Luận án Đảng lãnh đạo quá trình Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới từ năm 1995 đến năm 2007

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Thị Thủy MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 9 1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 9 1.2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố và

doc232 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Đảng lãnh đạo quá trình Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới từ năm 1995 đến năm 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết 29 Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐƯA VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 1995 - 2000 33 2.1. Cơ sở hình thành và chủ trương của Đảng đưa Việt Nam gia nhập WTO 33 2.2. Đảng chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện đưa Việt Nam gia nhập WTO 54 Chương 3 CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TÍCH CỰC ĐÀM PHÁN ĐƯA VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN GIAI ĐOẠN 2001 - 2007 71 3.1. Những yếu tố mới tác động và chủ trương của Đảng 71 3.2. Sự chỉ đạo của Đảng tích cực chuẩn bị các điều kiện, đàm phán gia nhập WTO 94 Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 121 4.1. Nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng đưa Việt Nam gia nhập WTO 121 4.2. Một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo Việt Nam gia nhập WTO 138 KẾT LUẬN 162 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 165 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 166 PHỤ LỤC 181 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Số TT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 01 Ban Chấp hành Trung ương BCHTW 02 Bộ Chính trị BCT 03 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH,HĐH 04 Diễn đàn hợp tác Á - Âu ASEM 05 Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương APEC 06 Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ BTA 07 Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN 08 Kinh tế quốc tế KTQT 09 Liên minh châu Âu EU 10 Toàn cầu hóa TCH 11 Tổ chức Thương mại thế giới WTO 12 Ủy ban quốc gia UBQG MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Toàn cầu hóa, hội nhập KTQT phản ánh xu thế phát triển khách quan của nền kinh tế thế giới khi trình độ lực lượng sản xuất đạt tới mức độ cao. Trên thế giới, hầu hết các nước dù lớn hay nhỏ đều tham gia vào TCH và hội nhập KTQT để tranh thủ những điều kiện có lợi nhất cho sự phát triển quốc gia. Nhận thức được sự biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới, đặc biệt trên lĩnh vực quan hệ quốc tế, từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời điều chỉnh chiến lược đối ngoại phù hợp với tình hình mới. Nét nổi bật trong tiến trình đổi mới đường lối đối ngoại là sự chuyển biến nhận thức của Đảng về sự cần thiết phải đổi mới chủ trương đối ngoại đa phương, đẩy mạnh hội nhập cơ chế kinh tế - thương mại toàn cầu. Đại hội Đảng lần thứ VIII (tháng 6 - 1996) đề ra chủ trương lớn là “Chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế” [39, tr.84]. Gia nhập WTO là sự cụ thể hóa chủ trương lớn đó của Đảng. Qua hơn 11 năm kiên trì đàm phán, ngày 01 - 01 - 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Sự kiện này là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập KTQT, một ghi nhận ở tầm quốc tế về thành công trong sự nghiệp đổi mới kinh tế của Việt Nam. Đồng thời, việc gia nhập WTO “có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội quan trọng, khẳng định vị thế nước ta, dân tộc ta đối với cộng đồng quốc tế, là một minh chứng về quyết tâm và nghị lực của nhân dân ta xây dựng một quốc gia độc lập, tự chủ, ổn định về chính trị, công bằng, gắn kết về mặt xã hội, phát triển mạnh mẽ về kinh tế, sẵn sàng thực hiện các cam kết chung với cộng đồng quốc tế” [117, tr.17]. Với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã gửi một thông điệp đến thế giới rằng kể từ thời điểm này, mọi giao dịch thương mại của Việt Nam sẽ tuân thủ những quy tắc và luật chơi quốc tế. Thành công của quá trình đàm phán gia nhập WTO là kết quả trực tiếp của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại và chủ động, tích cực hội nhập KTQT. Đồng thời chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nỗ lực của Chính phủ, đặc biệt là sự chỉ đạo trong việc gắn quá trình đàm phán với chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước cho hội nhập WTO, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực; chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ban, ngành trong triển khai các cuộc đàm phán đa phương và song phương. Tuy vậy, trong quá trình Đảng lãnh đạo Việt Nam gia nhập WTO, bên cạnh những thành tựu cơ bản vẫn còn không ít những hạn chế, yếu kém cả trong hoạch định chủ trương, chính sách và tổ chức chỉ đạo thực tiễn. Điều đó đã ảnh hưởng đến thời gian, kết quả đàm phán cũng như việc thực hiện các cam kết sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trên hai phương diện - hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực hiện tiến trình Việt Nam gia nhập WTO; những kết quả và hạn chế của tiến trình đó dưới sự lãnh đạo của Đảng; những kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng lãnh đạo Việt Nam gia nhập tổ chức kinh tế - thương mại toàn cầu. Đó là những vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc, cần thiết phải làm sáng tỏ. Trong thời gian qua, đã có những ấn phẩm được công bố viết về WTO và quá trình Việt Nam đàm phán gia nhập WTO, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình Việt Nam gia nhập WTO. Vì vậy, về phương diện khoa học, đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu đề tài này để góp phần giải quyết “khoảng trống” đó. Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề: “Đảng lãnh đạo quá trình Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới từ năm 1995 đến năm 2007” làm đề tài luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình Việt Nam gia nhập WTO từ năm 1995 đến năm 2007; trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm có giá trị tham khảo, vận dụng vào quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ những yếu tố tác động đến việc hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực hiện của Đảng trong quá trình Việt Nam gia nhập WTO qua hai giai đoạn 1995 - 2000 và 2001 - 2007. Phân tích, luận giải hệ thống chủ trương của Đảng đưa Việt Nam gia nhập WTO và quá trình chỉ đạo thực hiện qua hai giai đoạn: 1995 - 2000; 2001 - 2007. Nhận xét, đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực hiện quá trình Việt Nam gia nhập WTO. Đúc kết một số kinh nghiệm cơ bản từ sự lãnh đạo của Đảng đưa Việt Nam gia nhập WTO từ năm 1995 đến năm 2007. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với quá trình Việt Nam gia nhập WTO từ năm 1995 đến năm 2007. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: Nghiên cứu làm rõ cơ sở hình thành chủ trương của Đảng; sự lãnh đạo của Đảng đưa Việt Nam gia nhập WTO, trên hai phương diện hoạch định chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện; kết quả việc thực hiện chỉ đạo của Đảng; nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng và đúc kết những kinh nghiệm lịch sử. Về thời gian: Thời gian nghiên cứu những nội dung trên là từ năm 1995 (khi WTO chính thức tiếp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam) đến năm 2007 ( khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO) Về không gian: Nghiên cứu trong nước là chủ yếu; ngoài ra, có kết hợp nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. 4.2. Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO từ năm 1995 đến năm 2007. 4.3. Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp phỏng vấn chuyên gia,...Các phương pháp này được sử dụng phù hợp với yêu cầu của từng nội dung luận án. 5. Những đóng góp mới của luận án Cung cấp thêm một số tư liệu mới chưa được công bố và hệ thống hoá tư liệu về Đảng lãnh đạo quá trình Việt Nam gia nhập WTO. Góp phần hệ thống hóa, và phân tích, luận giải rõ quan điểm, chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng đối với quá trình Việt Nam gia nhập WTO. Đúc kết một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo vận dụng vào thực tiễn hội nhập của Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án Luận án góp phần tổng kết sự lãnh đạo của Đảng về lĩnh vực đối ngoại, hội nhập KTQT thời kỳ đổi mới. Những kinh nghiệm được đúc kết trong luận án, có giá trị tham khảo trong tiến trình đất nước hội nhập quốc tế hiện nay. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy, học tập các môn liên quan đến đề tài trong các trường Đại học, trường Chính trị trong và ngoài quân đội. 7. Kết cấu của luận án Luận án gồm: Mở đầu, Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, 4 chương (8 tiết), Kết luận, Danh mục các công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài Các nghiên cứu về vai trò, cơ hội và thách thức của các nước đang phát triển khi gia nhập WTO Công trình của World Trade Organization (2014), Trade Policy Review: Vietnam 2013 [167]. Các tác giả cuốn sách chỉ rõ, các hiệp định của WTO chứa đựng nhiều điều khoản đem lại cho những nước kém phát triển nhiều quyền lợi đặc biệt hoặc ưu đãi - “đối xử đặc biệt và ưu đãi”, như: Thêm thời gian cho các nước đang phát triển thực hiện cam kết; những điều khoản tăng cơ hội thương mại của các nước đang phát triển thông qua tiếp cận thị trường nhiều hơn; những điều khoản yêu cầu các thành viên WTO bảo vệ quyền lợi của các nước đang phát triển khi thực hiện những biện pháp trong nước và quốc tế (ví dụ: chống bán phá giá, hàng rào kỹ thuật); những điều khoản về các hình thức hỗ trợ các nước đang phát triển (thực hiện các cam kết về tiêu chuẩn an toàn vật nuôi, cây trồng, tiêu chuẩn kỹ thuật, phát triển lĩnh vực truyền thông nội địa) [167, tr.93]. Công trình của World Trade Organization (2015), Understanding the WTO [169]. Các tác giả cho rằng: Các quy tắc thương mại của WTO đã quan tâm đặc biệt tới nhu cầu của các nước đang phát triển; các hiệp định của WTO có rất nhiều điều khoản đưa ra những quyền lợi ưu đãi cho các nước đang phát triển, bao gồm việc kéo dài thời gian thực hiện các hiệp định; WTO cũng mong muốn đảm bảo rằng các nước đang phát triển được trang bị những kiến thức cần thiết để tham gia vào hệ thống thương mại đa phương qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật.[169, tr.20]. Đặc biệt, Hội nghị Bộ trưởng tại Bali năm 2013, các Bộ trưởng đã đưa ra các quyết định quan trọng, bao gồm đưa ra một cơ chế điều hành để thực hiện các điều khoản đối xử đặc biệt và thiết lập các chỉ dẫn để các nhà xuất khẩu từ các nước kém phát triển hơn có thể tham gia tiếp cận thị trường ưu đãi thông qua các quy định về xuất xứ minh bạch hơn. Đồng thời, các tác giả của công trình cũng nhấn mạnh việc các nước đang phát triển cần chủ động đề xuất những cải cách trong chính sách thương mại của WTO nhằm giảm bớt những khó khăn mà họ đang gặp phải. Bài viết của Virginia Greasley (2004), “Việt Nam và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)” [156]. Tác giả làm rõ những thách thức đối với các nước đang phát triển khi gia nhập WTO, thể hiện trên một số vấn đề sau: Các nước công nghiệp phát triển có tiếng nói quyết định trong chính sách và luật lệ của WTO và việc thực thi các quyết định cũng do các nước chi phối; Cơ quan quản lý tranh chấp được thành lập có trách nhiệm đưa ra phán quyết, nhưng việc thực hiện phán quyết của ủy ban này lại phụ thuộc vào từng nước cụ thể thông qua biện pháp áp đặt trừng phạt thương mại. Do vậy, nước lớn (ví dụ: Hoa Kỳ) có thể phá hủy nền kinh tế của một nước nhỏ nếu quyết định áp dụng trừng phạt thương mại [156, tr.159]; Hiệp định liên quan đến thương mại của các quyền sở hữu trí tuệ của WTO cũng rất có lợi cho các tập đoàn, công ty đa quốc gia; các nước công nghiệp phát triển nắm giữ; trong lĩnh vực nông sản, các nước giàu, có sức mạnh đàm phán để bảo đảm chắc chắn các nước nghèo phải mở cửa nền kinh tế của họ, trong khi các nước giàu không chịu thực hiện nghĩa vụ của mình... Các nghiên cứu về đổi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam và vấn đề Việt Nam gia nhập WTO Cuốn sách của Carlyle A. Thayer, Ramses Amer (1998), Vietnamese Foreign Policy in Transition [159]. Các tác giả phân tích, luận giải chính sách đối ngoại đa phương hóa của Việt Nam được đánh dấu từ Nghị quyết 13 của BCT (5 - 1988) đến Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (6 - 1996). Bên cạnh đó, tác giả cũng làm rõ mục tiêu và nguồn gốc trong chính sách đối ngoại Việt Nam, đó là: Việt Nam mong muốn đạt được môi trường hòa bình và ổn định để có thể thực hiện tiến trình đổi mới trong nước. Một môi trường hòa bình mà Việt Nam tìm kiếm đã dựa trên cơ sở của “chủ nghĩa đa phương” và “đưa Việt Nam gia nhập với khu vực và cộng đồng quốc tế”, một mục tiêu đã được nhìn nhận ngay từ ban đầu khi đề cập đến các tổ chức kinh tế như APEC và WTO [159, tr.90]; Về nguồn gốc của những mục tiêu trong chính sách đối ngoại Việt Nam được tác giả chỉ ra là: Thể hiện ở những biến số bên ngoài mang tính hệ thống, như biến động tại các quốc gia Đông Âu và việc Việt Nam nằm trong một khu vực phát triển kinh tế năng động trong suốt hơn một thập kỷ qua; những biến số nội bộ theo các tác giả là những thay đổi trong nhận thức của các nhà lãnh đạo, những nhà hoạch định chính sách. Đồng thời, các tác giả cũng cho rằng “Chính sách đối ngoại đa phương hóa của Việt Nam đã thay thế chính sách đối ngoại nặng về ý thức hệ trong những thập kỷ trước” [159,tr.97]. Bên cạnh đó, các tác giả cũng phân tích những lợi ích từ chính sách đa phương hóa như: Bảo đảm môi trường quốc tế hòa bình nhằm giữ vững an ninh quốc gia của Việt Nam chống lại các đe dọa từ bên ngoài; đảm bảo điều kiện bên ngoài thuận lợi để tiến hành đổi mới kinh tế; tăng cường vị thế mặc cả của Việt Nam với các quốc gia khác, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ. Bài viết của Ero Palmujoki (1999), Ideology and Foreign Policy: Marxism - Leninism in Vietnam and global change 1986-1996 [160]. Tác giả đã làm rõ những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam từ Đại hội VII (1991) đến Đại hội VIII (1996) và nhận định: Chính sách đối ngoại của Việt Nam “Giờ đây, nhấn mạnh vào sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới, được viết đầu tiên là chuẩn bị gia nhập vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN- AFTA, và sau đó là vào APEC và WTO” [160, tr.43]. Đồng thời, tác giả cho rằng: Trung tâm của quan hệ đối ngoại được Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trên quan hệ kinh tế quốc tế chứ không phải là liên minh trên cơ sở ý thức hệ [160, tr.43] Cuốn sách của Kym Anderson (1999), Vietnam’s transforming economy and WTO’s accession:implications for agricultural and rural development [163]. Trong nội dung cuốn sách, tác giả lý giải việc Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO bắt nguồn từ những nguyên nhân: Trở thành thành viên của WTO sẽ tạo điều kiện để Việt Nam thoát khỏi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và tiến lên nền kinh tế thị trường; tạo điều kiện cho nước phát triển muộn như Việt Nam có thể nhập khẩu công nghệ mới từ các nền kinh tế tiên tiến hơn; WTO cũng buộc các nước phải cam kết với việc mở cửa thị trường và cắt giảm trợ cấp; tạo ra cơ hội để Việt Nam có thể đa phương hóa các thỏa thuận tự do thương mại với các nước khác trên thế giới; Việt Nam sẽ có tiếng nói nhất định trong các chương trình nghị sự của WTO [163, tr.2]. Tác giả cũng đề xuất một số cải cách mà Việt Nam cần thực hiện trước khi bắt đầu quá trình đàm phán gia nhập WTO, đặc biệt trên lĩnh vực nông nghiệp và nêu một số chính sách, giải pháp cần thiết hỗ trợ cho việc gia nhập WTO, như: Đào tạo nhân lực có trình độ cao nhằm tránh cho Việt Nam không bị rơi vào “bẫy” xuất khẩu mặt hàng có sử dụng nhiều nhân công trình độ thấp; cần phải có chính sách phát triển vùng nhằm giảm cách biệt giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị; tiếp tục triển khai chính sách hỗ trợ lao động mất việc làm, do việc gia nhập WTO làm gia tăng cạnh tranh sẽ buộc các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả cắt giảm lao động. Bài viết của Virginia Greasley (2004), Việt Nam và Tổ chức Thương mại thế giới [156]. Trong bài viết, tác giả làm rõ các lợi ích của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam như: Việc gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam gỡ bỏ mác nền kinh tế phi thị trường và tạo điều kiện để các quốc gia xóa bỏ những biện pháp phòng vệ và chống bán phá giá với Việt Nam; gia nhập WTO tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng thị trường, tăng cường hợp tác thương mại dịch vụ với các nước thành viên WTO; Việt Nam có thể xuất khẩu những nông sản không đe dọa đến sản xuất nội địa của các nước giàu [156, tr.165]; việc thực hiện các chính sách đổi mới thương mại sẽ thể hiện được cam kết của Việt Nam trong việc theo đuổi một nền kinh tế theo hướng thị trường Bên cạnh đó, tác giả đã nêu lên những thách thức mà kinh tế Việt Nam phải đối mặt khi trở thành thành viên của WTO như: Tốc độ tự do hóa nhanh của đổi mới trong thương mại sẽ gây ra những mâu thuẫn với tiến độ thực hiện đổi mới các lĩnh vực khác, bao gồm việc cơ cấu hóa lại các doanh nghiệp nhà nước và các ngân hàng nhà nước; Việt Nam có thể trở thành nơi tràn ngập các sản phẩm được trợ cấp quá mức của các nước giàu bán phá giá, gây thiệt hại nghiêm trọng đến nông dân sản xuất nhỏ [156, tr.166]. Peter Naray (2007), “Cam kết của Việt Nam trong WTO và tác động của vị thế nền kinh tế phi thị trường đối với Việt Nam” [94]. Tác giả đã làm rõ cơ hội đối với Việt Nam khi gia nhập WTO, đó là: Doanh nghiệp nước ngoài sẽ có động lực hơn khi đầu tư vào Việt Nam với một môi trường kinh doanh ổn định và minh bạch hơn. Đồng thời, tư cách thành viên WTO sẽ cải thiện quan hệ của Chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước thành viên vì đàm phán song phương cũng như khu vực sẽ thuận lợi hơn khi các thiết chế thương mại được hình thành và hoạt động theo các luật chơi chung đã thống nhất trong WTO [94, tr.64]. Tác giả cũng nêu lên những khó khăn của Việt Nam khi gia nhập WTO với vị thế nền kinh tế phi thị trường, như: Việt Nam sẽ chịu nhiều thiệt hại khi bị áp dụng các quy định đối với nền kinh tế phi thị trường, đặc biệt đối với các sản phẩm cá da trơn, xe đạp và da giầy, do các sản phẩm này lần lượt bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá [94, tr.70]. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài Các nghiên cứu về xu thế toàn cầu hóa kinh tế và WTO; kinh nghiệm gia nhập WTO của một số nước Về xu thế toàn cầu hóa kinh tế Bộ Ngoại giao, Vụ Tổng hợp kinh tế (1999), Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế của Việt Nam [15]. Nội dung cuốn sách đã làm rõ tác động tích cực, tiêu cực của TCH cũng như cơ hội và thách thức của TCH và tự do hóa thương mại đối với các nước đang phát triển; tác động của tiến trình TCH tới sự hình thành các mối liên kết liên châu lục như APEC, ASEM Các tác giả trong cuốn sách cũng nêu lên đối sách của Việt Nam trong việc tham gia vào xu thế TCH, và chỉ rõ: những lợi ích cũng như những thiệt hại do quá trình TCH mang lại cho mỗi quốc gia lớn nhỏ khác nhau sẽ phụ thuộc vào chính sách của từng quốc gia. Một chính sách khôn khéo có thể mang lại những lợi ích lớn, đồng thời giảm thiểu được những tác hại. Vũ Khoan (2001), “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” [69]. Tác giả bài viết nêu lên khái niệm TCH dưới góc độ kinh tế; làm rõ xu thế khách quan của TCH kinh tế và những tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá. Về tác động tích cực: TCH kinh tế tạo thuận lợi cho các nước mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Trên cơ sở thị trường được mở rộng, trao đổi hàng hoá tăng mạnh đã thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước; nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư, hợp tác khác mang lại lợi ích cho các bên tham gia hợp tác. Về tác động tiêu cực: Các nước công nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình TCH tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm gia tăng sự phân cực giữa nước giàu và nước nghèo. Tác giả cho rằng: các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia vào quá trình TCH, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua. Nguyễn Văn Thanh (2002), Từ XIATƠN đến ĐÔHA - Toàn cầu hóa & Tổ chức Thương mại thế giới [106]. Cuốn sách tập hợp những bài viết của các học giả, các nhà nghiên cứu về tác động của TCH và tự do hóa thương mại đến các nước đang phát triển; những khó khăn mà các nước đang phát triển phải đối mặt trong giải quyết các tranh chấp thương mại; đồng thời các tác giả cũng khuyến nghị một số đối sách đấu tranh của các nước đang phát triển với các nước phát triển trong các vòng đàm phán của WTO. Nguyễn Thị Hoa (2003), “Toàn cầu hóa và thách thức đối với các nước đang phát triển” [57]. Trong bài viết, tác giả nêu các quan điểm khác nhau về TCH; thực chất của TCH, những nhân tố thúc đẩy quá trình TCH và cho rằng TCH là tất yếu lịch sử, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của các quốc gia trên thế giới. TCH tạo ra cơ hội nhưng đồng thời cũng đưa đến nhiều thách thức đối với tất cả các nước. Bài viết cũng chỉ ra những thách thức của TCH đối với các nước đang phát triển, như: Hố ngăn cách về thu nhập trong nội bộ các nước; sự lệ thuộc về kinh tế giữa các nước gây khó khăn cho các quốc gia trong việc giữ độc lập về chính trị và kinh tế. Phạm Văn Đức (2007), “Toàn cầu hóa và sự tác động của nó đối với Việt Nam hiện nay” [48] đã phân tích tính tất yếu của TCH trên 3 phương diện: kinh tế, phương diện xã hội và chính trị; trình bày những cơ hội của TCH đối với các nước đang phát triển. Đồng thời, tác giả phân tích những thách thức lớn của TCH đối với Việt Nam trên các lĩnh vực như: Về kinh tế là nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; về xã hội là nạn thất nghiệp, thiếu việc làm, sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm có nguy cơ ngày càng tăng; về văn hóa là sự lo ngại khả năng đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Ngoài ra, tác giả bài viết nêu một số kiến nghị để Việt Nam tranh thủ được cơ hội, vượt qua được khó khăn, thách thức của TCH trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Nguyễn Nguyệt Nga (2010), “Cục diện kinh tế quốc tế và xu hướng phát triển trong những năm tới” [88]. Trong bài viết, tác giả đã phân tích những đặc điểm của cục diện quan hệ KTQT hiện nay, đồng thời nhấn mạnh: Yếu tố kinh tế ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong mối quan hệ giữa các nước. Hợp tác thúc đẩy phát triển kinh tế, thương mại, đầu tư... là tiêu chí, ưu tiên hàng đầu trong các mối quan hệ từ song phương tới khu vực, liên khu vực và đa phương trong khuôn khổ WTO. Ngoài ra, tác giả đã nêu lên những xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới như: xu hướng tìm kiếm các mô hình phát triển kinh tế mới; xu hướng cải tổ và đổi mới nền kinh tế thế giới, trong đó, quan trọng hơn, các cơ chế đa phương làm cho các nguyên tắc của luật pháp quốc tế được đề cao hơn, qua đó nâng cao vai trò của các nước vừa và nhỏ trong đàm phán và thực thi các nghĩa vụ quốc tế. Về sự thành lập WTO và vị trí, vai trò của WTO đối với nền kinh tế thương mại thế giới và Việt Nam Ủy ban Quốc gia về Hợp tác quốc tế (2004), Tìm hiểu Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) [140]. Các tác giả cuốn sách giới thiệu khái quát lịch sử hình thành và những nguyên tắc hoạt động của WTO; trình bày những quy định của WTO để điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô thế giới; phân tích chức năng của WTO; khái quát cơ cấu tổ chức của WTO. Các tác giả cuốn sách cũng góp phần làm rõ vị trí, vai trò của WTO đối với nền kinh tế thương mại thế giới như: Sự ra đời của WTO mở ra một thời kỳ mới cho quá trình phát triển với tốc độ cao của tự do hoá thương mại toàn cầu, tạo hành lang cho hàng hoá dễ dàng di chuyển thuận lợi hơn từ nước này sang nước khác trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng Lương Văn Tự (2004), “Việt Nam với quá trình gia nhập WTO hiện nay” [130]. Tác giả bài viết khái quát lịch sử hình thành WTO - sự kiện ra đời tổ chức tiền thân của WTO. Nội dung bài viết cũng làm rõ mục tiêu xuyên suốt trong hoạt động của WTO; cơ cấu tổ chức và 5 nguyên tắc hoạt động của WTO; những lợi ích của các nước khi gia nhập WTO. Đồng thời nêu lên các khó khăn, thách thức đặt ra như: Những vấn đề toàn cầu, đó là phân hoá giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc giagây ra những tác động bất lợi đối với các nước thành viên; nền kinh tế các nước thành viên phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ Tô Huy Rứa (2004), “Việt Nam trên lộ trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới” [100]. Tác giả bài viết khẳng định vai trò của WTO trong nền thương mại thế giới khi cho rằng: “Trong nền thương mại thế giới ngày nay không có một thể chế toàn cầu nào có thể thay thế được WTO. Các quốc gia dù lớn hay nhỏ cũng không thể có sự lựa chọn nào tốt hơn là gia nhập tổ chức này” [100, tr.17]. Nhìn nhận từ góc độ lợi ích của ba nhóm chủ thể lớn nhất trong thời đại ngày nay, đó là các nước phát triển, các nước đang phát triển và các tập đoàn xuyên quốc gia lớn, tác giả cũng làm rõ những lợi ích khi Việt Nam gia nhập WTO như: tăng cường khả năng xuất khẩu các mặt hàng nông sản, tạo cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam vươn lên thông qua việc tiếp cận thuận lợi hơn công nghệ nước ngoài. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu lên những trở ngại đối với Việt Nam khi gia nhập WTO từ những vấn đề trong nước như: nhận thức của cán bộ công chức về WTO còn hạn chế; yếu kém của khu vực kinh tế nhà nước... Lê Quang Trung (2007), Tổ chức Thương mại thế giới và vấn đề gia nhập của Việt Nam [119]. Tác giả Luận án khái quát những tiền đề hình thành, những nguyên nhân dẫn đến việc hình thành WTO như: Xuất phát từ sự phát triển khoa học công nghệ; xu thế tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu tư ngày càng trở nên rõ ràng hơn; sự kết hợp giữa công nghệ mới và tự do hóa thương mại; sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước xa hội chủ nghĩa Đông Âu, WTO trở thành công cụ cho một thị trường thế giới thống nhất theo chủ nghĩa tư bản hiện đại. Bên cạnh đó, luận án làm rõ chức năng, đặc điểm, các nguyên tắc cơ bản, tổ chức, các vòng đàm phán của WTO; những tiêu chuẩn đặt ra đối với các nước gia nhập về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ. Tác giả Luận án khảo sát và phân tích kinh nghiệm của Trung Quốc và Australia khi đã trở thành thành viên của WTO, trên cơ sở đó làm rõ những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam khi trở thành thành viên của WTO. Ngoài ra, luận án cũng nghiên cứu một số nội dung chủ yếu trong cam kết gia nhập, qua đó rút ra những vấn đề thực hiện trong giai đoạn đầu cho Việt Nam khi đã là thành viên chính thức của WTO; đồng thời đề xuất một số kiến nghị, biện pháp điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam để tham gia có hiệu quả vào WTO. Về kinh nghiệm gia nhập WTO của một số nước, có các nghiên cứu sau: Bộ Ngoại giao, Vụ Tổng hợp kinh tế (1999), Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế của Việt Nam [15]. Trong phần II của cuốn sách, các tác giả phân tích kinh nghiệm hội nhập của các nước đang phát triển về mặt nhận thức, về cải cách cơ chế, về vấn đề cải cách luật lệ, quy chế, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, về vấn đề đào tạo cán bộ... Đồng thời, các tác giả cuốn sách cũng giới thiệu một số kinh nghiệm của các nước đang phát triển trong đàm phán gia nhập WTO, chẳng hạn như: Khi đàm phán với các nước phát triển nên có quan điểm toàn cục để đạt được lợi ích tổng thể; cân nhắc về mức độ cam kết khi mở cửa; cần có sự kết hợp hài hòa về nội dung và mức độ mở cửa Phạm Thái Quốc (2003), “Đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam” [99]. Trong bài viết, tác giả làm rõ những vấn đề chung trong các phiên đàm phán đa phương của Trung Quốc và những thỏa thuận đạt được; những nội dung chính các cuộc đàm phán song phương của Trung Quốc với các đối tác có yêu cầu đàm phán, đặc biệt với các đối tác lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản... Trong phần kết luận, tác giả nêu lên một số khuyến nghị đối với Việt Nam trong đàm phán gia nhập WTO như: cần đảm bảo cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong đàm phán; phải coi trọng sửa đổi các văn bản pháp quy cho phù hợp với quy định của WTO; coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực về chuyên môn và giỏi về ngoại ngữ; làm tốt công tác phổ biến kiến thức về WTO, đặc biệt là các quy định của WTO... Bộ Ngoại giao, Vụ Hợp tác kinh tế đa phương (2003), Lý luận và thực tiễn quốc tế về hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế [18]. Các tác giả đã phân tích kinh nghiệm thế giới về hội nhập KTQT, trong đó có hội nhập WTO như: Kinh nghiệm của một số nước công nghiệp phát triển (trường hợp của Nhật Bản và Canada; kinh nghiệm của một số nước đang phát triển (trường hợp của Thái Lan và Mêhicô); kinh nghiệm của một số nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc, Nga về các bước chuẩn bị, về quan điểm và mục tiêu hội nhập, vể tiến trình và chính sách hội nhập, những thách thức mới của quá trình hội nhập, về các giải pháp cơ bản để thúc đẩy hội nhập. Võ Đại Lược (Chủ biên) (2004), Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới thời cơ và thách thức [77]. Trong cuốn sách, các tác giả đã giới thiệu tổng quan về Trung Quốc đàm phán gia nhập WTO và những nội dung Trung Quốc cam kết gia nhập WTO; phân tích tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với bản thân Trung Quốc trên các lĩnh vực: Cải cách chính sách kinh tế vĩ mô, cơ cấu ngành kinh tế chủ chốt, khu vực doanh nghiệp và các vấn đề xã hội, hoàn thiện luật pháp; phân tích tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với kinh tế Mỹ, Nhật Bản, EU, ASEAN và đối sách của các quốc gia trên trước tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO với nền kinh tế các nước; giới thiệu thực tiễn sau 2 năm gia nhập WTO của Trung Quốc, đồng thời nêu lên những nhận xét, khuyến nghị đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO. Nguyễn Văn Thanh (Chủ biên) (2006), Thành viên WTO thứ 150 bài học từ các nước đi trước” [108]. Các tác giả đã chỉ ra những kinh nghiệm thực tiễn gia nhập từ các nước là ...H là, nếu như trước đây, liên kết kinh tế thường dựa trên cơ sở có sự tương đồng về địa lý, trình độ phát triển kinh tế, đặc biệt là ý thức hệ thì trong giai đoạn này tính “mở” trở thành một khuynh hướng chung và những tiêu chí trên không còn là cốt yếu nữa. Toàn cầu hóa về kinh tế phản ánh bản chất của nền kinh tế thị trường yêu cầu ngày càng cao về độ mở cửa trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, không bị giới hạn bởi các biên giới quốc gia, chủng tộc, tôn giáo và không phân biệt các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Trên cơ sở đó thúc đẩy hình thái quan hệ liên kết, hợp tác và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc. Toàn cầu hóa - với tất cả các mặt thuận lợi và thách thức của nó đã tác động sâu sắc đến quan hệ chính trị quốc tế, đến chiến lược và chính sách đối ngoại của các nước, trong đó có Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu nhập KTQT của Việt Nam, thể hiện trên các khía cạnh như: Thứ nhất, TCH tạo động lực cho sự phát triển và xã hội hóa các lực lượng sản xuất xã hội, thúc đẩy sự phân công lao động trên phạm vi toàn cầu, đồng thời mở ra cơ hội chuyển giao trên quy mô lớn những thành quả mới, những tiến bộ khoa học - công nghệ mang tính đột phá và sáng tạo cũng như những kinh nghiệm về tổ chức và quản lý kinh doanh. Do đó, Việt Nam muốn tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý cho phát triển, cần phải đẩy mạnh việc hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là với WTO. Thứ hai, TCH thúc đẩy thị trường mở rộng, từ chỗ chỉ là thị trường nội địa và khu vực trở thành thị trường toàn cầu, đây là một trong những điều kiện để thúc đẩy nền sản xuất và năng lực cạnh tranh kinh tế của các quốc gia. Trong khi đó, Việt Nam tuy có quy mô dân số tương đối lớn nhưng GDP bình quân đầu người thấp dẫn đến dung lượng thị trường nhỏ. Vì vậy, để mở rộng thị trường với bên ngoài, Việt Nam cần phải tích cực đẩy nhanh quá trình hội nhập KTQT. Mặt khác, TCH cũng tạo điều kiện cho việc di chuyển nguồn vốn từ những quốc gia phát triển sang các vùng lãnh thổ, quốc gia có khả năng sinh lợi, giúp các quốc gia đó có cơ hội phát triển. Thực tế trong khu vực trong mấy thập kỷ qua cho thấy, các nước nhờ tranh thủ được những cơ hội mà TCH mang lại, đã có nhiều vốn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và trở thành những nước công nghiệp hóa mới. Do đó, đẩy nhanh tiến trình hội nhập KTQT, tận dụng những cơ hội của TCH mang lại để mở rộng thị trường, tranh thủ thêm nguồn vốn từ bên ngoài, thực hiện mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước cũng là một đòi hỏi bức thiết đối với Việt Nam. Thứ ba, TCH làm gia tăng tính “ tuỳ thuộc lẫn nhau” giữa các quốc gia và các nền kinh tế. Dưới tác động ngày một sâu rộng của TCH các quốc gia trên thế giới ngày càng có quan hệ chặt chẽ với nhau, phụ thuộc vào nhau. Phần lớn các quốc gia dù chế độ chính trị kinh tế - xã hội hay trình độ phát triển khác nhau cũng đều tham gia vào quá trình này. Nhận định về TCH và tác động của nó tới các nước, Đại hội lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996) đã chỉ rõ: “Cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hộicác quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác” [39, tr.76-77]. Do vậy, để tham gia vào quá trình đó, đòi hỏi các nước trong đó có Việt Nam phải tăng cường hội nhập với khu vực và toàn cầu. Như vậy, TCH tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia, dân tộc. Quá trình này đang thúc đẩy sự hội nhập nhanh chóng của các quốc gia vào nền kinh tế thế giới. Đồng thời, TCH cũng đặt ra yêu cầu các nước cần tích cực tham gia vào thể chế kinh tế, thương mại toàn cầu, thích ứng với “luật chơi” chung của thế giới. Gia nhập WTO, tận dụng những cơ hội do xu thế TCH mang lại để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là một đòi hỏi khách quan đối với Việt Nam. Vai trò, vị trí của WTO đối với Việt Nam Từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, sự vận động của nền kinh thế giới đặt ra yêu cầu cần phải có các thiết chế về kinh tế, tài chính, tiền tệ, thương mại nhằm điều chỉnh các quan hệ KTQT. Đáp ứng nhu cầu đó, ngày 30 - 10 - 1947 Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (gọi tắt là GATT) được 23 nước ký kết (Hiệp định có hiệu lực kể từ ngày 01 - 01 - 1948). Mục đích của Hiệp định là thiết lập cơ chế đàm phán thương mại đa phương phục vụ tự do hoá thương mại quốc tế. Từ khi ra đời đến năm 1994, GATT đã có những đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy và bảo đảm sự tự do hoá cho phần lớn thương mại thế giới. Đến đầu những năm 90, bản thân khuôn khổ của GATT không đáp ứng được yêu cầu mới do thương mại thế giới đã phát triển nhanh chóng sang nhiều lĩnh vực và vấn đề tranh chấp thương mại ngày càng tăng. Do đó, các thành viên của GATT đã đi đến nhất trí thành lập WTO trên cơ sở kế thừa các thành quả của GATT và mở rộng cho phù hợp với sự phát triển mới của thương mại thế giới. WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 - 01 - 1995. Hoạt động của WTO dựa trên 5 nguyên tắc: Thứ nhất, thương mại không có sự phân biệt đối xử giữa các nước trên cả phương diện quốc tế và quốc gia. Thứ hai, tạo dựng nền tảng tăng cường tính minh bạch và ổn định cho thương mại. Thứ ba, đảm bảo thương mại ngày càng tự do hơn thông qua các cuộc đàm phán. Thứ tư, tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. Thứ năm, khuyến khích phát triển kinh tế và cải cách kinh tế - điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát triển. Các nước muốn gia nhập WTO phải tiến hành các phiên đàm phán. Đàm phán gia nhập WTO bao gồm 4 giai đoạn: Giai đoạn một là làm rõ chính sách: Kèm theo đơn xin gia nhập, quốc gia xin gia nhập phải đệ trình Bị vong lục mô tả hiện trạng chính sách thương mại. Giai đoạn hai là đàm phán, bao gồm đàm phán đa phương và đàm phán song phương. Giai đoạn ba là hoàn tất văn kiện gia nhập, trên cơ sở kết quả đàm phán đa phương và song phương, Ban Công tác sẽ tổng hợp và hoàn tất bộ văn kiện gia nhập. Giai đoạn bốn là phê chuẩn văn kiện gia nhập: Bộ văn kiện gia nhập sẽ được trình lên Hội nghị Bộ trưởng hoặc Đại hội đồng thông qua. Sau khi bộ văn kiện được thông qua, nước xin gia nhập sẽ tiến hành thủ tục phê chuẩn trong nước. Tổ chức Thương mại thế giới có vị trí và vai trò quan trọng đối với Việt Nam cả về kinh tế và chính trị - xã hội, cụ thể: Về kinh tế: Gia nhập WTO tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên. Đặc biệt, Việt Nam là một nước có 2/3 kim ngạch xuất khẩu là các loại nông, thủy sản, vì vậy, khi là thành viên của WTO những mặt hàng này sẽ có vị thế lớn hơn trên thị trường thế giới do trợ cấp nông sản của các nước phát triển giảm xuống. Thu nhập xuất khẩu sẽ gia tăng và kèm theo là sự phát triển với mức độ lớn hơn các ngành nông nghiệp và ngư nghiệp trong nước. Qua đó góp phần tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho hàng chục triệu nông dân.  Bên cạnh đó, gia nhập WTO sẽ là một tín hiệu rất mạnh về quyết tâm đổi mới của Việt Nam, từ đó góp phần thúc đẩy đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, tạo thêm năng lực sản xuất mới. Đây là cơ hội có ý nghĩa nhất khi Việt Nam là thành viên WTO và là yếu tố thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, thúc đẩy tập trung kinh tế với tốc độ cao. Đánh giá về lợi ích của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam, tác giả Virginia Greasley trong bài viết: Việt Nam và Tổ chức Thương mại thế giới (2004) đã chỉ rõ: Gia nhập WTO tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng thị trường, tăng cường hợp tác thương mại dịch vụ với các nước thành viên WTO và Việt Nam có thể xuất khẩu những nông sản không đe dọa đến sản xuất nội địa của các nước giàu [156, tr.165]; Trong đàm phán đa phương gia nhập WTO, yêu cầu đầu tiên của tổ chức này là các nước phải minh bạch hóa chính sách kinh tế - thương mại. Do đó, khi gia nhập WTO, hệ thống chính sách, luật pháp của Việt Nam sẽ minh bạch, rõ ràng hơn và phù hợp “sân chơi” của thế giới. Đây là tiền đề rất quan trọng để phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong nước, là cơ hội để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tốc độ tăng trưởng bền vững hơn. Hoạt động của WTO khiến cho cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên gay gắt, các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước buộc phải khắc phục những hạn chế của mình, đồng thời áp dụng công nghệ mới, phát triển bền vững hoạt động sản xuất kinh doanh, tiếp thu nhiều kinh nghiệm tốt trong quản lý kinh tế, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác, gia nhập WTO đánh dấu bước phát triển về chất của tiến trình hội nhập giúp Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, tiếng nói của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương được tôn trọng hơn; dễ tranh thủ được sự ủng hộ của các định chế tài chính quốc tế. Từ đó, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Về chính trị- xã hội: Gia nhập WTO sẽ khẳng định tính nhất quán trong đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước Việt Nam là quyết tâm chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Từ đó, tạo lập và củng cố lòng tin của các nước vào cơ chế, chính sách của Việt Nam và sự an tâm của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hội nhập vào WTO cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh. Việt Nam cũng sẽ có cơ hội nâng cao vai trò và vị thế trên trường quốc tế khi gia nhập WTO. Khi là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ thiết lập mối quan hệ lợi ích đan xen, nhiều chiều với các nước thành viên để xử lý linh hoạt các vấn đề liên quan đến lợi ích chính trị, an ninh và kinh tế của đất nước. Mặt khác, tham gia vào tổ chức này cũng tạo cơ hội để có thể loại bỏ các biểu hiện của ý đồ thiết lập mối quan hệ một chiều chứa đựng sự áp đặt, chi phối của các cường quốc đối với các quốc gia dân tộc nhỏ, yếu trên thế giới, thúc đẩy sự hình thành một trật tự thế giới mới với cơ chế sinh hoạt quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng hơn. Bàn về vai trò của WTO, có tác giả nhận định rằng: “Trong nền thương mại thế giới ngày nay không có một thể chế toàn cầu nào có thể thay thế được WTO. Các quốc gia dù lớn hay nhỏ cũng không thể có sự lựa chọn nào tốt hơn là gia nhập tổ chức này” [100, tr. 317] Mặc dù gia nhập WTO có những lợi ích quan trọng, song Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít những thách thức như: Nền kinh tế Việt Nam sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia, cùng với những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế - tài chính. Hơn nữa, Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển còn phải chịu sức ép không nhỏ từ các nước phát triển trong việc thực hiện quy định của WTO. Điều đó có nghĩa là, Việt Nam sẽ bị thúc ép, buộc phải từ bỏ ngày càng nhiều các chính sách đang bảo hộ nền kinh tế trong nước trước hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước. Trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập WTO cũng đặt ra thách thức lớn đối với Việt Nam trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Các cam kết với WTO khi được thực hiện sẽ tác động mạnh lên khu vực nông nghiệp của Việt Nam, nơi có tới gần 70% dân số và 76% lực lượng lao động xã hội. Trong tình hình trên, sự phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với sự phát triển của đất nước. Trên lĩnh vực chính trị, gia nhập WTO và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới cũng đặt Việt Nam trước thách thức về độc lập tự chủ, về chủ quyền quốc gia, về định hướng chính trị... Nhìn tổng thể, mặc dù còn những thách thức, song vị trí, vai trò của WTO đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là không thể phủ nhận. Đặc biệt, có nhận định rằng “Việt Nam chủ động gia nhập WTO vì nhận thấy các quy định cơ bản của tổ chức này là cùng chiều với công cuộc đổi mới của Việt Nam và việc gia nhập WTO có thể giúp đất nước phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững hơn” [28]. * Kết quả của 10 năm đổi mới (1986 - 1996), đặc biệt trên lĩnh vực đối ngoại - là tiền đề trực tiếp hình thành chủ trương của Đảng đưa Việt Nam gia nhập WTO Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đất nước. Giai đoạn 1986 - 1996 là quá trình thử nghiệm, tìm tòi, từng bước cụ thể hoá, đưa chủ trương đổi mới vào cuộc sống. Đồng thời từng bước phát triển, tổ chức thực hiện những định hướng lớn của Nghị quyết Đại hội lần thứ VI và thứ VII của Đảng. Trong 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986 - 1996) đã đạt được những thành tựu quan trọng: Đất nước đã cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội; tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần đươc cải thiện, lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới ngày một tăng lên. Trên lĩnh vực đối ngoại, Đảng đã không ngừng bổ sung, phát triển quan điểm đối ngoại cho phù hợp với xu thế thế giới và yêu cầu trong nước. Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đã được triển khai thực hiện và đạt được những kết quả tốt đẹp. Đến năm 1995, đối ngoại Việt Nam đã có được những dấu ấn quan trọng trong mở rộng quan hệ song phương và đa phương: Về quan hệ Việt - Trung: Quán triệt quan điểm của Đại hội VII “Thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng” [36, tr.89]. Với sự nỗ lực của hai bên, ngày 10-11-1991, tại Bắc Kinh, hai bên ra Tuyên bố chung đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ: Thực hiện chủ trương của Đại hội VII “Thúc đẩy quá trình bình thường hóa với Hoa Kỳ”, Việt Nam đã tích cực, chủ động và tạo mọi điều kiện để cùng với Hoa Kỳ giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm, nhưng đồng thời cũng làm cho họ nhận rõ, việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ là phù hợp với lợi ích hai nước, lợi ích khu vực và quốc tế. Với cố gắng và thiện chí của cả hai bên, ngày 3 - 2 - 1994, Chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam; ngày 11 - 7 - 1995, Tổng thống Mỹ tuyên bố chính thức bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản cũng được khai thông và mở rộng. Hai nước đã ký nhiều hiệp định hợp tác song phương về kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuậtTháng 11 - 1992, Chính phủ Nhật quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam. Quan hệ của Việt Nam với EU được cải thiện và tăng cường. Tháng 11 - 1990, hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao và tháng 7 - 1995, hai bên ký Hiệp định khung Việt Nam - EU tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư và viện trợ giữa hai bên. Ngoài ra, trong thời gian này Việt Nam đã khôi phục và phát triển quan hệ với Liên bang Nga; khai thông quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc; thiết lập và mở rộng quan hệ với một số nước và vùng lãnh thổ thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương Tính đến năm 1995, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước [39, tr.63]. Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, với chính sách đổi mới cơ chế xuất - nhập khẩu và ban hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987), hoạt động kinh tế đối ngoại có bước phát triển mới. Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1991 - 1995 đạt 17 tỷ USD, tăng 20%. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam tăng nhanh, đến năm 1995, tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là 17,89 tỷ USD với 1261 dự án. Nhận định về những thành tựu đối ngoại của đất nước, Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa. Khôi phục và mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc, phát triển quan hệ với các nước trong khu vựcmở rộng quan hệ với các nước công nghiệp phát triển; bình thường hóa quan hệ với Mỹ; thiết lập, mở rộng quan hệvới các tổ chức quốc tế và khu vực” [39, tr.62]. Về hội nhập khu vực và tham gia các tổ chức tài chính. Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng (1991) về “Phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị và hợp tác” [36, tr.147], Việt Nam từng bước đẩy mạnh quan hệ song phương với từng nước cũng như với tổ chức ASEAN. Ngày 28 - 7 - 1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Nhận định về sự kiện Việt Nam gia nhập ASEAN, một nhà nghiên cứu nước ngoài đã cho rằng: “Gia nhập ASEAN cũng có nghĩa là tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN và làm quen với các chuẩn mực và thực tế kinh tế quốc tế. Điều này sẽ tạo thuận lợi hóa cho Việt Nam gia nhập APEC và cuối cùng là gia nhập WTO” [159, tr.12]. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị BCHTW ba Khóa VII (1992) về mở rộng quan hệ với tổ chức quốc tế, trong đó: Cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, Việt Nam đã nỗ lực kiên trì đàm phán cùng với quyết tâm cải cách ở trong nước để từng bước khai thông quan hệ với các tổ chức này. Tháng 10 - 1993, quan hệ tín dụng giữa Việt Nam và IMF chính thức được nối lại. Tiếp sau đó, quan hệ tín dụng giữa Việt Nam với ADB và WB cũng được bình thường hóa. Đến năm 1995, Việt Nam đã tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển (ODA) từ các tổ chức tài chính và các nước công nghiệp phát triển với tổng giá trị là 6,1 tỷ USD. Với việc bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài chính; gia nhập ASEAN, Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức khu vực, các định chế tài chính tuân thủ các nguyên tắc và quy định của WTO. Bên cạnh đó, thành tựu đạt được trong những năm đầu của hội nhập KTQT đã để lại những kinh nghiệm thực tế quý báu cho quá trinh đàm phán gia nhập WTO. Những kết quả của 10 năm đổi mới nói chung và đổi mới đường lối ngoại, hoạt động đối ngoại nói riêng, đã tạo những tiền đề quan trọng cho hội nhập WTO của Việt Nam, như: Một là, những đổi mới về tư duy đối ngoại và đổi mới quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm là phù hợp với xu thế vận động của quan hệ chính trị, kinh tế quốc tế đương đại; Hai là, hoạt động đối ngoại góp phần đưa đất nước thoát khỏi thế bị bao vây, cấm vận, bị cô lập, từng bước ra khỏi trạng thái đối đầu thù địch của thời kỳ chiến tranh lạnh; tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam với bên ngoài; Ba là, với việc mở cửa hội nhập, tình hình kinh tế, chính trị và quan hệ quốc tế của Việt Nam sau mười năm đổi mới đã góp phần cải thiện vị thế của quốc gia trên chính trường và thương trường quốc tế, tạo tiền đề thuận lợi cho Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức khu vực và quốc tế, trong đó có hội nhập WTO. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, đất nước qua 10 năm đổi mới vẫn còn không ít những khó khăn thách thức: Việt Nam vẫn là nước có nền kinh tế ở trình độ phát triển thấp; cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn kém phát triển; chất lượng nguồn nhân lực không cao; khoảng cách về trình độ phát triển của Việt Nam so với các nước trong khu vực chậm được thu hẹp. Trước tình hình đó, để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với các quốc gia khác, cần phải tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, thông qua hợp tác với các nước, đặc biệt là hợp tác kinh tế - thương mại và gia nhập WTO. Thực tế cho thấy, những thành tựu lý luận đối ngoại thể hiện qua các chủ trương đối ngoại trong các văn kiện Đảng và những thành tựu thực tiễn đối ngoại song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, cùng những yêu cầu mới đặt ra sau 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới, là cơ sở trực tiếp hình thành chủ trương của Đảng đưa Việt Nam gia nhập WTO. 2.1.2. Chủ trương của Đảng * Quan điểm của Đảng về việc Việt Nam gia nhập WTO Ngày 22 - 11 - 1994, BCT ban hành Quyết định số 1005 CV/VPTW giao cho Chính phủ soạn thảo và gửi đơn xin gia nhập GATT. Chủ trương trên chính là sự tiếp nối quan điểm đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại và mở rộng quan hệ để tiến tới tham gia Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) - tiền thân của WTO, đã được Hội nghị lần thứ ba BCHTW khoá VII (tháng 6 - 1992) thông qua. Tiếp đó, ngày 12 - 12 - 1994, BCT ban hành Quyết định số 1138 CV/VPTW về việc đàm phán gia nhập GATT. Quyết định của BCT nêu rõ: Việc đàm phán gia nhập GATT của Việt Nam là bước căn bản thực hiện chủ trương của Đảng về đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Việc đàm phán gia nhập phải vừa đáp ứng được yêu cầu của thương mại quốc tế, vừa đảm bảo phù hợp với lộ trình phát triển kinh tế và thương mại của Việt Nam, nhu, cương hợp lý và đảm bảo lợi ích lâu dài của đất nước [151]. Tháng 1 - 1995, Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia nhập tổ chức này. Quyết định xin gia nhập WTO của Đảng là một chủ trương kịp thời và rất cần thiết, có ý nghĩa quyết định đối với định hướng chiến lược hội nhập KTQT trong tương lai của Việt Nam. Đại hội Đảng lần thứ VIII ( 6-1996) nhận định tình hình thế giới diễn ra xu thế: Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia; các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác [39, tr.77]. Từ nhận định trên, Đại hội chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”, “chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực”. Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới được Đại hội VIII xác định là: “Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi” [39, tr.120]. Có thể nói, đây là lần đầu tiên Đảng chủ trương đẩy nhanh quá trình hội nhập KTQT và chủ động tham gia các tổ chức quốc tế nhằm mục tiêu phục vụ sự phát triển của đất nước. Chủ trương đó đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản trong nhận thức của Đảng về sự cần thiết phải tích cực, chủ động hội nhập KTQT, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Về định hướng Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII, nêu rõ: Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại; điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa Việt Nam với các đối tác; chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp [39, tr.90-91]. Trên cơ sở định hướng trên, Đảng đã nêu trực tiếp vấn đề chuẩn bị cho việc tham gia WTO “Tiếp theo việc gia nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia Khối mậu dịch tự do (AFTA), cần xúc tiến việc tham gia diễn đàn Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại quốc tế (WTO)” [39, tr.197]. Chủ trương xúc tiến đàm phán gia nhập WTO của Đại hội VIII, thể hiện quan điểm hội nhập cao nhất, rộng nhất, có ý nghĩa quan trọng đối với việc thiết lập môi trường buôn bán và quan hệ hợp tác kinh tế với toàn bộ thế giới [84, tr.102]. Ngày 18 - 11 - 1996, BCT đã ra Nghị quyết 01 - NQ/TW về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996 - 2000. Nghị quyết đánh giá những kết quả đạt được của kinh tế đối ngoại trong thời gian qua: Kinh tế đối ngoại phát triển trên nhiều mặt; kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với nhiều nước, với các tổ chức quốc tế, các trung tâm tài chính - tiền tệ lớn của thế giới, các cộng đồng tài trợ quốc tế được khôi phục và mở rộng. Trên cơ sở đó, Nghị quyết của BCT đề ra nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại trong thời gian tới là: Tích cực và chủ động hợp tác quốc tế, tham gia vào các diễn đàn quốc tế và các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, vừa theo thông lệ và luật pháp quốc tế vừa bảo vệ lợi ích của nước ta [5, tr.361]. Để thực hiện nhiệm vụ trên, trong giải pháp, cơ chế chính sách chủ yếu phát triển kinh tế đối ngoại giai đoạn 1996 - 2000, BCT yêu cầu: Vạch ra lộ trình với những bước đi cụ thể để tham gia đầy đủ vào AFEC và WTO [5, tr. 365]; đồng thời đề ra nhiệm vụ cho các Bộ, ngành phải có kế hoạch cụ thể chuẩn bị mọi mặt cho việc tham gia APEC và WTO, như: đồng bộ hóa cơ sở pháp luật, cụ thể là sớm ban hành Luật Thương mại tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xây dựng luật hoặc pháp lệnh về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài; bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại; tăng cường công tác tổ chức và quản lý kinh tế đối ngoại; chú trọng công tác đào tạo cán bộ làm kinh tế đối ngoại có đức, có tài Việc khẳng định chuẩn bị các điều kiện để tham gia WTO chính là thực hiện chủ trương nhất quán của Đại hội VIII và Nghị quyết 01 của BCT về hội nhập với các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Từ cuối năm 1996 trở đi, những bất cập của việc tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam theo chiều rộng đã bộc lộ rõ, cùng những khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực làm cho nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chậm. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ tư BCHTW khoá VIII (12 - 1997) chủ trương tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tranh thủ vốn, công nghệ và gia nhập thị trường quốc tế trên cơ sở phát huy nội lực. Nghị quyết Hội nghị đề ra nguyên tắc hội nhập KTQT của Việt Nam là: “Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài; tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế” [40, tr.59]; yêu cầu, trong hội nhập KTQT phải nắm vững và quán triệt sâu sắc phương châm: Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ nguồn lực tối đa bên ngoài; xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu. Cũng trong Hội nghị này, vấn đề gia nhập WTO của Việt Nam tiếp tục được quán triệt mạnh mẽ: “Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA” [40, tr.60]. Có thể thấy rẳng, nếu như tại Nghị quyết 01 - NQ/TW Về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại (11 - 1996), Đảng xác định cần có kế hoạch cụ thể chuẩn bị mọi mặt cho việc tham gia APEC và WTO thì đến Hội nghị lần thứ tư, vấn đề Việt Nam gia nhập WTO đã được khẳng định với tinh thần “khẩn trương, vững chắc” trong lộ trình thực hiện đàm phán. Chủ trương này thể hiện bước phát triển mới về nhận thức của Đảng, phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước. Trên thực tế, hai Nghị quyết trên là những văn kiện quan trọng mở đầu cho việc thúc đẩy quá trình đàm phán gia nhập WTO. Ngày 29 - 4 - 1998, BCHTW ra Thông báo số 132-TB/TW Ý kiến của Bộ Chính trị về đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và vấn đề hội nhập, hợp tác quốc tế. Thông báo nêu rõ: Cùng với đàm phán BTA cần tích cực đàm phán gia nhập WTO, phát triển quan hệ kinh tế, thương mại với nhiều nước có khả năng nhằm mở ra thị trường mới, nguồn vốn đầu tư mới, tiếp tục thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại. Nhìn tổng quát, quan điểm của Đảng trong giai đoạn 1995- 2000 về vấn đề Việt Nam gia nhập WTO được thể hiện qua những nội dung cơ bản như: Thứ nhất, Đảng đã khẳng định tính tất yếu và sự cần thiết của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam: việc trở thành thành viên của tổ chức này là bước căn bản thực hiện chủ trương của Đảng về đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập KTQT, phục vụ sự đắc lực nghiệp CNH, HĐH và phát triển đất nước. Thứ hai, việc đàm phán gia nhập WTO phải vừa đáp ứng được yêu cầu của thương mại quốc tế, quy định của tổ chức này, đồng thời vừa tính đến điều kiện cụ thể và khả năng thực hiện của Việt Nam, đó là nền kinh tế còn kém phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi. Trong đàm phán cần nhu, cương hợp lý trên cơ sở đảm bảo tất cả vì lợi ích quốc gia dân tộc. Thứ ba, cần có lộ trình và bước đi thích hợp trong đàm phán gia nhập WTO. Nghĩa là cần phải có sự bảo hộ đối với ngành kinh tế trong nước nhưng không phải với tinh thần bảo hộ bất cứ giá nào mà bảo hộ có điều kiện, có thời gian với lộ trình hợp lý để các doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi và vươn lên. Bảo hộ thái quá sẽ gây ra sự trì trệ. Bên cạnh đó, kết quả đàm phán phải tạo động lực nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam. Thứ tư, để gia nhập WTO, các Bộ, ngành cần có kế hoạch cụ thể chuẩn bị điều kiện về mọi mặt hỗ trợ cho đàm phán như: Chú trong công tác tuyên truyền về sự cần thiết của hội nhập WTO; đồng bộ hóa luật pháp, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại; tăng cường công tác tổ chức và quản lý kinh tế đối ngoại; tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; chú trọng công tác đào tạo cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập KTQT có năng lực và đạo đức, đáp ứng yêu cầu hội nhập... Thứ năm, đàm phán gia nhập WTO phải được thực hiện với tinh thần khẩn trương, bởi lẽ càng kéo dài thời gian đàm phán thì càng phải đối diện với những điều kiện ngặt nghèo hơn từ các nước, đặc biệt là các nước lớn. Tuy vậy, đàm phán phải được tiến hành vững chắc, không nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, gây thiệt hại đến lợi ích của đất nước; cùng với quá trình đàm phán gia nhập WTO cần tăng cường phát triển quan hệ thương mại với nhiều nước, ...010, GDP của Việt Nam đã tăng 35,8% trong đó ba trụ cột tăng trưởng là: nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp-xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên, trong nửa sau của những năm 2000, nền kinh tế bắt đầu trải qua một thời kỳ khó khăn do tăng trưởng chậm, khả năng cạnh tranh quốc tế kém và bất ổn định về kinh tế vĩ mô. Vào cuối năm 2007, đầu năm 2008, Việt Nam phải đối mặt với kinh tế tăng nóng do dòng vốn đầu tư khổng lồ. Từ tháng 3/2008, Chính phủ đã thành công trong việc ổn định nền kinh tế và giảm thâm hụt thương mại xuống mức kiểm soát. Giai đoạn sau 2010, tăng trưởng GDP thực tế, giảm từ 6,42% trong năm 2011 xuống 5,25% (năm/năm) trong năm 2012, tốc độ chậm nhất kể từ năm 1999. Năm 2016 vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều biến động. Tuy nhiên, về chủ đạo, kinh tế Việt Nam đã có nhiều cải thiện đáng kể. Tăng trưởng nhanh đồng hành với tăng đột biến về thương mại. Năm 2016 vừa qua, xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng tốt, thể hiện trên cả hai phương diện quy mô và tốc độ tăng so với năm trước. Kim ngạch xuất khẩu năm 2016 đạt 176,6 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, đây là một kết quả khả quan trong tương quan so sánh với năm trước cũng như so sánh với các nước trong khu vực. Xuất siêu khoảng 2,52 tỷ USD. Xuất siêu năm 2016 đạt được do tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu, đã đảo ngược cán cân thương mại từ thâm hụt năm 2015 sang thặng dư năm 2016. Thặng dư cán cân thương mại đã góp phần nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá, ổn định kinh tế vĩ mô. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu và máy móc thiết bị phục vụ chủ yếu cho sản xuất trong nước và gia công, xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao (88%) tổng kim ngạch. Những kết quả trên đây của hoạt động xuất nhập khẩu năm 2016 là tín hiệu tích cực, tạo tiền đề cho sự phát triển của xuất nhập khẩu nói riêng và cả nền kinh tế nước ta nói chung trong những năm tới. 2. Một số thành tựu về chính sách cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng Cả trong quá trình đàm phán gia nhập cũng như từ khi trở thành thành viên WTO, Chính phủ luôn thừa nhận một cách nhất quán vai trò không thể thiếu của chính sách cạnh tranh hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, cũng như những lợi ích mà thị trường cạnh tranh mang lại đối với sự phát triển và hiệu quả kinh tế. Được ban hành vào ngày 3 tháng 12 năm 2004 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, Luật Cạnh tranh (đạo luật đầu tiên về cạnh tranh của Việt Nam) là kết quả của quá trình soạn thảo bốn năm, có sự tham khảo quy định của 9 nước khác và luật mẫu được UNCTAD và WB khuyến nghị, được đánh giá là đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế về cạnh tranh. Kể từ năm 2005 đến nay, các cơ quan có thẩm quyền về cạnh tranh của Việt Nam (Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh Việt Nam) đã xử lý hơn hàng trăm vụ việc hạn chế cạnh tranh, hàng ngàn vụ liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh và khoảng hơn 30 vụ tập trung kinh tế (chủ yếu là sáp nhập và mua lại). 3. Một số thành tựu trong thực hiện các cam kết gia nhập WTO Là thành viên của Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế, Việt Nam đã nghiêm túc thực hiện tất cả các cam kết quốc tế nói chung, trong đó có cam kết gia nhập WTO. Ngay cả trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã ưu tiên cho cải cách thương mại và quy chế đầu tư nhằm tuân thủ đầy đủ các cam kết gia nhập WTO. Thực ra, Việt Nam đã bắt đầu chuẩn bị cho việc thực hiện các cam kết gia nhập WTO trước ngày chính thức trở thành thành viên của WTO. Chính phủ đã bắt đầu thiết lập một kế hoạch hành động chuẩn bị các cơ quan hành chính có liên quan ở cả cấp trung ương và cấp tỉnh để thực hiện các cam kết gia nhập. Cụ thể là, Chính phủ đã xây dựng khung pháp lý để thực hiện cam kết gia nhập của Việt Nam yêu cầu không chỉ rà soát lại toàn bộ hệ thống của pháp luật trong nước mà còn rà soát hệ thống pháp lý liên quan. Để bảo đảm rằng không có kẽ hở trong các cam kết gia nhập Việt Nam trong luật pháp quốc gia, một điều khoản đã được bổ sung vào Luật Điều ước quốc tế (2005 và 2015) quy định rằng, trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế. Về tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp kể từ khi gia nhập WTO Về giải quyết tranh chấp, Việt Nam luôn ủng hộ quan điểm đề cao hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp là rất cần thiết. Với gần 7 năm trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đã sử dụng các quy định giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ lợi ích của mình trong 03 vụ việc với tư cách nguyên đơn (vụ kiện tôm DS404 và DS429) và 27 vụ việc với tư cách bên thứ ba. Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế, thương mại thế giới. Việc này cũng đồng nghĩa với sự tham gia ngày càng tích cực vào các tranh chấp thương mại quốc tế, xét cả từ phía doanh nghiệp cũng như từ phía Nhà nước. Trong bối cảnh đó, 02 vụ kiện Tôm có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam. Bên cạnh những lợi ích thương mại cho Doanh nghiệp, lợi thế về ngoại giao kinh tế cho Nhà nước, 02 vụ kiện tôm cũng có thể đem lại những kinh nghiệm hữu ích trong giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế, ở nước ngoài cũng như tại WTO trong tương lai. 4. Về minh bạch hóa chính sách Từ khi tham gia WTO, các chính sách và quy định pháp luật ban hành đều phải bảo đảm phù hợp với các nguyên tăc WTO đồng thời phải phù hợp với điều kiện của đất nước. Đó là nguyên tắc được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và 2015. Vai trò của chính phủ trở thành người lãnh đạo, hướng dẫn và tạo điều kiện tối đa đặc biệt là việc cung ứng các hàng hoá công cộng và dịch vụ công cho hoạt động của doanh nghiệp, giảm thiểu sự can thiệp có tính chất hành chính của chính phủ vào hoạt động kinh doanh cả doanh nghiệp. Đồng thời, có sự tách dần quyền sở hữu và quyền kinh doanh và xuất hện cơ chế quản trị công ty khác với quản lý nhà nước. Năng lực điều hành của chính phủ sẽ được cải thiện khi những tiêu chuẩn mới đựoc hình thành rõ ràng. Nguồn: Phụ lục 11 ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI ĐOÀN GIÁM SÁT ---------------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -------------------- Hà Nội, ngày 15 tháng 9 năm 2015 BÁO CÁO TÓM TẮT “Kết quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ khi Việt Nam là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO)” Thực hiện Chương trình hoạt động giám sát năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập Đoàn giám sát “Kết quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ khi Việt Nam là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO)”. Đoàn giám sát xin báo cáo như sau: Về công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế và việc Việt Nam gia nhập WTO Công tác tuyên truyền, phổ biến về hội nhập KTQT và WTO đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, góp phần nâng cao nhận thức của đội ngủ cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân; giúp doanh nghiệp chủ động trong việc hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu hội nhập. Nhiều chuyên đề trên kênh truyền hình, báo chí, hội thảo, diễn đàn được tổ chức; nhiều đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với cam kết. Tuy nhiên, công tác này chưa đi vào chiều sâu, thiếu tính liên tục, còn dàn đều; thông tin về hội nhập và WTO chưa phục vụ tốt cho hoạt động của doanh nghiệp; thiếu cơ quan đầu mối có thẩm quyền giải đáp, hướng dẫn và cung cấp thông tin. Về ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế sau khi gia nhập WTO Sau khi gia nhập WTO, việc đàm phán ký kết các FTA khu vực và song phương, tham gia vào các khu vực thương mại tự do tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, một số nội dung liên quan đến việc ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế còn có vướng mắc và đang được tiếp tục sửa đổi, bổ sung để phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và đáp ứng thực hiện hội nhập quốc tế. Kết quả trong một số lĩnh vực Đối với lĩnh vực kinh tế Về việc tăng trưởng kinh tế: Việc trở thành thành viên WTO giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, góp phần đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao năm 2007 nhưng ngay sau đó, do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã dẫn đến sụt giảm tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2008 - 2011. Sau khi phục hồi vào các năm 2010 và 2011, tăng trưởng kinh tế giảm các năm 2012 và 2013; năm 2014 và 6 tháng đầu năm 2015 đã phục hồi trở lại. Về chuyển dịch và tái cơ cấu nền kinh tế: Trong giai đoạn 2007 - 2014, tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 1,5%, trong khi tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng thay đổi không nhiều, chỉ giảm 0,2%; khu vực dịch vụ tăng lên 1,7%. Trong giai đoạn này, khu vực nông, lâm, thủy sản đóng góp bình quân 11% vào tăng trưởng GDP. Hai khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đóng góp vào tăng trưởng GDP lần lượt là 40% và 49%, thể hiện tác động tích cực của dòng vốn FDI và mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ. Về hoạt động thương mại và đầu tư Về phát triển thương mại: Từ năm 2007 đến nay, xếp hạng của WTO về xuất, nhập khẩu của Việt Nam tăng; kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam tăng mạnh; thị trường xuất khẩu đa dạng, mở rộng sang tất cả các châu lục; chất lượng và giá cả cạnh tranh hơn. Sau khi gia nhập WTO, chỉ có 3 năm gần đây (2012 - 2014) cán cân thương mại thặng dư, bình quân năm giai đoạn 2007 - 2014 thương mại nhập siêu (8,07 tỷ USD) cao hơn mức nhập siêu giai đoạn 2001 - 2006 (4,05 tỷ USD) riêng năm 2008 nhập siêu lên đến 18,02 tỷ USD. Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 21,7% tổng đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2014 cao hơn so với trước năm 2007 (năm 2005: 14,9%; năm 2006: 16,2%). Giai đoạn 2007 - 2009 là giai đoạn bùng nổ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); sau đó giảm từ năm 2009 đến năm 2011; tăng từ năm 2012 và năm 2014 ở mức 21,9 tỷ USD. Đóng góp của khu vực FDI trong GDP tăng mạnh từ năm 2007 nhờ giá trị xuất khẩu của khu vực này tăng mạnh; năm 2014, xuất khẩu đạt 93, 96 tỷ USD, chiếm 62,5% tổng kim ngạch xuất khẩu và xuất siêu là 9,74 tỷ USD. Khu vực FDI tạo ra khoảng 2 triệu việc làm trực tiếp và hàng triệu việc làm gián tiếp cho nền kinh tế. Về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài: Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài bên cạnh các thị trường truyền thống từng bước được mở rộng sang các nước Angieri, Malaysia, Hoa Kỳ và đầu tư vào các ngành mà Việt Nam có thế mạnh như khai thác khoáng sản; nông, lâm, ngư nghiệp, viễn thông. Năm 2014, số dự án của nhà đầu tư cá nhân, doanh nghiệp tư nhân chiếm 88,5% tổng số dự án. Về cân đối ngân sách nhà nước: Việc thực hiện cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hóa ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách nhà nước (NSNN). Tỷ trọng thu nội địa bình quân giai đoạn 2001 - 2006 là 52% và tăng nhanh sau khi gia nhập WTO, năm 2011 là 75,4% và năm 2014 là 67%. Để bảo đảm phát triển nguồn thu nội địa, nhiều giải pháp được thực hiện như kích thích phát triển sản xuất; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung các chính sách thu nội địa; đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; nâng cao năng lực cạnh tranh, chống thất thu thuế Về tự do hóa giá cả và mở cửa thị trường Về đổi mới quản lý giá: Nhà nước tôn trọng, bảo vệ quyền tự định giá hàng hóa, dịch vụ. Đối với một số ít hàng hóa, dịch vụ độc quyền, chưa có thị trường, Nhà nước thực hiện can thiệp trực tiếp như xác định mức giá cụ thể, khung giá, mức giá tối đa hoặc mức giá tối thiểu. Đối với hàng hóa, dịch vụ quan trọng và thiết yếu đối với sản xuất và đời sống (xăng, dầu, điện,). Nhà nước thực hiện bình ổn giá khi giá thị trường có biến động bất thường. Về mở cửa thị trường hàng hóa: Thị trường hàng hóa phát triển đa dạng về chủng loại, mở rộng cơ hội cho người tiêu dùng, nhà sản xuất trong nước để lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, nguyên liệu đầu vào có chất lượng, giá cạnh tranh hơn. Việc mở của dịch vụ phân phối góp phần hình thành nhiều trung tâm phân phối hiện tại đồng thời đặt ra yêu cầu đổi mới đối với các doanh nghiệp phân phối trong nước. Việc ưu tiên ủng hộ tiêu dùng hàng hóa nội địa đã đạt một số kết quả nhất định; tuy nhiên, công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa tổ chức được hệ thống cơ quan và tổ chức xã hội thống nhất từ trung ương tới địa phương. Việc áp dụng các rào cản kỹ thuật trong thương mại còn ở mức độ vừa phải. Về mở cửa thị trường tài chính Thị trường chứng khoán: Mức vốn hóa thị trường năm 2014 đạt 1.121 nghìn tỷ đồng, gấp 2,27 lần so với mức của năm 2007; mức vốn hóa bình quân năm giai đoạn 2007 - 2014 là 994 nghìn tỷ đồng, gấp 4,19 lần so với mức bình quân năm giai đoạn 2001 - 2006. Việc gia nhập WTO tạo cơ hội cho việc phát triển nhiều sản phẩm mới và thu hút các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài bình quân gia đoạn 2007 - 2014 tăng 8 lần so với giai đoạn 2001 - 2006; đến nay có 16.734 nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán, gấp đôi năm 2007. Thị trường tiền tệ: Việc nâng cao tính độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ, hoàn thiện chức năng ngân hàng trung ương tiếp tục được đổi mới, cụ thể hóa bằng Luật NHNN, Luật các TCTD năm 2010. Việt Nam đã từng bước áp dụng các chuẩn mực an toàn vốn theo Basel1, tỷ lệ đủ vốn tối thiểu CAR năm 2012 của cả hệ thống đạt 13,7% cao hơn quy định (9%). Thị trường bảo hiểm: Hiện có 26 doanh nghiệp bảo hiểm có vốn FDI và nhiều nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đầu tư vào doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, góp phần nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm. Các dịch vụ bảo hiểm được đa dạng hóa, đã bao quát hầu hết các loại hình tài sản của mọi thành phần kinh tế, mọi ngành kinh tế. Về thị trường bất động sản: Thị trường bất động sản có bước phát triển quan trọng, làm thay đổi bộ mặt đô thị. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào bất động sản tại Việt Nam. Từ năm 2007 đến nay, các tổ chức dịch vụ hổ trợ thị trường bất động sản được hình thành và từng bước hoàn thiện, chuyên nghiệp góp phần mình bạch hóa các giao dịch bất động sản. Hàng hóa bất động sản đa dạng, đáp ứng nhu cầu của dân cư và doanh nghiệp Về thị trường lao động: Trong giai đoạn 2007 - 2014, cả nước tạo việc làm cho 12,613 triệu lao động; trên 694.000 lao động làm việc ở nước ngoài, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp. Về thị trường khoa học, công nghệ: Từ năm 2010 đến nay, đã khai thác thông tin của hơn 500 công nghệ trong nước và nước ngoài để tư vấn, chuyển giao cho các tổ chức, doanh nghiệp tại 53 tỉnh/thành phố. Về nâng cao nâng lực cạnh tranh Đối với năng lực cạnh tranh quốc gia: Chỉ số Cạnh tranh toàn cầu 2014 - 2015 cho thấy Việt Nam xếp thứ 68, tăng 2 bậc so với chỉ số 2013 - 2014, cao hơn chỉ số 2012 - 2013 (75/144) và 2007 - 2008 (70/144) nhưng thấp hơn chỉ số 2011 - 2012 (65/144) và 2010 - 2011 (59/144)2, chỉ số xếp hạng giảm so với trước khi gia nhập WTO (chỉ số 2006 - 2007 là 64), phản ánh những thay đổi trong năng lực cạnh tranh quốc gia chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập. Xếp hạng cạnh tranh của Việt Nam thấp hơn so với Singapore (xếp thứ 2), Malaysia (20), Thái Lan (31), Indonesia (34), Philippines (52). Trong thời gian qua, Việt Nam có nhiều nỗ lực cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, viễn thông, nguồn nhân lực, Chất lượng cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam có cải thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế so với các quốc gia trong khu vực ASEAN3. Chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2007 - 2014 cải thiện, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tăng từ 13,2% lên 18,2%; năng suất lao động tăng gấp 2,7 lần, năng suất bình quân giai đoạn 2007 - 2014 gấp 2,78 lần giai đoạn 2001 - 2006 trong đó năng suất của khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,97 lần; công nghiệp và xây dựng 2,38 lần; dịch vụ 2,39 lần. Đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: So với thời điểm gia nhập WTO, số lượng doanh nghiệp Việt Nam tăng: Năm 2013 số doanh nghiệp đang hoạt động gấp 2,4 lần so với năm 2007. Các doanh nghiệp dệt may, da giầytừng bước tham gia vào chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu nhưng số lượng các doanh nghiệp chưa nhiều, một số khâu trong sản xuất khó có sự đột phá như thiết kế, nguyên liệu Chỉ có 36% doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất định hướng xuất khẩu, thấp hơn so với Malaysia và Thái Lan4. Đối với năng lực cạnh tranh của sản phẩm: Sau khi gia nhập WTO, lợi thế so sánh tỷ trọng trong tổng giá trị xuất khẩu của một số ngành hàng cần nhiều lao động như dệt may, giày dép, thủy sản, gỗ giảm, trong khi ngành hàng cần nhiều vốn, công nghệ như điện tử, máy tính và linh kiện có lợi thế so sánh tăng. Quá trình hội nhập KTQT đòi hỏi các sản phẩm đáp ứng các điều kiện chất lượng, mẫu mã, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là gia công và xuất khẩu sản phẩm thô nên giá trị gia tăng là thấp. Đối với lĩnh vực văn hóa, xã hội Về lao động, việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động: Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 2,47% (năm 2007) xuống 1,95% (năm 2014), trong đó khu vực thành thị giảm 1,58%, khu vực nông thôn giảm 0,26%. Cơ cấu lao động đã thay đổi đáng kể, tỷ trọng lao động thành thị tăng lên; lực lượng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm và tăng lên ở cả hai khu vực còn lại. Trong giai đoạn 2007 - 2014, lực lượng lao động trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng thêm 342 nghìn lao động. Về thu nhập: GDP bình quân đầu người năm 2014 đạt 43,4 triệu đồng, gấp 2,93 lần so với năm 2007. Theo Bộ Lao động, thương binh và xã hội, tỷ lệ tăng tiền lương thực tế đạt 8%, cao hơn so với tốc độ tăng GDP cùng thời kỳ, mức tiền lương của lao động làm công ăn lương tăng 12,2%/năm. Thu nhập, chi tiêu và tiết kiệm bình quân đầu người tăng so với trước khi gia nhập WTO5. Lao động khu vực nhà nước và FDI có thu nhập bình quân gấp 1,6 lần so với nhóm lao động còn lại. Về đảm bảo phúc lợi xã hội, an sinh xã hội: Nhiều chương trình an sinh xã hội hiệu quả, đặc biệt là chương trình mục tiêu quốc gia. Cơ chế, chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp tiếp tục được hoàn thiện, số lượng người tham gia bảo hiểm tăng lên6. Việc thực hiện tốt các chính sách góp phần giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống và giúp người lao động có thêm cơ hội tìm được việc làm. Về tác động phân hóa giàu nghèo, tác dộng tổn thương nhóm yếu thế trong xã hội: Việt Nam tiếp tục thu được nhiều kết quả khả quan trong cải thiện mức sống, giảm nghèo. Chí số HDI của Việt Nam liên tục tăng7 phán ánh sự thay đổi tích cực trên các phương diện sức khỏe, tri thức và mức sống. Tỷ lệ hộ nghèo giảm qua các năm từ mức 14,75% năm 2007 xuống 5,97% xuống năm 2014, hộ cận nghèo cao 5,62%. Hệ số bất bình đẳng thu nhập (Gini) khu vực thành thị giảm, nhưng ở khu vực nông thôn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc: Công tác kiểm kê, rà soát công nhận di sản, di tích, xếp hạng của các tổ chức quốc tế được đẩy mạnh, góp phần bảo vệ nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế cũng đặt ra những thách thức trong việc kiểm soát sự xâm nhập các sản phẩm và dịch vụ văn hóa không lành mạnh, gây phương hại đến sự phát triển văn hóa và con người. Về tác động đối với lĩnh vực môi trường: Việc phòng ngừa và khắc phục hậu quả do sự cố môi trường đã thu được kết quả tích cực. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn gia đoạn 2001 - 2006 là 30%, gia đoạn 2007 - 2010 là 40 - 50%, tiếp tục tăng từ năm 2011 đến năm 2014 là 79%. Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoàn thành xử lý tăng mạnh qua các năm8. Quá trình hội nhập góp phần thúc đẩy tăng cường nghiên cứu và áp dụng nhiều kinh nghiệm của thế giới, tiêu chuẩn quốc tế về môi trường9. Đối với lĩnh vực tư pháp: Số lượng vụ án kinh doanh thương mại tăng liên tục, từ gần 4.000 vụ năm 2007 tăng lên gần 15.000 vụ năm 2014. Hệ thống pháp luật trong nước công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài còn bất cập. Phần lớn các doanh nghiệp trong nước chưa quan tâm đúng mức, thiếu kiến thức, thông tin về các rào cản kỹ thuật thương mại. Vai trò của các hiệp hội ngành, nghề được tăng cường nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu khi tranh chấp xảy ra; hoạt động tư vấn chính sách, pháp luật và hỗ trợ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của các hiệp hội còn thiếu và yếu10. Việc hình thành đội ngũ luật sư giỏi đã được triển khai nhưng chưa đáp ứng đủ cả số lượng và chất lượng. Đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Công tác kết hợp chặt chẽ vấn đề quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội được quan tâm. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố. Các cải cách hành chính trong lĩnh vực an ninh tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hợp tác, đầu tư. Công tác bảo đảm an ninh chính trị nội bộ tiếp tục được chú trọng. Tuy nhiên, công tác nắm tình hình, phát hiện dấu hiệu phức tạp còn bị động, có lúc chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quá trình hội nhập quốc tế; công tác tham mưu cho các bộ, ngành về quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực nhạy cảm chưa thực sự hiệu quả. Đối với các cải cách nền hành chính: Từ năm 2010 đến nay, đã đơn giản hóa 4.219 thủ tục hành chính (đạt tỷ lệ 89,5%). Đa số các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đã triển khai cơ chế một cửa liên thông. Một số địa phương như Quảng Ninh, Bình Dương, Đà Nẵng triển khai mô hình Trung tâm dịch vụ hành chính công. Quy trình, thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, bảo hiểm có nhiều đổi mới11. Quy trình thành lập, giải thể doanh nghiệp và tiếp cận điện năng được rút gọn12. Tuy nhiên năm 2014, hầu hết các bộ, địa phương được kiểm tra chưa thực hiện nghiêm túc việc niêm yết thủ tục hành chính; có 22 tỉnh, thành phố chậm công bố Bộ thủ tục hành chính về đất đai. Một số chỉ số về tiếp cận điện năng cải thiện 12 bậc, chỉ số nộp thuế và bảo hiểm xã hội cải thiện 12 bậc, nhưng chưa đạt trung bình ASEAN-6. Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã tác động toàn diện đến mọi mặt kinh tế - xã hội của đất nước và kết quả đạt được là đáng ghi nhận. Hệ thống thể chế pháp luật, chính sách ngày càng hoàn thiện. Bước đầu đã tận dụng được cơ hội, phát huy lợi thế, vượt qua thách thức, khó khăn và hạn chế được những tác động tiêu cực. Đã có sự chuyển biến quan trọng trong nhận thức, tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế, tạo sự đồng thuận xã hội. Kết quả nổi bật là thu hút nguồn nhân lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước; thị trường xuất xuất nhập khẩu được mở rộng, giá trị xuất khẩu tăng, một số sản phẩm đứng hàng đầu thế giới. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch và được tái cơ cấu theo hướng tích cực. Công nghiệp - xây dựng và dịch vụ đóng góp cao vào tăng trưởng. Thu ngân sách nhà nước đã được điều chỉnh kịp thời, tăn thu nội địa để được bù đắp cho phần giảm thuế nhập khẩu. Năng lực sản xuất, kinh doanh, năng lực quản trị doanh nghiệp, doanh nhân có vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thị trường tài chính ngày càng đa dạng; cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, viễn thông được phát triển; cải cách hành chính được tăng cường. Đời sống nhân dân được nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy trong bối cảnh hội nhập; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực thi các cam kết WTO và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung từ năm 2007 đến nay còn những hạn chế, bất cập. Chất lượng tăng trưởng và tính bền vững của nền kinh tế còn yếu và chậm được cải thiện; cơ cấu hàng xuất khẩu chậm được thay đổi, giá trị gia tăng hàng xuất khẩu còn thấp; chất lượng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chưa cao như chuyển giao công nghệ chưa đạt yêu cầu, tính liên kết với doanh nghiệp trong nước kém, tỷ trọng xuất khẩu cao nhưng nộp ngân sách thấp. Năng lực cạnh tranh của quốc gia, các doanh nghiệp, và sản phẩm thương hiệu Việt Nam còn hạn chế. Việc phát triền nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng nhu cầu. Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trước các rào cản kỹ thuật thương mại của các nước, trong khi việc hình thành và áp dụng các rào cản kỹ thuật thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam còn thiếu và yếu. Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái nền kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cự đến nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan vẫn là chính, đó là: Công tác thông tin, tuyền truyền còn chưa sâu rộng; một số bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp chưa nhập thức đầy đủ và chưa quan tâm đúng mức đến hội nhập kinh tế quốc tế. Thể chế pháp luật kinh tế ngày càng hoàn thiện nhưng chất lượng và hiệu lực thực thi chưa cao. Chính sách kinh tế chưa đủ mạnh để tận dụng cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, nhất là chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân. Một số bộ, ngành, địa phương chậm thực hiện cải cách hành chính, cải cách khu vực công, điều hành thiếu quyết liệt, chưa năng động, sáng tạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; công tác hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra việc thực hiện các cam kết quốc tế chưa được coi trọng. Công tác tham vấn ý kiến trong quá trình đàm phán được quan tâm nhưng chưa kịp thời. Mặt khác, có sự thụ động của không ít các hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các cấp có thẩm quyền chưa chủ động đề ra giải pháp hạn chế mặt trái của quá trình hội nhập đối với lĩnh vực xã hội, văn hóa môi trường. Trên đây là Báo cáo tóm tắt kết quả giám sát “Kết quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ khi Việt Nam là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO)”, xin báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến./. ĐOÀN GIÁM SÁT CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI Nguồn: Tài liệu lưu tại Văn phòng Trung ương Đảng 1 Năm 2011, công ty kiểm toán độc lập Ernst & Young trợ giúp NHNN trong việc tự đánh giá thực hiện 25 nguyên tắc cơ bản của Basel. Năm 2012, Chính phủ ký hiệp định với IMF và WB về thực hiện Chương trình đánh giá khu vực tài chính (FSAP) với 4 giai đoạn từ tháng 10/2012 đến tháng 5/2013 trong đó một nội dung chính là thực hiện 25 nguyên tắc Basel. Tháng 5/2013, NHNN đã kiểm tra tính khả thi trong việc áp dụng một số tiêu chuẩn của Basel III (Nguồn: Báo cáo rà soát chính sách thương mại của Ban thư ký WTO tháng 8/2013) 2 Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới. 3 Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) 2014 - 2015, xếp hạng của Việt Nam trong 9 nước ASEAN (không bao gồm Brunei) theo từng đánh giá: chất lượng cơ sở hạ tầng giao thông nói chung là 8/9 (cao hơn Myanmar), chất lượng đường bộ là 8/9 (cao hơn Myanmar), hạ tầng đường sắt là 3/7 (7 nước vì Lào và Singapore không có số liệu; cao hơn Campuchia, Myanmar, Philippines và Thái Lan), hạ tầng cảng là 5/9 (cao hơn Campuchia, Lào, Myanmar, Philippines) và hạ tầng đường hàng không là 6/9 (cao hơn Campuchia, Myanmar và Philippines). 4 Theo Báo cáo Triển vọng phát triển Châu Á năm 2015 của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), tỷ lệ doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất định hướng xuất khẩu ở Việt Nam là 36%, ở Malaysia và Thái Lan là gần 60%. 5 Theo kết quả điều tra mức độ sống hộ gia đình, thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người một tháng năm 2006 lần lượt là 636 và 511 nghìn tỷ đồng; năm 2012: 2.000 và 1.603 nghìn đồng. 6 Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội được mở rộng: Số lao động được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc cuối năm 2014 gần 11,5 triệu người, tăng khoảng 1,56 lần so với năm 2007; số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là gần 200 ngàn người; tham gia bảo hiểm thất nghiệp 9,2 triệu người. Trong gia đoạn 2011 - 2014 có trên 1.705 nghìn lượt người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp; trên 1.415 nghìn lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm mới; gần 35 nghìn lượt người được hỗ trợ học nghề 7 Năm 2010: 0,641; năm 2012: 0,659; năm 2013: 0,665. 8 Tiến độ xử lý 439 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải hoàn thành xử lý theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg năm 2008 là 48,52%, năm 2012 là 83,6%, năm 2014 là 88,6%; tiến độ xử lý 435 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải hoàn thành xử lý trong giai đoạn 2013 - 2020 theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg năm 2014 là 31,18%. 9 Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường trong giai đoạn 2008 - 2013 đã rà soát, chuyển đổi và xây dựng mới 44 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; ban hành một số quy chuẩn về môi trường riêng cho các ngành công nghiệp đặc thù (lọc dầu, nhiệt điện, cao su, giấy và bột giấy). 10 76% số hiệp hội không có bộ phận chuyên môn về chính sách, pháp luật trong khi việc duy trì liên kết với các tổ chức, đơn vị tư vấn pháp lý lại lỏng lẻo. 11 Tính đến 01/01/2015, số giờ tuân thủ về thuế giảm được 369,86 giờ/năm’ cơ quan bảo hiểm xã hội giảm được khoảng 100 giờ, tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động thực hiện khai thuế điện tử đã tăng từ 65% lên 97% (Dự kiến năm 2015 tiếp tục rà soát cắt giảm 45,5 giờ nộp thuế và 185,5 giờ nộp bảo hiểm xã hội, để đạt được mục tiêu 171 giờ gồm 121,5 giờ nộp thuế và 49,5 giờ nộp bảo hiểm xã hội), thời gian đăng ký khai hải quan chỉ còn khoảng 3 giây, thời gian trung bình từ khi doanh nghiệp đăng ký tờ khai đến khi quyết định thông quan/ giải phóng hàng đối với hàng nhập khẩu chỉ còn là 34:32:14, so với kết quả năm 2013 (42:07:40), khoảng thời gian này đã giảm đi 7,6 giờ tương đương 18%; thời gian trung bình từ khi doanh nghiệp đăng ký tờ khai đến khi quyết định thông quan đối với hàng xuất khẩu là 6:58:55, giảm 9,6 giờ tương đương 58% so với năm 2013 (16:36:10); đối với các lô hàng phân luồng xanh, không phải nộp thuế thì thời gian này chỉ còn 4 giây 12 Thời gian thực hiện thủ tục hành chính về thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp giảm 50%, trong đó thời gian thực hiện các thủ tục khởi sự kinh doanh giảm từ 34 ngày xuống còn 17 ngày. Thời gian tiếp cận điện năng của doanh nghiệp giảm từ 115 ngày xuống còn 70 ngày.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_dang_lanh_dao_qua_trinh_viet_nam_gia_nhap_to_chuc_th.doc
  • doc5. Tóm tắt tiếng Việt.doc
  • docbản giải trình sửa LA theo PBĐL.doc
  • docBIA đã sửa mới.doc
  • docbia giai trinh.doc
  • docBIA TIENG ANH.doc
  • docBìa tóm tắt tiếng Việt.doc
  • docthông tin mạng.doc
  • docTHÔNG TIN VỀ LATS ĐƯA LÊN MẠNG (Trang Dich).doc
  • docTOM TAT TIENG ANH (Sua).doc
  • docTRÍCH YẾU LA.doc
Tài liệu liên quan