Luận án Nghệ thuật tượng lăng mộ quận công thế kỷ XVII - XVIII ở đồng bằng bắc bộ

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Văn Hùng NGHỆ THUẬT TƯỢNG LĂNG MỘ QUẬN CÔNG THẾ KỶ XVII - XVIII Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật Mã số: 9210101 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Hà Nội - 2020 BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Văn Hùng NGHỆ THUẬT TƯỢNG LĂNG MỘ QUẬN CÔNG THẾ KỶ XVII - XVIII Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ Chuyên

pdf248 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nghệ thuật tượng lăng mộ quận công thế kỷ XVII - XVIII ở đồng bằng bắc bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật Mã số: 9210101 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Lê Văn Sửu PGS.TS Nguyễn Nghĩa Phương Hà Nội - 2020 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ Nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ là công trình do tôi nghiên cứu và thực hiện. Những vấn đề nghiên cứu cùng những ý kiến tham khảo, tư liệu đều có chú thích nguồn đầy đủ. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận án Nguyễn Văn Hùng ii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ĐBBB Đồng bằng Bắc bộ GS Giáo sư KHXH Khoa học xã hội LTH Lê Trung Hưng NCS Nghiên cứu sinh NXB Nhà xuất bản PGS Phó giáo sư TG Tác giả TK Thế kỷ TS Tiến sĩ ThS Thạc sĩ Tr Trang VHNT Văn hóa Nghệ thuật iii MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN..................................................................................... i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ii MỤC LỤC.. iii MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI......................................................... 8 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 8 1.2. Cơ sở lý luận....................................................................................... 19 1.2.1. Khái niệm......................................................................................... 19 1.2.2. Cơ sở lý thuyết.. .. 23 1.3. Khái quát lăng và tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ.. 28 1.3.1. Khái quát lăng mộ ..... 28 1.3.2. Khái quát tượng lăng mộ.. 35 Tiểu kết... 48 Chương 2: NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH TƯỢNG LĂNG MỘ QUẬN CÔNG THẾ KỶ XVII - XVIII Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 50 2.1. Nghệ thuật tạo hình tượng người.... 50 2.1.1. Bố cục hình dáng và khối tượng người .. 50 2.1.2. Tạo hình trang trí trên trang phục tượng người....... 64 2.1.3. Tạo hình chân dung và bàn tay tượng...... 67 2.2. Nghệ thuật tạo hình tượng thú.. 78 2.2.1. Bố cục và hình dáng tượng.. 78 2.2.2. Tạo hình khối tượng thú... 89 2.2.3. Tạo hình trang trí trên tượng thú...... 99 Tiểu kết... 108 iv Chương 3: BƯỚC ĐẦU NHẬN ĐỊNH VỀ NGHỆ THUẬT TƯỢNG LĂNG MỘ QUẬN CÔNG THẾ KỶ XVII - XVIII Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ.................................................................................................. 110 3.1. Đặc điểm nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ........... 110 3.1.1. Đặc điểm nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII.................. 110 3.1.2. Đặc điểm nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVIII................. 118 3.2. Chuyển biến tạo hình tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ... 131 3.2.1. Chuyển biến về bố cục và hình dáng tượng. 131 3.2.2. Chuyển biến về tạo hình chân dung và bàn tay 135 3.2.3. Chuyển biến về trang trí trên tượng. 139 3.3. Vị trí của nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII trong hệ thống tượng lăng mộ ở Việt Nam... 143 Tiểu kết... 149 KẾT LUẬN........ 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 156 TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 157 PHỤ LỤC... 168 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Thế kỷ (TK) XVII - XVIII đã đánh dấu sự phát triển của nhiều công trình kiến trúc đình, chùa, đền, miếu, sinh từ, lăng mộ cùng các loại hình đồ gốm, điêu khắc Phật giáo, chạm khắc trang trí đình làng ở Đồng bằng Bắc bộ (ĐBBB). Trong đó nghệ thuật điêu khắc tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII đã đạt đến giá trị thẩm mĩ cao, tạo nên đặc điển nghệ thuật độc đáo, góp phần vào những thành tựu chung của mỹ thuật cổ truyền dân tộc. Chủ nhân sở hữu dòng nghệ thuật tượng lăng mộ chủ yếu là những Quận công vị thế trong xã hội, tự bỏ tiền xây cất lăng mộ, sinh từ to lớn, tạo bia đá ghi lại công lao, sự nghiệp để cho con cháu sau này noi theo và tôn thờ. Nhiều Quận công, quan tướng thời Lê Trung Hưng (LTH) là những người có học vấn, có công lao với triều đình, đương thời đã không ngần ngại gửi gắm những quan điểm, cách nghĩ của mình về cuộc đời thông qua hình thức, chất liệu, quy mô kiến trúc lăng mộ, độc đáo nhất là hệ thống tượng tròn trong mỗi không gian kiến trúc. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc lăng mộ có một diện mạo đặc thù, khác hẳn với các công trình kiến trúc, điêu khắc gắn với tôn giáo, tín ngưỡng bởi chính vai trò, chức năng tưởng niệm của chúng. Đặc biệt là hệ thống tượng với những biểu hiện qua bố cục, hình dáng, đặc điểm khối, chạm khắc trang trí trên trang phục và sự biểu cảm trên gương mặt, bàn tay tượng người cũng như ở phần đầu tượng thú. Hiện nay, hệ thống tượng này đang có dấu hiệu bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan mà dẫn tới nứt, vỡ, mòn khối, mờ nét, biến dạng, thậm chí là biến mất. Với những biểu hiện về giá trị nghệ thuật của hệ thống tượng lăng mộ và yêu cầu bảo tồn di sản văn hóa cổ truyền, trong giai đoạn hiện nay rất cần những công trình chuyên sâu và hệ thống từ góc nhìn mỹ thuật để nghiên cứu, một cách chuyên biệt, kỹ lưỡng về đối tượng này. Hiện nay có một số công trình đã tìm hiểu, nghiên cứu về lăng mộ, tượng lăng mộ, tuy nhiên chưa có 2 công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt ở chuyên ngành mỹ thuật. Vì vậy, nghiên cứu sinh (NCS) chọn hướng nghiên cứu “Nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ” thông qua 4 công trình lăng mộ tiêu biểu, còn khá nguyên trạng về không gian, kiến trúc, đặc biệt là tính nguyên trạng của hệ thống tượng tròn làm đề tài luận án tiến sĩ. Luận án đặc biệt tìm hiểu sâu đến đặc điểm tạo hình; bố cục và dáng tượng; cấu trúc hình thể; nghệ thuật tạo khối và trang trí trên tượng người, tượng thú. Từ đó phân tích, đánh giá và xác định rõ những đặc điểm, phong cách nghệ thuật tạo tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII ở ĐBBB trong bối cảnh chung của tiến trình phát triển nghệ thuật điêu khắc tượng lăng mộ cũng như vị trí của loại hình nghệ thuật này trong nền mỹ thuật cổ Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu các nguyên nhân và tiền đề (hoàn cảnh lịch sử, bối cảnh xã hội, kinh tế, xã hội, quan niệm) cho sự ra đời lăng mộ và nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII ở ĐBBB. - Xác định những giá trị nghệ thuật tiêu biểu về hình thức, nội dung của các loại tượng tròn đặt trong hệ thống lăng mộ TK XVII - XVIII ở ĐBBB. - Chứng minh sự chuyển biến về tạo hình tượng lăng mộ Quận công đi từ ước lệ đến tả thực. Tìm ra đặc điểm nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII ở ĐBBB. Đặc điểm và sự chuyển biến đó chịu sự tác động của lịch sử, văn hóa xã hội, kinh tế và quan niệm của người Việt trong việc tạo dựng các công trình gắn với ý nghĩa tưởng niệm người chết ở thời kỳ này. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tập hợp, hệ thống, phân loại các tài liệu, tư liệu có liên quan đến tượng tròn trong lăng mộ TK XVII - XVIII ở ĐBBB. Xác lập vấn đề nghiên cứu tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII ở ĐBBB thông qua hình thức bố cục và dáng tượng; trang trí trên trang phục 3 tượng, tạo hình chân dung và bàn tay tượng; biểu hiện khối ước lệ và biểu hiện khối tả thực trên tượng. Phân tích để làm rõ những đặc điểm bố cục hình dáng, cấu trúc hình thể, khối, họa tiết, hoa văn trang trí trên tượng người, tượng thú ở 4 lăng mộ tiêu biểu TK XVII - XVIII, thuộc 3 tỉnh thành ở vùng ĐBBB. So sánh, đối chiếu nghệ thuật tượng lăng mộ TK XVII - XVIII với các thời kỳ trước và sau để làm nổi bật những đặc điểm chung giống nhau về tạo hình bố cục dáng, cấu trúc hình thể, đặc điểm khối, chạm khắc trang trí trên tượng và những đặc điểm riêng khác biệt về bố cục dáng tượng, khối, chạm khắc trang trí tượng lăng mộ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII, trong đó bao gồm tượng tròn và chạm khắc trang trí trên tượng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Được xác định cụ thể tượng trong lăng mộ ở vùng ĐBBB, trong đó tập trung vào 4 lăng mộ tiêu biểu của hai thế kỷ: lăng Vũ Hồng Lượng, (1660), làng Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Chủ nhân lăng này là tướng công, không phải Quận công. Do hệ thống lăng mộ Quận công TK XVII ở vùng ĐBBB rất hiếm thấy và không còn nguyên trạng, nên NCS lựa chọn lăng mộ này với mục đích lấy những dẫn chứng cụ thể nhằm minh chứng cho tính đặc thù của tượng lăng mộ có niên đại TK XVII; lăng Họ Ngọ, (1695), xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; lăng Dinh Hương, (1729), thôn Dinh Hương, xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; lăng Phạm Huy Đĩnh, (1777), thôn Cao Mỗ - (làng Voi đá, Ngựa đá), xã Chương Dương huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Việc chọn lựa 4 không gian lăng mộ trên làm đối tượng khảo sát chính của luận án là vì niên đại của kiến trúc, điêu khắc tượng ở mỗi lăng khá rõ và 4 cụ thể được hình thành ở các giai đoạn cụ thể ở các thế kỷ. Đặc biệt là tính nguyên trạng của toàn thể kiến trúc, điêu khắc tượng, trang trí trong những lăng này có biểu hiện đặc biệt về nghệ thuật. Thêm vào đó là căn cứ vào sự đa dạng về số lượng chủng loại tượng cùng xuất hiện và sinh động về tạo hình đặt hai bên đường linh đạo. Phạm vi thời gian: Hệ thống tượng tròn trong các lăng mộ Quận công tiêu biểu, còn nguyên trạng, được khởi dựng vào TK XVII và TK XVIII. Việc lựa chọn khung thời gian của hai TK với mục đích tìm hiểu sự chuyển biến tạo hình, những tác động làm chuyển biến về bố cục dáng, cấu trúc hình thể, tạo khối, đường nét chạm khắc, trang trí trên tượng. Đồng thời xác định rõ đặc điểm phong cách tượng lăng mộ thời Lê Trung Hưng (TK XVII - XVIII) ở vùng ĐBBB. 4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học 4.1. Câu hỏi nghiên cứu Nhìn nhận nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII cho thấy, quan niệm của người xưa về sự sống và cái chết được biểu hiện qua lăng mộ và nghệ thuật tượng lăng mộ. Giai đoạn này, tạo hình tượng người, tượng tượng thú có sự thay đổi rõ rệt so với giai đoạn trước, vậy do nguyên nhân, mục đích gì?. Làm thế nào để nhận diện nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII, cũng như vai trò, ý nghĩa của nó trong nền mỹ thuật cổ? 4.2. Giả thuyết khoa học Lăng mộ và tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII ở ĐBBB là một xã hội thu nhỏ, ở đó chia các tầng lớp địa vị khác nhau giữa người, linh thú và thú theo một quy luận nhất định, nhằm phản ánh quan niện về sự sống và cái chết của người xưa thông qua hình thức nghệ thuật. Do vậy, tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII đã tạo nên đặc điểm, phong cách nghệ thuật riêng biệt, đánh dấu sự thay đổi về nghệ thuật so với giai đoạn trước và các giai đoạn sau. Dòng nghệ thuật này được biểu hiện qua các yếu tố tạo hình như: bố cục và hình dáng; cấu trúc hình thể; nghệ thuật diễn đạt khối; cách 5 thức trang trí trên tượng; sự biểu cảm tinh tế ở chân dung và bàn tay nhân vật tượng người, cũng như sự sống động của tượng thú và linh thú ở nhiều tư thế, kiểu dáng khác nhau. 5. Phương pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài luận án, NCS vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: Phương pháp tổng hợp, phân loại, phân tích văn bản, tài liệu, kết hợp với phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh nhằm kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu về nghệ thuật tượng tròn trong lăng mộ từ trước đến nay. Qua việc tổng hợp, phân tích dựa trên tài liệu sẽ góp phần đưa ra cái nhìn tổng thể về đối tượng nghiên cứu, đồng thời có cứ liệu trong việc so sánh nội dung, hình thức biểu hiện, kỹ thuật chạm khắc, phong cách thể hiện các loại hình tượng tròn này trong nhiều giai đoạn lịch sử. Phương pháp điền dã/quan sát trực tiếp bằng mắt thường, so sánh ở góc độ mỹ thuật sẽ được vận dụng triệt để với mục đích làm rõ được hình thức nghệ thuật tượng lăng mộ TK VII - XVIII và chỉ ra sự giống, khác nhau về hình thức giữa tượng TK XVII và TK XVIII. Đồng thời thông qua so sánh để nghiên cứu và làm rõ những đặc điểm tạo hình bố cục hình dáng tượng, cấu trúc hình thể, diễn tả khối, chạm khắc trang trí của tượng người, tượng thú trong lăng mộ tiêu biểu giai đoạn này. Phương pháp điền dã, khảo sát thực địa, ghi chép cũng được sử dụng với mục đích xây dựng hệ thống dữ liệu hình ảnh, bản vẽ, bản rập và những thông tin cần thiết cho nghiên cứu của đề tài. Phương pháp so sánh, đối chiếu sẽ làm rõ được hình thức nghệ thuật tượng lăng mộ thế kỷ XVII - XVIII và chỉ ra sự giống, khác nhau về phong cách tạo tượng giữa thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII. Đồng thời thông qua so sánh, đối chiếu để nghiên cứu và làm rõ những đặc điểm tạo hình có tính tiêu biểu của tượng người, tượng thú trong giai đoạn này. Đặc biệt chú trọng vận dụng triệt để phương pháp tiếp cận và nghiên cứu ở chuyên ngành mỹ thuật nhằm làm rõ những đặc điểm bố cục hình dáng, 6 cấu trúc hình thể, tạo khối và trang trí trên tượng khi chúng được đặt trong môi cảnh thực tế, chịu sự tác động của không gian, ánh sáng ngoài trời. Phương pháp nghiên cứu liên ngành được sử dụng với mục đích tìm kiếm và áp dụng những thành tựu của một số ngành có mối liên hệ với mỹ thuật như: Văn hóa dân gian, khoa học xã hội, lịch sử địa lý, văn hóa, tập quán, tín ngưỡng... từ đó giúp cho NCS xác định được hình thái, cấu trúc, những biểu hiện của đối tượng nghiên cứu. Đồng thời, làm sáng tỏ hơn vẻ đẹp cũng như khẳng định phong cách đặc trưng riêng của nghệ thuật lăng mộ trong sự phát triển chung của nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. 6. Đóng góp mới của đề tài luận án 6.1. Về mặt khoa học Nghiên cứu nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII ở ĐBBB sẽ góp phần làm rõ giá trị nghệ thuật điêu khắc tượng tròn trong lăng mộ nói riêng, các công trình gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, tưởng niệm vùng ĐBBB nói chung. Việc tìm hiểu lý do cho sự xuất hiện của tượng người, tượng thú trong lăng mộ TK XVII - XVIII ở ĐBBB là góp phần làm rõ vai trò, chức năng, ý nghĩa của nghệ thuật tượng lăng mộ, qua đó thấy được những tác động làm biến đổi đặc điểm và định hình xu hướng phổ biến của tượng lăng mộ ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Ở phương diện lý luận và lịch sử mỹ thuật, đề tài luận án tiếp cận, nghiên cứu về nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ, qua đó để hiểu thêm một phần đời sống, văn hóa và các quan niệm về tôn giáo, tín ngưỡng, tưởng niệm của con người trong giai đoạn lịch sử này. Tổng hợp một số vần đề về lý luận, hình thức nghệ thuật trong việc tìm hiểu, nghiên cứu, gìn giữ nghệ thuật tượng lăng mộ TK XVII - XVIII vùng ĐBBB trong giai đoạn hiện nay. 7 6.2. Về mặt thực tiễn Đề tài nghiên cứu góp phần nhận diện rõ những đặc điểm tạo hình chung giống nhau và những đặc điểm tạo hình riêng khác biệt về hình thức kiểu dáng bố cục, cấu trúc hình thể, đặc điểm khối, chạm khắc trang trí ở hệ thống tượng người, tượng thú trong lăng mộ TK XVII - XVIII ở ĐBBB. Chỉ ra đặc điểm tạo hình và xác định phong cách tạo hình của tượng lăng mộ TK XVII - XVIII ở ĐBBB trong bối cảnh chung của ĐK truyền thống Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị thực tiễn, góp phần bảo tồn, gìn giữ giá trị nghệ thuật tượng lăng mộ TK XVII - XVIII ở ĐBBB trong giai đoạn hiện nay. Góp phần xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu ảnh kỹ thuật số về loại hình tượng tròn bằng đá ở Việt Nam, bổ sung thêm nguồn tư liệu cho nghiên cứu, giảng dạy và sáng tác tại đơn vị - nơi NCS công tác và ở các cơ sở đào tạo về mỹ thuật. Đóng góp của luận án là bổ sung thêm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu giá trị nghệ thuật tượng lăng mộ và làm căn cứ giúp các dòng họ trong việc bảo tồn, gìn giữ, tu bổ tượng lăng mộ trong giai đoạn hiện nay. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu bao gồm (7 trang), Kết luận (5 trang), Tài liệu tham khảo (10 trang) và Phụ lục (74 trang), nội dung của luận án bao gồm 3 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài (41 trang) Chương 2. Nghệ thuật tạo hình tượng lăng mộ Quận công TK XVII – XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ (59 trang). Chương 3. Bước đầu nhận định về nghệ thuật tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ (40 trang) 8 Chương1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Nghệ thuật điêu khắc lăng mộ đã hút được một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Nhưng tìm hiểu và nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, chuyên biệt về nghệ thuật tượng tròn ở không gian lăng mộ TK XVII - XVIII vùng ĐBBB đến nay chưa có công trình nào, đặc biệt là trong lĩnh vực mỹ thuật. Tuy nhiên, có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu của những tác giả (TG) đi trước đã đề cập tới đặc điểm tạo hình, giá trị nghệ thuật của tượng ở các loại hình di tích truyền thống, trong đó bao gồm một phần về tượng lăng mộ. Cụ thể như sau: 1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về nghệ thuật tượng của người Việt Nghệ thuật tượng của người Việt có bề dày lịch sử, ra đời từ thời dựng nước với nhiều di vật quý còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Những công trình nghiên cứu về loại hình nghệ thuật này có thể kể đến là Tượng Cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân tộc Việt [124] của tác giả Chu Quang Trứ. Ngay từ lời mở đầu ông khẳng định: Nghệ thuật tạo tượng là cốt lõi của nghệ thuật tạo hình cổ Việt Nam. Với chủ đích tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình cổ truyền của người Việt qua những pho tượng, nội dung công trình được chia làm 2 phần chính đề cập đến sự biến đổi của tượng cổ Việt Nam trong tiến trình lịch sử và nghiên cứu có hệ thống về tượng người, tượng thú trong một số di tích. Tác giả đã liệt kê sơ bộ những hình thức tượng và những hình thức có biểu hiện của tượng như: tượng người gắn ở chuôi dao găm; nhóm tượng voi và chim; tượng con hổ [124, tr 34]; tượng người đàn bà ở di chỉ Văn Điển, Hà Nội, thuộc Văn hóa Phùng Nguyên; tượng người đàn ông ôm đôi chó; bốn cặp tượng trai gái ân ái trên nắp thạp Đào Thịnh (Yên Bái). Về tượng lăng mộ, tác giả có những kiến giải riêng khi cho rằng: việc tạc tượng nhỏ bé, ngộ nghĩnh ở Lam Kinh là có chủ ý của triều đình và ông cũng 9 nêu ra sự khác nhau giữa tượng ở lăng mộ Lam Kinh và tượng ở lăng mộ thời Nguyễn là các con thú có khối ở phần chân được đục thủng. Từ một số nhận định trên, rác gải kết luận: Mỹ thuật thời Lê sơ với những thành tựu về điêu khắc lăng mộ đã tạo tiền đề cho xu hướng điêu khắc ngoài trời phát triển mạnh vào thời Lê Trung Hưng với lăng mộ của quan tướng và các dòng tộc lớn [124, tr 100 - 111]. Năm 1993 tác giả Trần Lâm Biền với công trình nghiên cứu Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống Việt (Tượng Phật - Tượng mồ - Phù điêu) [17]. Trong công trình này, ông phác ra một lược đồ và một diện mạo cái nhân bản tiềm ẩn trong truyền thống điêu khắc ở nước ta theo cách tiếp cận từ những tư liệu lịch sử, từ triết lý Phật giáo và các dòng tư tưởng từng chảy trong mạch máu văn hóa cổ của đất nước [17, tr 11]. Như thế, tác giả quan niệm những di sản truyền thống của cha ông là mạch máu để góp phần nuôi sống VHNT dân tộc bởi những ý nghĩa tiềm ẩn của nó. Trong mục “Vài nét về tượng đền và tượng mồ”, tác giả viết: Việc tạo tượng thần là một yêu cầu tự nhiên của quần chúng. Đó cũng là điều mà tầng lớp thống trị quan tâm. Cho nên, hầu như đền nào nổi tiếng cũng thường có tượng được tạo ra dưới dạng của một ông vua đương nhiệm. Thêm vào đó nhiều khi có cả tượng quan văn võ hay tượng phỗng quỳ hầu. Một trong những chứng tích ở đền thờ anh hùng văn hóa Phù Đổng Thiên Vương, đền Phú Đa. Sự xuất hiện của tượng người (quan văn, quan võ, người hầu) không chỉ có ở lăng mộ, mà nó đã xuất hiện trong một số ngôi đền [17, tr 167]. Năm 2008 tác giả Lê Tạo trong công trình Một số đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc đá truyền thống ở Thanh Hóa [99] đã làm sáng tỏ nét đặc thù tiêu biểu của nghệ thuật chạm khắc đá ở Thanh Hóa bằng cách phân tích, đối chiếu với NTĐK đá ở các địa phương khác. Bên cạnh đó, TG còn đưa ra một số phân tích, nhận định, đánh giá các đặc trưng này thể hiện qua tượng trong 10 một số lăng mộ thời kỳ Lê sơ và Lê - Trịnh. Những kiến giải này rất hữu ích cho NCS trong việc tìm hiểu thông tin về các biểu tượng văn hóa gắn với tượng trong lăng mộ, đặc biệt là những giá trị chung của nghệ thuật chạm khắc đá ở Thanh Hóa - nơi được cho là khởi đầu của nghệ thuật tạo tượng bằng đá, từ đó mà dấu vết của làng nghề đá thuộc Núi Nhồi vẫn còn được lưu lại đến ngày nay ở một số lăng mộ: Phạm Huy Đĩnh, Vũ Hồng Lượng. Trong công trình Nghệ thuật xứ An Nam của tác giả tác giả Henri Gourden, Trương Quốc Toàn dịch, Nxb Nhã Nam tái bản năm 2017 [61]. Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu các ghi chép liên quan và thực tế trải nghiệm của bản thân, tác giả đã đưa ra cái nhìn toàn cảnh về nguồn gốc và các xu hướng phát triển của nghệ thuật “xứ An Nam”, kèm theo 16 bức ảnh minh họa sống động cho các thành tựu mà nghệ thuật “xứ An Nam” đạt được tính đến thời điểm đó. Tác giả có một số nhận định bước đầu về nghệ thuật tượng của xứ An Nam như sau: Các bức tượng ở lăng mộ có hình dạng gần như thẳng đứng, nên trông như tạc bằng đá. Ngành chế tác tượng tôn giáo không phải là nơi để tìm kiếm tác phẩm ấn tượng nhất trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình này, mặc dù đây là lĩnh vực người An Nam tỏ ra có năng khiếu nhất. Chính ở đây tạo ra sự phân tách giữa các quy tắc ước lệ và thế giới tự nhiên, giữa truyền thống và cuộc sống thực tại [61, tr 85]. Với nhãn quan của một người phương Tây, qua thực tế và những nhận định bước đầu của tác giả là một giá trị quý báu. Tuy nhiên, nghệ thuật tượng của người An Nam nói chung, tượng lăng mộ của người Việt nói riêng còn ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa, lịch sử, tư tưởng khác sâu sắc hơn, đòi hỏi phải có thời gian trải nghiệm thực tế nhiều hơn nữa mới có thể thấu hiểu. Những nhận định bước đầu của tác gải là nguồn tư liệu quý báu giúp cho NCS cẩn trọng hơn trong vấn đề xác định những đặc điểm tạo hình tượng lăng mộ ở Việt Nam và ý nghĩa của chúng đối với cộng đồng, với chủ nhân dưới mộ. 11 Trong công trình Trí tuệ tạo hình người Việt, từ hình tượng quan âm nghìn mắt nghìn tay [68] của tác giả Đoàn Thị Mỹ Hương, thông qua khá nhiều pho tượng quan âm nghìn mắt nghìn tay trong các ngôi chùa ở Việt Nam (Thượng Phúc, Hội Hạ, Đa Tốn, Đào Xuyên, Bối Khê, Thượng Trưng, Đại phúc, Ngãi Cầu, Tam Sơn, Mễ Sở,...). Ở phần tư duy tạo hình Quan Âm nghìn mắt nghìn tay của người Việt, tác giả có đưa ra ý kiến về tạo tượng: Thường được thực hiện trong một phường thợ, hay tốp thợ, trong đó người thợ cả đóng vai trò chính cho “phần hồn” của tác phẩm, đây là người đưa ra những nét chạm cuối cùng quyết định một chân dung, một diện mạo cụ thể cho bức tượng. Thông qua ý kiến trong công trình, tác giả đã gợi ý cho NCS xác định rõ thêm loại hình tượng tròn trong lăng mộ TK XVII – XVIII không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà còn đáp ứng nhu cầu của người đương thời trong việc tạo tượng đặt trong lăng mộ, đặc biệt là tượng người. Bên cạnh đó, thông qua ý kiến xác định vai trò quan trọng của người thợ cả trong việc tạo tượng đã góp phần cho NCS hiểu rõ hơn vai trò của phường thợ, đặc biệt là người thợ cả và những bí quyết về nghề chủ yếu được truyền lại qua các thế hệ chủ yếu bằng sự đúc rút kinh nghiệm. 1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về lăng mộ Bộ chính sử đầu tiên viết về lăng mộ có lẽ là Đại Việt sử ký toàn thư [84], do những sử quan thời Lê viết. Bộ sử này đề cập đến quá trình xây dựng và trùng tu khu lăng mộ ở Lam Kinh của nhà Lê sơ, đồng thời có đề cập sơ lược đến hình thức điêu khắc tượng hầu và tượng thú ở một số lăng mộ vua mà chưa có những nhận định hay đánh giá về nghệ thuật tạo hình của tượng; Trong bộ sách Lê Quý Đôn tuyển tập [39] cũng nhắc đến một số cụm lăng mộ như lăng Trần Thủ Độ ở Thái Bình. Bộ sách điểm qua hiện trạng khu lăng, chỉ có một chi tiết nhỏ nhắc đến tượng hổ đá được đặt trong không gian này với tư cách như là một hổ thần cai quản vùng đất thuộc khuôn viên lăng mộ. 12 Đến thời Nguyễn, có nhiều công trình biên niên sử, trong đó công trình liên quan đến lăng mộ là Lịch triều hiến chương loại chí [29], hay được hiểu là phép tắc các triều đại, chép theo thể phân loại, do Phan Huy Chú soạn trong 10 năm (1809 - 1819); Công trình Đại Nam Nhất thống chí [98] được quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn dưới thời vua Tự Đức, có 28 tập với 31 quyển, chép tay trên bản thường, khổ 28 và 16 cm. Mỗi quyển chép về một tỉnh và được trình bày theo các mục, trong đó mục 16 có ghi chép về lăng mộ của vua và quan. Nhìn chung, lăng mộ giai đoạn TK XVII - XVIII còn được nhắc đến trong một số công trình khác như Vũ Trung tùy bút [58] của Phạm Đình Hổ, nhưng chỉ mang tính chất giới thiệu, miêu tả, chưa đi sâu vào phân tích từng thành tố trong quần thể kiến trúc cũng như các yếu tố tạo hình của nghệ thuật tượng trong lăng mộ. Một số công trình sau này như Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam [115] của Trần Mạnh Thường cũng được viết mang tính chất thống kê danh mục một số ngôi đình, đền, chùa miếu, am, lăng mộ (Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông, Lê Túc Tông) [115, tr 386 - 388], trong đó phần mô tả về kiến trúc là chính, phần điêu khắc chỉ được nhắc đến qua tên gọi và vị trí đặt tượng. Khu lăng mộ Lam Kinh của các vị vua nhà Lê Sơ cũng được nhiều học giả người Pháp quan tâm như Léopold Michel Cadière (1869-1955), sang Việt Nam với tư cách là linh mục truyền đạo nhưng lại được biết nhiều với tư cách một nhà sử học, ngôn ngữ học, văn hóa học và dân tộc học. Học giả L. Bazacier có hai công trình nghiên cứu Các lăng vua đời Hậu Lê [15] và Nghệ thuật Việt Nam [14] được thực hiện dưới sự bảo trợ của trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO). Hai công trình này có đề cập đến một số thông tin về lăng mộ đời Hậu Lê như lăng hoàng hậu Nguyễn Thị Ngọc Huyền, hay việc khai quật hầm mộ (nằm giữa lăng vua Lê Thái Tổ và vua Lê Hiến Tông) Trong công trình của mình, L. Bazacier có những nhận định về sự tương đồng khi đối chiếu với lăng mộ nhà Minh - Trung Quốc. Sự thay đổi ở khu lăng mộ Lam Kinh cũng được mô tả khá chi tiết trong các nghiên cứu Khu di tích Lam 13 Kinh, Thanh Hóa [91] của Đặng Kim Ngọc và Phạm Như Hổ thực hiện năm 1980, Khảo sát quần thể di tích Lam Kinh -Thanh Hóa [45] của Nguyễn Huy Hạnh thực hiện năm 2000. Công trình Di tích Lam Sơn [52] của Nguyễn Hảo, Xuân Long, gồm 90 trang, giới thiệu khái quát về núi sông, con người và lịch sử Lam Sơn, mảnh đất thiêng, quê hương của anh hùng Lê Lợi, giới thiệu khu di tích Lam Kinh: điện miếu, lăng mộ, nghệ thuật điêu khắc, trang trí. Trong công trình Hà Bắc ngàn năm văn hiến [9] hai tác giả Phương Anh và Thanh Hương đã giới thiệu chi tiết về kiến trúc và điêu khắc của 08 khu di tích thời Lý ở Kinh Bắc. Tác giả Vũ Tam Lang trong công trình Kiến trúc cổ Việt Nam [78] giới thiệu sơ qua hai lăng mộ TK XVII - XVIII ở Hiệp Hòa, Bắc Giang là lăng họ Ngọ, (1697) và lăng Dinh Hương, (1729). Công trình Các vua và hoàng hậu táng ở Lam Kinh [129] của Lê Văn Viện đề cập sơ lược về lịch sử, văn hóa vùng đất Lam Sơn và quá trình xây dựng điện Lam Kinh, các di tích điện miếu, đền thờ, lăng mộ... của các Vua và Hoàng hậu ở Lam Kinh, công trình này cung cấp những kiến thức làm rõ hơn về thân thế và sự nghiệp của các Vua và Hoàng hậu được an táng tại đây. Bài viết “Lăng mộ bi ký ở Đa Căng, xã Vạn Hoà, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá” [81, tr 65 - 68] của Vũ Duy Mền cho chúng ta biết thêm về một hình thức lăng mộ khác trong hệ thống lăng mộ ở nước ta. Bài viết “Thử xác định vị trí lăng mộ vua Lê Nhân Tông ở khu di tích Lam Kinh (Thanh Hoá)” [38] của Nguyễn Văn Đoàn đã đưa ra cách tiếp cận mới trong việc nghiên cứu liên quan đến lăng mộ thời Lê ở Thanh Hóa. Công trình Di tích lịch sử văn hoá Đền Đô [110] của Nguyễn Đức Thìn có giới thiệu toàn diện về khu di tích đền Đô, trong đó có đề cập đến các lăng mộ thời Lý. Tác giả Vũ Đức Thơm với công trình “Về di tích lăng mộ thời Trần ở Thái Đường - Hưng Hà - Thái Bình” [117, tr 110 - 114] cung cấp thêm một số tư liệu quan trọng về tượng lăng mộ thời nhà Trần. Có thể nói, những công trình nêu trên phần nào giới thiệu khái quát về một số quần thể di tích lăng mộ, trong đó có giới thiệu đến những yếu tố kiến trúc, điêu khắc, trang trí trong lăng mộ. Việc tổng hợp một cách bài bản và có 14 hệ thống sẽ giúp cho NCS có được một cách tiếp cận tổng thể trong việc nghiên cứu về lăng mộ nói chung và nghệ thuật tượng trong không gian lăng mộ TK XVII - XVIII ở ĐBBB nói riêng. 1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về điêu khắc lăng mộ giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII ở châu thổ Bắc Bộ Công trình Mỹ thuật của người Việt [103] của hai tác giả Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng xuất bản năm 1989 có đề cập đến lăng mộ TK XVII như lăng Họ Ngọ, Vũ Hồng Lượng [103, tr 177 - 178]. Lăng mộ TK XVIII được nhắc đến: Phú Đa, Họ Đỗ, Nguyễn Diễn, Dinh Hương, Bầu, Cẩm Bào, Nội Tròn, Đoàn Văn Khôi [103, tr 204 - 206]. Công trình này chỉ điểm qua một số hình thức điêu khắc tượng lăng mộ mà chưa làm rõ những đặc điểm tạo hình bố cục, cấu trúc hình thể, đặc điểm khối và chạm khắc trang trí của tượng. Năm 1996 tác giả Nguyễn Tiến Vĩnh với khóa luận tốt nghiệp Điêu khắc lăng mộ Thanh Hóa [138] đã đi sâu nghiên cứu lăng mộ vua chúa ở Thanh Hóa từ TK XV đến TK XVIII. Nội dung của công trình này gồm 4 chương: Chương 1. Lịch sử điêu khắc đá lăng mộ Thanh Hóa; Chương 2. Tư tưởng xây lăng mộ; Chương 3. Kiến trúc lăng mộ; Chương 4: Không gian điêu khắc lăng mộ. Tác giả tập trung nghiên cứu không gian của lăng mộ, phần tượng ở lăng mộ được tác giả giới thiệu trong phần cuối (thể loại tượng trong lăng mộ, cách tạo khối). Năm 1997 trong công trình ... Sinh thời ông có công đức tu sửa đền thờ Phạm Ngũ Lão và đặt ra lệ để dân làng thờ cúng. Lăng Vũ Hồng Lượng khởi dựng năm Canh Tý - 1660, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3 thời Lê Thần Tông. Công trình này chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, trang trí bằng đá: Hai nhà bia được chạm khắc cầu kỹ những hoa văn, họa tiết, phù điêu hình người, linh thú.... Đặc biệt là hệ thống tượng người, tượng linh thú và tượng thú đặt ở nhiều vị trí trong lăng mộ. Lăng mộ Họ Ngọ - Ngọ Công Quế - Phương Quận công Ngọ Công Quế thuộc thôn Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Lăng có niên hiệu Chính Hòa thứ 18 - năm Đinh Sửu (1697) - triều đại Lê Huy Tông, Ngọ Công Quế được huân phong: Đặc tiến kim tử, vinh lộc đại phu giữ chức 30 phó tả thị nội thư, tả binh phiên, tư lễ giám, Đô thái giám và được phong tước Lộc hầu. Ông là bậc văn võ song toàn, với việc nước thì tận trung phụng sự, với quê hương thì hết lòng quan tâm giúp đỡ Vì có nhiều công lao trong việc dẹp loạn, an dân, do đó ông được triều đình nhiều lần ban thưởng. Ông đem bổng lộc đó về quê kiến tạo, tu sửa đình, chùa, cầu cống. Dân Tổng Quế Chạo ngày ấy phong ông làm hậu thần thờ phối hưởng cùng thành hoàng ở đình làng. Về nghệ thuật, đây là công trình được đánh giá là có giá trị điển hình và đặc thù của nghệ thuật chạm khắc đá thuộc giai đoạn cuối thế kỷ XVII. - chuẩn mực trong cách bài trí, đặt tượng lăng mộ, hiện vật thờ... Hiện trạng kiến trúc cổng, tường bao, tháp mộ... còn khá nguyên vẹn do phần lớn công trình được sử dụng bằng đá. Lăng mộ Dinh Hương thuộc thôn Dinh Hương, xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, ông sinh năm 1688 tại làng Cẩm Xuyên, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Năm 1730 - triều Lê Duy Phường ông được cử làm Dịch quân thị hầu, thị đội và sau đó làm thái giám. Dưới triều Lê Ý Tông La Đoan Trực hai lần được cử đi xứ phương Bắc (1735, 1739). Sang năm 1740, triều Lê Hiển Tông ông được giao cầm quân đi dẹp loạn ở vùng thuộc đạo Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương. Ông mất ngày mùng 9 tháng 6 năm kỷ tỵ (1749), thọ 61 tuổi. Đến năm 1754 ông được vua phong là Phúc thần trung cẩn đại vương. Đây là một trong số những lăng mộ sớm nhất của TK XVIII, được cho là mang nhiều giá trị nghệ thuật đặc biệt thông qua kiến trúc, đặc biệt là hệ thống điêu khắc, trang trí... phản ánh quan niệm của chủ nhân lăng mộ. Các thành phần kiến trúc bao gồm nhà bia, khu mộ, đàn thờ. Theo đó, đây cũng là một lăng có hai trục linh đạo duy nhất trong hệ thống lăng mộ Quận công thời Lê Trung Hưng. Lăng mộ Phạm Huy Đĩnh thuộc thôn Cao Mỗ (làng Voi đá, Ngựa đá), xã Chương Dương huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Phạm Huy Đĩnh - Thiều Quận công. Ông mất năm Ất Mùi (1775). Khi còn nhỏ Phạm Huy Đĩnh là người hiếu động, tính khí khác người. Lớn lên, ông là người có quý tướng, 31 sớm rèn luyện văn chương võ nghệ theo nếp người xưa. Ông đỗ cử nhân rồi xuất thân ban đầu làm Thị nội ở phủ Tĩnh Vương, làm mọi việc đều theo ý chúa (Chúa Trịnh), phàm việc nghị án, tuần sát đều rất mực trung thành với phủ liêu, sau đó được bổ nhiệm làm Tể tướng. Khi mất ông được phong chính trực huân du Đại vương. được triều đình ban cho việc được phép tạo dựng một lăng mộ ở quê nhà. Điều này còn được ghi lại trên hai bia tròn hiện còn tại lăng mộ và bảng nhãn do Thượng thư Lê Quý Đôn viết. Thuộc một trong số những lăng mộ có niên đại cuối TK XVIII, đáng quan tâm ở công trình này là hệ thống điêu khắc tượng tròn, bia tròn đặt cùng với các loại tượng khác trong lăng. 1.3.1.3. Kiến trúc lăng mộ Qua khảo sát hệ thống lăng mộ ở Việt Nam cho thấy một diện mạo kiến trúc được biểu hiện đa dạng về các thành phần kiến trúc, mặt bằng, không gian và cảnh quan khác nhau. Kiến trúc lăng mộ các vua, chúa khá to lớn, bề thế bởi sự cấu thành của không gian các điện, núi, ao hồ, nhà bia, lăng nên thường thấy nhiều thành phần kiến trúc phụ trợ được xây dựng dọc và bao quanh hai bên trục linh đạo kéo dài từ cổng vào tới khu mộ/tẩm/khu thờ. Kiến trúc lăng mộ chủ yếu được hình thành với đặc trưng là việc sử dụng chất liệu đá để tạo nên kiến trúc, tượng, trang trí. Hệ thống lăng mộ các Quận công, quan tướng TK XVII - XVIII ở ĐBBB đa số có quy mô kiến trúc vừa phải, mặt bằng với ít các thành phần kiến trúc kèm theo. Do đó, tính thống nhất về kiến trúc và mặt bằng kiến trúc cũng dễ được nhận diện và không phức tạp như các lăng vua. Điều này thể hiện sự khiêm tốn của các quan tướng khi chủ ý tạo dựng những công trình kiến trúc lăng mộ bằng đá nhỏ hơn kiến trúc lăng mộ của các vua, chúa. Mặt bằng và các thành phần kiến trúc Từ xa xưa ông cha ta vẫn thường quan niệm: Thứ nhất Dương cơ, thứ nhì Âm phần. Đó là câu nói đến tầm quan trọng của ngôi nhà dành cho người chết. Ngôi nhà khi con người đang sống, cư ngụ, chúng ta gọi là Dương cơ, 32 Âm phần là phần mộ, ngôi nhà dành cho người chết, là nơi trú ngụ của linh hồn thuộc thế giới bên dưới. Lăng mộ có mặt bằng đẹp, hợp lẽ phong thủy có ý nghĩa rất lớn đối với sự hưng thịnh, phát triển của dòng họ. Với quan niệm như vậy, việc tìm mặt bằng đất, chọn hướng và xây dựng ngôi nhà cho linh hồn của người đã khuất là công việc được người đời coi trọng không kém gì việc tìm mặt bằng, chọn hướng xây nhà ở cho người đang sống. Mặt bằng lăng mộ Quận công, quan tướng TK XVII - XVIII ở ĐBBB phổ biến nhất vẫn là dạng mặt bằng hình chữ nhật dọc và mặt bằng hình vuông với đường linh đạo kéo dài từ cổng vào khu mộ. Tùy vào sự lớn mạnh của dòng họ, chủ nhân mà khuôn viên mặt bằng có tỉ lệ lớn nhỏ, dài ngắn khác nhau. Trên mặt bằng tổng thể còn được chia thành nhiều mặt bằng chức năng: mặt bằng cổng vào, mặt bằng khu hành lễ, mặt bằng khu mộ. Sự linh động trong việc kiến tạo nên một không gian gắn với ý nghĩa tưởng niệm đã tạo nên đủ đầy các lớp ý nghĩa tâm linh, công năng sử dụng, hợp tự nhiên, hợp phong thủy, đặc biệt là vẻ trang nghiêm kính cẩn hướng về linh hồn chủ nhân như khi còn sống. [PL2, tr 171 - 174] Khảo sát trực tiếp hệ thống lăng mộ Quận công tiêu biểu thời Lê Trung Hưng cho thấy mặt bằng kiến trúc lăng mộ được biểu hiện ở hai dạng: Mặt bằng kiến trúc với một đường linh đạo và mặt bằng kiến trúc với hai đường linh đạo. Trong đó, mặt bằng kiến trúc với một đường linh đạo khá phổ biến ở hầu hết các lăng mộ thuộc hai thế kỷ này như: Lăng Nguyễn Văn Nghi (1631) với các thành phần kiến trúc được xây dựng trên trục này: kiến trúc cổng bằng gạch có mái vòm - trên nóc cổng có đặt tượng rồng. Chiếu thẳng sang hai bên là thành phần kiến trúc của hai nhà bia có mái che (một tầng, bốn mái). Thẳng đường linh đạo vào trong cùng là khu vực thờ với kiểu nhà gỗ một tầng, hai mái lợp ngói, được cho là xây dựng sau này. Với một không gian được rộng lớn nhất trong hệ thống lăng mộ TK XVII, được bao bọc bởi hệ thống tường đất bao quanh nhằm ngăn cách không gian lăng mộ với ngoài lăng mộ. Trước đường vào là hệ thống các ao hồ, cánh đồng bao 33 quanh, cách xa khu vực dân sinh, điều này thể hiện việc lựa chọn không gian, mặt bằng kiến trúc phù hợp với phong thủy và ý nghĩa của việc xây lăng mộ. Mặt bằng kiến trúc lăng Vũ Hồng Lượng (1660) với một không gian cảnh quan khá hài hòa bởi bốn bề đều thoáng mát, ao hồ bao quanh. Nằm trong quần thể của đền và chùa, nên lăng mộ này cũng có nét riêng biệt bởi là kiến trúc đá lộ thiên. Với một diện tích khá bé nhỏ so với các lăng mộ quan tướng khác, mặt bằng lăng này bao gồm ba thành phần kiến trúc cơ bản: kiến trúc cổng với sự liên kết hồ e líp, dưới và cạnh hồ có các phù điêu hình cóc, cá. Thành phần tiếp theo là kiến trúc nhà bia bằng đá, một nhà bia kiểu kiến trúc hai tầng tám mái và một nhà bia kiểu kiến trúc một tầng bốn mái. Vào bên trong là thành phần kiến trúc đài. Đây được cho là khu vực quan trọng của lăng mộ, nên hệ thống tượng người, linh thú và các phù điêu lân, chim được chạm khắc khá nhiều gắn với hai bên lan can. Lăng này được bao bọc bởi hệ thống tường bao bằng gạch và thấp. Mặt bằng kiến trúc lăng Họ Ngọ, được cho là phức tạp nhất trong hệ thống lăng mộ có niên đại TK XVII, được chia thành nhiều không gian thành phần khác nhau, do đó mặt bằng cũng được phân tách bởi hệ thống tường bao kiên cố bằng đá. Thứ tự thành phần kiến trúc từ ngoài vào bao gồm: cổng lăng với kết cấu hai tầng, tám mái bằng đá, cấu trúc vòm được ghép bằng những phiến đá khối lớn liên kết với hệ thống tường bao bằng đá ong bao quanh lăng mộ. Tiếp đó là khu vực hành lễ, nơi đặt hệ thống các nhang án và sập thờ cùng với hệ thống tượng. Đặc biệt hơn, lăng này có hệ thống tường bao quanh tháp mộ hai tầng bốn mái - thuộc thành phần kiến trúc thứ hai. Sau hệ thống tường bao tháp mộ là thành phần kiến trúc thứ ba với hai nhà bia có cấu trúc hai tầng bốn mái. Mặt bằng lăng mộ này cho thấy sự phức tạp của kiểu thức mặt bằng nội công ngoại quốc, sự xuất hiện của các lớp cổng và tường bao có ý nghĩa bảo vệ tính toàn vẹn của lăng mộ Thuộc giai đoạn cuối TK XVIII, lăng Phạm Huy Đĩnh (1777), hiện trạng cho thấy một không gian kiến trúc với các thành phần kiến trúc cổng 34 theo kiểu nghi môn (mới), không có mái che, khu thờ xây dựng bằng gạch (đầu TK XVII), không gian phía trước khu thờ có hệ thống tượng, kiến trúc của hai bia tròn hình trụ và phía trong cùng là mộ được xây bằng đá ong. Trường hợp mặt bằng kiến trúc với hai đường linh đạo rất hiếm gặp, trường hợp mặt bằng lăng Dinh Hương (1729) với hai đường linh đạo là một điểm nhấn đặc biệt cho thấy sự khác lạ trong hệ thống lăng mộ thời Lê Trung Hưng. Với mặt bằng khá rộng lớn, lăng có hai đường linh đạo: đường thứ nhất nối thẳng từ cổng vào tới khu mộ, trên trục linh đạo này không có các thành phần kiến trúc khác, bên trái có kiến trúc nhà bia, bên phải là kiến trúc đàn thờ - nơi đặt ngai thờ ở tầng trên, nhang án và các tượng nghê, lân, voi ở mặt bằng dưới. Hệ thống tường bao bằng đá ong khá thấp, do đó không gian mặt bằng kiến trúc ở lăng mộ này khá hài hòa cùng cảnh quan chung quanh. Với những biểu hiện cụ thể về mặt bằng kiến trúc, các thành kiến trúc lăng mộ TK XVII - XVIII như đã nêu trên cho thấy phong cách chung về đặc điểm kiến trúc lăng mộ với một đường linh đạo gắn liền với hệ thống tượng lăng mộ đặt dọc hai bên được áp dụng phổ biến và đồng nhất tạo nên một quần thể lăng mộ chứa đựng sự trang nghiêm, thiêng liêng. Trường hợp xuất hiện hai đường linh đạo ở lăng Dinh Hương và một số ít lăng khác trong cùng niên đại được cho là hiếm gặp. Tuy nhiên, với sự chuyển biến về quan niệm của con người đương thời, chủ nhân, điều kiện lịch sử, quan niệm thẩm mỹ... thì việc ở lăng Dinh Hương có cùng với hệ thống tượng khác biệt cũng là phù hợp trong tiến trình của dòng nghệ thuật tưởng niệm ngoài trời gắn với các Quận công, quan tướng đương thời. Hướng lăng mộ Theo quan niệm của người Việt, việc lựa chọn hướng làm nhà, hướng đặt bàn thờ luôn được quan tâm và coi trọng bậc nhất với mong muốn những điều tốt lành đến với gia chủ. Đối với những công trình lăng mộ của vua chúa, ngoài việc phải đáp ứng về không gian rộng lớn, hợp tuổi còn phải có đồi, núi bao quanh (tả thanh long, hữu bạch hổ), sông hồ trước mặt.... Căn cứ theo đó, 35 hệ thống lăng mộ các Quận công, quan tướng thời Lê Trung Hưng cũng vận dụng những yếu tố phong thủy của các bậc vua chúa vào không gian lăng mộ của mình, trong đó, việc lựa chọn hướng chính Đông, chính Nam hoặc Đông Nam để đặt lăng mộ là xu hướng phổ biến. Ở góc độ Mỹ thuật khi tiếp cận với không gian, cảnh quan lăng mộ, đặc biệt là hệ thống tượng lăng mộ đã tạo nên những hiệu quả nghệ thuật sinh động khi ánh sáng đi qua. 1.3.2. Khái quát tượng lăng mộ Cho đến nay, người ta mới chỉ xác định được sự xuất hiện của loại hình tượng lăng mộ ở Việt Nam qua hệ thống các lăng mộ vua Trần ở An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh; vua Lê ở Lam Kinh, Thanh Hóa; quan tướng TK XVII - XVIII ở nhiều tỉnh thành trên đất Bắc bộ và lăng mộ các vua Nguyễn ở Huế, chưa tìm thấy lăng mộ, tượng lăng mộ nào có niên đại từ thời Lý trở về trước. Nghệ thuật tượng lăng mộ TK XVII - XVIII đã có một quá trình hình thành, phát triển cùng với các loại hình nghệ thuật tượng cổ khác của người Việt (tượng Phật trong kiến trúc chùa, tượng thần, mẫu, hậu, người hầu, các quan gắn với kiến trúc đền, miếu,). Hệ thống tượng lăng mộ TK XVII - XVIII xuất hiện khá đa dạng bởi nhiều thể loại tượng tròn đi theo từng cặp đôi đặt đối xứng nhau qua đường linh đạo: tượng người, nghê, lân, sấu, voi, ngựa, chó. Qua hệ thống lăng mộ thời Lê Trung Hưng, đặc biệt là các lăng mộ điển hình thuộc phạm vi khảo sát chính của luận án: lăng Vũ Hồng Lượng, Họ Ngọ, Dinh Hương, Phạm Huy Đĩnh, chúng ta có thể tìm thấy cơ bản hai loại hình tượng lăng mộ là tượng người và tượng thú. Ở mỗi lăng, các thể loại tượng có số lượng không giống nhau: lăng Vũ Hồng Lượng (TK XVII) có 2 cặp tượng người (mỗi cặp được thể hiện 2 hình tượng người hoàn thiện), 2 tượng nghê, 2 tượng lân và 2 tượng chó. Lăng Họ Ngọ (TK XVII) có 2 tượng người, 2 tượng nghê, 2 tượng sấu, 2 tượng voi, 2 tượng ngựa và 2 tượng chó. Đến TK XVIII, lăng Dinh Hương có 6 tượng người (trong đó bao gồm 2 36 tượng người gắn liền với 2 tượng ngựa, 2 tượng người canh cổng, 2 tượng người hầu gắn với đài thờ), 2 tượng voi, 2 tượng nghê và 2 tượng lân; lăng Phạm Huy Đĩnh có 10 tượng người, 2 tượng voi, 2 tượng ngựa. Đó là những đối tượng chính mà NCS lựa chọn để tập chung tìm hiểu, nghiên cứu trong luận án. Bên cạnh đó, ở một số lăng mộ khác có cùng niên đại TK XVII - XVIII, chúng ta cũng tìm thấy các loại tượng người, tượng thú như: lăng Nguyễn Ngọc Trì ở Bắc Ninh với 4 tượng người (bị mất cấu trúc đầu), 2 tượng lân, 2 tượng voi và 4 tượng chó; lăng Phục Chân Đường với 4 tượng người, 4 tượng chó, 4 tượng thú lạ (trong đó có 2 tượng thú dấu đầu, không nhìn rõ đặc điểm chủng loài); lăng Bùi Nguyễn Thái ở Bắc Ninh với 2 tượng người, 2 tượng ngựa; lăng Bầu với 8 tượng người, 2 tượng voi, 2 tương ngựa và 6 tượng chó; lăng Nội Duệ với 2 tượng người, 2 lân và 2 tượng ngựa, 6 tượng chó; lăng Phạm Đôn Nghị với 2 tượng người, 2 tượng ngựa và 2 tượng chó; lăng Phạm Mẫn Trực với 2 tượng voi, 2 tượng chó Khi phân loại tượng lăng mộ để nghiên cứu, NCS nhận thấy một số loại tượng người, thú trong một số lăng mộ có niên đại không đồng nhất, một số tượng mới được đưa vào dẫn đến không gian vị trí bị thay đổi, do đó, NCS không đưa những lăng mộ này vào danh sách đối tượng chính của luận án. Trong khả năng còn hạn chế của mình, việc lựa chọn hệ thống tượng lăng mộ còn nguyên trạng cùng với kiến trúc, sinh động về chủng loại tượng tròn, thống nhất về niên đại tượng, phong cách tượng sẽ giúp NCS có một cách nhìn bao quát hơn, rõ ràng hơn về những xu hướng, đặc điểm nghệ thuật tượng lăng mộ của cả chiều dài hai thế kỷ. Nhìn theo tương quan chung, hệ thống tượng người, tượng thú trong lăng mộ TK XVII - XVIII đa phần đều có những đặc điểm tạo hình thống nhất theo từng loại. Sự khác nhau chỉ là số lượng tượng trong hệ thống lăng mộ TK XVII có phần ít hơn trong lăng mộ TK XVIII. Phong cách nghệ thuật tượng lăng mộ cũng có nhiều phần tương đồng về bố cục hình dáng, cấu trúc 37 hình thể, đặc điểm tạo khối, trang trí trên tượng. Đặc biệt là phong cách tạo hình tượng lăng mộ có xu hướng đi từ ước lệ ở TK XVII đến tả thực nhiều phần ở TK XVIII. 1.3.2.1. Phân loại tượng lăng mộ Tượng lăng mộ TK XVII - XVIII được phân loại cụ thể thông qua hai thể loại chính: Tượng người và tượng thú. Tượng người bao gồm: tượng quan hầu, tượng lính hầu và tượng người hầu ở các lăng Vũ Hồng Lượng, Họ Ngọ, Dinh Hương, Phạm Huy Đĩnh, tất cả đều ở tư thế đứng hầu, canh hoặc đứng chầu nghiêm trang với trang phục chỉnh tề, đầu đội mũ, bụng thắt dây thao hoặc đai lưng, mắt nhìn thẳng hoặc chếch xuống dưới, chân đi giày đối với tượng quan và tượng lính hoặc để trần đối với tượng người hầu, hai tay cầm hốt, bài vị hoặc các loại binh khí tương ứng với vai trò, chức năng của từng vị trí. Được đánh giá là hệ thống tượng quan trọng trong việc xác định nghệ thuật tượng tròn gắn với không gian tưởng niệm ngoài trời. Đặc biệt là nội dung, ý nghĩa của chúng gắn với sự sống chết của con người, nên những tượng người được chú trọng hơn các loại tượng khác đặt trong lăng. Tượng thú trong lăng mộ Quận công, quan tướng TK XVII - XVIII ở ĐBBB được chia thành hai loại chính, loại thứ nhất là tượng các con thú tưởng tượng: rồng, nghê, lân, sấu (tượng nghê ngồi chầu nhang án hoặc cây hương như ở các lăng Vũ Hồng Lượng, Họ Ngọ, Dinh Hương, Nội Duệ; tượng lân trong tư thế đứng, bò ở các lăng: Họ Ngọ, Dinh Hương, Chúa Đôi và tượng sấu bò (kết cấu dưới dạng thành bậc) ở lăng Vũ Hồng Lượng. Tượng rồng rất hiếm khi xuất hiện trong lăng mộ các quan lại thời kỳ này. Trường hợp lăng Nguyễn Văn Nghi có 1 bức tượng rồng trên nóc cổng được cho là dị biệt bởi tính chất riêng, trong quan niệm riêng của chủ nhân, không phổ biến ở loại hình lăng mộ cùng thời). Loại thứ hai là tượng các con thú có thật bao gồm: tượng voi, ngựa, chó (tượng voi nằm phục có bố cục thân hình to lớn là loại tượng bề thế nhất 38 trong hệ thống tượng lăng mộ của người Việt nói chung, tượng lăng mộ quan lại TK XVII - XVIII nói riêng như ở lăng Dinh Hương, Phạm Huy Đĩnh, Quận Mãn, Nguyễn Công Triều; tượng ngựa đứng ở các lăng Nguyễn Văn Nghi, Dinh Hương, Quận Mãn, có nhiều biểu hiện về loài ngựa chiến, do đó, chúng có tỉ lệ khá lớn và tương đương với loài ngựa thật được huấn luyện để tham gia trong quân đội của triều đình hoặc làm phương tiện đi lại của các quan tướng. Tượng chó ngồi là loại tượng khá phổ biến ở nhiều lăng mộ. Với hình thức tỉ lệ bé nhỏ, loại tượng này thường gắn với vai trò canh giữ, canh gác, do đó chúng thường đặt ở các vị trí ngoài ngoài cổng hoặc phía trước khu thờ, khu mộ các chủ nhân (lăng Vũ Hồng Lượng, Họ Ngọ,...) Bên cạnh hai loại tượng trên, trong một số lăng mộ TK XVII - XVIII còn xuất hiện một số loại tượng người, thú được cho là không phổ biến như: tượng Phỗng, tượng trâu nằm, tượng hạc ở lăng Đào Quang Nhiêu; tượng thú dấu đầu ở lăng Phục Chân Đường, tượng hổ ở lăng Nguyễn Công Triều, Quận Mãn, chúng đã góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú về chủng loại tượng lăng mộ TK XVII - XVIII ở ĐBBB. Tuy nhiên chúng không tạo thành xu hướng hay phong cách tượng cụ thể trong thời kỳ này. Đã có nhiều luận điểm cho rằng nghệ thuật tượng lăng mộ Việt Nam có ảnh hưởng của Trung Quốc, từ cách bài trí tượng cũng như đến cấu trúc, tạo hình của tượng. Tuy nhiên, những nhận định này chủ yếu dựa theo lý thuyết tiếp biến văn hóa, xem lăng mộ là một loại hình kiến trúc được du nhập từ Trung Quốc nên những tượng trong lăng mộ ít nhiều bị ảnh hưởng. Để trả lời cho nhận định này cần tìm hiểu những đặc trưng của các hệ thống tượng trong lăng mộ qua bảng phân loại ở phụ lục, đồng thời trả lời được câu hỏi tại sao loại hình này lại được hình thành và tồn tại trong nền văn hóa của người Việt. Nghiên cứu sinh phân tích những đặc trưng về tượng thú trong lăng mộ của người Việt nói riêng, cũng như tượng thú ở một số công trình kiến trúc gắn với tôn giáo, tín ngưỡng để làm rõ cho luận điểm có hay không ảnh hưởng của tượng ngoại lai trong yếu tố tạo hình của tượng lăng mộ Quận 39 công, quan tướng ở ĐBBB. Để làm rõ được điều này, chúng tôi đi từ “mỹ cảm” của dân tộc để lý giải sâu sắc hơn tại sao tượng của người Việt lại có tạo hình như vậy? Theo nhà nghiên cứu Cao Xuân Hạo: Mỹ cảm là sự cảm thụ trực giác về sự hài hòa giữa tính nhất thể và tính đa dạng, giữa tính đồng nhất và tính dị biệt, giữa động và tĩnh, giữa sự hợp nhất và sự phân hóa [47, tr 378]. Đây cũng là một khái niệm quan trọng trong mỹ học và được tác giả Lê Lưu Oanh cụ thể hơn khi cho rằng: Mỹ cảm (aesthetich) là trạng thái tình cảm và ý thức khi con người tiếp xúc trực tiếp với đối tượng có khả năng tạo nên niềm hân hoan, vui sướng, thích thú, hoặc thương cảm, đau xót, buồn bã hoặc mến phục, tôn kính để từ đó, con người có một khát khao mãnh liệt bày tỏ những xúc cảm, rung động, ấn tượng, suy nghĩ và tư tưởng của mình đối với đối tượng đó bằng các hình tượng nghệ thuật [93, tr 22 - 23]. Trong một tác phẩm điêu khắc như tượng thú, người Việt có xu hướng về quy mô hình thức tượng vừa phải, không thích to quá hoặc nhỏ quá, ít phô trương và mang tính hòa đồng nhiều hơn là tính nổi trội. Tượng được kết hợp những đường nét trang trí hài hòa, mềm mại, không cứng nhắc. Chủ đề của những bức tượng thường có sự liên kết với đời sống hàng ngày, ít mang tư tưởng thần bí mà chủ yếu phản ánh thực tại thân phận và quan niệm của chủ nhân. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này ở tượng hổ bên ngoài lăng Trần Thủ Độ, tượng hổ ở lăng Nguyễn Công Triều, lăng Quận Mãn dù cố được diễn tả cho giống với thực nhưng cũng được tạo hình theo dáng vẻ của con vật nuôi, không thấy biểu trưng rõ nét nào của một loài thú dữ. Cả ba cặp tượng có tạo dáng như chú chó đang canh nhà là một vẻ đẹp hồn nhiên, bình dị. Tượng hổ của người Việt ở chốn tâm linh có lối tạo hình và dáng vẻ khác biệt so với tượng cùng chủ đề của nước ngoài, như tượng hổ ở Nhật. Lý giải điều này, một số nhà tâm lý học, chủ yếu là người Đức như M. Wertheimer, 40 W. Kohler, R. Arnheim đưa ra thuyết Gestalt để giải thích: thường có sự tương hợp, đối ứng hoặc khác biệt về cấu trúc của những sự vật và hiện tượng trong đời sống với cấu trúc tâm sinh lý và biểu hiện tình cảm của con người. Theo thuyết này, những tượng thú ngoại lai nhe nanh, múa vuốt hay có những biểu hiện dữ tợn... không thể chi phối đến tinh thần thẩm mỹ của người Việt. Tượng thú đá trong lăng mộ mang một tinh thần chung, có tính biểu cảm riêng và khác biệt so với tượng thú của những nước khác. Nét đặc trưng trong cách tạo hình của tượng người Việt được hình thành từ nền nông nghiệp lúa nước, chịu ảnh hưởng, tác động từ nền văn hóa bản địa vốn trọng âm, trọng tình. Trong cách tạo hình tượng thú hầu như không xuất hiện lối tạo hình hướng ra ngoài hay mang dáng vẻ dữ tợn, hung bạo như ở một số nền văn hóa trọng dương. Những con vật tượng trưng cho sức mạnh, nhanh nhẹn như voi, hổ, ngựa, chó được người Việt tạo hình với dáng vẻ mềm mại, nhẹ nhàng và mang tính chân thực cao. Con vật mang tính huyền thoại của người Việt như hình tượng nghê cũng được tạo hình gần gũi với những con vật thân thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân. Tượng nghê đá ở lăng Dinh Hương là một điển hình về sự tài tình trong lối tạo hình của nghệ sĩ dân gian. Tượng này được kết hợp những đặc điểm con vật gần gũi trong cuộc sống như cách điệu dáng ngồi giống loài chó, miệng cá chép, móng chân kiểu móng chim ưng, ... Những tượng thú này đặt trong không gian văn hóa Việt nên mang dáng vẻ thuần Việt, bởi chúng đã qua bàn tay sáng tạo và óc thẩm mĩ của người Việt nên biến đổi đi rất nhiều và phù hợp với tâm tính của cộng đồng. Có thể kể đến tượng thú như voi, sư tử, trâu ở chùa Phật Tích, Tiên Du, Bắc Ninh hay tượng thú - một loài bò sát ở nhà thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, thôn Bảo Tháp, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Một điều đặc biệt nữa là những tượng ở không gian tín ngưỡng, tôn giáo được tạo hình không chỉ phù hợp với thẩm mỹ của dân tộc mà còn phải phù hợp với truyền thuyết trong chính tín ngưỡng, tôn giáo đó... 41 Quan sát tượng sư tử ở chùa Phật Tích mới thấy rõ được điều này, theo quan niệm của Phật giáo, các con vật dù bên ngoài dữ dằn nhưng khi đến nhà Phật đều mang dáng vẻ hiền lành bởi đã được Đức Phật từ bi cảm hóa. Theo ý nghĩa biểu tượng trong Phật giáo, tượng sư tử biểu thị cho sự uy mãnh của Trí Dũng hay tượng voi mang ý nghĩa tượng trưng cho sự kiên định của Lý Trí, sự từ bi. Hiểu được ý nghĩa của tượng thú trong chùa như vậy thì chắc rằng không ai đi đặt những tượng sư tử dữ tợn trong và ngoài cửa chùa bởi trí tuệ không phải thứ đi hù dọa người khác mà là sự lắng đọng, “phương tiện” để giúp mỗi người hiểu mình, hiểu người, tự giác ngộ và sớm xóa bỏ sự vô minh. Tượng cừu đá ở chùa Dâu, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh cũng như vậy. Cừu là con vật được mang đến vùng đất Việt cùng quá trình truyền giáo của người Ấn Độ ở giai đoạn đầu của thiên niên kỷ đầu tiên, nhưng lối tạo khối tượng và mảng nét trang trí mang bản sắc dễ nhận ra của văn hóa và con người của vùng đất tạo ra nó. Ngay cả tượng con lân, một con vật huyền thoại, linh thiêng có xuất xứ từ nền văn hóa phương Bắc nhưng khi xuất hiện ở không gian văn hóa người Việt cũng đã được những nghệ nhân dân gian tạo hình cho phù hợp với thẩm mỹ dân tộc. Tượng lân đá ở lăng Ngọ, Hiệp Hòa, Bắc Giang cho chúng ta thấy dáng vẻ hiền hòa, gần gũi, đáng yêu của một con thú nuôi, chứ không tạo cảm giác uy quyền, xa cách. Cách tạo hình của tượng lân càng làm chúng ta hiểu hơn về sự tài tình trong cách người Việt đón nhận những giá trị của nền văn hóa khác nhưng có sự biến đổi cho phù hợp với thẩm mỹ chung của cộng đồng, chứ không tiếp nhận hay vay mượn máy móc. Sự tiếp biến văn hóa một cách chủ động này còn được thấy ở ngay hệ thống tượng lăng mộ của người Việt. Tượng thú lăng mộ của người Việt chủ yếu là những con vật quen thuộc như voi, ngựa, chó. [PL6, A6.2.1; 6.2.2, tr 203-A6.2.5; 6.2.6, tr 205-A6.2.13, tr 209-A6.2.18; 6.2.19, tr 211-A6.2.24; 6.2.26, tr 213-A6.2.28; 6.2.29, tr 214] Tượng thú dữ như hổ xuất hiện tuy rất ít nhưng qua những nơi cũng được tạo hình mềm mại, không tạo cảm giác dữ dằn (như tượng hổ ở lăng 42 Nguyễn Công Triều, Hà Nội). Tượng sư tử đá dữ tợn, gân guốc với dáng vẻ đe dọa, đặc trưng của tượng thú canh lăng mộ của Trung Hoa mang ý nghĩa trấn áp tà ma không xuất hiện trong những lăng mộ của người Việt. Hiểu được điều này thấy được những lối tạo hình tượng thú giơ nanh, giương vuốt là thể hiện sự quyền uy, cửa quyền mà không phù hợp với chốn tâm linh, nơi hướng con người đến điều thiện, từ bi, bác ái... 1.3.2.2. Vị trí tượng trong lăng mộ Góp phần vào tính đặc thù của dòng nghệ thuật lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở ĐBBB, việc phân bổ vị trí đặt tượng đóng vai trò quan trọng và có chức năng cụ thể. Trên cơ sở khảo sát hệ thống lăng mộ Quận công TK XVII - XVIII ở ĐBBB, vị trí đặt tượng trong hệ thống lăng mộ Quận công, quan tướng thường là thẳng hàng và đăng đối nhau theo từng cặp đôi, lấy đường linh đạo làm trục trung tâm. Gắn với thành phần kiến trúc cổng, vị trí đặt tượng thường là hai bên cổng, các loại tượng người, tượng thú đặt ở vị trí này có hướng nhìn thẳng ra phía ngoài mà không phải chầu vào đường linh đạo (lăng Bầu). Do đó, ở vị trí này thường là các loại tượng lính canh gác hoặc tượng chó canh gác không gian lăng mộ. Vào không gian hành lễ, đây là không gian tập trung nhiều loại tượng tròn nhất: tượng người đứng chầu, tượng thú đứng, ngồi, quỳ chầu đan xen nhau, có hướng nhìn đăng đối nhau qua đường linh đạo. Đi theo từng cặp đôi đồng dạng, đăng đối, hệ thống tượng tròn ở khu vực này đã tạo nên một không gian nghiêm trang và thiêng liêng phù hợp với ý nghĩa tưởng niệm. Không gian, vị trí đặt tượng lăng mộ có mối quan hệ mật thiết cùng tồn tại mà tạo nên giá trị của nghệ thuật lăng mộ nói chung, nghệ thuật tượng lăng mộ nói riêng. Do đó, không gian hai bên trục linh đạo chính là nơi tạo nên ý nghĩa của loại hình nghệ thuật điêu khắc tượng lăng mộ và ngược lại tượng lăng mộ cùng với không gian, cảnh quan kiến trúc đã tạo nên một diện mạo nghệ thuật đặc thù, sinh động tồn tại ngoài trời. Gắn với mặt bằng kiến trúc, 43 đường linh đạo không gian và vị trí đặt tượng lăng mộ TK XVII - XVIII được chia làm hai dạng: Dạng thứ nhất là không gian nội lăng (không gian bên trong tường bao - ranh giới giữa bên trong lăng mộ và khu vực bên ngoài lăng mộ) bao gồm các thành phần kiến trúc tháp mộ, mộ, nhà bia, đài thờ và các hiện vật điêu khắc, phù điêu, trang trí.., đặc biệt là hệ thống tượng người, tượng thú. Dạng thứ hai là không gian ngoại lăng (không gian bên ngoài tường bao - ranh giới giữa lăng mộ và khu vực bên ngoài lăng). Không gian này hình thành gắn liền với những khuôn viên lăng mộ có diện tích rộng lớn như lăng Nguyễn Văn Nghi, Phục Chân Đường, Bầu, Phạm Huy Đĩnh.... Hệ thống điêu khắc tượng tròn cũng tìm thấy ở phần không gian này là những tượng quan hầu, lính canh cổng, phổ biến nhất là tượng chó đá. Ngày nay, nhiều không gian lăng mộ đã bị thu hẹp dần bởi nhu cầu về nơi ở và mục đích sử dụng đất đai trong canh tác nông nghiệp của con người. Hệ quả này đã dẫn đến biến dạng nhiều quy mô hình thức, chức năng không gian của loại hình công trình lăng mộ như đối với trường hợp các lăng mộ Họ Ngọ, Bùi Nguyễn Thái, Quận Mãn, Phạm Huy Đĩnh... Gắn liền với sự hình thành mặt bằng kiến trúc, không gian lăng mộ là sự hình thành thứ tự các vị trí tượng lăng mộ dọc hai bên của đường linh đạo. Với đường linh đạo dài thì vị trí, khoảng cách sắp đặt tượng sẽ được phân bổ đồng đều theo chiều dọc ở những khoảng cách xa nhau. Đối với những lăng có khuôn viên nhỏ, đường linh đạo ngắn thì vị trí đặt tượng sẽ được thu gọn lại và tượng đặt sát nhau. Tuy nhiên, khoảng cách giữa các vị trí đặt tượng cũng không hẳn cố định một cách đồng đều mà còn phụ thuộc vào từng cặp tượng đi theo nhau: tượng ngựa, voi đặt cạnh tượng người có thể tạo thành một cặp. Vì thế khoảng cách của chúng là sát nhau, thậm chí có thể tạc trên cùng một khối đá liền tảng như trường hợp lăng Dinh Hương. Trường hợp đặt sát nhau nhưng không liền khối như tượng người đặt cạnh tượng ngựa ở lăng Họ Ngọ có tính phổ biến ở cả hai thế kỷ. 44 Qua đặc điểm về không gian, vị trí đặt tượng trong lăng mộ TK XVII - XVIII ở ĐBBB cho thấy sự hoành tráng của không gian kiến trúc và sự trang nghiêm trong cách bài trí từng cặp tượng người, tượng linh thú, tượng thú trong lăng mộ. Góp phần vào những giá... di tích của người Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 20. Trần Lâm Biền (2013), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 21. Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh (2011), Thế giới biểu tượng trong di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội. 22. Phan Thế Bình (1999), Điêu khắc tượng tròn thời Nguyễn, đề tài khoa học cấp cơ sở Đại học Nghệ thuật Huế, Thừa Thiên Huế. 23. Phan Kế Bính (1977), Việt Nam phong tục, Nxb Tp Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh. 24. Ed. Castagnol (1937), Những tượng đá trong các Lăng tẩm của người An Nam, Tư liệu Viện Mỹ thuật. 25. Nguyễn Du Chi (2000), Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 26. Nguyễn Du Chi (2003), Hoa văn Việt Nam (từ thời tiền sử đến nửa đầu thời kì phong kiến), Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 27. Nguyễn Du Chi (2007), “Phát hiện và khảo sát di tích kiến trúc cổ”, Tạp chí nghiên cứu Mỹ thuật. 28. Thượng Chi (22-28/1919), Bàn về Mỹ - Thuật An Nam, Khảo cứu Lịch sử - địa lý - Văn hóa, Nam Phong tạp chí, Đông Kinh Ấn Quán, Tài liệu dịch. 159 29. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí - tập 1 và tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 30. Nguyễn Đỗ Cung (1975), Việt Nam điêu khắc gỗ dân gian thế kỷ 16, 17, 18, Nxb Ngoại Văn. 31. Nguyễn Đỗ Cung (1993), Bàn về mỹ thuật Việt Nam, Viện Mỹ thuật 32. Nguyễn Văn Cương (2004), “Nghệ thuật điêu khắc đình làng ở Bắc Bộ”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 11. 33. Lê Cường (2003), Tượng người thờ trong di tích, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 34. Đimitriêva A. N (1962), Bàn về cái đẹp, Nxb Văn hóa nghệ thuật 35. Nguyễn Trọng Đức (2007), Lăng Phạm Đôn Nghị với dấu ấn điêu khắc thế kỷ XVIII, Khóa luận tốt nghiệp - Đại học Mỹ thuật Công nghiệp. 36. Lê Thanh Đức (chủ biên) (1998), Nghệ thuật Ai Cập cổ đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 37. Trần Quang Đức (2013), Ngàn năm áo mũ, Nxb Nhã Nam và Thế giới. 38. Nguyễn Văn Đoàn (2008), “Thử xác định vị trí lăng mộ vua Lê Nhân Tông ở khu di tích Lam Kinh” (Thanh Hoá), Tạp chí Di sản văn hoá, số 3, tr 82 - 84. 39. Lê Quý Đôn, (bản dịch hiệu đính và chú thích của Nguyễn Khắc Thuần), (2007), Lê Quý Đôn tuyển tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Phùng Khắc Đồng, Trần Duy Phương (1998), Làng Bùng - Trạng Bùng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 41. Cynthia Freeland (2010), Một đề dẫn về lý thuyết nghệ thuật, Nxb Tri thức, Hà Nội. 42. Lê Giảng (biên soạn) (1999), Bí mật lăng mộ vua chúa Trung Hoa, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 43. E.H.Gombrich, Lê Sỹ Tuấn biên dịch (1998), Câu chuyện nghệ thuật, Nxb Dân trí, Hà Nội. 44. Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam Văn học sử yếu, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 160 45. Nguyễn Huy Hạnh (2000), Khảo sát quần thể di tích Lam Kinh - Thanh Hóa, Viện Khảo cổ học 46. Nguyễn Huy Hạnh (2004), Lăng đá Hà Bắc - Kiến trúc và điêu khắc, Luận án tiến sĩ lịch sử, Thư viện - Viện Khảo cổ học. 47. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt - văn Việt - người Việt, Nxb Trẻ, Hà Nội. 48. Phạm Đức Hân (2007), lăng Quận công thế kỷ 17 - 18 tại Hà Tây, Đề tài khoa học cấp viện - Viện Bảo tồn Di tích. 49. Hasuda Takachi (2008), “Vài nét về vai trò của hoạn quan trong ngoại thương thế kỷ XVII”, kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, tr 26. 50. Vũ Thị Hằng (2013), Nghệ thuật tạo hình tượng phỗng thời Lê - Trịnh (thế kỉ XVII - XVIII), khóa luận tốt nghiệp - trường đại học Mỹ thuật Việt Nam. 51. Phạm Minh Hảo (2002), Hoạn quan Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 52. Nguyễn Hảo, Xuân Long (1982), Di tích Lam Sơn, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa. 53. Nguyễn Thị Hiền (2013), “Nghệ thuật và ma lực: Một lí thuyết nhân học”, Tạp chí Văn hóa học, số 3, tr 89 - 93. 54. Trang Thanh Hiền, Quách Ngọc An (2007), Lăng Phạm Đôn Nghị, dấu ấn nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVIII, thông báo Văn hóa dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 55. Dương Phú Hiệp (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 56. Phương Hoa (2008), Đồ thờ trong các lăng đá ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, thông báo văn hóa 2008, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 57. Nguyễn Phi Hoanh (1970), Lược sử Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 161 58. Phạm Đình Hổ (1989), Vũ trung tùy bút, Nxb Trẻ, Thành Phố HCM. 59. Nguyễn Quang Hồng (chủ biên) (1992), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam: Tuyển chọn, lược thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 60. Đỗ Trinh Huệ (2006), Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan học giả L. Cadiere, Nxb Thuận Hóa, Huế. 61. Henri Gourdon, Nghệ thuật xứ An Nam, Trương Quốc Toàn dịch, Nxb Nhã Nam 2017. 62. Nguyễn Thế Hùng (2009), Mỹ học đại cương, Nxb Văn hóa Thông tin 63. Phạm Thế Hùng (2005), Chủ thể sáng tạo cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình, luận án tiến sĩ ngành Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. 64. Nguyễn Tân Hùng (2002) “Những quan niệm về sự bất tử của con người” Tạp chí Tâm lý học, số 10, tr 1. 65. Thanh Huyền (2008), Tìm hiểu về loại hình tượng người trong các lăng đá ở Bắc Giang, thông báo Văn hóa 2008, Nxb KHXH, Hà Nội. 66. Nguyễn Thừa Hỷ (1993), Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII - XIX, Hội Sử học Việt Nam, tr 11, 12. 67. Nguyễn Hoàng Huy (sưu tầm và biên dịch) (2013), Mỹ học & phê bình nghệ thuật, nxb Mỹ thuật, Hà Nội 68. Đoàn Thị Mỹ Hương (2013), “Trí tuệ tạo hình dạng thức tư duy và năng lực thẩm mỹ sáng tạo hình tượng trong nghệ thuật thị giác”. 69. Đoàn Mỹ Hương (2014) Trí tuệ tạo hình người Việt, từ hình tượng quan âm nghìn mắt nghìn tay, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 70. Hội đồng quốc chỉ đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 71. Vũ Ngọc Khánh (1991), Dẫn luận nghiên cứu folklore Việt Nam, Sở giáo dục Thanh Hóa xuất bản. 72. Lê Trung Khoan, Lê Trung Tấn, Lê Trung Tiến (2001), Đại Vương Lê Trung Giang di tích và sự nghiệp, Nxb Văn hóa thông tin. Hà Nội. 162 73. Đặng Quý Khoa (1992), giáo trình Bố cục, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. 74. Nguyễn Văn Kim (2008), “Dấu ấn cổ xưa của các xã hội Đông Nam Á”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (386). 75. Nguyễn Văn Kim (2009), Xã hội Việt Nam thế kỷ XVI - XVIII và quan hệ giao lưu gốm sứ Việt - Nhật, số 7. 76. Trần Trọng Kim (1999), Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 77. Đặng Thị Phong Lan (2003), Nghệ thuật điêu khắc Lăng mộ thế kỷ XVII - XVIII ở Hiệp Hòa, Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ văn hóa dân gian - Viện nghiên cứu văn hóa dân gian. 78. Vũ Tam Lang (1991), Kiến trúc cổ Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 79. Trịnh Công Lộc (chủ biên) (2010), Di tích lịch sử - Văn hoá nhà Trần tại Đông Triều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 80. Phan Thị Thanh Mai (2005), Phạm trù cái đẹp và sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình, luận án tiến sĩ ngành Ngữ văn, trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn. 81. Vũ Duy Mền (2009), Lăng mộ bi ký ở Đa Căng, xã Vạn Hoà, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá, Tạp chí Hán Nôm, số 1 (92), tr 65-68. 82. Hoàng Nam (2002), Đặc trưng Văn hoá cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội 83. Hoàng Anh Nhân - chủ biên (2009), Tổng hợp tộc phả làng Đại An: Xã Hoàng Lương - huyện Hoằng Hoá - tỉnh Thanh Hoá, Nxb Văn hoá dân tộc. 84. Nhóm tác giả (1993), Đại Việt Sử kí toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 85. Nhóm tác giả (1974), Điêu khắc đá cổ Việt Nam thế kỷ 11 - 19, Viện Mỹ thuật. 163 86. Nhóm tác giả (2008), Trước hết là giá trị con người, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 87. Nhóm tác giả (1975), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 88. Nhóm tác giả (1973), Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 89. Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển quan chức Việt Nam, Nxb Thanh Niên 90. Đặng Kim Ngọc, Phạm Như Hổ (1980), Khu di tích Lam Kinh - Thanh Hóa, Viện khảo cổ học. 91. Đặng Kim Ngọc (1980), Điêu khắc và trang trí ở Lam Kinh - Thanh Hóa, Viện Khảo cổ học. 92. Nguyễn Văn Nghị (2010), Nguyên lý bố cục trong môn học cơ sở tạo hình mặt phẳng, Ms: B2007-05-06, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ của trường Đại học mỹ thuật công nghiệp. 93. Lê Lưu Oanh (2011), Văn học và các loại hình Nghệ thuật, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 94. Hoàng Phê (2012), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội 95. Cao Xuân Phổ, Ngô Văn Doanh (1984), Nghệ thuật Đông Nam Á, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội. 96. Võ Thanh Phụng (2007), Khu lăng mộ Trịnh Hoài Đức, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 101, tr17- 21. 97. Nguyễn Quân (1985), Tiếng nói của hình và sắc, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội. 98. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam. Nxb Thanh Niên, Hà Nội. 99. Lê Tạo (2008), Một số đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc đá truyền thống ở Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa. 164 100. Hasuda Takachi (2008), "Vài nét về vai trò của hoạn quan trong ngoại thương thế kỷ XVII", Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba. 101. Phạm Minh Thảo (2007), Hoạn quan Việt Nam, Nxb Lao động. 102. Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Bá Thế (1991), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 103. Phan Cẩm Thượng, Nguyễn Quân (1989), Mỹ thuật của người Việt, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 104. Phan Cẩm Thượng, Nguyễn Quân (1991), Mỹ thuật ở Làng, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 105. Phan Cẩm Thượng (1997), Điêu khắc cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 106. Phan Cẩm Thượng (2011), Văn minh vật chất của người Việt, Nxb Tri thức, Hà Nội. 107. Trần Hậu Yên Thế (2017) chủ biên, Phác họa Nghê, gã linh vật bên rìa, nhìn từ đền vua Đinh, vua Lê, Nxb Thế giới, Hà Nội. 108. Trần Ngọc Thêm (1991), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 109. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 110. Nguyễn Đức Thìn (2009), Di tích lịch sử Văn hoá Đền Đô, Nxb VHDT. 111. Ngô Đức Thịnh (2003), “Về khái niệm không gian Văn hóa”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4. 112. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2004), Văn hóa vùng và phân vùng Văn hóa ở Việt Nam, Nxb Trẻ. 113. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (2005), Folklore - một số thuật ngữ đương đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 114. Nguyễn Khắc Thuần (1996), Danh tướng Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 165 115. Trần Mạnh Thường (chủ biên) (1999), Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 116. Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) (2014), Mỹ thuật thời Chúa Nguyễn - dẫn luận từ Di sản lăng mộ, Nxb Thuận Hóa, Huế. 117. Vũ Đức Thơm (2005), “Về di tích lăng mộ thời Trần ở Thái Đường - Hưng Hà - Thái Bình”, Tạp chí Di sản văn hoá, số 3, tr 110 - 114. 118. Tống Trung Tín (1997), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 119. Nguyễn Chí Tình (2003), Văn hoá và Thời đại, Nxb Khoa học Xã hội. 120. Nguyễn Tuấn (2006), “Bí mật đội binh mã trong lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng”, Tạp chí Toàn cảnh sự kiện - dư luận, số 191, tr 58 - 59. 121. Phạm Ngọc Tuấn (2008), Lăng đá Lại Yên, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học trường Đại học Văn hóa, Hà Nội. 122. Đặng Trần (1995), “Quanh không gian văn hóa tâm linh- cây cối tại các di tích kiến trúc Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 11. 123. Chu Quang Trứ (2002), Văn hóa Việt Nam - Nhìn từ Mỹ thuật, tập 2, Nxb Mỹ thuật - Viện Mỹ thuật, Hà Nội. 124. Chu Quang Trứ (2002), Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân tộc, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 125. Tsécnưsépxki (1962), Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện thực, Nxb Văn hóa nghệ thuật. 126. Phạm Phú Uynh (1995), “Đi tìm cái đẹp trong bản chất của tỉ lệ vàng”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 8. 127. Ủy ban nhân dân tỉnh tỉnh Thái Bình và Viện văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam (2013), Những giá trị đặc biệt của các di sản văn hóa thời Trần trên vùng đất Hưng Hà - Thái Bình. 128. Thái Bá Vân (1998), Tiếp xúc với Nghệ thuật, Viện Mỹ thuật. 129. Lê Văn Viện (2008), Các vua và hoàng hậu táng ở Lam Kinh, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa. 166 130. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1993), Mấy vấn đề văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay. (Kỷ yếu Hội thảo khoa học hưởng ứng Thập kỷ Quốc tế phát triển văn hóa do Unessco phát động), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 131. Viện Mỹ thuật (1968), Báo cáo về chuyến đi nghiên cứu Lam Sơn, Thanh Hóa của nhóm nghiên cứu cổ đại, tư liệu Viện Mỹ thuật. 132. Viện Mỹ thuật (1976), Tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 133. Viện Mỹ thuật (1977), Mỹ thuật thời Lý, Nxb Văn hóa. 134. Viện Mỹ thuật (1978), Mỹ thuật thời Trần, Nxb Văn hóa. 135. Viện Mỹ thuật (1978), Mỹ thuật thời Lê sơ, Nxb Văn hóa. 136. Viện Mỹ thuật (1987) Mỹ thuật thời Mạc, Nxb Văn hóa. 137. Viện Văn hóa dân gian (1990), Văn hóa dân gian - những phương pháp nghiên cứu, Nxb KHXH. 138. Nguyễn Tiến Vĩnh (1996), Điêu khắc Lăng mộ Thanh Hóa, khóa luận Đại học, khoa Lý luận và lịch sử Mỹ thuật - Trường đại học Mỹ thuật Hà Nội. 139. Vigrađôva (1962), Tìm hiểu mỹ thuật cổ đại, trung đại, phục hưng, Nxb Văn hóa nghệ thuật. 140. Trịnh Quang Vũ (2009), Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 141. Trịnh Quang Vũ (2007), Trang phục triều Lê - Trịnh, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 142. Trần Quốc Vượng- Chủ biên (1997), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 143. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn Hóa Dân Tộc. 144. Nguyễn Thị Xuân (2011), Tượng trong lăng mộ vùng châu thổ Bắc Bộ 167 (TK XVII - XIX), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở,Viện bảo tồn di tích, Hà Nội. 145. Nhóm tác giả (2014), Từ điển Bách khoa thư Britannica, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 146. Từ điển bách khoa Việt Nam (2003), tập 3, Nxb từ điển bách khoa, Hà Nội. 147.https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dngsinh_b%E1% BA%A5t_t%E1%BB%AD/ (truy cập 10h46 ngày 27/5/2018) 148... nguoi-14030/ (truy cập 11h46 ngày 27/5/2018) 149. Trung tâm Unesco Thông tin tư liệu lịch Văn hóa Việt Nam (2003), Đất và người Thái Bình. 168 BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM NGHỆ THUẬT TƯỢNG LĂNG MỘ THẾ KỶ XVII - XVIII Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Hà Nội - 2020 169 MỤC LỤC Trang Phụ lục 1. Bảng thống kê lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ ........... 170 Phụ lục 2. Sơ đồ bài trí tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ.. 171 Phụ lục 3. Bảng thống kê tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ........ 175 Phụ lục 4. Bảng kê kích thước, tỉ lệ tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ....... 178 Phụ lục 5. Hình ảnh tượng người. 180 Phụ lục 6. Hình ảnh tượng linh thú, thú .. 197 Phụ lục 7. Bản vẽ tượng... 216 Phụ lục 8. Một số hình ảnh tượng lăng mộ liên quan tới nội dung luận án.. 234 170 Phụ lục 1. Bảng thống kê lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ STT Tên lăng mộ Địa danh Niên đại 1 Vũ Hồng Lượng Làng Phù Ủng, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên 1660 2 Họ Ngọ Thôn Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang 1695 3 Dinh Hương Làng Dinh Hương, xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang 1729 4 Phạm Huy Đĩnh Thôn Cao Mỗ, xã Chương Dương, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình 1777 171 Phụ lục 2. Sơ đồ bài trí tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ 2.1. Sơ đồ bài trí tượng lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS Lăng Vũ Hồng Lượng có 2 cặp tượng người, 2 tượng nghê, 2 tượng lân và 2 tượng chó, cùng các bức phù điêu ở phía ngoài cổng vào, đó là: Phù điêu hình trâu, rùa, cóc, cá 172 2.2. Sơ đồ bài trí tượng lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS Lăng mộ Họ Ngọ - Ngọ Công Quế có 2 tượng chó; 2 tượng voi, 2 tượng ngựa; 2 tượng người; 2 tượng nghê; 2 tượng lân, 4 phù điêu hình người. 173 2.3. Sơ đồ bài trí tượng lăng Dinh Hương Nguồn: NCS Lăng Dinh Hương – La Đoan Trực có 6 tượng người (trong đó bao gồm 2 tượng người gắn liền với 2 tượng ngựa, 2 tượng người canh cổng, 2 tượng người hầu gắn với đài thờ), 2 tượng voi, 2 tượng nghê và 2 tượng lân 174 2.4. Sơ đồ bài trí tượng lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS Lăng Phạm Huy Đĩnh có 10 tượng người, 2 tượng voi, 2 tượng ngựa. 175 Phụ lục 3. Bảng thống kê tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ 3.1. Bảng thống kê tượng người Lăng Tượng Số lượng Kích thước/cm Kiểu dáng Vị trí Vũ Hồng Lượng Quan hầu (hình thức nhóm tượng người liền khối) 2 126 - 128 Đứng Trên mặt đài thờ (Hướng nhìn ra ngoài cổng lăng) Họ Ngọ Quan hầu (Cầm kiếm) 2 146 - 151 Đứng Không gian hành lễ - phía trong cổng (Hướng nhìn chầu vào đường linh đạo cùng với các loại tượng khác) Dinh Hương Quan hầu (Cầm chùy) 2 160 - 162 Đứng Cổng vào (hướng nhìn chầu vào đường linh đạo) Lính hầu (Dắt ngựa) 2 149 - 160 Bước đi Trước khu mộ (Hướng nhìn chầu vào đường linh đạo - thẳng hàng với tượng quan hầu đứng ngoài cổng) Người hầu (Bưng hộp thuốc, quạt) 2 98 - 103 Đứng Hai bên Đài thờ (thuộc đường linh đạo thứ 2 - thẳng với đài thời, nơi tổ chức các nghi thức đàn lễ...), hướng nhìn chầu vào ngai thờ Phạm Huy Đĩnh Quan hầu (Cầm chùy 2 200- 201 Đứng Lớp cổng ngoài cùng - giáp với đườn lớn (Hướng đứng chầu nhìn vào 176 đường linh đạo) Quan hầu (Cầm kiếm) 2 190 - 200 Đứng Phía ngoài lớp cổng trong – trước sân tượng (Hướng đứng chầu nhìn vào đường linh đạo Quan hầu (Cầm kiếm) 2 190 - 191 Đứng Giáp với khu thờ - cạnh bia trụ tròn Lính hầu (Cầm mác và cầm kiếm) 4 189 - 190 Đứng Đứng cạnh tượng voi, tượng ngựa - trong khu vực tập chung cùng các loại tượng khác 3.2. Bảng thống kê tượng thú Lăng Tượng Số lượng Kích thước/cm Kiểu dáng Vị trí Vũ Hồng Lượng Linh thú Rồng 0 Nghê 2 78 - 80 Ngồi Chầu vào cây hương/ đường linh đạo, trước đài thờ Lân 0 Sấu 2 42 - 48 Dài 108 - 122 Bò Phía trước đài thờ, chiếu thẳng sang hai bên lan can đài thờ Thú Hổ 0 Voi 0 Ngựa 0 Chó 2 68 - 80 Ngồi Cạnh hồ hình elip- phía trong cổng vào Lăng Họ Ngọ Linh thú Rồng 0 Nghê 2 155 - 158 Ngồi Phía trong cổng vào - thuộc khu vực hành lễ có đặt các nhang án và các tượng khác Lân 2 155 - 158 Ngồi Phía trong cổng vào - thuộc khu vực hành lễ có 177 đặt các nhang án và các tượng khác Sấu 0 0 Thú Hổ 0 Voi 2 148 - 155 Quỳ Phía trong cổng vào - giáp tường bao đá ong Ngựa 2 158 - 160 Đứng Đặt cạnh với tượng người và các tượng khác Chó 2 88 - 92 Ngồi Trong không gian hành lễ cùng với các tượng khác Dinh Hương Linh thú Rồng 0 Nghê 2 155 - 158 Ngồi Phía trong cổng vào - thuộc khu vực hành lễ có đặt các nhang án thẳng với trục đàn thờ Lân 2 63 - 65 Bò Hai bên ngai thờ - trên đàn thờ Sấu 0 Thú Hổ 0 Voi 2 148 - 155 Quỳ Phía trong cổng vào - giáp tường bao đá ong Ngựa 2 180 - 182 Bước đi Liền khối với tượng người chó 0 Phạm Huy Đĩnh Rồng 0 Nghê 0 Lân 0 Sấu 0 Hổ Voi 2 165- 166 Quỳ Chầu vào đường linh đạo, trước khu thờ Ngựa 2 178 - 181 Đứng Chầu vào đường linh đạo, trước khu thờ Chó 0 178 Phụ lục 4 Bảng kê kích thước, tỉ lệ tượng lăng mộ Quận công thế kỷ XVII - XVIII ở Đồng bằng Bắc bộ TT Bên trái Bên phải 1 Lăng Vũ Hồng Lượng 1. Tượng nghê, cao 78 cm. 2. Tượng nghê, cao 80 cm. 3. Tượng sấu, cao 42 cm, dài thân 122 cm. 4. Tượng sấu, cao 48 cm, dài thân 108 cm. 5. Tượng chó, cao 80 cm, rộng thân cạnh 45 cm. 6. Tượng chó, cao 68 cm, rộng thân cạnh 38 cm. 7. Tượng nhóm người, cao từ 126 - 128 cm. 8. Tượng nhóm người, cao từ 126 - 128 cm. 2 Lăng Họ Ngọ 1. Tượng người, cao 151 cm, vòng trán, 75 cm, rộng trán 19 cm, vòng vai 120 cm, vòng vạt áo 130 cm, tỉ lệ từ mép mũ - cằm là 27 cm. 2. Tượng người, cao 146 cm, vòng trán 65 cm, vòng vai 110 cm, vòng vạt áo 135 cm, rộng trán 16 cm, tỉ lệ từ mép mũ - cằm 26 cm. 3. Tượng nghê, cao 155 cm. 4. Tượng nghê, cao 158 cm. 5. Tượng lân, cao 63 cm. 6. Tượng lân, cao 65 cm. 7. Tượng voi, cao 148 cm. 8. Tượng voi, cao 155 cm. 9. Tượng ngựa, cao 158 cm. 10. Tượng ngựa, cao 160 cm. 11. Tượng chó, cao 88 cm. 12. Tượng chó, cao 92 cm. 3 Lăng Dinh Hương 1. Tượng lân, cao 64 cm, dài thân 116 cm. 2. Tượng lân, cao 68 cm, dài thân 106 cm. 3. Tượng nữ người hầu, cao 103 cm (tỉ lệ 4 đầu). 4. Tượng nữ người hầu, cao 98 cm (tỉ lệ 4 đầu). 5. Tượng nghê, cao 135 cm, rộng 6. Tượng nghê, cao 138 cm, rộng 179 thân 50 cm, vòng thân 200 cm, đường kính miệng 35 cm. thân 52 cm, vòng thân 200 cm, đường kính miệng 35 cm. 7. Tượng voi, cao 127 cm, rộng thân 89 cm, dài thân 162 cm. 8. Tượng voi, cao 130 cm, dài thân 161 cm, bệ 153 x 80 x dày đế 12 cm. 9. Tượng người dắt ngựa, cao 160 cm (từ mặt bệ lên đỉnh đầu), ngựa cao 180 cm, dài thân 207 cm, rộng bệ 90 cm, dài bệ 200 cm. 10. Tượng người dắt ngựa, người cao 149 cm, ngựa cao 182 cm, rộng bệ 96 cm, dài bệ 200 cm, dài thân 215 cm. Tượng người canh cổng, cao 160 - 162 cm. Tượng người canh cổng, cao 160 - 162 cm. 4 Lăng Phạm Huy Đĩnh 1. Tượng người cầm kiếm, cao 190 cm. 2. Tượng người cầm kiếm, cao 190 cm. 3. Tượng người cầm kiếm, cao 180 cm. 4. Tượng người cầm kiếm, cao 182 cm. 5. Tượng ngựa, cao 187 cm, dài thân 151 cm. 6. Tương ngựa cao 181 cm, dài thân 150 cm 7. Tượng người cầm mác, cao 190 cm. 8. Tượng người cầm mác, cao 189 cm. 9. Tượng voi, cao 165 cm. 10. Tượng voi, cao 166 cm. 11. Tượng người cầm kiếm, cao 200 cm (bệ cao 25 cm). 12. Tượng người cầm kiếm, cao 190 cm (bệ cao 25 cm). 15. Tượng người cầm chùy, cao 200 cm (bệ 25 cm). 16. Tượng người cầm chùy, cao 201 cm (bệ 25 cm). 180 Phụ lục 5 Hình ảnh tượng người 5.1.Tượng quan hầu, lăng Vũ Hồng Lượng (phiên bản tại BTMT) Nguồn: NCS, 2008 5.2; 5.3. Tượng quan hầu, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: Viện Mỹ thuật 181 5.4. Trích đoạn tượng quan hầu, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2008 5.5. Trích đoạn tượng quan hầu, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2008 5.6. Trích đoạn hầu tượng quan hầu, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2008 182 5.7; 5.8. Tượng quan hầu, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2012 5.9; 5.10. Trích đoạn tượng quan hầu, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2012 183 5.11; 5.12. Tượng lính hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2013 5.13; 5.14. Trích đoạn tượng lính hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2013 184 5.15; 5.16. Tượng lính hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2014 5.17; 5.18. Trích đoạn tượng lính hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2014 185 5.19; 5.20. Tượng lính hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2012, 2013 5. 21; 5.22. Trích đoạn tượng lính hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2012 186 5.23; 5.24. Tượng lính hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2012 187 5.25; 5.26. Tượng người hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2014 5.27; 5.28. Trích đoạn tượng người hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2014 188 5.29; 5.30. Trích đoạn tượng người hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2014 189 5.31; 5.32. Tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 5.33; 5.34. Trích đoạn tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 190 5.35; 5.36. Tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 5.37; 5.38. Trích đoạn tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 191 5.39. Trích đoạn tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 192 5.40. Trích đoạn tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 193 5.41; 5.42. Trích đoạn tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 5.43; 5.44. Trích đoạn tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 194 5.45. Tượng lính hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 195 5.46. Trích đoạn tượng lính hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 196 5.47. Trích đoạn bàn tay tượng, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2015 197 Phụ lục 6 Hình ảnh tượng linh thú, thú 6.1. Hình ảnh tượng linh thú 6.1.1; 6.1.2. Tượng nghê, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2012 6.1.3. Tượng nghê, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2012 198 6.1.4; 6.1.5. Tượng nghê, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2015 6.1.6; 6.1.7. Tượng nghê, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2015 199 6.1.8; 6.1.9. Tượng nghê, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2013 200 6.1.10; 6.1.11. Tượng lân, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2014, 2015 201 6.1.12. Tượng lân, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2015 6.1.13. Tượng lân, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2015 202 6.1.14. Tượng sấu, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2015 6.1.15. Tượng sấu, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2015 203 6.2. Hình ảnh tượng thú 6.2.1; 6.2.2. Tượng voi, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2015 204 6.2.3; 6.2.4. Tượng voi, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2015 205 6.2.5; 6.2.6. Tượng voi, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2016 206 6.2.7; 6.2.8. Trích đoạn tượng voi, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2016 207 6.2.9; 6.2.10. Tượng voi, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2017 208 6.2.11; 6.2.12. Tượng voi, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2017 209 6.2.13; 6.2.14. Tượng ngựa, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2017 210 6.2.15; 6.2.16. Trích đoạn tượng ngựa, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2017 6.2.17. Tượng ngựa, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2017 211 6.2.18; 6.2.19. Tượng ngựa, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2017 6.2.20; 6.2.21. Trích đoạn tượng ngựa, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2017 212 6.2.22; 6.2.23. Tượng ngựa, lăng Phạm Huy Dĩnh Nguồn: NCS, 2017 213 6.2.24; 6.2.25. Tượng chó, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2015 6.2.26; 6.2.27. Tượng chó, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2015 214 6.2.28. Tượng chó, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2014 6.2.29. Tượng chó, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2014 215 6.2.30. Tượng chó, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2014 6.2.31. Tượng chó, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2014 216 Phụ lục 7 Bản vẽ tượng 7.1. Tượng người 7.1.1. Tượng quan hầu, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2017 217 7.1.2. Tượng quan hầu, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2017 218 7.1.3. Trích đoạn trang trí trên tượng lính hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2019 7.1.4. Trích đoạn trang trí trên tượng lính hầu, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2019 219 7.1.5. Tượng lính hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2018 220 7.1.6. Tượng lính hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2018 221 7.1.7. Trích đoạn trang trí tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2019 7.1.8. Trích đoạn trang trí tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2019 222 7.1.9. Trích đoạn trang trí tượng quan hầu, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2019 7.1.10. Trích đoạn trang trí tượng quan hầu, lăng Quận Mãn Nguồn: NCS, 2018 223 7.1.11. Trích đoạn trang trí tượng hầu, lăng Quận Mãn Nguồn: NCS, 2018 7.1.12. Tượng hầu, lăng Quận Mãn 7.1.13. Trích đoạn trang trí tượng hầu, lăng Nguyễn Văn Nghi Nguồn: NCS, 2018 224 7.2. Tượng thú 7.2.1. Trang trí tượng ngựa, lăng Nguyễn Văn Nghi Nguồn: NCS, 2018 7.2.2. Trích đoạn trang trí tượng ngựa, lăng Nguyễn Văn Nghi Nguồn: NCS, 2018 225 7.2.3. Trang trí tượng ngựa, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2018 7.2.4. Trích đoạn trang trí tượng ngựa, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2018 226 7.2.5. Trang trí tượng ngựa, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2018 7.2.6. Trích đoạn trang trí tượng ngựa, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2018 227 7.2.7. Trích đoạn trang trí tượng ngựa, lăng Dinh Hương Nguồn: NCS, 2018 7.2.8. Trang trí tượng ngựa, lăng Phạm Huy Đĩnh Nguồn: NCS, 2018 228 7.2.9. Trang trí tượng ngựa, lăng Quận Mãn Nguồn: NCS, 2018 7.2.10. Trích đoạn trang trí tượng ngựa, lăng Quận Mãn Nguồn: NCS, 2018 229 7.2.11. Trích đoạn trang trí tượng ngựa, lăng Quận Mãn Nguồn: NCS, 2018 7.2.12. Trích đoạn trang trí tượng ngựa, lăng Quận Mãn Nguồn: NCS, 2018 230 7.2.13; 7.2.14. Trang trí tượng chó, lăng Nguyễn Văn Nghi Nguồn: NCS, 2018 7.2.15. Trích đoạn trang trí tượng chó, lăng Nguyễn Văn Nghi Nguồn: NCS, 2018 231 7.2.16; 7.2.17. Trang trí tượng nghê, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2018 7.2.18; 7.2.19. Tích đoạn trang trí tượng nghê, lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2018 232 7.2.20. Trang trí tượng nghê, lăng Họ Ngọ Nguồn: NCS, 2018 233 7.2.21. Lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2018 7.2.22. Lăng Vũ Hồng Lượng Nguồn: NCS, 2018 234 Phụ lục 8 Một số hình ảnh tượng lăng mộ liên quan tới nội dung luận án 8.1. Tượng người 8.1.1. Tượng hầu, lăng Trần Anh Tông (thời Trần) Nguồn: VMT 8.1.2. Tượng quan văn, lăng Lê Thái Tổ (thời Lê Sơ) Nguồn: NCS, 2015 235 8.1.3. Tượng quan văn, lăng Lê Thái Tổ (thời Lê Sơ) Nguồn: NCS, 2015 8.1.4. Tượng người hầu, lăng Phục Chân Đường Nguồn: NCS, 2015 236 8.1.5. Tượng hầu, lăng Nguyễn Văn Nghi (TK XVII) Nguồn: NCS, 2015 8.1.6. Tượng hầu, lăng Quận Mãn Nguồn: NCS, 2015 237 8.1.7. Trích đoạn tượng hầu, lăng Quận Mãn Nguồn: NCS, 2015 8.1.8. Tượng hầu và trích đoạn tượng hầu, lăng Quận Mãn Nguồn: NCS, 2015 238 8.1.9. Trích đoạn tượng hầu, lăng Quận Mãn Nguồn: NCS, 2014 8.2. Tượng linh thú 8.2.1. Tượng ngh (thời Trần) Nguồn: NCS, 2014 239 8.2.2. Hàng tượng thú, lăng Lê Thái Tổ (thời Lê Sơ) Nguồn: NCS, 2015 8.2.3. Hàng tượng thú, lăng Lê Thái Tổ (thời Lê Sơ) Nguồn: NCS, 2015 240 8.3. Tượng thú 8.3.1. Tượng voi, lăng Quận Mãn (TK XVIII) Nguồn: NCS, 2014 8.3.2. Tượng voi, lăng Quận Mãn (TK XVIII) Nguồn: NCS, 2014 241 8.3.3; 8.3.4. Tượng ngựa, lăng Quận Mãn (TK XVIII) Nguồn: NCS, 2015 8.3.5; 8.3.6. Tượng chó, lăng Nguyễn Văn Nghi (TK XVII) Nguồn: VMT 242 8.3.7; 8.3.8. Tượng chó, lăng Phạm Đôn Nghị (TK XVIII) Nguồn: NCS, 2014 8.3.9; 8.3.10. Tượng chó, lăng Phạm Đôn Nghị (TK XVIII) Nguồn: NCS, 2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghe_thuat_tuong_lang_mo_quan_cong_the_ky_xvii_xviii.pdf
  • pdfTom tat ket luan moi tieng Anh.PDF
  • pdfTom tat ket luan moi tieng Viet.PDF
  • pdftom tat luan an.PDF
  • pdfTrich yeu luan an tieng Anh.PDF
  • pdfTrich yeu luan an tieng Viet.PDF
Tài liệu liên quan