Luận án Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN KHOA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ CHUYÊN NGÀNH: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 62 22 03 15 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. ĐOÀN MINH HUẤN 2. PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ HÀ NỘI – 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, chính xác, đảm bả

pdf177 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o khách quan, khoa học, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Tác giả luận án Nguyễn Văn Khoa MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 6 1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án 6 1.2. Đánh giá kết quả các công trình đã được công bố và những vấn đề luận án tập trung làm rõ 23 Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 26 2.1. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001- 2005) 26 2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001 - 2005) 41 Chương 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2011 64 3.1. Những nhân tố tác động và chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2005 - 2011) 64 3.2 Quá trình chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2005 - 2011) 75 Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 99 4.1. Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011 99 4.2. Một số kinh nghiệm 124 KẾT LUẬN 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 171 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bất kỳ hình thức tổ chức bộ máy nhà nước nào, dù theo chế độ phân quyền hay tập quyền, thì tư pháp vẫn được coi là một bộ phận cấu thành quyền lực công, thể hiện quyền uy của Nhà nước đối với xã hội cũng như năng lực bảo vệ công lý. V.I.Lênin đã từng khẳng định: Một nền tư pháp tồi, xã hội sẽ phải trả một giá đắt. Luận điểm này cho thấy, công tác tư pháp luôn giữ vai trò quan trọng trong các phương diện hoạt động của Nhà nước. Trong Thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ IV vào tháng 2 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền góp phần mình thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đồng thời, ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu, phá hoại chế độ, phá hoại lợi ích của nhân dân” [8, tr.10]. Công tác tư pháp trong tiến trình cách mạng Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, công tác tư pháp càng được coi trọng, nó phản ánh tính dân chủ và pháp quyền, là công cụ xây dựng một thể chế chính trị trong sạch, vững mạnh, dân chủ, bảo vệ công lý và các quyền con người trong thế giới văn minh. Tuy nhiên chất lượng công tác tư pháp chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, còn án oan, án sai, vi phạm các quyền con người, quyền công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và nền pháp trị. Những thành tựu cũng như những hạn chế trong lĩnh vực tư pháp đều lên quan đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác cán bộ, trong đó chú trọng đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh. Đội ngũ cán bộ tư pháp đã có bước phát triển mới về chất lượng và số lượng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, song vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của đời sống xã hội. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị 2 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”, nhận định: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí một số cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp” [50, tr.1]. Bên cạnh đó, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử của đội ngũ cán bộ tư pháp cũng còn hạn chế.Từ đó dẫn tới tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhiều vấn đề liên quan đến xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, sỡ hữu trí tuệ, thương mại quốc tế, các loại tội phạm hình sự xuyên quốc gia còn bất cập, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử đối với đội ngũ cán bộ tư pháp còn hạn chế. Đó là chưa kể yêu cầu xây dựng đạo đức nghề nghiệp tư pháp cũng rất đặc thù, ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, đạo đức của Đảng cầm quyền. Thực tế cho thấy, nếu như tham nhũng trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp gây nhức nhối trong xã hội thì tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp thường bị đánh giá thiếu đạo đức hơn nhiều lần, do nó làm thay đổi cán cân công lý, đụng chạm đến những quyền tư pháp của con người. Nghiên cứu nội dung Đảng lãnh đạo công tác tư pháp, trong đó có lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp làm sâu sắc thêm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với công cuộc đổi mới nói chung cũng như trong lĩnh vực tư pháp, trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp phục vụ công cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, việc xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư pháp có trình độ, có năng lực toàn diện và phẩm chất tốt để giải quyết tốt những yêu cầu xét xử do công cuộc cải cách tư pháp trong thời kỳ hội nhập quốc tế là một yêu cầu bức thiết. Đến nay, vẫn còn thiếu những nghiên cứu khoa học làm cơ sở cho những giải pháp thực sự rõ ràng, đồng bộ, hiệu quả để thực hiện cải cách tư pháp. Đặc biệt với cơ chế quản lý cán bộ theo các ngành hiện nay, bảo đảm đồng bộ hóa về chất lượng cán bộ tư pháp là điều rất khó thực hiện. Trong khi đó, nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, trước hết và đột 3 phá phải bắt đầu từ nâng cao chất lượng cán bộ tư pháp. Muốn thực hiện đạt kết quả tốt nhất, rất cần phải nghiên cứu có hệ thống quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp để có một cách nhìn toàn diện về thành công, hạn chế, đúc kết những kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn hiện nay. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Làm sáng rõ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án - Làm rõ yêu cầu khách quan và những yếu tố tác động đến quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011. - Phân tích, luận giải, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp qua hai giai đoạn: 2001-2005 và 2005- 2011. - Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011 - Đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Luận án tập trung nghiên cứu tiến trình, chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2011. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án - Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về các mặt công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm; chính sách đối với cán bộ tư pháp; kết quả và tác động của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đối với nền tư pháp cũng như với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nội hàm cán bộ tư pháp bao gồm nhiều đối tượng, luận án tiếp cận đối tượng cán bộ tư pháp là thẩm phán trong cơ quan Toà án và kiểm sát viên trong cơ quan Viện kiểm sát. - Về thời gian: Nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sử dụng một số tư liệu liên quan trước năm 2001 và sau năm 2011. - Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi cả nước, song, tập trung khảo sát một số cơ quan đơn vị liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp ở Trung ương và một số địa phương. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cán bộ và công tác cán bộ. 4.2. Nguồn tư liệu nghiên cứu - Luận án khai thác một số tác phẩm kinh điển của C.Mác và V.I. Lênin; đặc biệt các tác phẩm của Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước về tư pháp và cán bộ tư pháp. - Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam; các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương; các Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác tư pháp và cải cách tư pháp; một số bộ luật, luật, pháp lệnh, chỉ thị của Nhà nước và Chính phủ về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. 5 - Các kế hoạch, chương trình hành động; các đề án cụ thể; báo cáo tổng kết của các cơ quan tư pháp như Toà án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, những tổng kết của các cơ sở đào tạo cán bộ tư pháp. - Các sách tham khảo, chuyên khảo, luận án, luận văn, hội thảo, kỷ yếu, đề tài khoa học, các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu đã công bố liên quan đến xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị giúp việc hoàn thành các nội dung nghiên cứu của luận án. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc và kết hợp chặt chẽ hai phương pháp đó. Đồng thời còn sử dụng một số phương pháp phổ dụng khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... nhằm sáng tỏ những vấn đề luận án đặt ra cần giải quyết. 5. Đóng góp mới của luận án - Hệ thống hoá chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Định dạng một số đặc trưng trong tiến trình lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng cán bộ tư pháp, một lĩnh vực phải giải quyết mâu thuẫn giữa bảo đảm tính lãnh đạo thống nhất của Đảng với tôn trọng nguyên tắc độc lập tương đối của lĩnh vực tư pháp. - Phân tích, đánh giá, rút ra được các nhận xét, kết luận về Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp; tổng kết một số kinh nghiệm có ý nghĩa cho vận dụng vào giai đoạn mới. 6. Bố cục của luận án Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung của luận án gồm 4 chương 8 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Do vị trí, tầm quan trọng của vấn đề, trong những năm qua, giới khoa học trong nước và ngoài nước đã nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể phân chia thành các nhóm sau. 1.1.1. Nhóm nghiên cứu chung về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp - Các nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp gắn với cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Cuốn “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” của Trần Đình Thắng [151] là công trình nghiên cứu công phu, toàn diện dưới góc độ luật học về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Bắt đầu từ trình bày khái niệm, định dạng đặc điểm, phân loại, nhiệm vụ, quyền hạn, khái lược những vấn đề lịch sử, phân tích thực trạng,... Công trình đã xác định những yêu cầu và đề xuất giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Tác giả Đào Trí Úc trong cuốn “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [183] đã đề cập đến khái niệm tư pháp, nhiệm vụ, nguyên tắc cải cách tư pháp; đổi mới chế độ thẩm phán và đội ngũ thẩm phán; thực trạng đội ngũ thẩm phán toà án nhân dân địa phương. Cuốn “Góp phần tìm nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền” của Bùi Ngọc Sơn [121] trong trình bày những vấn đề chung về Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, đã dành một phần bài về toà án trong nhà nước pháp quyền với tính độc lập trong xét xử trong hoạt động; vai trò độc lập toà án trong việc bảo đảm thực hiện các yêu cầu nhà nước pháp quyền; yêu cầu tăng trách nhiệm và nâng cao chất lượng, quan tâm đúng mức đời sống vật chất cho các thẩm phán. 7 Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí trong cuốn:“Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” [27] đã đề cập một số khía cạnh đáng quan tâm. Đây là công trình nghiên cứu về cải cách tư pháp từ sau khi có Nghị quyết 08 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp. Công trình đã phân tích, khái quát một số vấn đề chung trong cải cách tư pháp như mục tiêu, đối tượng, phương hướng và các giải pháp cơ bản thực hiện của cải cách tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền; đặc biệt đề cập đến lương tâm của người thẩm phán trong xét xử đảm bảo quyền con người trong cải cách tư pháp. Tác giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” [30] đã đi sâu làm rõ vị trí, vai trò của thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền; thể chế tư pháp ở một số quốc gia và đặc biệt làm rõ một số vấn đề thể chế tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến các vấn đề như: quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Toà án ở Việt Nam gắn liền với hoạt động của đội ngũ thẩm phán, nghiên cứu nhiệm kỳ của thẩm phán, vấn đề thay thế chế định bầu cử thẩm phán bằng bổ nhiệm theo Hiến pháp 1992, vấn đề tuyển chọn thẩm phán, vấn đề trách nhiệm, nâng cao chất lượng, biện pháp ổn định công tác cho đội ngũ thẩm phán. Tác giả Phạm Quý Tỵ với bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân” [147] đã khái quát mô hình toà án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử; đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử; phân định rõ ràng thẩm quyền quản lý và thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan toà án; đặc biệt đề cập đến đổi mới trình tự thủ tục bổ nhiệm thẩm phán theo hướng thẩm phán được bổ nhiệm dài hạn, không theo nhiệm kỳ; Nhà nước cần phải đảm bảo về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ cho thẩm phán, tạo điều kiện để thẩm phán độc lập khi xét xử. Tác giả Trương Hoà Bình với bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” [6] đã khái quát thực trạng, những bất cập, hạn chế của đội ngũ cán bộ tư pháp 8 trong cơ quan Toà án nhân dân như số lượng, chất lượng, cơ cấu, biên chế. Đặc biệt công trình đã đưa ra những định hướng lớn trong đổi mới hệ thống toà án theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc đơn vị hành chính; làm rõ nguyên tắc tổ chức, hoạt động và biên chế đội ngũ cán bộ của toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm, Toà án tối cao, qua đó cũng kiến nghị về xây dựng đội ngũ cán bộ cho phù hợp với từng loại toà án. Nhóm công trình tiếp cận từ góc độ chính trị học hoặc luật học, bàn sâu sắc các khía cạnh kỹ thuật tư pháp với những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ cán bộ tư pháp cả về phẩm chất và năng lực. Xây dựng cán bộ tư pháp trong các nghiên cứu này gắn chặt với yêu cầu cải cách tư pháp theo đường lối, chủ trương của Đảng. Tất nhiên, hạn chế của những nghiên cứu này là chưa cho thấy rõ tiến trình lịch sử, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư pháp, cơ sở lý thuyết của các đề xuất này, thậm chí nhiều nghiên cứu chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi lý thuyết cấu trúc quyền lực tư pháp trong các mô hình dân chủ phương Tây. Có nghiên cứu lại bị ảnh hưởng nhiều cách tiếp cận của các lý thuyết về nhà nước Xô-viết trước đây, sâu xa là nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, nên lĩnh vực tư pháp nói chung và công chức tư pháp đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng một cách xơ cứng. - Các nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Đào Xuân Tiến với bài viết “Đào tạo thẩm phán” [145] đã khái quát năng lực, trình độ chuyên môn của các thẩm phán. Tác giả nêu lên thực trạng công tác đào tạo thẩm phán trước năm 2002 còn chồng chéo, nhiều cơ sở đào tạo do nhiều cơ quan quản lý khác nhau; đưa ra hướng đổi mới như xây dựng chương trình, đào tạo lại đội ngũ thẩm phán về chuyên môn nghiệp vụ và bổ sung những kiến thức ngoại ngữ, tin học; kiến thức về sở hữu trí tuệ; tập trung các cơ sở đào tạo thành một mối. Bài viết “Về vấn đề đào tạo nguồn để bổ nhiệm các chức danh tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Phạm Mạnh Hùng [92] đã phân tích tính đặc thù của đào 9 tạo nguồn để bổ nhiệm đối với các chức danh tư pháp như thẩm phán, kiểm sát viên; có so sánh với công tác đào tạo của một số nước; đặt ra yêu cầu chuyên môn hoá của các ngành như đào tạo thẩm phán cần giao cho ngành toà án đảm nhiệm và kiểm sát viên do ngành kiểm sát thực hiện. Tác giả Nguyễn Hữu Hậu với bài viết “Một số suy nghĩ về định hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm sát trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế” [75] đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện đào tạo bồi dưỡng cán bộ kiểm sát viên như sự chồng chéo giữa Học viện tư pháp với Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (nay là Đại học Kiểm sát); tình hình nhận thức chưa đúng mức về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát là “đào tạo nghề”-một loại hình đào tạo đặc thù ngành kiểm sát; chưa có Hội đồng thẩm định chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát chính thống theo chuẩn quốc gia. Từ đó, tác giả đề xuất một số định hướng về công tác đào tạo, bồi dưỡng; về xây dựng chương trình, hoàn chỉnh giáo trình cho từng loại hình; về đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng; về củng cố phát triển đội ngũ giảng dạy; về cải tạo, nâng cấp cơ sở, vật chất phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Phan Chí Hiếu “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020” [17] đã nêu lên cơ sở lý luận xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020. Trên cơ sở đó, đề tài khái quát thực trạng đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp và hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có chức danh tư pháp, đặc biệt nhấn mạnh đến đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên như đội ngũ thẩm phán còn thiếu về số lượng; cơ cấu đội ngũ thẩm phán chưa đảm bảo; chất lượng đội ngũ thẩm phán còn hạn chế về trình độ chuyên môn, trình độ chính trị, trình độ ngoại ngữ tin học; đạo đức thẩm phán. Đề tài khái quát thực trạng chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp; công tác đào tạo kiểm sát viên cũng có những bất cập như thay đổi về tên gọi, chức năng nhiệm vụ của cơ sở đào tạo; còn chồng chéo trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Từ đó, đề tài đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng, trình 10 phê duyệt và tổ chức thực thi Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020, trong đó đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên là một bộ phận. Ngoài ra còn có một số đề tài khoa học cấp cơ sở nghiên cứu về đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp do Học viện Tư pháp tiến hành, với nhiều chủ đề khác nhau như: “Những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn thẩm phán”[80]; “Xây dựng chương trình đào tạo kiểm sát viên-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [81]; “Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ công cuộc cải cách tư pháp” [83]. Ngoài ra, ngành Toà án, Kiểm sát, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của ngành, cũng đã triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học về đội ngũ cán bộ của ngành như: “Đào tạo thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao” do Toà án nhân dân tối cao thực hiện [127]. Nội dung của các đề tài này, dưới nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau, trên mức độ ít nhiều có đề cập đến việc thực hiện chủ trương của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của từng ngành và chủ yếu đi sâu khái quát thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ tư pháp nói chung và đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ chức danh tư pháp. Song, do quy mô và tính chất là đề tài cấp cơ sở, hoặc do phạm vi nghiên cứu riêng của từng ngành, nên các đề tài không thể triển khai một cách toàn diện và sâu sắc. - Các nghiên cứu về sử dụng, tuyển chọn-bổ nhiệm đội ngũ cán bộ tư pháp. Năm 2003, Trường Đại học Luật Hà Nội triển khai nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ: “Điều tra cơ bản đánh giá thực trạng đào tạo, sử dụng cán bộ pháp lý đối với sự phát triển của đất nước thế kỷ XX” [163]. Đề tài tập trung điều tra việc sử dụng cử nhân luật sau khi tốt nghiệp đại học, trong đó ngành luật là một lĩnh vực lớn. Đề tài tập trung khảo sát, đánh giá tình hình sử dụng cán bộ pháp lý sau khi tốt nghiệp đại học, không nghiên cứu chuyên sâu sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Xây dựng cơ chế thi tuyển tư pháp quốc gia đáp ứng yêu cầu cải cách Tư pháp” [18] đã làm rõ cơ chế thi tuyển tư pháp quốc gia, lợi thế cũng như vai trò của thi 11 tuyển tư pháp quốc gia trong mối quan hệ với các yêu cầu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong bối cảnh cải cách tư pháp và đổi mới giáo dục đại học hiện nay; tìm hiểu kinh nghiệm nước ngoài về thi tuyển đào tạo các chức danh tư pháp, trên cơ sở tổng kết, đánh giá khả năng áp dụng vào mô hình tuyển sinh đào tạo cán bộ tư pháp ở Việt Nam; tổng kết một cách toàn diện về thực trạng công tác tuyển sinh để đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện Tư pháp từ trước đến nay. Tác giả làm rõ cơ sở thực tiễn và sự cần thiết phải xây dựng kỳ thi tuyển tư pháp quốc gia; xây dựng mô hình thi tuyển tư pháp quốc gia, trong đó xác định rõ đối tượng dự thi, nội dung thi tuyển, hình thức thi tuyển, Hội đồng thi tuyển tư pháp quốc gia; làm rõ các điều kiện đảm bảo cho việc thực thi mô hình thi tuyển này trên thực tế. Đề tài sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn như một công cụ nghiên cứu kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh kinh nghiệm. - Các nghiên cứu về giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Trương Thị Hoà với bài viết “Cải cách tư pháp và việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ quan tư pháp” [78] đã nêu lên thực trạng của hoạt động tư pháp như pháp luật không rõ ràng, minh bạch tạo điều kiện cho tham nhũng; thực tiễn xét xử qua quá nhiều cấp, chưa tuân thủ đúng nguyên tắc hai cấp xét xử. Tác giả khẳng định: Nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn của cán bộ tư pháp là bộ phận quan trọng trong nội dung cải cách tư pháp. Các biện pháp để nâng cao như cải tiến chương trình đào tạo gắn với giáo dục đạo đức nghề nghiệp; tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Hoàng Văn Linh với bài viết “Một số suy nghĩ về đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán trong cải cách tư pháp hiện nay”[96] đã đưa ra quan niệm về đạo đức người thẩm phán và nhấn mạnh đến việc xây dựng những phẩm chất đạo đức người thẩm phán như: Luôn đề cao ý thức bảo vệ pháp chế xã hội 12 chủ nghĩa, bảo vệ công lý và công bằng xã hội; tận tâm phục vụ nhân dân; phẩm chất về giao tiếp với công việc và đồng nghiệp; có lối sống lành mạnh, liêm chính, có ý thức tổ chức kỷ luật, thường xuyên bồi duỡng nhân cách. Công trình “Đạo đức Nghề luật”[87] là kết quả hợp tác giữa Học viện Tư pháp của Việt Nam với Dự án phát triển tư pháp và sự tham gia từ cơ sở (JUDGE), tư vấn biên soạn bởi GS.TREVOR C.W.FARROW và tài trợ bởi CIDA, đã khái quát đặc điểm của nghề luật nói chung, đặc điểm nghề của các đội ngũ cán bộ tư pháp như thẩm phán, kiểm sát viên. Các tác giả đã đưa ra kinh nghiệm của một số nước như Canađa, Trung Quốc, Liên bang Nga, Cộng hoà Liên bang Đức, Hoa Kỳ trong việc xây dựng quy tắc đạo đức và ứng xử trong thực tiễn truy tố, xét xử của đội ngũ cán bộ tư pháp. Nhóm nghiên cứu trên đây chủ yếu đi sâu vào những mặt công tác cụ thể của xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp như đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn-bổ nhiệm; khái quát thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; đưa ra các yêu cầu, tiêu chí cũng như giải pháp thực hiện để xây dựng và hình thành các phẩm chất quan trọng của người cán bộ tư pháp; kinh nghiệm nước ngoài về xây dựng bộ quy tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Một số lý thuyết nhân học xã hội, lý thuyết hành vi, lý thuyết lựa chọn công, lý thuyết đạo đức nhóm,... được tác giả nhóm nghiên cứu này sử dụng trong nghiên cứu. Hạn chế của nhóm này là chưa dựa vào dữ liệu lịch sử để làm rõ các luận cứ, nhận xét; ít đề cập đến mối quan hệ chính trị với tư pháp nói chung và mối quan hệ giữa đường lối chính trị, tác động chính trị đối với nhân viên tư pháp trên các khâu tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp, đào tạo.... Nhóm nghiên cứu này có thể kế thừa một số nhận định, kết luận và rất có ý nghĩa khi xem xét thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trên các chiều cạnh khác nhau từ tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đến sử dụng công chức tư pháp. 13 1.1.2. Nhóm nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. - Nhóm nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với ý nghĩa cơ sở phương pháp luận trong hoạch định chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Vũ Đình Hòe, một người tốt nghiệp đại học luật ở Pháp, tham gia Đảng Dân chủ Việt Nam, là Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong cuốn hồi ký “Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh”[79] đã trình bày suy nghĩ của ông đối về tư tưởng hiến chính và pháp quyền của Hồ Chí Minh. Ông cho rằng, Hồ Chí Minh có một tư duy pháp lý nhạy bén tuyệt vời, gần như thiên bẩm, hiểu thấu và thi hành một cách sáng tạo lý luận và thực tiễn chế độ Nhà nước-pháp quyền của thời đại và thế giới văn minh. Tư tưởng của Người đã dẫn dắt Vũ Đình Hòe trên cương vị Bộ trưởng Tư pháp cũng như cải hóa một thế hệ “cán bộ pháp lý khả thủ, dần dần biết suy nghĩ và hành động đúng đắn”[81, tr.6], đặc biệt là tư tưởng về một nền pháp quyền nhân nghĩa, một nền tư pháp “phụng công thủ pháp”, “nhân ái, công bình, độ lượng có sức thuyết phục, cảm hóa cao”[81, tr.212]. Tác giả Bùi Ngọc Sơn với bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức toà án và ý nghĩa hiện nay”[121] đã trình bày nguyên tắc, tiêu chuẩn, thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán theo tư tưởng Hồ Chí Minh như thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm; thẩm phán phải có cử nhân luật, phải trải qua một kỳ thi để đảm bảo trình độ nghiệp của thẩm phán và khi đã được bổ nhiệm phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, phụng công thủ pháp, chí công vô tư. Ở đây đã kết hợp giữa nghiên cứu tư tưởng với sự chuyển hóa của tư tưởng trong thực tế đời sống. Tác giả Phạm Quốc Anh trong bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về hoạt động tư pháp”[1] đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, kim chỉ nam cho hoạt động tư pháp và thực hiện cải cách tư pháp. Tác giả nhấn mạnh Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm hoạt động khoa học và thái độ đúng đắn, khách quan, cầu thị đối với công việc đối với cán 14 bộ các cơ quan tư pháp. Ngoài ra tác giả khái quát đường lối, quan điểm của Đảng về công tác tư pháp. Bài viết “Nghiên cứu, học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền tư pháp cách mạng” của Khuất Văn Nga [107] đã nhấn mạnh cần quán triệt ba ý tưởng lớn của Hồ Chí Minh là một nền tư pháp vì dân; một nền tư pháp “xử án cho giỏi thì tốt nhưng làm thế nào không có kiện xử thì tốt hơn”; một nền tư pháp đối với đội ngũ cán bộ: “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Tác giả khẳng định ba ý tưởng trên của Hồ Chí Minh về tư pháp đang là trụ cột cho sự nghiệp cải cách tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Nhóm nghiên cứu này đã cho thấy vai trò thiết kế tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với nền tư pháp Việt Nam, một nền tư pháp độc lập, gần dân, hướng tới và bảo đảm quyền và lợi ích cho nhân dân và đề ra các yêu cầu, tiêu chí xây dựng đội ngũ cán bộ bộ tư pháp; các phẩm chất mà đội ngũ cán bộ tư pháp phải có như “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Chúng có ý nghĩa làm cơ sở phương pháp luận, định hướng cho nghiên cứu về Đảng lãnh đạo lĩnh vực tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Tuy nhiên, điểm yếu của các nghiên cứu này là chưa chỉ ra được “độ vênh” giữa tư tưởng và đời sống hiện thức, độ gián đoạn trong thực tiễn xây dựng nền tư pháp Việt Nam sau khi Hồ Chí Minh qua đời, đặc biệt là từ khi xây dựng Hiến pháp năm 1980, áp dụng mô hình tư pháp Xô-viết vào đất nước ta với nhiều thiết kế chính trị xa dần Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959-những bản hiến pháp mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh. - Nhóm nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp Tác giả Nguyễn Văn Thảo với cuốn “Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng”[150] ngoài việc trình bày về xây dựng nhà nước pháp quyền, đã nhấn mạnh cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Toà án theo hướng tạo điều kiện cho nền tư pháp hoạt động...Người luôn nhắc nhở cán bộ: “Tự mình phải hay nghiên cứu, xem xét; vị công vong tư; không hiếu danh, nói thì phải làm” [88; tr.260]. “Khách quan” là không phụ thuộc vào ý chí và nhận thức chủ quan của một cá nhân nào, mà phải biết chấp nhận, giải quyết vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh cụ thể, phải lắng nghe các ý kiến; cần linh hoạt, nhạy bén, sẵn sàng đối phó với những bất ngờ xảy đến. Người cũng nhấn mạnh làm việc phải xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm. Trong thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc tháng 2/1948, Hồ Chí Minh viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” cho nhân dân noi theo”[88; tr.382]. “Phụng công” nghĩa là tôn thờ lẽ công bằng, tôn thờ công lý, không thiên lệch; là phải biết trách nhiệm của mình được Nhà nước và nhân dân giao cho quyền thực thi pháp luật, làm việc để phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân. Tôn thờ công lý là yêu cầu của bất cứ người nào nắm quyền lực công, 30 nhưng với người cán bộ tư pháp đó còn là đạo đức làm người, bởi mỗi quyết định đúng đắn hay sai lầm của cán bộ tư pháp đụng chạm đến lương tri con người, được xem ở mức độ nhạy cảm cao nhất của “đạo đức”. “Thủ pháp” là phải hiểu và nắm chắc luật pháp, là giữ gìn, bảo vệ pháp luật, không vì lý do gì mà bẻ cong, làm trái pháp luật; cần phải thực thi pháp luật cho rõ ràng, minh bạch, khách quan. “Chí công, vô tư” theo đúng quy định của pháp luật; là hết mực công tâm; là không vì lợi ích riêng tư nào. Muốn “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” thì trước hết người cán bộ tư pháp phải có bản lĩnh, có đủ năng lực, trình độ chuyên môn và cái tâm trong sáng. Đó chính là nền tảng cho việc xây dựng một nền tư pháp thật sự độc lập sau này. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ tư pháp hết sức gần gũi và thiết thực đối với người làm công tác tư pháp. Đó là lòng trung thành vô hạn đối với dân tộc, đối với Đảng, với nhân dân, là ý thức phục vụ nhân dân vô điều kiện. Đó là tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa, tất cả vì con người, là lòng vị tha, cao thượng. Trong đó, đặc biệt quan điểm về “Công minh, chính trực, khiêm tốn, thận trọng, khách quan” và “phụng công thủ pháp, chí công vô tư” phản ánh tinh thần minh triết về xây dựng một nền tư pháp nhân văn và hiện đại, vì con người. Đây là những phẩm chất quan trọng đối với người cán bộ tư pháp, là cơ sở lý luận định hướng trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011. 2.1.2. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001-2005) 2.1.2.1. Nhu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa Từ năm 1986, Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, ngoại giao, an ninh quốc phòng, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng chính là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới, 31 nhất là đổi mới về kinh tế. Các quan hệ kinh tế trong cơ chế thị trường luôn nảy sinh những tiêu cực, đòi hỏi Nhà nước phải giải quyết các tranh chấp kinh tế thông qua hệ thống tư pháp và pháp luật. Một điều tất yếu là, khi nền kinh tế thị trường ngày càng hoàn thiện, tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau thì số lượng các quan hệ xã hội, giao lưu kinh tế diễn ra ngày càng phong phú và đa dạng hơn, trình độ dân trí, trình độ pháp luật của nhân dân ngày càng cao hơn; theo đó, tổ chức cá nhân biết sử dụng pháp luật làm công cụ bảo vệ quyền và lợi ích của mình ngày càng tăng. Vì vậy, số lượng cũng như tính phức tạp của các vụ án tranh chấp dân sự, hành chính, kinh tế, thương mại, hôn nhân gia đình cũng như yêu cầu dân sự mà các cơ quan tư pháp giải quyết ngày càng tăng đáng kể. Đồng thời, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội, tranh chấp, vi phạm pháp luật tiếp tục diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch vẫn chống phá Đảng và Nhà nước ta quyết liệt. Tệ nạn tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ và gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Hoạt động tội phạm có tổ chức, với sự liên kết giữa các băng, nhóm tội phạm trong và ngoài nước xảy ra nhiều hơn. Những tội phạm phi truyền thống như đầu cơ chứng khoán, rửa tiền, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên biên giới tạo ra cả mối đe dọa uy hiếp trực tiếp đến an ninh con người và an ninh quốc gia... Tình hình này đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức nặng nề, đòi hỏi công tác bảo vệ pháp luật phải có những chuyển biến mạnh mẽ và phấn đấu đạt được mục tiêu xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ tư pháp phải được bảo đảm về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và cấp bách nhất là nâng cao về chất lượng để đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Bên cạnh đó xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp góp phần tạo tính đồng bộ hóa với cải cách lập pháp, hành chính và tư pháp. Giữa các lĩnh vực đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, đòi hỏi phải được triển khai thực hiện cải cách nhịp nhàng, cái này làm tiền đề cho cái kia. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng cắt khúc, khép kín và rời rạc trong thực hiện các giải pháp cải cách nhà nước như hiện nay. 32 2.1.2.2. Yêu cầu cải cách tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cở sở hiến pháp và pháp luật và bảo đảm cho hiến pháp và pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người và quyền công dân; theo thể chế do một Đảng lãnh đạo và có sự giám sát của nhân dân. Cải cách tư pháp giai đoạn 2001-2005 đã được Đảng ta đề ra trong Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” mà trọng tâm là nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp. Viện kiểm sát các cấp phải thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư,người bào chữa và với những người tham gia tố tụng khácTăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình. Toà án các cấp khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các 33 chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định. Ngoài ra, trong giai đoạn 2001-2005, chủ trương về tăng thẩm quyền xét xử cho toà án cấp huyện từ 5 năm đến 15 năm dẫn tới bộ máy, cán bộ trong các cơ quan tư pháp phải chuyển động theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Đồng thời hệ thống pháp luật ngày càng lớn với số lượng văn bản pháp luật đồ sộ đặt ra đối với đội ngũ cán bộ tư pháp trong công tác truy tố, xét xử. Cùng với đó là sự gia tăng của các tranh chấp, nhất là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài như thương mại, dân sự, sở hữu trí tuệ khi đất nước hội nhập đòi hỏi rất cao về trình độ ngoại ngữ, tin học đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Với những nội dung nêu trên đặt ra cơ hội và thách thức rất lớn cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Từ đó phải nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ tư pháp, để có sự đổi mới mạnh mẽ hơn, có biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, để tạo sự chuyển biến hiệu quả hơn trong hoạt động tư pháp. Việc đổi mới đội ngũ cán bộ tư pháp phải tiến hành từ công tác đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức. Muốn làm tốt điều này cần có sự đánh giá một cách thực chất hơn, cụ thể hơn đội ngũ cán bộ tư pháp và công tác quản lý tư pháp, nhất là trong điều kiện thực hiện cải cách tư pháp quốc gia; phải có chủ trương cán bộ phù hợp với tình hình mới, có những chính sách cụ thể để phát huy những mặt tốt, những khả năng trong hệ thống tổ chức và trong mỗi cán bộ tư pháp. Kịp thời phát hiện và ngăn chặn những bất cập, suy thoái trong cán bộ các cấp khi thực hiện cơ chế mới với nhiều thành phần kinh tế và mở cửa hội nhập quốc tế. 2.1.2.3. Yêu cầu về dân chủ hóa đời sống xã hội và hội nhập quốc tế Xu thế dân chủ hoá trên thế giới là sự gia tăng số lượng các quốc gia tham gia vào quá trình dân chủ trên cơ sở tự do hoá nền kinh tế, thừa nhận các quyền tự do, dân chủ của công dân, xây dựng và hoàn thiện các thể chế dân chủ. Xu thế này bắt đầu từ việc nhận thức về vị trí và tầm quan trọng của dân chủ, các nội 34 dung và hình thức thực hiện dân chủ; từ việc tuyên truyền, giáo dục về dân chủ. Xu thế dân chủ đòi hỏi phải giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội như là những tiền đề vật chất và tinh thần cho dân chủ. Quá trình dân chủ hoá nhằm các mục tiêu hiện thực hoá các quyền con người, quyền công dân và được thực hiện trên cơ sở xây dựng một nhà nước pháp quyền. Xây dựng nhà nước pháp quyền chính là một xu hướng chung của việc đổi mới các nhà nước hiện nay và nhằm chống lại sự độc đoán chuyên quyền, sự tha hoá quyền lực, trả lại vị thế chủ thể của nhân dân trong quá trình phát triển xã hội. Có thể nói, xu thế dân chủ, pháp quyền là một tất yếu, là mục tiêu thiên niên kỷ mà nhân loại hướng tới với những hy vọng lớn nhất. Ở nước ta, từ khi đổi mới, Đảng ta xác định xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ trở thành động lực và mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Quá trình dân chủ hoá ở nước ta không thể không chịu sự tác động của các nước trên thế giới. Một trong những kinh nghiệm của các nước là xây dựng hệ thống các thể chế dân chủ-cơ sở pháp lý để nhà nước hành động có hiệu quả đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và là cơ sở pháp lý để nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, cải cách chính trị, trong đó có cải cách tư pháp gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có trình độ, phẩm chất chính là nhằm đáp ứng xu thế này và chỉ khi nào người cán bộ tư pháp thật sự công tâm, khách quan mới đảm được dân chủ, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân thông qua hệ thống tư pháp. Xu thế dân chủ, pháp quyền đang diễn ra trên thế giới đòi hỏi các quốc gia phải tự đổi mới, nhất là cải cách lĩnh vực tư pháp-một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến con người và thể hiện sự dân chủ trong đời sống chính trị, kinh tế-xã hội của các nước. Xu thế này ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của Đảng khi lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới, trong đó tư pháp là một lĩnh vực. Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra 35 dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Hội nhập quốc tế đã là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển. Đối với đổi mới ở nước ta, Đảng đã chủ trương mở cửa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, đặt đổi mới và phát triển nước ta trên con đường đồng thuận với các trào lưu cải cách, tiến bộ của thế giới. Do vậy, trong giai đoạn này, Việt Nam đã hội nhập một cách sâu rộng bằng việc tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, đặc biệt là WTO. Do vậy, các quan hệ về hợp đồng dân sự, thương mại, lao động ngày càng phát triển sôi động, phong phú và đa dạng. Cùng với đó là sự gia tăng của các tranh chấp, nhất là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài như thương mai, dân sự, sở hữu trí tuệ khi đất nước hội nhập, tội phạm hình sự xuất hiện các yếu tố quốc tế... đòi hỏi rất cao về trình độ ngoại ngữ, tin học đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Mặt khác, nền tư pháp còn chậm theo kịp sự đòi hỏi của quá trình dân chủ hoá xã hội, nhất là bảo vệ quyền con người trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi phải tiếp tục có những đổi mới quan trọng. Những thách thức đặt ra cho Việt Nam khi hội nhập là xuất phát điểm nước ta thấp; nhiều vấn đề xã hội phát sinh trong kinh tế thị trường chậm được phát hiện và giải quyết một cách hiệu quả; các thế lực nước ngoài không từ bỏ âm mưu diễn biến hoà bình chống phá cách mạng, thực hiện bạo loạn, lật đổ. Để tiếp tục khai thác và tận dụng thời cơ và vượt qua các thách thức, nguy cơ trong phát triển, Việt Nam phải đẩy mạnh đổi mới, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, kết hợp được nội lực và ngoại lực, xây dựng và phát triển đi liền với củng cố và bảo vệ từ kinh tế, chính trị, văn hoá đến an ninh quốc phòng. Mấu chốt là vấn đề giữ vững địa vị lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản và phải xây dựng được một Nhà nước pháp quyền đủ mạnh, đủ sức để vượt qua quan liêu, tham nhũng, không gây phản ứng và bất bình trong nhân dân, dẫn tới những phản cảm xã hội làm suy giảm và triệt tiêu động lực phát triển. Quá trình hội 36 nhập cũng đặt ra những sức ép gay gắt đối với cải cách tư pháp nhằm thực hiện các cam kết tư pháp mà Việt Nam đã ký kết, gắn với nó là những sửa đổi thể chế, luật pháp, bộ máy và con người trong các cơ quan tư pháp. Xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng vững mạnh chính là điều kiện để đảm bảo thật sự quyền dân chủ, quyền con người, quyền công dân đáp ứng cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. 2.1.2.4. Tình hình xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001 - Nhận thức và chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, các cơ quan tư pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã được thành lập để thực hiện những nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ của cách mạng. Hoạt động của đội ngũ cán bộ tư pháp và mô hình tổ chức của cơ quan tư pháp trong kháng chiến chống thực dân Pháp và trong những năm đầu xây dựng miền Bắc sau hòa bình lập lại được xây dựng theo các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Từ năm 1960 đến năm 2000, Đảng đã ban hành một số văn bản xác định chủ trương, quan điểm chỉ đạo đối với công tác tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng như Thông Tri số 13-TT/TW của Ban Bí thư ngày 12/12/1960 về “Tăng cường lãnh đạo công tác kiểm sát”[178, tr.34]; Nghị quyết số 68/NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 01/02/1963 về “Công tác kiểm sát” [178, tr.38]; Thông báo số 07- TB/TW, ngày 16/05/1978 ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư về “Công tác của viện kiểm sát nhân dân và toà án nhân dân” [178, tr.71]; Chỉ thị số 57-CT/TW của Ban Bí thư, ngày 30/01/1985 về “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với ngành kiểm sát, toà án, tư pháp” [178, tr.98]. Đội ngũ cán bộ tư pháp thời kỳ trước đổi mới đã góp phần quan trọng trong công cuộc giải phóng dân tộc và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên do những điều kiện lịch sử nhất định mà đội ngũ cán bộ tư pháp vẫn chưa được chú trọng, quan tâm xây dựng đúng mức. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện Đảng đã chủ trương đổi mới công tác cán bộ nói chung gắn liền với quá trình cải cách và hoàn thiện bộ máy của Nhà nước. Đại hội VI 37 coi trọng việc cán bộ tư pháp khi xét xử phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và các cấp ủy đảng, từ trên xuống dưới, phải thường xuyên lãnh đạo công tác pháp chế, tăng cường cán bộ có phẩm chất và năng lực cho lĩnh vực pháp chế, và kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các cơ quan pháp chế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) chủ trương “Tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân. Bảo đảm các điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan bảo vệ pháp luật làm tốt nhiệm vụ” [32, tr.92]. Hội nghị Trung ương hai khoá VII (11/1991) lần đầu tiên chủ trương đổi mới chế độ bầu cử thẩm phán thành chế độ bổ nhiệm. Quyết định số 47-QĐ/TW của Bộ Chính trị ngày 14/11/1992 về “Thành lập Ban Cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao” [178, tr.132]. Đảng đã ban hành nhiều văn bản thể hiện sự lãnh đạo đối với công tác tư pháp như: Báo cáo số 17-BC/NCTW của Ban Nội chính Trung ương ngày 24/09/1993 về “Kết quả kiểm tra việc chấp hành đường lối, quan điểm của Đảng trong hoạt động điều tra, bắt giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án (Trình cuộc họp Ban Bí Thư ngày 24/09/1993)” (trích) [178, tr.135]; Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 8/11/1993 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật” [178, tr.162]; Chỉ thị số 34- CT/TW, ngày 18/3/1994 của Ban Bí thư về “Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán tòa án nhân dân, thẩm phán tòa án quân sự các cấp”[126, tr.48]. Chỉ thị khẳng định việc quy định thẩm phán tòa án các cấp do Chủ tịch nước bổ nhiệm thay cho chế độ bầu hoặc cử thẩm phán là sự đổi mới quan trọng nhằm thực hiện thống nhất tiêu chuẩn thẩm phán, nâng cao vị trí người thẩm phán trong hệ thống chính trị của Nhà nước. Các cấp ủy và tổ chức đảng ở các cấp, các ngành có liên quan cần nghiên cứu nắm vững tiêu chuẩn tuyển chọn thẩm phán. Hội nghị Trung ương tám khoá VII (1/1995) chủ trương đề cao trách nhiệm của người ra lệnh và thừa hành đối với việc bắt giữ, xét xử oan sai, đồng thời minh oan công khai, thoả đáng đối với người bị bắt giữ, xét xử sai, bảo đảm quyền công dân đúng pháp luật. 38 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) đề cập rõ hơn về các chức danh tư pháp và nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Đại hội khẳng định: “Xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký toà án, điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chứng viên, giám định viên, luật sư có phẩm chất chính trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh”[39, tr.132-133]. Hội nghị Trung ương ba khoá VIII năm 1997 đã chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và có nǎng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể. Chỉ thị số 52/CT-TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị về “Phạm vi trách nhiệm, quyền hạn giữa cấp uỷ Đảng với Đảng uỷ công an, Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân, Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân trong công tác bảo vệ Đảng và xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên”[126, tr.49]. Ngày 21/3/2000, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 53-CT/TW về “Một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000”[178, tr.196]. Trong đó, nhấn mạnh đến các vấn đề như xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp nhất là cán bộ cấp huyện để chuẩn bị việc tăng thẩm quyền xét xử cho toà án cấp huyện; xây dựng, ban hành các quy chế công tác cho từng loại cán bộ tư pháp; thực hiện việc rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp và xử lý nghiêm minh đối với người có sai phạm, sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; nghiên cứu chế độ bồi dưỡng cho thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên với mức phụ cấp thoả đáng, phù hợp với chất lượng và khối lượng công việc. - Kết quả xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001 Quá trình thực hiện các chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001 đã đạt được một số kết quả như củng cố, kiện toàn các cơ sở đào tạo nguồn và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp như thành lập Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định số 1234/QĐ-TTg ngày 30/03/1996 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở Phân hiệu Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh và Khoa Luật của Trường Đại học Tổng hợp thành phố 39 Hồ Chí Minh, là thành viên của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 10/10/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 118/2000/QĐ-TTg về việc thay đổi cơ cấu tổ chức của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; tách Trường Đại học Luật thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thành Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Năm 1996, Bộ Tư pháp đã thành lập Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác nhằm góp phần chuẩn hoá trình độ cho các Thẩm phán theo Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993. Đồng thời chuẩn bị lực lượng cho việc thành lập Trường Đào tạo các chức danh tư pháp. Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ngày 11/02/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 34/1998/QĐ-TTg về việc thành lập Trường Đào tạo các chức danh tư pháp. Theo đó, mô hình đào tạo mới- đào tạo kỹ năng nghề nghiệp để tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Quá trình đào tạo nghề giúp học viên được trang bị một cách hệ thống, bài bản các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết, nhờ đó rút ngắn thời gian tự học tập, làm quen với công việc, tự tin hơn khi thực hiện các nhiệm vụ được giao. Từ việc tổ chức thành công các khoá đào tạo Thẩm phán, Luật sư, Công chứng viên mô hình đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho các chức danh tư pháp dần được khẳng định. Các trường đào tạo, bồi dưỡng của ngành kiểm sát và toà án được củng cố như phát triển Trường Bổ túc và đào tạo cán bộ kiểm sát (thành lập năm 1970) thành Trường Cao đẳng kiểm sát (năm 1982) đến năm 2005 đổi tên thành Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát và từ năm 2013 là Trường Đại học kiểm sát. Năm 1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn thành lập Trường Cán bộ Tòa án trực thuộc Toà án nhân dân tối cao theo Nghị quyết số 210/UBTVQH khóa IX ngày 20/5/1994 và Quyết định thành lập số 100/TCCB ngày 23/8/1994 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Đội ngũ cán bộ tư pháp được nâng lên một bước đáng kể so với thời kỳ trước đổi mới, góp phần vào sự nghiệp đổi mới, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước nhất là đã truy tố, xét xử nhiều vụ án ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tiêu chuẩn về chuyên 40 môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Kiểm sát viên được nâng lên một bước và chính thức được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, theo đó, để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp ngoài tiêu chuẩn tốt nghiệp cử nhân luật còn phải có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ theo từng chức danh. Công tác tuyển chọn, bổ nhiệm thay chế độ bầu thẩm phán và kiểm sát viên bằng chế độ bổ nhiệm từ năm 1992. Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp còn nhiều hạn chế trên các khía cạnh đào tạo pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp, tuyển chọn-bổ nhiệm, quản lý, chính sách đãi ngộ. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu. Tính đến năm 1998, biên chế cán bộ của ngành kiểm sát nhân dân là 6.727 người, việc phân bổ cán bộ không đồng đều, một số nơi thừa, một số khác thiếu cán bộ. Viện kiểm sát nhân dân tối cao: 324 người, viện kiểm sát tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: 2.279 người, viện kiểm sát cấp huyện: 3.912 người; hai trường đào tạo cán bộ kiểm sát: 121 người [177; tr.464]. Trình độ chuyên môn nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp chưa cao. Tính đến trước tháng 10/2002, tỷ lệ kiểm sát viên đạt trình độ cử nhân luật còn thấp (Viện kiểm sát nhân dân tối cao đạt tỷ lệ 59%; ở Viện kiểm sát cấp tỉnh đạt tỷ lệ 54,4%; ở Viện kiểm sát cấp huyện đạt tỷ lệ 38,3%; ở Viện kiểm sát quân sự các cấp đạt tỷ lệ 86,7%. Số còn lại khoảng 50% chỉ có trình độ cao đẳng kiểm sát hoặc trung cấp pháp lý) [175, tr.3] Nguyên nhân là do những bất cập trong hệ thống tổ chức chưa được đổi mới theo yêu cầu của tình hình, tính độc lập trong truy tố, xét xử chưa được đảm bảo, vẫn còn tình trạng án oan, án sai, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Khi tham gia tố tụng, đội ngũ cán bộ tư pháp còn hạn chế về trình độ và năng lực chưa ngang tầm quyền năng công vụ, cả về tri thức xã hội, về lý luận chính trị, kiến thức kinh tế thị trường, kỹ năng thi hành công vụ, ngoại ngữ, áp dụng công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, đạo đức người cán bộ tư pháp chưa được chú ý trau dồi, rèn luyện một cách tự giác và chưa được bồi dưỡng thường xuyên. Một bộ phận không nhỏ bị tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, lợi dụng và lạm dụng chức vụ để mưu cầu lợi ích cho bản thân và gia đình. Một số cán bộ tư pháp thiếu tinh thần, sa sút về phẩm chất, vi phạm pháp luật. Số lượng 41 các chuyên gia đầu ngành có trình độ chuyên môn cao giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế còn hạn chế. Đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, tình trạng thiếu và yếu là vấn đề không dễ khắc phục. Số lượng cơ cấu đội ngũ cán bộ tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Tình trạng hẫng hụt các thế hệ trong các cơ quan tư pháp còn phổ biến khiến cho công tác bố trí cán bộ kế cận rất khó khăn, dẫn tới công tác kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp còn chậm, cơ cấu chưa hợp lý. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp phải đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nhất là đáp ứng yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử, đấu tranh phòng, chống tội phạm; số lượng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện và chất lượng hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ tư pháp. Còn tình trạng oan sai trong hoạt động tư pháp và chưa có cơ chế bồi thường thiệt hại do hoạt động tư pháp gây ra. Sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp còn một số bất cập như chưa có chủ trương riêng về công tác cán bộ tư pháp và chưa đặt công tác tư pháp mang tính chiến lược; phương thức lãnh đạo còn chưa thích ứng với tính chất đặc thù của tư pháp. Từ đó đặt ra yêu cầu mới đối với sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn lịch sử tiếp theo. 2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP (2001-2005) 2.2.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp 2.2.1.1. Chủ trương về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp. * Những quan điểm, chủ trương mới của Đại hội IX và Nghị quyết số 08 của Bộ Chí trị về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) diễn ra trong bối cảnh nhân loại đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đứng trước những thời cơ và thác thức đan xen. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 và 15 năm tiến hành công 42 cuộc đổi mới toàn diện. Đại hội IX đề ra phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong đó có những nhận thức quan trọng về cải cách tư pháp như Viện kiểm sát nhân dân vẫn thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp và Toà án nhân dân đổi mới theo hướng sắp xếp lại hệ thống Toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của toà án các cấp, tăng cường đội ngũ thẩm phán và hội thẩm nhân dân đảm bảo về số lượng và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu xét xử của toà án. Điểm nổi bật là, Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh đến yêu cầu nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan, sai trong tố tụng. Đại hội IX đề cao việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong các hoạt động tư pháp, đặc biệt nhấn mạnh vấn đề oan, sai trong hoạt động tố tụng mà trước đó đã được lưu ý nhưng thiếu biện pháp kỹ thuật cụ thể để áp dụng trong thực tiễn. Đây là điểm mới so với các nhiệm kỳ Đại hội Đảng trước. Điều đó thể hiện sự quan tâm của Đảng về bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Những quan điểm đổi mới mang tính đột phá của Đại hội IX đã được Ban Chấp hành Trung ương khoá IX cụ thể hoá thành các biện pháp kỹ thuật để thực thi và từng bước chuyển hoá vào thực tiễn tiến trình cải cách tư pháp. Xuất phát từ yêu cầu cần cụ thể hoá đường lối của Đại hội IX trong thực tiễn, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 08/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp quán triệt theo những quan điểm định hướng công tác tư pháp trong giai đoạn 2001-2005 như sau: - Công tác tư pháp phải quán triệt nguyên tắc thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế; giữ vững bản 43 chất của Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. - Nhiệm vụ của công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu qu...cơ quan tư pháp cần thực hiện năm 2000”, (Tài liệu mật), Hà Nội. 45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX, Nhà xuất bản Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, (Tài liệu mật), Hà Nội. 47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Kết luận của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII về công tác tổ chức và cán bộ”, trong sách Các Nghị quyết Trung ương Đảng 2001 – 2004, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, (lưu hành nội bộ), Hà Nội. 48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX “Về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ 157 IX của Đảng”, trong sách Các Nghị quyết Trung ương Đảng 2001 – 2004, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, (lưu hành nội bộ). 49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng trong thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX) về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội. 51. Đảng Cộng sản Việt Nam-Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương (2005), Kế hoạch số 01-KH/BCĐCCTP ngày 19/6/2005 “Về quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội. 52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24/05/2005 về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Hà Nội. 53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Nghị quyết Trung ương 4 khoá X về Đổi mới, kiện toàn bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sách của Ban tuyên giáo Trung ương trong sách Tài liệu học tập các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 09/12/2009 của Ban Bí thư về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp, Hà Nội. 57. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Thông báo số 230-TB/TW của Bộ Chính trị, ngày 26/3/2009 Kết Luận về sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW, 158 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. (Tài liệu mật), Hà Nội. 58. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Kết luận số 37-KL/TW ngày 2/2/2009 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020, Hà Nội. 59. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Kết luận số 79/KL-TƯ ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 61. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62. Đảng Cộng sản Việt Nam-Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương (2011), Tờ Trình Bộ Chính trị số 03-TTr/CCTP, ngày 04/7/2011 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương về kết quả sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 63. Đảng Cộng sản Việt Nam-Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương (2011), Báo cáo số 19-BC/CCTP ngày 04/7/2011 về “Sơ kết 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội. 64. Đảng Cộng sản Việt Nam-Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương (2012), Báo cáo số 19-BC/CCTP, ngày 12/11/2012 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương nhiệm kỳ 2011-2016 về phân công nhiệm vụ đào tạo nghề cho cán bộ có chức danh tư pháp và công tác đào tạo, tuyển dụng cán bộ pháp luật để tạo nguồn cho các chức danh tư pháp, Hà Nội. 65. Đảng Cộng sản Việt Nam-Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương (2012), Báo cáo của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, ngày 19/10/2012 159 về Tổng hợp nghiên cứu mô hình đào tạo các chức danh tư pháp của một số nước trên thế giới, Hà Nội. 66. Đảng Cộng sản Việt Nam-Ban cán Sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Báo cáo kết quả tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị trong ngành Kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 67. Đảng Cộng sản Việt Nam-Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương (2014), Báo cáo số 35-BC/CCTP ngày 12/03/2014 về “Sơ kết 8 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội. 68. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 69. Đảng Cộng sản Việt Nam-Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, (2015) Báo cáo số 63-BC/BCĐCCTPTW, ngày 14/12/2015 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương về kết quả kiểm tra, khảo sát công tác đào tạo,bồi dưỡng cán bộ pháp luật, cán bộ có chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp tại một số cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, Hà Nội. 70. Đảng Cộng sản Việt Nam-Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương (2016), Báo cáo Tổng kết số 01-BC/BCĐCCTPTW, ngày 20/04/2016 về việc thực hiện chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2011- 2016; dự kiến chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2016-2021, Hà Nội. 71. Đảng bộ Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khoá X trình Đại hội đại biểu Đảng bộ khoá XI, tài liệu lưu tại Văn phòng Đảng uỷ, Hà Nội. 72. Trần Ngọc Đường (2005), “Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (78). 160 73. Đỗ Thị Thúy Hà (2012), Một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tại trang 190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=29327003,[Truy cập ngày 01/12/2016]. 74. Phạm Thị Hà (2014), Đảng bộ Học viện Tư pháp lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp từ năm 2005 đến năm 2013. Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị-hành chính, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 75. Nguyễn Hữu Hậu (2009), “Một số suy nghĩ về định hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kiểm sát viên trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Kiểm sát, (9), tr 6-11. 76. Phạm Hồng Hải (2003), “Đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả của hoạt động tư pháp”, Tạp chí Luật học (2), tr.12-17. 77. Nguyễn Văn Hiện (2005), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác toà án hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (17). 78. Trương Thị Hoà (2006), “Cải cách tư pháp và việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ quan tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (4), tr.29-31. 79. Vũ Đình Hoè (2008), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh. 80. Học viện Tư pháp (2000), Những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn thẩm phán, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội. 81. Học viện Tư pháp (2004), Xây dựng chương trình đào tạo kiểm sát viên-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội. 82. Học viện Tư pháp (2004), Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng môn đạo đức nghề nghiệp tư pháp cho các chức danh tư pháp. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 161 83. Học viện Tư pháp (2006), Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ công cuộc cải cách tư pháp. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội. 84. Học viện Tư pháp (2008), Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng tập hệ thống hóa các vụ án điển hình dùng làm tài liệu cho công tác đào tạo các chức danh tư pháp. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 85. Học viện Tư pháp (2009), Hoàn thiện phương pháp đào tạo các chức danh tư pháp. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 86. Học viện Tư pháp (2011), Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cải cách tư pháp giai đoạn 2005-2015 để trình Thủ tướng Chính phủ. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội. 87. Học viện Tư pháp (2011), Đạo đức nghề luật, Nhà xuất bản Tư pháp 88. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 89. Nguyễn Văn Huyên (2010), “Nghiên cứu một số quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tuyển chọn cán bộ tư pháp”, phần 1, Tạp Chí Nghề Luật (3). 90. Nguyễn Văn Huyên (2010), “Nghiên cứu một số quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tuyển chọn cán bộ tư pháp”, phần 2, Tạp Chí Nghề Luật (4). 91. Trần Đại Hưng (2004), “Hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp”, Tạp chí Cộng sản, (21), tr.9 -13, 24. 92. Phạm Mạnh Hùng (2011), “Về vấn đề đào tạo nguồn để bổ nhiệm các chức danh tư pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, (22). 93. Hoàng Thế Liên (2010), “Kỷ yếu Diễn đàn đối tác pháp luật lần thứ bảy” trong Dự án Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam do Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) tài trợ, Hà Nội. 94. Hoàng Thế Liên (2012) “Cải cách pháp luật và tư pháp vì sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, Tạp chí Cộng sản, (10). 95. Trần Huy Liệu (2010), “Những quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp ở Việt Nam”, Tạp Chí Nhà nước và Pháp luật, (6-167), tr 17-24. 162 96. Hoàng Văn Linh (2007), “Một số suy nghĩ về đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán trong cải cách tư pháp hiện nay”, Tạp chí Nghề Luật, (3), tr 17-21. 97. Trần Đức Lương (2002), “Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (11). 98. Nguyễn Đình Lục (2009), “Sau ba năm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (139-140), tr 56-59. 99. Phan Công Luận (2006), “Uy tín của người thẩm phán”, Tạp chí Luật học, (1). 100. Phan Trung Lý (2004), “Cải cách tư pháp: vấn đề và bước đi”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (1). 101. C.Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 102. Dương Thị Thanh Mai (2006), “Cải cách tư pháp - Những thách thức nhìn từ góc độ trách nhiệm của người công chức trong cơ quan tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8), tr.24 - 25, 50. 103. Nguyễn Văn Nam (2005), Đào tạo luật và nghề luật ở Đức, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (8). 104. Nhà xuất bản Đà Nẵng-Trung tâm Từ điển học (1997), Từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Hà Nội-Đà Nẵng. 105. Nicholson Pip (2005), “Vietnamese Jurisprudence: Informing Court Reform” in Asian Socialism and Legal Change: the Dynamics of Vietnamese and Chinese Reform, (John Gillespie and Pip Nicholson eds), [“Pháp luật Việt Nam: Tác động tới cải cách toà án” trong cuốn Chủ nghĩa xã hội châu Á và sự thay đổi pháp lý: Động lực cải cách của Việt Nam và Trung Quốc (Tác giả John Gillespie và Pip Nicholson), Asia Pacific Press, Canberra. 106. Nicholson Pip (2007), Borrowing court systems: the experience of Socialist Vietnam, [Sự vay mượn hệ thống toà án: Kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam], Published Leiden; Boston: Martinus Nijhoff Publishers. 163 107. Khuất Văn Nga (2005), “Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền tư pháp cách mạng”, Tạp chí Kiểm sát, (1), tr 8-10. 108. Khuất Văn Nga (2005), “ Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Kiểm sát, (15), tr 20-26, 28. 109. Đặng Thanh Nga (2002), “Các phẩm chất nhân cách cơ bản của Thẩm phán”, Tạp chí Luật học (5). 110. Phạm Hữu Nghị (2006), “Cải cách tư pháp với việc bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ quyền công dân”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (4), tr.21-28. 111. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sửa đổi, Hà Nội. 112. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 113. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Hà Nội. 114. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội. 115. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 116. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Hà Nội. 117. Nguyễn Văn Quyền (2006), “Bàn về những nội dung cơ bản của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (1), tr.35-40, 50. 118. Nguyễn Văn Quyền (2007), “Một số xu hướng và giá trị chung về cải cách tư pháp của các nước trên thế giới gợi mở đối với Việt Nam trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12), tr 12-14, 30. 119. Nguyễn Văn Quyền (2005) “Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, (12). 120. Jean-Jacques Rousseau (1992), Bàn về Khế ước xã hội (Du Contract social), người dịch: Thanh Đạm, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh. 164 121. Bùi Ngọc Sơn (2002), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức toà án và ý nghĩa hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (2), tr 22-27. 122. Bùi Ngọc Sơn (2009), Góp phần tìm nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. 123. Đặng Đình Tân (2004), Thể chế Đảng cầm quyền-một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 124. Lê Minh Tâm (2003), “Hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam từ sau cách mạng Tháng Tám đến nay”, Tạp chí Luật học, (1), tr. 50-56. 125. Lê Minh Tâm (2004), “Trường Đại học Luật Hà Nội 25 năm xây dựng và phát triển”, Tạp chí Luật học, (6), tr.3-10. 126. Trịnh Xuân Toản (2012), Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ được Hội đồng khoa học các Ban Đảng nghiệm thu chính thức 2012, Hà Nội. 127. Toà án nhân dân tối cao (2004), Đào tạo thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội. 128. Toà án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo số 01/BC/VP về tổng kết công tác ngành Toà án năm 2001 và phương hướng nhiệm vụ công tác Toà án năm 2002 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 129. Toà án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo số 04/BC về tổng kết công tác năm 2002 và phương hướng nhiệm vụ công tác ngành Toà án nhân dân năm 2003 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 130. Toà án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo số28/200/BC-TA về tổng kết công tác năm 2003 và phương hướng nhiệm vụ năm 2004 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 165 131. Toà án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo số 35/2004/BC-TA về tổng kết công tác năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ năm 2005 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 132. Toà án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo số 42/2004/BC-TA về tổng kết công tác năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 133. Toà án nhân dân tối cao (2005), Chương trình thực hiện cải cách tư pháp đến năm 2020 và kế hoạch công tác cải cách tư pháp năm 2006 của ngành Toà án nhân dân, Hà Nội. 134. Toà án nhân dân tối cao (2005) (Báo cáo), Phụ lục số 01 về tổng hợp tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự tại các toà án cấp huyện đã được giao thực hiện thẩm quyền mới, Phụ lục số 03 về tổng hợp tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự tại các toà án cấp huyện chưa được giao thực hiện thẩm quyền mới, Hà Nội. 135. Toà án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo số 01//BC-TA về tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ năm 2007 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 136. Toà án nhân dân tối cao (2007), Báo cáo số 05/BC-TA về tổng kết công tác năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 137. Toà án nhân dân tối cao (2008), Tài liệu Hội nghị triển khai công tác năm 2009 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 138. Toà án nhân dân tối cao (2010), Tài liệu Hội nghị triển khai công tác năm 2010 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 139. Toà án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo số 01/BC-TA về tổng kết công tác năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 166 140. Toà án nhân dân tối cao (2012), Tài liệu Hội nghị triển khai công tác năm 2012 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 141. Toà án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo số 05/BC-TA về tổng kết công tác năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 142. Toà án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo số 01/BC-TA về tổng kết công tác năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ năm 2014 của ngành Toà án nhân dân (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 143. Toà án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo Số 78/BC-TA về Tổng kết thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002, Hà Nội. 144. Toà án nhân dân tối cao (2014), Đề án cải cách chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đặc thù đối với cán bộ, công chức hệ thống Toà án nhân dân giai đoạn từ nay đến năm 2020 (dự thảo 1), Hà Nội. 145. Đào Xuân Tiến (2002), “Đào tạo thẩm phán”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (10). 146. Thaveeporn Vassavakul (1997), Sectoral Politics and Strategies for State and Party Building from the VII to the VIII Congresses of the Vietnamese Communist Party (1991-1996), in "Doi Moi: Ten Years after the 1986 Party Congress", [Lĩnh vực chính trị và chiến lược xây dựng đảng và Nhà nước từ Đại hội VII đến Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991- 1996), trong: “Đổi mới: Mười năm sau Đại hội VI”], Adam Fforde ed, Canberra: Department of Political and Social Change, Australian National University. 147. Phạm Quý Tỵ (2005), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (7), tr.39-43. 148. Ngô Văn Thâu (2004), “Cải cách tư pháp năm 1950, từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lê nin về nhà nước và cách mạng cùng với lời dạy của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (8), tr.2-3. 167 149. Nguyễn Hà Thanh (2009), “Đổi mới Toà nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (143). 150. Nguyễn Văn Thảo (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. 151. Trần Đình Thắng (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ Tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 152. Trần Đình Thắng (2013), Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Sự thật, Hà Nội. 153. Ngô Văn Thâu (2004), “Cải cách tư pháp năm 1950, từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước và cách mạng cùng với lời dạy của Hồ Chủ Tịch”, Tạp chí Dân chủ và Pháp Luật, (8-149), tr 2-3. 154. Lê Hữu Thể (2011), “Công tác nghiên cứu khoa học và công tác đào tạo, bồi dưỡng ngành kiểm sát trong giai đoạn mới” trong Kỷ yếu Hội nghị cán bộ ngành Kiểm sát năm 2011, Hà Nội. 155. Lê Minh Thông (2009), Kinh nghiệm công tác nhân sự của một số nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 156. Lê Thị Thu Thuỷ (2006), “Cải cách tư pháp Việt Nam: Một số vướng mắc cần được tháo gỡ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (3), tr.66 – 72. 157. Đỗ Gia Thư (2006), Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật-Viện Khoa học xã hội Việt Nam. 158. Phan Hữu Thư (2004), “Đặc điểm của nghề luật và đạo đức của người hành nghề luật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (10). 159. Phan Hữu Thư (2006), “Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ cải cách tư pháp trong những năm qua”, Tạp chí Nghề Luật, (1). 168 160. Phan Hữu Thư (2007), “Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh va đổi mới công tác đào tạo”, Tạp chí Nghề Luật, (3), tr 11-17. 161. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2008), “Các yếu tố tác động đến đạo đức nghề nghiệp Kiểm sát viên”, Tạp chí Kiểm sát (1). 162. Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời lỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 163. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Điều tra cơ bản đánh giá thực trạng đào tạo, sử dụng cán bộ pháp lý đối với sự phát triển của đất nước thế kỷ XX. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội. 164. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Báo cáo rút gọn kết quả triển khai nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp luật và phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới, Hà Nội. 165. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 166. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Báo cáo số 09/BC-VKSTC về tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2005 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 167. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Báo cáo số 09/BC-VKSTC-VP về tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2006 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 168. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Báo cáo số 138/BC-VKSTC-VP về tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2007 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 169. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Báo cáo số 133/BC-VKSTC về tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2008 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 169 170. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2009), Báo cáo số 123/BC-VKSTC về tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2009 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 171. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Báo cáo số 112/BC-VKSTC về tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2010 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 172. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Báo cáo số 123/BC-VKSTC về tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2011 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 173. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Báo cáo số 164/BC-VKSTC về tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2012 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 174. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Báo cáo số 171/BC-VKSTC về tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2013 (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội. 175. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2009), Báo cáo Tổng kết 05 năm thi hành Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Hà Nội. 176. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Chỉ thị số 02/CT-VKSTC-V9 “Về nhiệm vụ học tập của cán bộ công chức ngành Kiểm sát đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế”, Hà Nội. 177. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Lịch sử Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam, (Sơ thảo), lưu hành nội bộ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 178. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát nhân dân, lưu hành nội bộ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 179. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Kế hoạch số 180/VKSTC-V9 triển khai thực hiện Quy định tuyển chọn Kiểm sát viên giỏi, Điều tra viên giỏi, Kiểm sát viên tiêu biểu, Điều tra viên tiêu biểu trong ngành Kiểm sát, Hà Nội. 170 180. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2013), “Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2020”, (Ban hành kèm theo Quyết định số 90/QĐ-VKSTC-V9, ngày 12/3/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao), Hà Nội. 181. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Tờ trình số 05/TTr-VKSTC-V8 về Dự án luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân (sửa đổi), Hà Nội. 182. Lại Hợp Việt (2010), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Kiểm sát (3), tr 2-6, 10. 183. Đào Trí Úc (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 184. Đào Trí Úc (2004), “Chiến lược cải cách tư pháp: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (9), tr.14-20. 185. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 186. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, Hà Nội. 187. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết số 388 ngày 17/3/2003 “Về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do cơ quan điều tra hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Hà Nội. 188. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm của Toà án nhân dân, Hà Nội 189. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh số 15/2011/UBTVQH12 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 171 PHỤ LỤC Phụ lục 1 Số liệu về trình độ của đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân các cấp tỉnh và huyện tính đến năm 2005 1. Đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cấp Tỉnh Trình độ Năm 2005 Nhiệm kỳ đầu Tăng Trên Đại học, Đại học luật chính quy 36% 10% 26% Đại học luật chuyên tu, tại chức 50% 43% 7% Cao đẳng 5% 19% Luân huấn 8% 6% Trung cấp 1% 6% Nguồn: [183] 2. Đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện Trình độ Năm 2005 Nhiệm kỳ đầu Tăng Trên Đại học, Đại học luật chính quy 16% 9% 7% Đại học luật chuyên tu, tại chức 67% 17% 50% Cao đẳng 3% 8% Luân huấn 11% 27% Trung cấp 3% 32% Sơ cấp, chưa học 0% 10% Nguồn: [183] 172 Phụ lục 2 Thống kê trình độ đào tạo của đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (2007-2012) Nguồn: [73]. Chuyên môn Lý luận chính trị Ngoại ngữ Tin học Năm Tổng số Thẩm phán Cử nhân Thạc sĩ Tiến sĩ Cử nhân Cao cấp A B A B 2007 115 112 1 2 2 113 113 2 113 2 2008 110 104 3 3 2 108 107 3 107 3 2009 120 108 8 4 2 118 116 4 116 4 2010 117 103 10 4 2 115 113 4 113 4 2011 119 105 10 4 3 116 115 4 115 4 2012 112 98 10 4 3 109 108 4 108 4 173 Phụ lục 3: Thống kê số lượng đào tạo đội ngũ Thẩm phán của Học viện Tư pháp (2004-2011) Nguồn: [74] TT Chức danh Khoá Năm đào tạo Số lượng Đủ điều kiện dự thi tốt nghiệp Tốt nghiệp Khoá khác Tổng cộng Khoá khác Tổng cộng Nhập học đầu khoá Chính khoá Chính khoá Tỷ lệ dự thi tốt nghiệp/nhập học Tỷ lệ tốt nghiệp/dự thi Ghi chú 1 Thẩm phán HN 2004 121 121 97.58 100.00 2 Thẩm phán HN 2004 138 138 99.28 100.00 3 Thẩm phán QS 2004 34 34 100.00 100.00 4 Thẩm phán HCM 2004 124 139 34 187 121 138 34 176 0 0 0 0 176 121 138 34 176 0 0 0 0 176 94.12 100.00 5 Thẩm phán HN 2005 110 110 98.18 100.00 6 Thẩm phán HN 2005 113 109 99.12 96.43 7 Thẩm phán HCM 2005 197 182 100.00 92.97 8 Thẩm phán HCM 2005 110 113 185 101 108 112 185 99 2 1 12 15 114 108 108 172 93 2 1 10 14 107 98.02 93.94 9 Thẩm phán HN 2006 150 150 2 152 2 149 100.00 98.00 10 Thẩm phán HN 2006 149 149 3 152 147 145 2 147 100.00 97.32 11 Thẩm phán HCM 2006 103 102 7 109 88 8 96 99.03 86.27 12 Thẩm phán HN 2007 164 161 4 165 158 4 162 98.17 98.14 13 Thẩm phán HN 2007 161 161 0 161 157 0 157 97.52 14 Thẩm phán HCM 2007 105 105 17 122 102 13 115 100.00 97.14 15 Thẩm phán HN 2008 155 144 3 147 144 3 147 92.90 100.00 16 Thẩm phán HN 2008 153 149 1 150 149 1 150 97.39 100.00 17 Thẩm phán HCM 2008 150 150 18 168 150 13 163 100.00 100.00 18 Thẩm phán HN 2009 245 240 1 241 240 1 241 97.96 100.00 19 Thẩm phán HCM 2009 284 283 4 287 283 4 287 99.65 100.00 20 Thẩm phán 2010 0 21 Thẩm phán HN 2011 305 303 1 304 299 1 300 99.34 98.68 22 Thẩm phán HCM 2011 249 248 1 249 245 1 246 99.60 98.79 Cộng nguồn thẩm phán 3,874 3,318 92 3,410 3,257 80 3,337 174 Phụ lục 4 Thống kê số lượng đào tạo đội ngũ Kiểm sát viên của Học viện Tư pháp (2004-2007) TT Chức danh Khoá Năm đào tạo Số lượng Đủ điều kiện dự thi tốt nghiệp Tốt nghiệp Khoá khác Tổng cộng Khoá khác Tổng cộng Nhập học đầu khoá Chính khoá Chính khoá Tỷ lệ dự thi tốt nghiệp/nhập học Tỷ lệ tốt nghiệp/dự thi Ghi chú 1 Kiểm sát viên QS 2004 50 50 0 50 50 0 50 100.00 100.00 2 Kiểm sát viên HN 2005 70 165 1 66 62 1 63 92.86 95.38 3 Kiểm sát viên HN 2005 65 58 0 58 57 0 57 89.23 98.28 4 Kiểm sát viên HCM 2006 114 113 3 116 109 3 112 99.12 99.46 5 Kiểm sát viên HN 2006 186 186 4 190 160 4 164 86,02 96.46 6 Kiểm sát viên HN 2007 100 97 6 103 97 6 103 97.00 100.00 7 Kiểm sát viên HN 2007 91 90 0 90 90 0 90 98.90 100.00 8 Kiểm sát viên HCM 2007 98 96 24 120 98 22 120 97.96 102.08 Cộng nguồn Kiểm sát viên 858 839 38 877 807 36 843 Nguồn: [74].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_dang_cong_san_viet_nam_lanh_dao_xay_dung_doi_ngu_can.pdf
  • docTom tat_ Nguyen Van Khoa- Viet.doc
  • docTom tat_Nguyen Van Khoa - Anh.doc
  • pdfTrang thong tin Viet-Anh.pdf
Tài liệu liên quan