magellan nên đã từ chối đề nghị của ơng.6 Rõ ràng sau thời điểm này, cũng như người tiền nhiệm Columbus, Magellan đã nung nấu quyết tâm rời khỏi Bồ Đào Nha tìm kiếm bến đỗ mới để thực hiện giấc mơ của mình. Thơng qua sư giúp đỡ của Duarte Barbosa, Magellan đã bí mật rời Bồ Đào Nha đến Seville (Tây Ban Nha) trên con thuyền nhỏ vào ngày 20-10-1517. Đi cùng với ơng cịn cĩ những thủy thủ kì cựu khác, những người đã từng phục vụ cho Bồ Đào Nha ở Ấn Độ, cũng bị rơi vào sự nghi ngờ và ghét bỏ trong con mắt của vua Manuel I. Kết quả là, tất cả những bí mật của những cuộc thám hiểm mà Bồ Đào Nha đã cố gắng bảo vệ bằng chính sách bí mật giờ đây đã nằm trong tay người Tây Ban Nha. Mặc dù Bồ Đào Nha đang cĩ những bước tiến vững chắc ở châu Á7, nhưng sự thúc đẩy cho những cuộc khám phá đang nằm trong tay người Tây Ban Nha. Năm 1518, Magellan thuyết phục vua Charles V của Tây Ban Nha rằng ơng cĩ thể tìm thấy con đường ngắn hơn để đến Moluccas bằng việc dong buồm đi về hướng Tây qua châu Mĩ. Magellan nhận được sự chỉ dẫn của Hồng gia dong buồm trực tiếp đến Moluccas và mang trở về những hương liệu vơ giá. Quyết định này đã trở thành điểm 5 Serrano là cậu của Magellan. Trong suốt 7 năm ở Moluccas, Serrano gửi cho Magellan những chỉ dẫn và thơng tin về vị trí của quần đảo, khoảng cách từ Malacca, tương quan của chúng với đường phân chia, về khả năng nắm giữ chúng với chỉ một trăm lính Bồ Đào Nha và phác thảo cơng việc cá nhân để thực hiện giấc mơ giàu cĩ của họ [47, tr.25-26]. 6 Nhiều nhà sử học đã gợi ý rằng sự hận thù giữa Manuel I và Magellan bắt nguồn từ việc vua Bồ Đào Nha luơn cĩ thái độ nghi ngờ những gián điệp người Tây Ban Nha và đố kỵ với những người được sự cơng nhận của Hồng gia vì sợ một cuộc chạy đua đến ngai vàng hình thành. 7 Lopo Soares de Albergaria, người kế nhiệm của Albuquerque trong thời kì từ 1515 đến 1518 đã hồn thành sự chinh phục đối với Malabar và Ceylon. Sau khi Bồ Đào Nha đã tạo lập được một loạt cứ điểm vững chắc tại Ấn Độ, họ bắt đầu tiến vào Đơng Bắc Á. Vào năm 1516, Rafael Perestrello đến Trung Quốc từ Malacca và năm sau đĩ Ferdinand de Andrade đến Quảng Đơng. Những thương điếm tiếp theo được xây dựng ở Ninh Ba (Ningpo) năm 1512, Hạ Mơn (Amoy) năm 1544 và Macao năm 1557. Năm 1542, Bồ Đào Nha đến Nhật Bản và năm 1549 đã thiết lập một chỗ đứng vững chắc ở đĩ. 24 khởi đầu cho “thiên sử thi lớn nhất trong lịch sử khám phá của nhân loại”. Năm 1519, Magellan rời San Lucar Tây Ban Nha trên 5 chiếc thuyền với 235 người. Ơng đi vịng quanh mũi phía Nam của châu Mĩ, băng qua Thái Bình Dương dong buồm về phía Tây - Bắc. Cuối cùng, Magellan đã đến Philippines vào ngày 17-3-1521. Ở Mactan, ơng bị giết chết trong trận đánh vào tháng 4-1521 như là hệ quả của sự xung đột giữa Lapulapu với Zula – tù trưởng của Mactan. Chỉ một thuyền cịn lại, đĩ là Victoria, dưới sự chỉ huy của Juan Sebastian del Cano đã hồn thành chuyến hành trình trở lại Seville vào năm 1522. Tình hình trở nên phức tạp vào năm 1521 khi tàu Victoria đã cập bến ở Moluccas trong chuyến hành trình về Tây Ban Nha. Sự thâm nhập này của người Tây Ban Nha vào “khu vườn riêng” của Bồ Đào Nha trên thực tế đã vi phạm hiệp ước Tordesillas ký giữa hai nước năm 1494. Do sự phản kháng của người Bồ Đào Nha, vua Charles V và John III đã đồng ý cử đại diện đến cuộc họp vào năm 1524 ở biên giới giữa Badajor (phía Bồ Đào Nha) và Yalves (phía Tây Ban Nha). Nhưng cuộc họp đã khơng thỏa thuận được việc xác định vị trí chính xác của Moluccas, do tính tốn giữa hai bên chênh lệch nhau tới 46 độ [57, tr.21]. Khi những nỗ lực trên bàn đàm phán thất bại, vua Charles V Tây Ban Nha quyết định hành động. Tháng 5-1525, ơng ban hành sắc lệnh chỉ định Juan Garcia Jofre de Loaysa tiến hành chuyến viễn chinh đến Moluccas. Ngày 24-7-1525, hạm đội gồm 7 chiếc tàu dưới sự chỉ huy của Loaysa dong buồm từ La Coruna theo đường eo biển Magellan để đến khẳng định yêu sách của mình tại các đảo thuộc quần đảo hương liệu. Tuy nhiên do gặp phải cơn bão mạnh, chỉ cĩ một chiếc tàu đến được đĩ. Tàu Victoria đã đến được Tidore và từ đĩ đã bắt đầu một cuộc đấu tranh giữa người Bồ Đào Nha liên minh với Ternate và người Tây Ban Nha liên minh với Tidore. Do Tây Ban Nha lệ thuộc vào sự giúp đỡ của Cortez ở Mexico và khơng cĩ sự giúp đỡ kịp thời nên họ đã buộc phải đầu hàng trước lực lượng của Bồ Đào Nha. Cĩ lẽ do khơng biết được tình hình của cả hai phía, vua Charles V của Tây Ban Nha đã nhượng quyền giả định của họ ở Moluccas cho vua Bồ Đào Nha với giá 350.000 ducats [57, tr.29]. Năm 1529, một hiệp ước mới được ký kết đĩ là hiệp ước Saragossa trong đĩ người Tây Ban Nha đã đồng ý ngừng các cuộc thám hiểm của họ cách Moluccas 17 độ về phía Đơng [45, vol.1, tr.227]. Mục tiêu chiếm đĩng quần đảo hương liệu của Tây Ban Nha hồn tồn thất bại. Từ thời điểm này, để cạnh tranh với Bồ Đào Nha ở Viễn Đơng, Tây Ban Nha đã quay trở lại phía Bắc, quan tâm đến quần đảo San Lázaro (sau này được đặt tên là Felipinas) được Magellan tìm thấy năm 1521. 25  Vị trí của Philippines trên tuyến đường giao thương khu vực Philippines8 là quần đảo với 7.107 hịn đảo lớn nhỏ nằm ở Đơng Nam châu Á. Là một trong những quần đảo lớn nhất trên thế giới, Philippines cĩ vị trí địa lí khá đặc biệt, giáp với biển Thái Bình Dương ở phía Đơng, biển Đơng ở phía Tây, kênh Bashi ở phía Bắc và biển Celebes ở phía Nam. Đảo cực Bắc là Y’Ami, chỉ cách Đài Loan chừng 240km và ở cực nam là đảo ở cực Nam là Saluag Isle, cách Sabah (bắc bán đảo Borneo) chỉ 24km. Nếu nhìn trên phạm vi rộng lớn của bản đồ thế giới, Philippines là một dải đảo nằm trên rìa phía Tây của biển Thái Bình Dương. Trên mặt đại dương, Philippines như một dải cọc tiêu nối liền dài 1.800 km theo hướng hơi cong giữa đảo Kalimantan với Đài Loan. Philippines cĩ đường biển khúc khuỷu với chiều dài 34.600km – được xem là đường bờ biển liên tục dài nhất trên thế giới, cĩ 61 cảng biển tự nhiên, 20 eo biển và rất nhiều vịnh lớn nhỏ. Vịnh Manila với diện tích hơn 700 dặm vuơng và chu vi 120 dặm, là vịnh lớn nhất ở Philippines đồng thời là cảng biển tự nhiên tốt nhất ở châu Á và thế giới. Những vịnh biển nổi tiếng khác như Lingayen, Leyte và Davao. Đặc trưng địa lí này mang đến cho Philippines nhiều bất lợi nhưng ngược lại đây là nơi “lí tưởng” cho giao thơng và buơn bán. Các cửa biển ở Philippines thuận lợi cho việc neo đậu tàu thuyền vào sâu trong nội địa để vận chuyển hàng hĩa. Riêng Manila là hải cảng tuyệt vời cho bất kì chuyến tàu nào qua lại khu vực Thái Bình Dương. Với nguồn tài liệu ít ỏi cịn lưu giữ lại về lịch sử Philippines thời kì cổ-trung đại, các nhà sử học đã cố gắng đi tìm những minh chứng cho vị trí quan trọng của quần đảo Philippines trong giao thương khu vực. Ngay từ thế kỉ X, một nhĩm người nhập cư vào Philippines từ Champa, thiết lập thương điếm ở Sulu, được biết đến với tên là Orang Dampuan (men of Dampa-land). Một văn bản viết tay rất sớm của Sulu chứng tỏ rằng trong thời kì trước khi Tây Ban Nha đến, cĩ từ 400 đến 500 thuyền mành hằng năm đến đây từ Campuchia, Champa, và Trung quốc. Rõ ràng vào thời điểm đĩ, Sulu là 8 Tên gọi Philippines được chính thức sử dụng trong thời kì Mĩ cai trị (1898-1946). Trước đĩ, đất nước này được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau: chẳng hạn người Trung Quốc gọi cư dân ở đây là Ma – i (vùng đất của vàng) hay San-yu (Ba đảo) hay Eshin – yu (Núi vàng). Người vẽ bản đồ cổ đại người Hy Lạp là Claudius Ptolemy (90- 168 SCN) gọi quần đảo này là “Maniloas”. Khi Magellan đến vào năm 1521, ơng gọi quần đảo này là St. Lazarus vì ơng đến đây vào đúng ngày lễ hội của vị thánh này. Năm 1543, nhà hàng hải Tây Ban Nha Ruy Lopez de Villallobos, đặt tên quần đảo này là “Felipinas” để vinh danh Hồng tử Felipe, người sau này trở thành Vua Philip II của Tây Ban Nha. Tên gọi “Felipinas” sau đĩ trở thành “Filipinas” trong suốt thời kì thuộc địa của Tây Ban Nha. Sau khi giành độc lập vào năm 1946, sử dụng tên gọi “the Republic of the Philippines”. Ngồi ra quần đảo này cịn được đặt cho tên hiệu là “Pearl of the Orient Seas” (Hịn ngọc của phương Đơng). Tên gọi này được nhà truyền giáo – nhà sử học tên là Juan J. Delgado sử dụng vào năm 1751 và sau đĩ người Anh hùng Philippines là Jose Rizal dùng để viết trong bài báo của mình vào năm 1892 và trong một bài thơ cuối cùng trước khi ơng mất vào năm 1896 [107, tr.3-4]. 26 điểm định cư đơng đúc và là một trong những trung tâm buơn bán chủ yếu của quần đảo Philippines [36, tr.24]. Từ thế kỉ IX, khi những thương nhân Arab bị ngăn cản khỏi bờ biển miền trung Trung Quốc, họ tìm kiếm con đường khác từ Malacca và qua Borneo, Philippines và Đài Loan. Hàng hĩa từ ĐNA và phương Tây được mang bởi những thương nhân Arab đến Philippines thơng qua con đường phía Nam. Ngược lại, hàng hĩa Philippines được các thuyền buơn Arab mang đến Trung Quốc lục địa thơng qua cảng Canton (Quảng Đơng) [36, tr. 24]. Từ thế kỉ XV trở về sau, khi Tây Ban Nha đang tìm kiếm một con đường từ châu Âu sang phương Đơng từ phía Tây, Philippines đã trở thành điểm trung chuyển phù hợp trên lộ trình đĩ. Khơng những vậy, theo nhìn nhận của người Tây Ban Nha, Philippines cịn là nơi tốt nhất để khống chế con đường hương liệu của phương Đơng và là vị trí lí tưởng nhất trên thế giới để ngăn chặn thương mại giữa người Bồ Đào Nha với Ấn Độ [57, tr.64]. Philippines cũng rất gần với những thị trường quan trọng của châu Á, đĩ là Trung Quốc, Nhật Bản, Moluccas, Xiêm,... Và như thế, từ thời điểm này, Philippines nằm trong cơn xốy của những tham vọng đế quốc của những quyền lực trên thế giới. 2.1.1.2. Tây Ban Nha chinh phục và thiết lập chế độ thống trị ở Philippines (1565-1571)  Tình hình Philippines trước khi bị Tây Ban Nha xâm chiếm Vào thế kỉ XV, trong khi hầu hết các quốc gia ở ĐNA đã chứng tỏ sự phát triển của mình với việc thiết lập chế độ phong kiến tập quyền thì nền chính trị của Philippines vẫn cịn mang nhiều dấu ấn cổ xưa trong giai đoạn cuối của cơng xã thị tộc. Cùng với nĩ là sự tồn tại phân tán của các làng độc lập như các tiểu vương quốc. Những tiểu vương quốc này thường là cộng đồng từ 30 đến 100 gia đình gọi là barangay. Một số cĩ qui mơ khá lớn, với dân số khoảng 2000 người như Sugbu (Cebu), Maynilad (Manila), Bigan (Vigan), và Maktan. Đây là một tổ chức lãnh thổ chính trị và xã hội cơ bản của Philippines trước khi Tây Ban Nha xâm chiếm. Chính quyền barangay gần như là những vương quốc độc lập như những thành bang của Lưỡng Hà cổ đại. Mỗi barangay được cai trị bởi tù trưởng được gọi là datu – là người được các thành viên trong cộng đồng bầu lên vì họ là người thơng minh nhất, can đảm nhất, khỏe mạnh nhất hoặc là giàu cĩ nhất. Datu nắm trong tay quyền lực tối cao nhưng khác với các ơng vua chuyên chế phương Đơng, họ chịu sự chi phối của Hội đồng những người lớn tuổi. Trước khi quyết định một vấn đề quan trọng trong barangay như ban bố luật pháp, tuyên bố chiến tranh, đàm phán với các liên minh khác, xét xử tội phạm,... các tù trưởng phải thơng qua ý kiến của Hội đồng này [36, tr. 67]. 27 Barangay được tổ chức dựa trên quan hệ họ hàng huyết thống. Sự liên minh giữa các barangay chỉ mang tính chất tạm thời với mục đích chống lại sự xâm lấn của kẻ địch “Khi cĩ chiến tranh, một số barangay hợp lại thành các liên minh. Những liên minh mạnh nhất thời đĩ là Panay, Madrass do tù trưởng Sumakwel lãnh đạo, Tondo của tiểu vương Lacandola tại miền Trung đảo Luzon và Pasig của tiểu vương Soliman tại miền nam Luzon”. Cũng cĩ trường hợp khá hiếm hoi “một số barangay được ràng buộc chặt chẽ bởi mối quan hệ hơn nhân” [3, tr. 26]. Riêng ở miền Nam Philippines là vùng chịu ảnh hưởng Hồi giáo nên thiết chế chính trị - xã hội được tổ chức chặt chẽ hơn. Sự phân tán thành những tiểu quốc độc lập ở Philippines cũng được ghi chép trong tài liệu quan trọng của Trung Quốc liên quan đến quần đảo năm 1349 của Wang Ta-Yang với tiêu đề “Sự mơ tả người Barbarian của hịn đảo nhỏ”. Theo biên niên triều Minh, năm 1372, khi đế chế Majapahit suy tàn, phái đồn triều cống đầu tiên Philippines đã đến Trung Quốc. Tác giả cho rằng họ là những người Luzon. Biên niên triều Minh ghi chép về bộ lạc Malayan tên P’ing- ka-shi- lan sống dọc bờ biển phía Tây và phía Nam của Vịnh Lingayen ở Luzon (được cho là Pangasinans). Vào đầu thế kỉ XV (năm 1405), vương quốc Pangasinans đã phải sứ thần sang Trung Quốc mang tặng hồng đế mĩn quà gồm ngựa, bạc và những vật phẩm khác và nhận trở lại tiền giấy và tơ lụa. Vào năm 1408, thủ lĩnh khác của Pangasianans, đi cùng với đồn tùy tùng gồm 2 tộc trưởng từ mỗi làng đã đến Trung Quốc. Hồng đế đã ban tiền giấy cho tù trưởng và 600 tấm lụa nhiều màu sắc dùng vào việc may áo chồng và vải lĩt [55, tr.11]. Sự chia tách về địa hình và sự tồn tại phân tán của các barangay với tư cách là các tiểu quốc đơn lẻ chứng tỏ một sự khơng thống nhất về chính trị. Điều này đưa đến hệ quả là sự khơng thống nhất về văn hĩa. Mỗi barangay tồn tại một phong tục, tập quán, ngơn ngữ và tín ngưỡng tơn giáo riêng. Chẳng hạn, những nghiên cứu dân tộc học cho thấy, ở Philippines cĩ trên dưới 100 thổ ngữ tương đương với 100 nhĩm dân tộc địa phương của cư dân Philippines [109, tr.38]. Sự thực hành tơn giáo của cư dân bản địa Philippines cũng rất đa dạng, đĩ là sự hỗn dung giữa đa thần, thờ cúng tổ tiên và vật linh giáo. Trong tài liệu của người Tây Ban Nha liên quan đến việc chinh phục Luzon được viết ở Manila vào ngày 20- 4-1572, với tiêu đề “Conquista de la Isla de Luzon” thuật lại: “... họ (những người bản xứ của đảo Luzon) gọi thánh Batala (vị thần sáng tạo), nhưng những nơi khác( như ở Visayans) gọi ơng Diobata” [45, Vol. Ill, tr.163-164]. Ba mươi năm sau, trong cuốn biên niên của Philippines xuất bản năm 28 1604, thầy tu dịng Jesuit là Chirino viết rằng: “trong số những vị thần của họ, người bản xứ tạo dựng một vị thần chủ và tối cao. Vị thần này người Tagalog gọi là “Batala Mei capal” cĩ nghĩa là “Vị thần sáng tạo”; người Bisayan gọi ơng là “Laon”, một cái tên biểu hiện sự cổ xưa” [45, Vol. XII, tr. 265-266]. Ngồi yếu tố địa lý và chính trị, sự đa dạng về văn hĩa ở Philippines cịn là kết quả của sự tiếp biến nhiều nền văn hĩa khác nhau (Ấn Độ, Trung Quốc, Arab, Borneo) với gốc văn hĩa Malaya trong lịch sử. Những tài liệu ít ỏi cịn lưu giữ được trong thời kì cổ trung đại chứng tỏ rằng đế chế Hindu ở Malay là Srivijaya9 và Majapahit10 cĩ sự giao thiệp về kinh tế xã hội và để lại những dấu ấn văn hĩa ở quần đảo Philippines [105, tr.37-39]. Trong bối cảnh đế quốc Majapahit bắt đầu suy yếu, cuộc viễn chinh của Trung Quốc dưới sự chỉ huy của Đơ đốc Trịnh Hịa (Cheng Ho) từ 1405-1434 đã đưa nhiều thuộc địa của Malay dưới quyền bá chủ của Hồng đế Trung Hoa [105, tr.40-41]. Vào thế kỉ X, những thương nhân Arab đã lui tới buơn bán ở một số cảng biển ở Sumatra, Java, Borneo và Philippines. Một nhà nước Hồi giáo nhỏ xuất hiện ở Sumatra vào năm 1250. Vào giữa thế kỉ XIV, học giả người Arab từ Mecca, tên Mukdum, đến Malacca và cải đạo những người ở đây theo đạo Hồi. Ơng tiếp tục đến Sulu vào năm 1380 và tiếp tục cải đạo cư dân bản địa theo đạo Hồi [105, tr.46-47]. Sau năm 1435, khi Triều Minh bắt đầu rút dần khỏi ĐNA thì tốc độ các cuộc chinh phục các vùng đất của Hồi giáo được đẩy nhanh, bao gồm cả Philippines. Vào năm 1450, Abu Bakr, người đứng đầu vương quốc Hồi giáo Johore, đến tại Sulu và kết hơn với cháu gái của tiểu vương Banguida là cơng chúa Paramisuli. Sau khi Banguida chết, Abu Bakr được thừa nhận là Sultan, ơng xây dựng mẫu hình chính quyền theo truyền thống vương quốc Hồi giáo và đưa những phong tục tập quán trở nên nghiêm khắc hơn theo qui tắc của kinh Koran. Ơng cai trị trong 30 năm, mất năm 1480. Sulu được sử dụng như là căn cứ cho việc truyền bá Hồi giáo ra tồn bộ quần đảo. Sharif Kabungsuwan, người đứng đầu vương quốc Hồi giáo Johore, xâm chiếm Mindanao vào năm 1475 và nhanh chĩng chinh phục và truyền giáo và biến ơng thành quốc vương đầu tiên của Mindanao. Hồi giáo tiếp tục được truyền bá ra cả quần đảo. 9 Đế chế Sri-Vishayan thống trị ở Malaysia từ năm 683 đến năm 1377, thủ đơ đĩng ở địa điểm gần Palembang (Sumatra ngày nay) 10 Vương quốc này thành lập ở Java năm 1293 bởi Raden Widjaya. Năm 1365, đế chế Madjapahit mở rộng ra tồn bộ bán đảo Malay. Tuy nhiên, do cuộc chiến tranh nội bộ giành quyền kế vị ngai vàng vào năm 1389 đã làm cho đế quốc Madjapahit bắt đầu suy yếu. 29 Chân dung của nền văn hĩa và xã hội Philippines vào thời kì chinh phục chứng tỏ rằng, khác với những người đụng độ ở châu Mĩ, người Philippines liên tục cĩ sự giao thoa với nhiều nền văn hĩa châu Á trong suốt tiến trình lịch sử. Những hình thức tổ chức chính trị của Liên minh barangay (Inter-barangay) trong suốt lịch sử của quần đảo bị áp đặt bởi những xã hội khác, đáng chú ý nhất đế chế Hồi giáo Malacca qua con đường Borneo chỉ trước khi sự xuất hiện của người châu Âu. Chính sự phân tán về địa lý, sự lỏng lẻo trong cách thức tổ chức thiết chế chính trị-xã hội, sự thiếu thống nhất về văn hĩa và tơn giáo là nhân tố khách quan thuận lợi cho cả quá trình chinh phục và thống trị của Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippines.  Tây Ban Nha chinh phục và thơn tính Philippines Song song với quá trình xâm chiếm Trung và Nam Mỹ, Tây Ban Nha tổ chức những cuộc viễn chinh đến Philippines. Hai cuộc thám hiểm của Saavedra (1527- 1529), Villalobos (1541-1546) xuất phát từ Mexico, nhưng đều khơng thành cơng. Chỉ sau khi Tây Ban Nha thiết lập được một chỗ đứng chân vững chắc ở Trung và Nam Mỹ, Tây Ban Nha mới họ mới tập trung tồn lực cho cuộc xâm chiếm căn cứ quan trọng ở châu Á thơng qua cuộc viễn chinh Legaspi (1564). Ngày 24-9-1559, vua Tây Ban Nha Philip II viết thư cho phĩ vương Mexico là Velasco, ra lệnh chuẩn bị một đồn thám hiểm đến quần đảo San Lazaro với 3 nhiệm vụ quan trọng được nhà vua nhấn mạnh: (1) hai thuyền được phái đi đến Philippines phải sẽ mang trở về những mẫu hương liệu được trồng ở đĩ; (2) phải nỗ lực tìm kiếm con đường trở về Tân Tây Ban Nha; và (3) cuộc viễn chinh khơng được đi đến Moluccas vì điều đĩ sẽ đi ngược lại với thỏa ước được ký kết giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm 1529 [57, tr.40]. Sau một thời gian dài chuẩn bị, ngày 21-11-1564, một hạm đội gồm 4 tàu và 380 người (hầu hết là người Mexico), dưới sự chỉ huy của Don Miguel Lopez de Legazpi, đi cùng với đồn cịn cĩ 5 giáo sĩ dịng Augustinian, đồn thám hiểm rời khỏi Natividad (Mexico). Hạm đội đi theo hướng Tây băng qua Thái Bình Dương và đến ngày 13-2- 1565, đồn viễn chinh của Legazpi neo thuyền ở đảo Samar, Limasawa, và Bohol (gần đảo Cebu), họ khơng thể cập bến ở đảo Cebu vì người dân cĩ thái độ thù địch. Từ Bohol, Legazpi đi thuyền đến Cebu, cập bến vào ngày 27-4-1565, vua Tupas của Cebu đã cơng khai chống lại người Tây Ban Nha. Dưới sự yểm trợ của pháo binh, lực lượng Tây Ban Nha đột kích, đánh vào bờ biển. Cuối cùng, Tây Ban Nha đã chiến thắng, Tupas cùng với những người theo ơng rút về vùng đồi núi. Trong quá trình đánh 30 chiếm Cebu, một binh sĩ của đồn đã tìm thấy bức tượng Santo Nino11 tại 1 ngơi nhà. Ngay lập tức, người Tây Ban Nha bắt tay xây dựng nhà thờ dành cho Santo Nino. Vào ngày 1-6, cha Urdaneta làm lễ ban phúc cho nhà thờ mới và tiến hành nghi thức rước tượng Santo Nino rất trang nghiêm đến nhà thờ mới Bas... permission sails for Spain, in the latter part of November, 1787; term as governor, July, 1778–November, 1787; appointed rear-admiral, governor of Cartagena, and count of the Conquest of the Batanes Islands (which he had conquered) Pedro de Sarrio—Appointed governor (ad interim) for the second time, November 22, 1787, on departure of Basco; insurrection in Ilocos because of tobacco monopoly, 1787; death of archbishop Santa Justa y Rufina, December 15, 1787; term as governor, November 22, 1787–July 1, 1788. PL 11 Félix Berenguer de Marquina—Naval officer; arrives at Manila July 1 (Buzeta and Bravo, and Retana say May), 1787; opposed by Audiencia; Manila becomes an open port for all but European products, by royal decree of August 15, 1789; proposes Phụ lụcans for government reforms in the Philippines; term as governor, July 1, 1788–September 1, 1793. Rafael María de Aguilar y Ponce de Leon— Knight of the Order of Alcántara, military officer, and gentleman of the bedchamber; arrives at Cavite, August 28, 1793; enters government, September 1, 1793; strengthens fortifications, levies native troops, and inculcates various reforms; conflicts with Moros continue, and shipyard established (1794) at Binondo to build boats for Moro war; receives title of mariscal-de-campo; energetic and tireless; hands over government to king’s deputy or segundo cabo, August 7, 1806; term as governor, September 1, 1793–August 7, 1806; death, August 8, 1806. Mariano Fernandez de Folgueras—Native of Galicia; becomes governor (ad interim), August 7, 1806; insurrection in Ilocos, 1807; English commercial house given permission to establish itself in the islands, 1809; term as governor, August 7, 1806–March 4, 1810. Manuel Gonzalez de Aguilar—Knight of the Order of Santiago, and military officer; arrives at Manila, March 4, 1810; in accordance with royal decrees of January 29 and February 14, 1810, permitting deputies from the colonies to be chosen for the Spanish Cortes, Philippine deputies are present in that of September 24, 1810; proposes cessation of Acapulco ship, 1810; insurrection (anti-friar and to establish new religion) in Ilocos, 1811; first newspaper established in Philippines, August 8, 1811; Spanish constitution of 1812 publicly received in Manila, April 17, 1813; Aguilar’s term marked by various commercial movements; term as governor, March 4, 1810–September 4, 1813. José Gardoqui Jaraveitia—Naval officer; arrives at Manila, September 4, 1813; cessation of Acapulco ship; term marked by various governmental changes in consequence of decrees issued by Fernando VII, by certain commercial changes, and troubles with Moros; death, December 9, 1816; term as governor, September 4, 1813–December 9, 1816. Mariano Fernandez De Folgueras—Becomes governor (ad interim) for the second time, December 10, 1816; province of Ilocos Norte created, February 2, 1818; orders reestablishment of Real Sociedad Econĩmica de Filipinas (“Royal Economic Association of Filipinas”), December 17, 1819; massacre of foreigners by natives, October 9–10, 1820; establishment of three short-lived newspapers in 1821; term marked by closer connection with Spain; term as governor, December 10, 1816– October 30, 1822; assassinated in insurrection of Spanish-Americans and Filipinos, 1823. Juan Antonio Martínez—Native of Madrid, and mariscal-de-campo; arrives at Manila, October 30, 1822; accompanied by many new officials from Spain; PL 12 insurrection of Filipinos and Spanish-Americans in consequence; newspaper founded by El Sociedad de Amigos del Pais, 1724; reactionary movements of Spain affect Philippines; term as governor, October 30, 1822–October 14, 1825; death, at sea while on way to Spain. Marinao Ricafort Palacín y Ararca—Native of Murcia, mariscal-de-campo, and perpetual ambassador of the city of Paz, Peru; arrives at Manila, October 14, 1825; forbids foreigners to sell goods at retail, February 4, 1828; makes laws in many different directions; gives instructions for government of Mariana Islands, December 17, 1828; foundation of Dominican college in Ocađa, Spain, as a feeder for China and the Philippines, May 2, 1830 (approved, August 15, 1831); returns to Spain, December 23, 1830; term as governor, October 14, 1825–December 23, 1830. Pascual Enrile y Alcedo—Native of Cadiz, military officer and segundo cabo of, the Philippines; becomes governor, December 23, 1830; expedition to Igorrotes, 1831–1832; lottery established, July 3, 1833; royal tribunal of commerce created in Manila, January 1, 1834; Guia de Forasteros (Guide book for strangers) first printed, 1834; Compađía de Filipinas dissolved by royal order of September 6, 1834; royal order of November 3, 1834, substitutes segundo cabo in office of governor, in case of latter’s absence, sickness, or death; many useful laws passed and islands prosper during this term; term as governor, December 23, 1830– March 1, 1835. Gabriel de Torres—Native of Valladolid province, and segundo cabo of the Philippines; becomes governor, March 1, 1835; death, April 23, 1835; term as governor, March 1, 1835–April 23, 1835. Juan Crámer (Montero y Vidal) Juaquin de Crame (Mas, and Buzeta and Bravo)—Native of Cataluđa; becomes governor (ad interim) as office of segundo cabo vacant, April 23, 1835; term as governor, April 23, 1835–September 9, 1835. Pedro Antonio Salazar Castillo y Varona—Native of Ibrillos (Rioja), and military officer; comes to Manila with appointment as segundo cabo; becomes governor (ad interim), September 9, 1835; royal council of Spain and the Indies abolished by royal decree, September 28, 1836; by the promulgation in Madrid (June 18, 1837) of the political constitution of the Spanish monarchy, the Philippines lose their representation in the Cortés; term as governor, September 9, 1835–August 27, 1837. Andrés García Camba—Knight of the Order of Santiago, and mariscal-de-campo; captured with royal army at battle of Ayacucho, Peru, December 9, 1824; residence in Manila April, 1825–March, 1835; receives royal approbation to appointment as commander-in- chief of military forces at Manila, May 22, 1826; appointed director of La Sociedad Econĩmica de Amigos del Pais; elected to represent the Philippines in Spanish Cortés, 1834; appointed secretary of war (ad interim), August 15, 1836; elected to Cortés to represent Lugo (but did not sit), October 2, 1836; arrives at Manila, August 24, 1837; takes charge of government, August 27, 1837; given PL 13 name of “El Deseado” (“the desired”); is opposed politically and by the ecclesiastics; term as governor, August 27, 1837–December 29, 1838; after return to Spain, elected senator for Valencia; minister of the marine, commerce, and government of the colonies, May 21, 1841–May 25, 1842. Luis Lardizábal—Arrives at Manila, December 26, 1838; enters upon government, December 29 (Montero y Vidal) or 30 (Mas), 1838; first issue of weekly paper, Precios corrientes de Manila (“Prices current in Manila”) in Spanish and English, July 6, 1839; province of Nueva Vizcaya created, 1839; project for monument to Magalhães on the islet of Mactan submitted to supreme government, 1840; solicits recall; term as governor, December 29, 1838–February, 1841; death at sea on return voyage to Spain. Marcelino de Orấ Lecumberri—Native of Navarra, and lieutenant-general; arrives at Manila, February, 1841; insurrections among Tagáls, the second of native soldiers, 1841 and 1843; newspaper Seminario filipino first published, 1843; term as governor, February, 1841–June 17, 1843. Francisco de Paula Alcalá de la Torre—Native of Extremadura, and lieutenant- general; becomes governor, June 17 (Buzeta and Bravo say 12), 1843; Isabel II declared of age and received as queen of Spain, December 1, 1843; Alcalá makes laws regulating commerce, the army, and welfare of the islands; term as governor, June 17, 1843–July 16, 1844. Narciso Clavería y Zaldua—Native of Gerona (but of Biscayan origin), and lieutenant-general; becomes governor, July 16, 1844; calendar in Philippines corrected, 1844; makes reforms in office of alcalde-mayor, 1844; founds casino called “Sociedad de recreo” (“Recreation Association”), October 31, 1844; his proposal to establish military library approved, February 15, 1846; first steam war- vessels in the Philippines bought (in London), 1848; conquest of island of Balanguingui, 1848, for which he receives the titles of count of Manila and viscount of Claveria, and the cross of San Fernando, besides other rewards; regular clergy forbidden to alienate property, January 15, 1849; surnames given to natives, November 11, 1849; his term marked by intense activity, and the number of papers founded, among them being the first daily of Manila, La Esperanza (December 1, 1846), and Diario de Manila (1848); asks retirement and returns to Spain, December 26, 1849; term as governor, July 16, 1844– December 26, 1849. Antonio María Blanco—Segundo cabo; becomes governor (ad interim), December 26, 1849; monthly lottery established in Manila, January 29, 1850; creates province of Uniĩn, March 2, 1850; term as governor, December 26, 1849–June 29, 1850. Antonio de Urbistondo y Eguía—Native of San Sebastián, and marquis of Solana; formerly a Carlist; becomes governor June 29, 1850; leper hospital founded in Cebú, 1850; bank Espađol-filipino established, August 1, 1851, and begins operations, 1852; expedition to, and conquest of, Jolĩ, 1851; term characterized by PL 14 many administrative laws; solicits retirement; term as governor, July 29, 1850– December 20, 1853; appointed minister of war by royal decree, October 12, 1856. Ramon Montero y Blandino—Segundo cabo of the Philippines; becomes governor (ad interim), December 20, 1853; term as governor, December 20, 1853–February 2, 1854. Manuel Pavía y Lay—Marquis de Novaliches, lieutenant-general, head of department of infantry; appointed without previous consultation, September, 1853; arrives at Manila, February 2, 1854; reëquips army; mutiny of portion of native troops suppressed; monthly mail between Manila and Hongkong established; leaves Manila, October 28, after thanking religious orders (October 27) for coưperation; term as governor, February 2–October 28, 1854. Ramon Montero y Blandino—Becomes governor (ad interim) for the second time, October 28, 1854; term as governor, October 28–November 20, 1854. Manuel Crespo y Cebrián—Native of Extremadura, and formerly segundo cabo of the Philippines; becomes governor, November 20, 1854; expedition against Igorrotes, December, 1855–February, 1856; resigns December 5, 1856; term as governor, November 20, 1854–December 5, 1856. Ramon Montero y Blandino—Becomes governor (ad interim), for the third time, December 5, 1856; term as governor, December 5, 1856–March 9, 1857. Fernando Norzagaray y Escudero—Native of San Sebastian, and lieutenant- general; enters upon office, March 9, 1857; authorizes establishments of houses of exchange, June 18, 1857; sends expedition to Cochinchina to aid French, 1858; reforms in local administration ordered, August 30, 1858; infantry reorganized by order of September 23, 1859; first Jesuit mission after reinstatement of order, reaches Philippines in middle of 1859; several papers founded during his term; encourages agriculture; solicits recall because of ill-health; term as governor, March 9, 1857–January 12, 1860. Ramon María Solano y Llanderal—Native of Valencia, mariscal-de-campo, and segundo cabo of Philippines; becomes governor (ad interim), January 12, 1860; pawnshop authorized in Manila, January 18; issues decree for civil government of province of Manila, January 31; functions of bank Espađol-filipino extended, February 16; Jagor travels through the Bisayas; term as governor January 12– August 29, 1860; death from fever (with rumor in Manila of poisoning), August 30. Juan Herrera Dávila—Sub-inspector of artillery; becomes governor (ad interim), August 29, 1860; civil administration of provinces of the colonies organized, and Audiencia in Manila reformed, July 9, 1860; printing of Coleccion de autos acordados authorized, January 10, 1861; regularly appointed governor, general of marine Mac-Crohon, dies in Red Sea while on way to Philippines; term as governor, August 29, 1860–February 2, 1861. PL 15 José Lemery é Ibarrola Ney y González—Senator of the kingdom; becomes governor, February 2, 1861; politico-military governments installed in Bisayas and Mindanao, April 1, 1861; Jesuits given Mindanao as mission field, and opposed by Recollects; operations against Moros; delivers command to segundo cabo, July 7, 1862; term as governor, February 2, 1861–July 7, 1862. Salvador Valdés—Segundo cabo; becomes governor (ad interim), July 7, 1862; term as governor, July 7–9, 1862. Rafael de Echague y Berminghan—Native of San Sebastián, lieutenant-general, and governor at Puerto Rico; arrives at Manila, July 9, 1862; various insurrections, 1863; earthquake, June 3, 1863; creation of ministry of colonies, 1863; normal school established, January 23, 1865; term marked by various calamities; term as governor, July 9, 1862–March 24, 1865. Joaquin del Solar e Ibáđez—Segundo cabo of the Philippines; becomes governor (ad interim), March 24, 1865; reforms in various branches of government, 1865; term as governor, March 24, 1865–April 25, 1865. Juan de Lara é Irigoyen—Native of Navarra, lieutenant-general, and ex-minister of war; assumes office, April 25, 1865; Antonio Cánovas del Castillo appointed minister of the colonies, July 3, 1865; erection of bishopric of Jaro, by bull of Pius IX, 1865; establishment of Jesuit institution Ateneo Municipal at Manila, 1865; recalled for corruption of government; term as governor, April 25, 1865–July 13, 1866. José Laureano de Sanz y Posse—Mariscal-de-campo, and segundo cabo elect because of former incumbent of that office having left islands with Lara; term as governor (ad interim), July 13–September 21, 1866. Antonio Osorio—Naval officer; becomes governor (ad interim), September 21, 1866; term as governor, September 21– September 27, 1866. Joaquin del Solar—Becomes governor (ad interim), for the second time, September 27, 1866; term as governor, September 27–October 26, 1866. Jose de la Gándara y Navarro—Lieutenant-general; becomes governor, October 26, 1866; uniform monetary system adopted; reforms primary education, 1867– 1868; resigns office; term as governor, October 26, 1866–June 7, 1869. Manuel Maldonado—Segundo cabo of islands; becomes governor (ad interim), June 7, 1869; term as governor, June 7– June 23, 1869. Cárlos María de la Torre y Nava Cerrada—Native of Cuenca, and lieutenant- general; becomes governor, June 23, 1869; constitution of 1869 sworn to, September 21, 1869; projects monument to Anda y Salazar; question of removing PL 16 the monopoly on tobacco; guardia civil created; radical in government; term as governor, June 23, 1869–April 4, 1871. Rafael de Izquierdo y Gutierrez—Native of Santander, and lieutenant-general; becomes governor, April 4, 1871; insurrections in Cavite and Zamboanga, 1872; reforms in army; opening of steamship line and telegraph lines; governor resigns because of ill-health; term as governor, April 4, 1871–January 8, 1873. Manuel Mac-Crohon—Naval officer, becomes governor (ad interim), as office of segundo cabo vacant, January 8, 1873; term as governor, January 8–24 (?), 1873. Juan Alaminos y de Vivar—Becomes governor, January 24 (?), 1873; conflict with archbishop and other ecclesiastics; steamship line established between Manila and Spain; various ports opened for commerce; term as governor, January 24 (?), 1873– March 17, 1874. Manuel Blanco Valderrama—Becomes governor (ad interim), March 17, 1874; repulse of Joloans; hands over government to regularly appointed governor, June 18, 1874. Jose Malcampo y Monje—Marques de San Rafael and rear-admiral; becomes governor, June 18, 1874; conquest of Jolĩ, 1876; given title of count of Mindanao, December 19, 1876; mutiny of artillerymen; term as governor, June 18, 1874– February 28, 1877; given titles of count of Jolĩ and viscount of Mindanao, July 20, 1877. Domingo Moriones y Murillo—Marquis of Oroquieta, and lieutenant-general; becomes governor, February 28, 1877; takes drastic measures against mutinous artillery regiment, 1877; prevents sale of tobacco monopoly, 1877; constructs Manila water- works, 1878; term as governor, February 28, 1877–March 18 or 20, 1880. Rafael Rodríguez Arias—Naval officer; becomes governor (ad interim), March 18 or 20, 1880; term as governor, March 18–April 15, 1880. Fernando Primo de Rivera—Marquis of Estella; becomes governor, April 15, 1880; cable opened between Luzĩn and Spain, 1880; royal decree orders repeal of tobacco monopoly, 1881; term marked by corruption in public offices; term as governor, April 15, 1880–March 10, 1883. Emilio Molíns—Segundo cabo of Philippines; governor (ad interim), March to April 7, 1883. Joaquín Jovellar—General; becomes governor, April 7, 1883; decrease of annual period of personal services from forty to fifteen days, and creation of provincial tax, 1883; Phụ lụcan for railroads in Luzĩn approved, 1883; visits southern islands, 1884; tribute abolished and tax of cédula personal substituted, 1884; Jesuit PL 17 observatory at Manila declared official, 1884; term as governor, April 7, 1883– April 1, 1885. Emilio Molíns—Becomes governor (ad interim), for second time, and rules three days, April 1–4, 1885. Emilio Terrero y Perinat—Lieutenant-general; becomes governor, April 4, 1885; leads expedition in person against Moros, 1885; dispute between Spain and Germany as to ownership of Carolinas, 1885; term as governor, April 4, 1885– 1888. Antonio Molto—Segundo cabo, term as governor (ad interim), 1888. Federico Lobaton—Naval officer; term as governor (ad interim), only one day in 1888. March 1, 1888, a petition signed by eight hundred and ten natives and mestizos demands immediate expulsion of the friars of the religious orders and of the archbishop, the secularization of benefices, and the confiscation of the estates of Augustinians and Dominicans. Valeriano Weyler—Native of Majorca, marquis of Tenerife, and son of a German doctor; becomes governor, 1888; said to have purchased office from minister’s wife; school of agriculture established in Manila, 1889; practical school of arts and trades established, 1890; telephone system established in Philippines, 1890; Dominican secondary school established in Dagupan, 1891; said to have received money from religious orders for armed support against their tenants; term as governor 1888– 1891; later minister of war at Madrid. Eulogio Despujol—Native of Cataluđa, and count of Caspe; becomes governor, 1891; Liga filipína (Philippine League) founded in Manila by Rizal, 1892; introduces many reforms; popular with natives; arouses wrath of religious orders, who are said to have paid $100,000 for his dismissal; term as governor, 1891–1893. Federico Ochando—Governor (ad interim), 1893. Ramon Blanco—Becomes governor, 1893; electric light established in Manila, 1895; formation of Katipunan society; outbreak of insurrection, August 30 1896; Blanco opposed by ecclesiastics; term as governor, 1893–December 9 (date of royal decree removing him), 1896. Camilo Polavieja—General; becomes governor, December 13, 1896 (Algué); Rizal executed, December 30, 1896; Tagál republic proclaimed, October, 1896; insurrection spreads; operations against insurgents by General Lachambre, 1897; Polavieja issues amnesty proclamation, January 11, 1897; efficient service of loyal Filipino troops; term as governor, December 13, 1896– April 15, 1897. PL 18 Jose de Lachambre—General; governor (ad interim), April 15–23, 1897. Fernando Primo de Rivera—Becomes governor for the second time, April 23, 1897; insurgents scattered, and more than thirty thousand natives said to have been killed in one province; pact of Biaknabato signed, December 14, 1897; re- occurrence of insurrections in Luzon, 1898; term as governor, April 23, 1897–April 11, 1898. Basilio Augustin—Becomes governor, April 11, 1898; Dewey’s victory, May 1, 1898. Fermin Jaudens—Becomes governor (ad interim), 1898; peace preliminaries, surrender of Manila, and entrance of Americans (August 13) into Manila. Francisco Rizzo—General; becomes governor (ad interim), 1898. Diego de los Ríos—Becomes governor, with capital at Iloilo, 1898; treaty of Paris signed, December 10, 1898; term as governor, after August 13, 1898–December 10, 1898; leaves Manila, January 1, 1899. Nguồn: The Philippine Islands, 1493–1898, Volume XVII, 1609–1616, tr. 283-313 Edited and annotated by Emma Helen Blair and James Alexander Robertson PL 19 PHỤ LỤC 2: Những nhánh thương mại hỗ trợ cho Manila galleon STT Nhánh thương mại hỗ trợ Hàng hĩa trao đổi Đặc điểm Thời gian tồn tại 1 Phúc Kiến – Manila Tơ sống, lụa các loại, gốm, xạ hương, cánh kiến trắng và ngà voi, đồ trang trí giường ngủ, màn treo, khăn phủ giường và thảm nhung thêu, ngọc trai và đá quí, pha lê, chậu bằng kim loại, ấm đun nước bằng đồng, thiếc, chì và thuốc súng / bạc trắng, sáp ong, vàng, sợi gai, vải bơng, cau, tổ chim, mai rùa, ngọc trai. - Khơng ổn định thậm chí cĩ những thời điểm ngưng trệ phụ thuộc vào tình hình chính trị từ Trung Quốc và Philippines. - Dao động từ 0 đến 50 thuyền/năm - Thời kì hồng kim kéo dài từ 1570-1670. Từ nửa sau thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX 2 Macao- Manila Tơ lụa / bạc trắng - Macao là thương điếm quan trọng của Bồ Đào Nha ở châu Á. - Hưng thịnh nhất trong giai đoạn 1602- 1621 (khoảng 23 tàu trong 20 năm) 1580-1640 (thời kì thống nhất ngơi vua giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha) 3 Nhật Bản- Manila Tơ lụa, len dạ, chuơng đồng, gốm sứ, hương liệu, sắt, bạc, bột mì, thịt khơ, hải sản / tơ sống, bình đất nung, vàng, sáp ong, da hươu, thuốc nhuộm, mật ong. - Do những vấn đề về an ninh, quan hệ thương mại giữa Philippines và Nhật Bản bị bao trùm bởi thái độ nghi ngờ lẫn nhau. Chấm dứt năm 1639 khi Nhật Bản thực hiện chính sách “đĩng cửa” 4 Các nước Đơng Nam Á lục địa – Manila Cánh kiến trắng, tiêu, ngà voi, vải, đá quý, sừng tê giác, thuộc da, mĩng và rang và đồ nữ trang bình dân / vàng, vải bơng, sáp trắng và vàng đĩng thành - Chưa bao giờ chiếm số lượng lớn, khơng thường xuyên do hàng hĩa khơng cĩ giá trị ở thị trường châu Mỹ. - Bắt đầu và hưng thịnh trong nửa sau thế kỷ XVI, ngưng trệ trong suốt thế PL 20 bánh. kỉ XVII và nửa đầu thế kỉ XVIII. 5 Moluccas (Indonesia) – Manila Đinh hương, quế, tiêu; hàng dệt các loại, vải muslins, , hổ phách và ngà voi, các loại khăn phủ giường, trang sức, chiếu cọ, bột cọ, long não, bình đất nung, đồ gốm tráng men / gạo, rượu, bát đĩa bằng sành và đồ trang sức. - Bị Hà Lan cạnh tranh quyết liệt Tây Ban Nha rút đơn vị đồn trú khỏi Moluccas năm 1662. Thương mại hồn tồn đình trệ. 6 Madras (Ấn Độ) –Manila - Tơ lụa, các loại vải dệt (vải trúc bâu (calicoes), vải hoa), Mỏ neo bằng sắt / bạc trắng, đường, gỗ xăng, lưu huỳnh, đồng, thuốc lá, sáp ong, đồ gốm, da, ngựa, ngọc trai - Thương mại ngầm giữa Cơng ty Đơng Ấn Anh với chính quyền Tây Ban Nha ở Manila - Thuyền của Cơng ty Đơng Ấn Anh đến Manila dưới danh nghĩa thuyền buơn châu Á 1644-1764 7 Batavia (Indonesia) – Manila Quế, đinh hương, nhục đậu khấu, tiêu đen và cánh kiến trắng, chì, sắt, khung dệt, vải Bengal, vải làm rèm cửa/ bạc, đường, gỗ vang và thuốc lá Thương mại ngầm giữa các tư thương với chính quyền Tây Ban Nha. 1648-1750 Nguồn: Tổng hợp từ Benito J.Legarda, Jr (2002), After the Galleons, Ateneo de Manila Unversity Press, Manila, Philippines; Stanley. Hon.H.E.J (1868). The Philippinese Island, Moluccas, Siam, Cambodia, Japan and China at the Close of the sixteenth Century by Antonio de Morga. Hakluyt Society, London; Dương Văn Huy (2010), “Thương cảng Manila (Philippines) thế kỉ XVII”, Tạp chí Nghiên cứu Đơng Nam Á, số 3, tr.19-31; Laarhoven, Ruurdje and Pinowittermans (1985), “From Blockade to trade: early Dutch relations with Manila, 1600-1750”, Philippinese Studies vol.33, no.4, p.485-504] PL 21 PHỤ LỤC 3: Bảng thống kê số lượng người Nhật sinh sống ở Manila biến đổi theo thời gian Thời gian Số dân Nhận xét 5-1570 20 6-1593 300-400 5-1595 1000 6-1597 Nhiều người Nhật bị trục xuất 10-1603 500 5-1606 1500 Cĩ 91 cửa hàng của người Nhật được thành lập 1607 Khu Nhật kiều ở Dialao bị phá hủy, nhiều người bị đuổi về nước 6-1608 Nhiều người Nhật bị đuổi về nước 1615 Khu Nhật kiều hình thành ở San Miguel 3-1616 500 người Nhật bị đuổi về nước 1619 2000 1620 3000 7-1621 3000 12-1622 3000 1623 3000 5-1632 130 người Nhật đến Manila 1637 800 Nguồn: Dẫn theo Iwao Seiichi, Nghiên cứu phố Nhật ở Nam Dương, trích trong: Nguyễn Văn Kim, Nhật Bản với Châu Á, tr.237 PL 22 PHỤ LỤC 4: Bảng thống kê số lượng người Hoa ở Philippines (1571-1896) Năm Số lượng người Hoa ở Philippines 1571 150 1588 10.000 1603 30.000 1748 40.000 1755 500 1767 500 1847 6.000 1880 90.000 1896 100.000 Nguồn: Sonia.M.Zaide (1999), The Philippines – A unique nation, tr.169; Wickberg, Edgar (2000), Chinese in Philippine life, 1850-1898, Ateneo de Manila University Press, p.213] PL 23 PHẦN B: MỘT SỐ SỬ LIỆU GỐC PL 24 PL 25 PHỤ LỤC 5: Sắc lệnh Giáo hồng năm 1493 PL 26 PL 27 PL 28 PL 29 PL 30 PL 31 PL 32 PL 33 PL 34 PL 35 PL 36 PL 37 PL 38 PL 39 PHỤ LỤC 6: Hiệp ước Tordesillas 1494 PL 40 PL 41 PL 42 PL 43 PL 44 PL 45 PL 46 PL 47 PL 48 PL 49 PL 50 PHỤ LỤC 7: Hiệp ước Zaragossa năm 1529 PL 51 PL 52 PL 53 PL 54 PL 55 PHỤ LỤC 8: Những đạo luật liên quan đến hàng hải và thương mại Philippines, Trung Quốc, Tân Tây Ban Nha và Peru từ 1583 đến 1609 PL 56 PL 57 PL 58 PL 59 PL 60 PL 61 PL 62 PL 63 PL 64 PL 65 PL 66 PL 67 PL 68 PL 69 PL 70 PL 71 PL 72 PL 73 PL 74 PL 75 PL 76 PL 77 PL 78 PL 79 PHỤ LỤC 9: Những nội dung chủ yếu liên quan đến thương mại của Philippines PL 80 PL 81 PL 82 PL 83 PL 84 PL 85 PL 86 PL 87 PL 88 PL 89 PL 90 PL 91 PL 92 PL 93 PL 94 PL 95 PHỤ LỤC 10: Sắc lệnh thành lập Cơng ty Hồng gia Philippines năm 1785 và mở cửa cảng Manila đối với các nước châu Á PL 96 PL 97 PL 98 PL 99 PL 100 PL 101 PHẦN C: BẢN ĐỒ, HÌNH ẢNH PL 102 PHỤ LỤC 11: Đường phân chia giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha theo hiệp ước Tordesillas năm 1494 Nguồn: sphere-of-portugese-influence-in-colonization-1494-map PL 103 PHỤ LỤC 12: Bản đồ minh họa diễn trình khám phá và chinh phục của Tây Ban Nha đối với các khu vực lãnh thổ Philippines thế kỷ XVI, XVII Nguồn: lụcease.com/atlas/country/philippines.html PL 104 PHỤ LỤC 13: Cebu, khu định cư đầu tiên của Tây Ban Nha ở Philippines Nguồn: httpwww.raremaps.comgalleryenlarge46476 PL 105 PHỤ LỤC 14: Bản đồ Philippines và Đơng Nam Á vào thế kỷ XVI Nguồn: httpwww.raremaps.comgalleryenlarge47007 PHỤ LỤC 15: Bản đồ Vịnh Manila Nguồn: httpwww.raremaps.comgalleryenlarge47158 PL 106 PHỤ LỤC 16: Bản đồ tổng thể vùng Đơng Ấn Nguồn: galleryenlarge50716 PL 107 PHỤ LỤC 17: Hệ thống phịng thủ của Tây Ban Nha ở Manila – Intramuros Nguồn: PHỤ LỤC 18: Khu vực định cư người Hoa ở Philippines: Parian và Binondo Nguồn: https://scribblingblues.wordpress.com/2011/02/01/the-parian/parian_map/ PL 108 PHỤ LỤC 19: Cổng Parian ngày nay Nguồn: PHỤ LỤC 20: Quang cảnh Binondo ngày nay Nguồn: PL 109 PHỤ LỤC 21: Bức tượng của Takayama Ukon ở Manila Nguồn: ụ lụcaza-dilao.html PL 110 Takayama Ukon (1552-1615), một lãnh chúa theo Thiên chúa giáo nổi tiếng ở Nhật Bản, là chỉ huy quân đội của Tướng quân Hideyoshi. Ơng sinh ra và lớn lên ở ngơi làng Takayama, là con trai trưởng của Lãnh chúa Takayama Zusho, ở Tỉnh Sattu. Năm 1563, gia đình của ơng được cải đạo sang Thiên chúa giáo bởi đồn truyền giáo thuộc Dịng Jesuit. Năm 1573, lúc này ơng 18 tuổi, đã cùng cha tham gia vào quân đội của Oda Nobunaga trong cuộc nội chiến chống lại Yoshiaki, Tướng quân cuối cùng của dịng họ Ashikara. Trong trận chiến Kyoto, lực lượng của Nobunaga đã đánh bại quân đội của Tướng quân, và Ukon và cha của ơng đã rất xuất sắc trong trận đánh. Sau khi Nobunaga mất năm 1582, Ukon phục vụ cho người kế vị là Hideyoshi, người cĩ cơng thống nhất Nhật Bản. Dưới thời Hideyoshi, sau những chiến cơng quân sự, ơng được ban lãnh địa rộng lớn và giàu cĩ- quận Akasai, nằm ở phía Tây Osaka. Tuy nhiên, sau đĩ, Hideyoshi thực thi chính sách chống Thiên chúa giáo. Ơng yêu cầu Ukon từ bỏ tơn giáo của mình nhưng ơng đã khơng chấp nhận. Điều này khiến Hideyoshi nổi giận, lập tức tước bỏ chức vụ của ơng trong quân đội, tịch thu tất cả đất đai và tài sản, trục xuất ơng khỏi Nhật Bản. Với hơn 300 người lưu vong, Ukon và gia đình rời Nagasaki và đến Manila vào ngày 11 tháng 12 năm 1614, ở đĩ ơng được chính quyền Tây Ban Nha chào đĩn nồng nhiệt. Ơng mất ngày 4 hoặc 5 tháng 2 năm 1615 (63 tuổi) sau cơn bệnh nặng. Ơng được chơn cất ở nhà thờ Santa Ana, ngoại ơ Manila. Nguồn: [Zaide, Soria.M (1999), The Philippines – A unique nation, All nation publishing Co. Inc, Quezon City., tr.430-431]

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chinh_sach_dong_cua_va_mo_cua_cua_tay_ban_nha_o_thuo.pdf
Tài liệu liên quan