Luận án Nghiên cứu các tự điển, từ điển Hán nôm thế kỉ XIX

1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Một trong những điểm nổi bật của đời sống Hán Nôm thế kỉ XIX là sự xuất hiện một loạt sách vừa như là những tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm vừa như là những bộ sách học chữ Hán, cập nhật, phổ biến và mở rộng tri thức qua chữ Hán, chữ Nôm như:     Nhật dụng thường đàm;          Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca;       Nam phương danh vật bị khảo;     Ðại Nam quốc ngữ; ... Chúng được biên soạn trước hết nhằm học chữ Hán,

pdf157 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 451 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nghiên cứu các tự điển, từ điển Hán nôm thế kỉ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, tiếp thu và cập nhật tri thức qua chữ Hán, chữ Nôm nhưng cách thức tổ chức bên trong của chúng đã làm cho chúng trở thành các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm. Các bộ tự điển và từ điển đó mang trong mình nhiều giá trị, phản ánh một trong những lĩnh vực nổi trội của truyền thống ngữ văn học chữ Hán nói chung, ngữ văn học truyền thống Việt Nam nói riêng có nhiều thành tựu. Đó là lĩnh vực biên soạn tự điển và từ điển. Chúng cần được xem xét trên phương diện tự điển, từ điển học cũng như trên phương diện giáo dục chữ Hán, giáo dục Hán văn. Qua các bộ sách này, chúng ta có thể biết được rõ hơn những yêu cầu và đòi hỏi nhằm đổi mới giáo dục Hán văn như: nhật dụng hóa tri thức Hán học, mở mang cái học cách trí, cái học đa thức, cái học phi khoa cử. Đồng thời qua chúng ta còn thấy vai trò của nhân tố tiếng mẹ đẻ ghi bằng chữ Nôm trong giáo dục chữ Hán và cập nhật tri thức qua chữ Hán. Giáo dục Hán văn vì thế đã thúc đẩy sự nhìn nhận về vai trò của tiếng mẹ đẻ. Sự có mặt của nhân tố chữ Nôm trong các sách học chữ Hán này đã nói lên vai trò và khả năng của quốc ngữ Nôm cho sự mở mang và cập nhật tri thức ngay khi vẫn dùng chữ Hán. Nghiên cứu chúng sẽ giúp ta giải thích và đánh giá một loạt vấn đề của ngữ văn Việt Nam cũng như xã hội và văn hóa Việt Nam truyền thống trong môi trường song ngữ Việt Hán. 2 Nghiên cứu chúng sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về cách thức biên soạn tự điển chữ Hán của ngữ văn Việt Nam truyền thống bởi vì ở đây chứa đựng một loạt vấn đề của ngữ văn Hán Nôm nói chung, của truyền thống tự điển và từ điển học Việt Nam nói chung như: cách chọn các đơn vị cơ sở để lập mục từ, bảng từ; cách thức xây dựng bảng từ, cấu trúc mục từ; mức độ phổ biến, cập nhật và bổ sung các tri thức văn hóa vào một thế kỉ cuối thời trung đại qua chữ Hán. Nghiên cứu các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX sẽ giúp ta hiểu thêm về khả năng của tiếng Việt khi thực hiện nhiệm vụ làm vốn đối ứng cho việc phổ biến những tri thức văn hóa có tính trí tính cao từ chữ Hán. Nghiên cứu các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm nói chung và nhất là các bộ ra đời vào thế kỉ XIX sẽ góp phần cho sự nhận thức về những đóng góp của ngữ văn Hán Nôm cho truyền thống ngữ văn Việt Nam nói riêng, truyền thống ngữ văn Đông Á nói chung, nơi mà các vấn đề về văn tự, tự điển, học chữ, phổ biến chữ, thích danh, thích nghĩa luôn được đặc biệt chú ý. Vì những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX làm đề tài cho luận án tiến sĩ ngữ văn, chuyên ngành Hán Nôm của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nhận thức chung về bối cảnh xã hội - ngôn ngữ Việt Nam thế kỉ XIX, luận án nhằm các mục tiêu cụ thể sau: - Lập danh mục các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm được biên soạn vào thế kỉ XIX, xác lập tính chất “  tự học”, “  tự thư”, “  từ thư”, “  loại thư” của chúng trong mối quan hệ với truyền thống biên soạn sách học chữ Hán cũng như tự điển và từ điển chữ Hán nói chung. - Nghiên cứu cơ cấu bảng từ cũng như cơ cấu mục từ nói chung để từ đó đi vào nghiên cứu phần chữ Hán hay “phần được giải thích” của mục từ của các bộ tự điển, từ điển này trong mối quan hệ với các phạm trù văn hoá mà các 3 mục chữ Hán này chuyển tải; nghiên cứu chữ Hán từ góc độ văn tự học để thấy được nhận thức của nhà Nho thế kỉ XIX về việc dạy và học chữ Hán. - Nghiên cứu “phần giải thích” của mục từ (giải thích nghĩa bằng chữ Nôm, giải thích nghĩa bằng chữ Hán), trong mối quan hệ đối ứng với bộ phận được giải thích (chữ Hán); nghiên cứu các bộ phận nối giữa “phần được giải thích” và “phần giải thích”. - Nghiên cứu các mục đích biên soạn cũng như các định hướng tri thức văn hóa qua sự cập nhật tri thức qua Hán học mà các bộ “tiểu loại thư” này đã thực hiện. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là bốn bộ tự điển, từ điển Hán Nôm được biên soạn, ấn bản, trùng san trong thế kỉ XIX, đó là các bộ: Nhật dụng thường đàm; Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; Nam phương danh vật bị khảo và Ðại Nam quốc ngữ. Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu bốn bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX từ góc nhìn của từ điển học, từ thư học cũng như từ góc nhìn sách dạy chữ Hán, sách học chữ Hán. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án vận dụng các thao tác mô tả của văn bản học Hán Nôm và ngữ văn Hán Nôm trong việc giới thiệu và mô tả các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX, phiên âm, dịch nghĩa chúng ra quốc ngữ hiện đại. Luận án sử dụng các thao tác mô tả của từ điển học, nhất là của từ thư học và tự điển học chữ Hán để mô tả cơ cấu bảng từ và cơ cấu mục từ của các tự điển, từ điển Hán Nôm. Luận án vận dụng các thao tác của xã hội - ngôn ngữ học trong việc mô tả hoàn cảnh xã hội - ngôn ngữ Việt Nam thế kỉ XIX nhằm giải thích các cơ sở xã hội - ngôn ngữ mà các bộ sách này ra đời. 4 Luận án vận dụng các thao tác của ngôn ngữ và văn hóa học trong việc phân tích, giải thích và sơ bộ đánh giá giá trị văn hóa của các bộ sách này trong bối cảnh song ngữ Việt Hán của thời điểm ra đời chúng. 5. Đóng góp mới của luận án Luận án giới thiệu danh mục các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX. Luận án góp phần làm sáng tỏ các vấn đề về cấu trúc (cấu trúc bảng từ, bảng chữ Hán trong từng bộ sách; cấu trúc mục từ trong từng mục từ và trong từng bộ sách) từ góc nhìn của từ điển học nói chung, của tự điển học và từ điển học chữ Hán và tự điển, từ điển Hán Nôm nói riêng. Luận án góp phần làm sáng tỏ mục đích, tính chất của các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm trong khuôn hình loại thư song ngữ Hán Nôm từ góc nhìn sách dạy chữ Hán, sách học chữ Hán. Luận án góp phần giải thích một vài cơ sở ngôn ngữ - xã hội cho sự ra đời của các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm và phân tích các mục đích biên soạn của chúng. Luận án góp phần giải thích những cố gắng và thành tựu của ngữ văn truyền thống trong việc cập nhật, bổ sung các tri thức văn hóa mà thời đại yêu cầu qua chữ Hán, chữ Nôm. Luận án góp phần hình thành một nhận thức đúng đắn về truyền thống tự điển học và từ điển học Việt Nam, trân trọng di sản văn hiến dân tộc trên cơ sở thấu hiểu những minh chứng cụ thể về phương diện tự điển và từ điển học. 6. Cấu trúc của luận án Trên cơ sở nhận thức về đối tượng, mục tiêu, phạm vi và phương pháp nghiên cứu được trình bày ở phần MỞ ĐẦU, NỘI DUNG của đề tài được triển khai theo hệ thống vấn đề như sau: 5 Chương 1 với tiêu đề: “TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ XÁC LẬP NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU CHỦ YẾU CỦA LUẬN ÁN” nhằm đề cập đến các nghiên cứu đã có về bốn bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm Việt Nam thế kỉ XIX, từ đó làm sáng tỏ cách thức và hướng đi mà luận án sẽ thực hiện, nhằm đề cập đến các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm từ góc nhìn của từ điển học nói chung, từ điển học và từ thư học chữ Hán nói riêng. Chương 2 với tiêu đề: “DANH MỤC VÀ BẢNG TỪ CỦA CÁC TỰ ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HÁN NÔM THẾ KỈ XIX” nhằm bao quát danh mục cũng như các vấn đề về mặt văn bản học của các tự điển và từ điển song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX làm cơ sở cho việc nghiên cứu bảng từ (tức cấu trúc vĩ mô) của chúng. Chương 3 với tiêu đề: “CẤU TRÚC NỘI TẠI CỦA MỤC TỪ TRONG CÁC TỰ ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HÁN NÔM THẾ KỈ XIX” nhằm nghiên cứu cấu trúc tổng quát của mục từ cũng như cấu trúc chi tiết của mục từ trong tự điển, từ điển. Chương 4 với tiêu đề: “ĐỊNH HƯỚNG BIÊN SOẠN VÀ SỰ CẬP NHẬT TRI THỨC CỦA CÁC TỰ ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HÁN NÔM THẾ KỈ XIX” nhằm nghiên cứu định hướng biên soạn nhằm mở mang và cập nhật tri thức theo chủ đề của các bộ sách học chữ Hán có tính chất song ngữ này; vai trò và khả năng mở mang tri thức Hán học của chúng trong bối cảnh xã hội - ngôn ngữ cũng như trong môi trường song ngữ Việt Hán thế kỉ XIX. Phần KẾT LUẬN sẽ đánh giá, tổng kết những kết quả trong thực tế giải quyết vấn đề trong các chương mục của NỘI DUNG luận án. Ngoài ra, luận án còn hai phần phụ là: TÀI LIỆU THAM KHẢO và PHỤ LỤC với các bộ phận cấu thành: 6 1. Phụ lục 1: Ảnh chụp trang bìa các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX. 2. Phụ lục 2: Bản phiên dịch Nhật dụng thường đàm và các bài tựa của các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX. - Phụ lục 2.1: Bản phiên dịch Nhật dụng thường đàm. - Phụ lục 2.2: Phần phiên dịch Nam phương danh vật bị khảo (tựa) - Phụ lục 2.3: Phần phiên dịch Đại Nam quốc ngữ (tựa) 7 NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ XÁC LẬP NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU CHỦ YẾU CỦA LUẬN ÁN Trong chương này, chúng tôi tập trung khái quát những nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, từ đó xác định những hướng nghiên cứu chủ yếu sẽ được trình bày trong luận án nhằm nghiên cứu các bộ tự điển và từ điển song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX từ góc nhìn của từ điển học nói chung, tự điển học và từ điển học chữ Hán nói riêng. 1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Những nghiên cứu về các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX (từ đây viết tắt là TĐHN.TkXIX) chủ yếu đã được triển khai trên các lĩnh vực như: những giới thiệu khái quát và phiên dịch Hán Nôm; những nghiên cứu cụ thể về từng bộ sách; những nghiên cứu về chữ Nôm lấy các TĐHN.TkXIX như nguồn tư liệu 1.1.1. Những giới thiệu khái quát và phiên dịch Hán Nôm về các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX 1.1.1.1. Những giới thiệu khái quát Những giới thiệu khái quát về bốn bộ TĐHN.TkXIX thể hiện trong các công trình sau đây: Trần Văn Giáp (1990) trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam, (tập 2)[15], đã giới thiệu các bộ sách ở phần NGÔN NGỮ với các số: 217 (Nhật dụng thường đàm); 224 (Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca); 223 (Ðại Nam quốc ngữ); 226 (Nam phương danh vật bị khảo): 8 + Về     Nhật dụng thường đàm: “Sách Nhật dụng thường đàm là một bộ từ điển Hán Việt nhỏ, xếp theo 32 loại như Thiên văn, Luân tự, Nho giáo Du hí, Tật bệnh, Cầm thú, Trung loại, v.v Các từ ngữ tuy không nhiều, nhưng có thể nói là tạm đủ để đọc biết các chữ thông thường. Đó cũng là một tài liệu mà chúng ta có thể dùng so sánh để thấy những chỗ khác biệt trong cách chua và giải nghĩa chữ Hán bằng chữ Nôm” [15, tr.18]. + Về     Ðại Nam quốc ngữ: Đầu sách có bài tựa không ghi tên người viết, nhưng đọc thì biết là của người soạn sách này. Cuối bài có chú giải những chữ khó trong bài đó. Tiếp theo là phần nghĩa lệ, đề năm Tự Đức thứ 33 (1880), gồm có 4 điều nói về mục đích và phương pháp làm sách này” [15, tr.21]. + Về          Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca: “Tự học giải nghĩa ca cũng thuộc loại tự điển Hán Việt. Chữ Hán ghi trên, chữ Nôm ghi dưới, có chép vần thượng lục hạ bát, nhiều chỗ có ghép chữ đôi và thêm chữ đệm cho khỏi túng vần Mục đích của người soạn là muốn phổ biến việc học chữ Hán và chính xác lối viết chữ Nôm. Nhưng vì sách làm dài, nhiều chữ khó, nghĩa khó hoặc ít dùng, nên tác dụng đạt được có lẽ là ở chỗ góp phần làm chính xác được lối viết chữ Nôm thôi. Về mặt ấy, sách Tự học giải nghĩa ca được coi là một tài liệu quí khi người nghiên cứu cần so sánh để tìm hiểu quá trình phát triển và chuyển hóa của chữ Nôm”[15, tr.23]. + Về       Nam phương danh vật bị khảo: “Như vậy, sách Nam phương danh vật bị khảo cũng là một bộ sách thuộc loại từ ngữ Hán Việt, đặc điểm là có chú ý nhiều đến tên gọi các sản vật của nước ta và có ghi chú tên địa phương có những sản vật ấy. Đó là một công trình biên soạn có giá trị về ngôn ngữ học và sinh vật học” [15, tr.24]. Trần Nghĩa, Prof.Francois Gros (1993) và các cộng sự của mình trong công trình Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Khoa học Xã hội, Hà 9 Nội, 1993, gồm 3 tập, sau khi giới thiệu về văn bản của các bộ sách, tác giả đã mô tả khái quát về kết cấu và nội dung của từng bộ tự điển, từ điển về phương diện thư mục học. Trong tập I ở mục số 865, các tác giả mô tả về Ðại Nam quốc ngữ như sau: “Giải thích và dịch ra Nôm các từ ngữ tiếng Hán bao gồm nhiều lĩnh vực, chia thành 50 loại mục, gọi là “môn” hay “bộ”, như Thiên văn môn; Địa lí môn; Nhân luân môn; Tàm tang môn; Công khí môn; Tục ngữ môn v.v.; Thuỷ bộ; Thổ bộ; Kim bộ v.v. [45, tr.497]. Trong tập II, mô tả về Nhật dụng thường đàm ở mục số 2538: “Từ điển Hán - Nôm, do Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) soạn. Các mục từ được xếp thành 32 nhóm: Thiên văn, Địa lí, Nho giáo, Đạo giáo, Thân thể, Nhà cửa, Trang phục, Thực phẩm, Thảo mộc, Côn trùng, Cầm thú.. [45, tr.487]. Nam phương danh vật bị khảo được giới thiệu như sau ở mục số 2256 của tập II: “Từ điển Hán - Nôm do Đặng Xuân Bảng soạn, chia thành các mục như thiên văn, địa lí, thời tiết”[45, tr.333]. Cuối cùng, đối với Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca ở mục số 4116 của tập III, tác giả mô tả như sau: “Sách dạy chữ Hán (thể 6-8) giải nghĩa bằng chữ Nôm. Các chữ được xếp thành 7 mục lớn: Kham dư (thiên văn, địa lí), Nhân sự (quan hệ xã hội, con người), Chính hóa (giáo dục), Khí dụng (vật dùng), Thảo mộc (cây cỏ), Cầm thú (động vật, chim muông) và Trùng ngư (côn trùng, tôm cá)” [45, tr.506]. Nguyễn Thị Lan (2002) trong Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm: Tìm hiểu loại hình sách song ngữ Hán - Nôm dạy chữ Hán [35], với tính chất nghiên cứu điểm về thể loại, đã đề cập đến tên các bộ sách này với tư cách là những sách song ngữ dạy chữ Hán; qua thao tác thống kê điểm đã đưa ra những nhận định chung về cách phân chia môn loại, cách giải nghĩa, vốn chữ trong một số môn loại làm tham số cho các so sánh của mình. 10 1.1.1.2. Những công trình phiên dịch Hán Nôm Phương thủ Nguyễn Hữu Quì (1971) trong Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca[48], đã phiên âm bộ sách này và mới chỉ in được một phần, được Uỷ ban dịch thuật phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa của chính quyền Sài Gòn cũ xuất bản năm 1971. Phan Đăng (1996) trong công trình Thơ văn Tự Đức (3 tập), đã phiên âm hoàn chỉnh Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca, in ở tập 3 của công trình này [12]. Lã Minh Hằng (2013) trong công trình Khảo cứu từ điển song ngữ Hán - Việt Đại Nam quốc ngữ [22], đã phiên dịch bộ sách và khảo cứu, chú giải cho các mục từ Hán của Đại Nam quốc ngữ. Như vậy, trong bốn bộ TĐHN.TkXIX thì cho đến nay mới có hai bộ Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca và Đại Nam quốc ngữ được phiên dịch và công bố. Với bốn bộ sách là đối tượng nghiên cứu của luận án, chúng tôi chủ yếu làm việc trực tiếp với văn bản gốc Hán Nôm. Chúng tôi cũng được thừa hưởng ở mức độ nhất định từ bản dịch của hai bộ sách trên. Chúng tôi cũng phiên dịch toàn bộ trong quá trình làm luận án. Chúng được trích in trong phần Phụ lục luận án. Việc tiếp cận với hai bản sách đã công bố diễn ra sau khi luận án đã cơ bản hoàn thiện và chỉ mang tính chất tham khảo. 1.1.2. Những nghiên cứu cụ thể về từng bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX 1.1.2.1. Các bộ tự điển, từ điển là đối tượng cho những giới thiệu tổng quát Thuộc về những nghiên cứu cụ thể về từng bộ TĐHN.TkXIX là những bài viết độc lập cũng như lời giới thiệu cho các lần xuất bản, những nghiên cứu về chữ Nôm trong các tự điển, từ điển sau đây: Phan Đăng (1998) trong Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca” - một cuốn sách quí trong các tác phẩm của vua Tự Đức[13], đã dành 3 trang để giới 11 thiệu một cách khái quát về cấu trúc của cuốn sách và đưa ra một số nhận xét sơ lược về chữ Nôm: “Chúng tôi chưa dám xem đấy là một loại tự điển nhưng chắc chắn trong một phạm vi nhất định của giáo dục thời ấy, Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca đã là một loại sách công cụ tra cứu thật bổ ích”. GS.Nguyễn Thiện Giáp (2005) trong công trình Lược sử Việt ngữ học, tập một, Nxb Giáo dục, Hà Nội, đã nêu ra danh mục 10 cuốn từ điển đối chiếu Hán Việt đầu tiên trong đó có 4 cuốn mà đề tài luận án này nghiên cứu. Đó là một cố gắng trong việc giới thiệu truyền thống từ điển học Việt Nam cho độc giả hiện đại. Tất nhiên, trong phạm vi và khuôn khổ của một mục viết cho một bộ sách lớn về lịch sử Việt ngữ học, tác giả chỉ có thể nêu ra những nhận xét chung và đặt chúng trong phạm vi của Việt ngữ học. Sau đó, tác giả đã đi vào phân tích sâu hơn cho các cuốn sách cụ thể như : An Nam dịch ngữ (trang 97- 100); Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (trang 100-103; Tam thiên tự giải âm (trang 104-110). Lê Văn Cường (2012) trong bài viết Nhật dụng thường đàm, cuốn từ điển bách khoa song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX” in trên Tạp chí Hán Nôm, (số 3. 2012)[8], đã giới thiệu chủ yếu về tình hình của các văn bản đang được lưu trữ trong các thư viện, điểm qua về phương pháp giải nghĩa chú âm của từ điển và bước đầu có những nhận định chung về cuốn tự điển này. 1.1.2.2. Những nghiên cứu về chữ Nôm trong các tự điển, từ điển Thuộc vào những nghiên cứu chuyên biệt về chữ Nôm, trong bốn bộ TĐHN.TkXIX mới chỉ có Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca được nghiên cứu đến trong các công trình sau đây: Đoàn Khoách trong Chữ Nôm trong một tác phẩm của vua Tự Đức[28], sau khi đề cập đến vấn đề lí thuyết chữ Nôm với các đề mục: chữ Nôm là gì? chữ Nôm có từ bao giờ, do ai sáng chế, chữ Nôm là chữ thế nào - cách cấu tạo chữ Nôm ra sao? Tự Đức là ai? Có sự nghiệp văn hoá gì? “Tự học giải nghĩa 12 ca” là sách gì?... mới đi vào phiên âm và phân tích cấu tạo chữ Nôm của một vài trang phần Nhân sự loại (thượng). Cuối cùng tác giả dẫn lời của Trần Văn Giáp trong Lược khảo vấn đề chữ Nôm để kết luận “Nó không phải là sách bắt chước đúng thể tài một cuốn sách nào của Trung Quốc ra tiếng Việt. Giá trị của nó rất lớn, ở chỗ nó có tính dân tộc, đối với ngôn ngữ học và văn tự học Việt Nam tức là chữ Nôm”. Hà Đăng Việt (2008) trong bài viết “Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca” và vấn đề chuẩn hoá chữ Nôm thời Nguyễn[68] đã phân loại cấu trúc và định lượng chữ Nôm của bộ sách đồng thời so sánh, đối chiếu các loại cấu tạo chữ Nôm trong đó với các sách cùng loại (đồng đại và lịch đại) để rút ra những nhận xét về đặc điểm của chữ Nôm trong đó. Qua phần trình bày lịch sử vấn đề nghiên cứu trên đây có thể thấy, các nghiên cứu đã có về các TĐHN.TkXIX chủ yếu mới chỉ giới thiệu và điểm danh về bốn bộ sách, phiên âm Hán - Nôm và nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm trong Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; những vấn đề về chữ Hán, là đối tượng chính của sách dạy chữ Hán vẫn chưa được nghiên cứu. 1.1.3. Các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX - nguồn tư liệu cho các nghiên cứu chữ Nôm Việt nói chung, cho chữ Nôm hậu kì nói riêng Với tiêu chí này chúng ta có thể kê ra một danh sách khá dài các công trình nghiên cứu về chữ Nôm. Đào Duy Anh, Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo diễn biến, Nxb Khoa học Xã hội, H.1975[1]; Phan Văn Các (chủ biên), Giáo trình Hán Nôm, Nxb Giáo dục, 1985[2]; Nguyễn Tài Cẩn, Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.1985[3]; Nguyễn Quang Hồng, Khái luận văn tự học chữ Nôm, Nxb KHXH, 2008 [26]; (.). Trên đây là sự kiểm kê về lịch sử vấn đề nghiên cứu. Các nghiên cứu đó do yêu cầu và hoàn cảnh của mình, phần nhiều mới chỉ dừng lại ở các phương diện như: Giới thiệu về các bộ TĐHN.TkXIX trong tổng thể kho sách Hán 13 Nôm theo chủ đề (Trần Văn Giáp, Nguyễn Thị Lan); Giới thiệu các bộ sách dưới góc độ thư mục học (Trần Văn Giáp, Trần Nghĩa và Prof.Francois Gros); Giới thiệu sách và các tác giả của sách (Hà Đăng Việt, Lê Văn Cường); Phiên, dịch và công bố các bản phiên, dịch (Nguyễn Hữu Quì, Phan Đăng, Lã Minh Hằng); Nhận xét chung về những cuốn từ điển đối chiếu Hán Việt đầu tiên (Nguyễn Thiện Giáp); Các nghiên cứu cụ thể về chữ Nôm trong các bộ sách (Đoàn Khoách, Hà Đăng Việt); Sử dụng các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm này như là nguồn cứ liệu để xây dựng các bộ tự điển chữ Nôm. Ngay cả khi nghiên cứu có sử dụng những cơ sở của văn tự học nhưng cũng mới chỉ đề cập đến phần chữ Nôm như là nguồn tư liệu mà thôi. Còn hướng nhìn chúng theo góc độ tự điển học theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng của thuật ngữ này thì vẫn còn bỏ trống. Điều đó cho phép chúng tôi triển khai đề tài theo các yêu cầu mà đề tài phải có. 1.2. Những hướng và lĩnh vực cần được đề tài luận án triển khai Luận án nghiên cứu bốn bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX sẽ được triển khai theo hướng nghiên cứu của từ điển học nói chung, truyền thống từ điển học chữ Hán nói riêng. Do vậy phải có một sự nhận thức cần thiết về các cơ sở của từ điển học hiện đại và truyền thống tự điển và từ điển học chữ Hán. Từ điển học hiện đại sẽ cung cấp những cơ sở có tính phương pháp luận cho nghiên cứu đề tài luận án [phân loại tự điển, từ điển; cấu trúc của tự điển, từ điển (cấu trúc vĩ mô, cấu trúc vi mô - bảng từ và mục từ, cấu tạo mục từ)]. Còn những nhận thức về truyền thống tự điển, từ điển chữ Hán sẽ đóng vai trò cơ sở cho mọi trình bày của luận án vì chúng cắt nghĩa cho ta hiểu bốn bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm Việt Nam thế kỉ XIX, đối tượng mà luận án nghiên cứu đã được nảy sinh từ một truyền thống như thế nào, chúng được xây dựng theo mẫu hình nào, chúng được chảy từ nguồn nào, chúng đã được tạo lập trong mối quan hệ với các nguồn mạch ra sao, cấu trúc nội tại của chúng thế nào, chúng mang trong mình những đặc điểm vốn có nào của cả truyền 14 thống tự điển, từ điển chữ Hán trong quá khứ nói chung. Do vậy, những tri thức về tự điển học nói chung, tự điển và từ điển học chữ Hán nói riêng sẽ là cơ sở cho mọi trình bày trong luận án. Các bộ tự điển, từ điển chữ Hán trong truyền thống tự điển chữ Hán không chỉ đóng vai trò như là những bảng sưu tập chữ Hán phán ánh chuẩn hóa cách viết, âm đọc mà còn là công cụ cho sự lưu truyền, sử dụng, mở mang văn hóa, cập nhật kiến thức. Các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX trước hết cũng là những bộ sách học chữ Hán mà nội dung học chữ Hán đó phản ánh Hán học của thời đại mà chúng ra đời. Sự xuất hiện của các bộ sách này cũng là sự điều chỉnh, bổ sung cho Hán học đương thời nhằm đáp ứng các đòi hỏi của xã hội đương thời đối với Hán học. Luận án sẽ đi vào triển khai theo hướng coi bốn bộ sách đó như là những sách học chữ Hán, phổ biến những tri thức đương thời cần có qua chữ Hán trong điều kiện Việt Nam thế kỉ XIX. Với hai định hướng như trên, những vấn đề sau đây sẽ được triển khai trong luận án: Giới thiệu và phân tích các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX về phương diện văn bản học, phiên âm dịch nghĩa và mô tả chúng về phương diện từ điển học. Nghiên cứu cấu trúc vĩ mô cũng như cấu trúc vi mô của các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX. Mô tả môi trường song ngữ Hán Việt mà các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX ra đời. Phân tích và đánh giá mục đích biên soạn cũng như những tri thức văn hóa của chữ Hán được mang ra dạy và học trong các bộ sách này. Những hướng và vấn đề trên đây sẽ được trình bày trong luận án. Ở phần TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN VÀ XÁC LẬP NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU CHỦ YẾU CỦA LUẬN ÁN, về cơ bản 15 chúng tôi chỉ nêu vấn đề mà thôi. Riêng phần các cơ sở của từ điển học hiện đại và tự điển, từ điển chữ Hán trong truyền thống bởi lẽ chúng đóng vai trò nền tảng cho mọi nghiên cứu của đề tài luận án nên chúng sẽ được lược trình dưới đây. Chúng đóng vai trò làm cơ sở cho mọi trình bày trong chương 2, chương 3, chương 4; chúng cũng đóng vai trò như là những số đo cho mọi đánh giá về giá trị của các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX. Dưới đây là sự trình bày đó. 1.2.1. Cơ sở của từ điển học và từ điển học chữ Hán phục vụ cho đề tài nghiên cứu 1.2.1.1. Một số khái niệm của từ điển học hiện đại Có một quan niệm rằng, “từ điển học là một bộ phận của ngôn ngữ học, nghiên cứu lí luận và biên soạn các công trình tra cứu về ngôn ngữ”. Lại có một quan niệm khác cho rằng, “Từ điển học là chuyên ngành khoa học nhằm nghiên cứu lí luận và biên soạn các công trình tra cứu nói chung” [Nguyễn Văn Lợi, “Từ điển học và bách khoa thư học: Đôi điều suy nghĩ về Ngành, Nghề và Nghiệp”// Từ điển học & Bách khoa thư (số 6), 2013 [40, tr.10-17]. Tuy có các quan niệm hẹp hay rộng như thế, song tựu trung lại, ta thấy rằng, những gì liên quan đến nghiên cứu lí luận và biên soạn từ điển cũng như các công trình tra cứu dù ít dù nhiều cũng đều thuộc phạm trù từ điển học. Từ lí thuyết và thực tiễn biên soạn cũng như những phân tích ngôn ngữ phục vụ cho mục đích biên soạn từ điển, ngôn ngữ học hiện đại đã khái quát nên một số khái niệm có tính cơ sở về từ điển. Chúng thường được trình bày trong các giáo trình ngôn ngữ học. Dưới đây là một số khái niệm cơ bản về từ điển học được chúng tôi tóm lược từ Giáo trình ngôn ngữ học [17] của GS.Nguyễn Thiện Giáp. a. Từ điển là những tập sách tập hợp vốn từ vựng của một ngôn ngữ hay nhiều ngôn ngữ xếp theo những trật tự nhất định nhằm giải thích hay phiên 16 dịch các mục từ. Sự mô tả vốn từ một cách hệ thống là đặc trưng chủ yếu của từ điển. Từ điển nói chung được chia thành từ điển bách khoa (encyclopedia) và từ điển ngữ văn (philological dictionary). Từ điển bách khoa được chia thành bách khoa toàn thư và bách khoa chuyên thư. Cả ở bách khoa toàn thư và bách khoa chuyên thư đều hướng vào giải thích các khái niệm ở các ngành, các lĩnh vực. a1. Từ điển ngữ văn giải thích ý nghĩa và cách sử dụng các từ đã được thu thập vào từ điển. Từ điển ngữ văn lại bao gồm từ điển tường giải (cho một thứ tiếng); từ điển đối chiếu (từ điển song ngữ) cho hai thứ tiếng trở lên. Từ điển tường giải, là từ điển một thứ tiếng, nhằm giải thích ý nghĩa và cách sử dụng của từ, ngữ, chỉ ra những đặc điểm ngữ pháp, ngữ âm và ngữ nghĩa của từ Từ điển tường giải thường được quan niệm là từ điển giải thích chung cho một ngôn ngữ. Song tùy theo yêu cầu của đối tượng, đích hướng vào có thể bao gồm trong mình những loại nhỏ hơn như: từ điển học sinh, từ điển phương ngữ, từ điển thành ngữ, từ điển từ nguyên, từ điển từ đồng nghĩa, từ điển từ trái nghĩa a2. Từ điển học hiện đại còn tách từ điển ngữ văn theo cách sắp xếp các mục từ trong đó thành các loại: từ điển biểu âm, từ điển biểu ý. Các từ điển tường giải và đối chiếu sắp xếp mục từ theo trật tự chữ cái, tức là theo trật tự ngữ âm, biểu âm, thường gọi là từ điển biểu âm. Các từ điển xếp các mục từ theo ý nghĩa được gọi là từ điển biểu ý. Trong từ điển biểu ý lại chia thành các loại nhỏ như: Từ điển kho tàng, là từ điển mà vốn từ được thu thập ở trong đó được sắp xếp theo các lớp khái niệm hay các nhóm đề mục, như không gian, thời gian, vật chất, trí tuệ; Từ điển loại suy, là loại từ điển mà các mục từ được xếp dựa theo mức độ thường dùng nhất của chúng làm trọng tâm; Từ điển học sinh biên soạn theo đề mục (chủ đề, chủ điểm). (Nguyễn Thiện Giáp, tr.239-251)[17]. 17 b. Cấu trúc của từ điển. Một cuốn tự điển, từ điển nói chung thường được cấu trúc thành hai bộ phận: Một là cấu trúc vĩ mô và hai là cấu trúc vi mô. Cấu trúc vĩ mô là cấu trúc bảng từ, trong đó bao gồm toàn thể các mục từ được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Đối với các tự điển, từ điển Hán Nôm chúng ta đang nghiên cứu nói riêng thì cấu trúc vĩ mô của nó chính là tất cả các môn loại được tập hợp trong đó. Cấu trúc vi mô là cấu trúc của từng mục từ cụ thể trong hệ thống bảng từ. Như tác giả Lí Toàn Thắng đã định nghĩa trong “Một số vấn đề về cấu trúc vi mô của từ điển" đăng trên Từ điển học & Bách khoa thư (số 3)[55]: “Nói chung ở Việt Nam, cấu trúc vi mô của từ điển giải thích (đơn ngữ) được hiểu là cấu trúc mục từ, bao gồm toàn bộ những thông tin/ tri thức được trình bày trong mục từ đó. Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô mang một thông tin nhất định và thông tin này được diễn đạt bằng một phương tiện nào đó" (Lí Toàn Thắng, tr.18). Như vậy, mục từ là đơn vị từ vựng được lựa chọn để giải thích trong từ điển. Mục từ là một phức thể bao gồm phần cần được giải thích (phần đem ra giải thích) và phần giải thích. Phần cần được giải thích lại tương ứng với các đơn vị của ngôn ngữ. Ở các từ điển hiện đại, phần được giải thích thường là “từ” (từ đơn, từ phức) hay những đơn vị lớn hơn từ như ngữ, cú. Trong các tự điển chữ Hán, phần được giải thích thường là một chữ Hán (đơn tự) nhưng cũng có khi là một tổ hợp lớn hơn (phức tự). Trên đây là một số cơ sở của từ điển học hiện đại. Chúng được xem như là một trong những cơ sở có tính lí thuyết và phương pháp để chúng ta suy xét, đánh giá về bốn bộ TĐHN.TkXIX của đề tài luận án này nghiên cứu. Tuy vậy, đó là cách nhìn của từ điển học hiện đại vì từ điển học hiện đại lấy “từ” làm đơn vị cở sở cho xây dựng mục từ. Đối với các tự điển, từ điển Hán Nôm, ngoài việc được xem xét theo cách nhìn của từ điển học hiện đại, chúng ta cần phải dựa trực tiếp vào một số cơ sở của truyền thống từ điển học chữ Hán vì 18 các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX đều được xây dựng trên sự kế thừa nhất định truyền thống đó. 1.2.1.2. Truyền thống từ điển học chữ Hán Việc biên soạn từ điển học chữ Hán đã có truyền thống trên 2000 năm, gắn liền với sự tăng tiến và mở mang của chữ Hán, tiếng Hán, văn hóa Hán cũng như văn hóa các nước trong khu vực Đông Á nên đã đặt cơ sở cho sự ra đời của truyền thống từ điển chữ Hán. Từ điển học chữ Hán truyền thống bắt đầu với những ý tưởng và thao tác nhằm sưu tập, thống nhất, mở rộng phạm vi người biết chữ Hán. Thống nhất chữ Hán diễn ra trước tiên ở phương diện tự thể   - thể của chữ. Chữ Hán đã trải qua những biến đổi sau đây về tự thể: Giáp cốt văn    (chữ trên mai rùa, xương thú, chủ yếu sử dụng cho mục đích bói toán, mà các chứng tích của chúng ra đời vào thời Ân Thương, khoảng thế kỉ XV Tr. CN); Chung đỉnh văn    (chữ khắc trên chuông trên đỉnh, còn gọi là kim văn  ) thế kỉ XI Tr.CN; Đại triện   thế kỉ VIII Tr.CN; Tiểu triện   thế kỉ III Tr.CN; Lệ thư   thế kỉ II Tr.CN; Thảo thư   thời Hán (là biến thể nhằm viết nhanh... không những làm sáng rõ cho mục đích biên soạn mà điều quan trọng là chỗ chúng giúp ta hiểu rõ cách thức biên soạn và sưu tập tài liệu cho từng bộ sách. Trong số các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX, Nam phương là bộ sách có đề cập đến các bộ sách đóng vai trò là nguồn dẫn liệu cho sự biên soạn. Có thể coi đó là định hướng cho sự sưu tập vốn chữ. Dưới đây trong vai trò minh hoạ về nguồn tư liệu để soạn sách, chúng tôi xin dẫn các sách mà Nam phương đã đề cập đến như là những sách làm mẫu cho sự so sánh đối chiếu hay nguồn tư liệu đó. Qua đó ta thấy hai nguồn sách mà ông dựa vào để soạn. Một là, nguồn các sách Trung Quốc. Hai là, nguồn các sách Việt Nam. 2.2.1. Nguồn các sách Trung Quốc Trong lời tiểu dẫn sách Nam phương có đoạn: Hình 2.6 Hình 2.7 Trang chứa “Nam phương danh vật khảo tiểu dẫn” sách Nam phương 39 “Vật chi danh nghĩa Chu Công Nhĩ nhã bị hĩ! Kì hậu Hán Sử Du Cấp tựu chương, Tấn Lục Cơ Thi sớ, Kê Hàm Nam phương thảo mộc trạng; Minh Lí Trân Bản thảo cương mục, Vương Tấn Tượng Quần phương phổ, dĩ chí Thuyết văn, Tì nhã, Chính tự thông, Thông tục văn, Cách trí kính nguyên, Tam tài đồ hội đẳng tác kì sở dĩ huấn hỗ hậu học tối vi tường - Danh và nghĩa của vật ở sách Nhĩ Nhã của Chu Công đã đầy đủ rồi. Các sách như Cấp tựu chương của Sử Du đời Hậu Hán, Thi sớ của Lục Cơ, Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm đời Tấn, Bản thảo cương mục của Lí Trân, Quần phương phổ của Vương Tấn Tượng đời Minh, đến Thuyết văn, Tì nhã, Chính tự thông, Thông tục văn, Cách trí kính nguyên, Tam tài đồ hộilà những sách được làm ra để dạy dỗ, huấn hỗ cho kẻ hậu học thực rất rõ ràng”. Đoạn trích trên đây đã dẫn ra những sách mẫu có tính tự điển để làm rõ danh vật và danh nghĩa của vật. Qua đây ta thấy, các bộ sách tự điển, tự thư làm cơ sở cho việc biên soạn có nguồn gốc từ Trung Quốc gồm các bộ: +   Nhĩ nhã - từ điển giải thích ý nghĩa sớm nhất ở Trung Quốc do các học giả thời sơ Hán sưu tập các văn cũ có trong các sách đời Chu và Hán mà thành (còn có thuyết cho là do Chu Công soạn, tác giả Nam phương theo thuyết này). Bản hiện lưu hành có 19 thiên. Ba thiên đầu là: “  thích hỗ”, “  thích ngôn”, “  thích huấn” nhằm thu thập các từ theo đồng nghĩa. Còn các thiên như “  thích cung”, “  thích thân”, “  thích khí” nhằm giải nghĩa tên của các đồ vật. Nhĩ nhã được xếp vào hàng kinh điển Nho học vì nó giải thích ý nghĩa của các từ trong các kinh điển Nho học mà không được đương thời hiểu nữa. +    Cấp tựu chương, còn có tên là    Cấp tựu thiên, do   Sử Du thời Tây Hán soạn. Bản hiện còn có 34 chương. Đại để đó là sách biên tập theo môn loại như: “  tính danh”, “  y phục”, “  ẩm thực”, “  khí 40 dụng”, đa phần gồm các câu có 7 chữ để phục vụ trẻ em học chữ, sau được xếp vào hàng kinh điển. +   Thuyết văn, tức     Thuyết văn giải tự, do   Hứa Thận người thời Đông Hán soạn, thu thập 9353 tự và 1163 văn. Thuyết văn là bộ tự thư học chữ Hán gồm 14 quyển, thu thập chữ Hán theo thể Tiểu triện (cũng có cả cổ văn và Trựu thư). Mỗi mục tự của sách này bao gồm: chữ (tự) + nghĩa của chữ (tự nghĩa) + giải thích về kết cấu hình thể của chữ đó + âm đọc. Sách biên soạn xong vào năm thứ 12 niên hiệu Vĩnh Nguyên của vua Hán Hoà đế. Đây là bộ sách đầu tiên phân tích chữ theo tự hình và tự nguyên của chữ Hán. +   Thi sớ, do   Lục Cơ, người thời Tấn soạn. Tên đầy đủ là          Mao Thi thảo mộc điểu thú trùng ngư sớ. Nó như là một bộ chuyên thư nhằm chú sớ cho các danh vật như cỏ, cây, chim, thú, sâu, cá có trong Mao Thi (Kinh Thi). +      Nam phương thảo mộc trạng, do   Kê Hàm đời Tấn soạn năm Vĩnh Hưng nguyên niên (304). Sách này chép các sản vật ở vùng Quảng Đông, Quảng Tây và cả Việt Nam lúc đó. Quyển thượng: 29 loại; quyển trung: 28 loại; quyển hạ: 17 loại; trúc: 7 loại. Tổng cộng: 80 loài. Đây là loại thư sưu tập tư liệu văn hiến về thực vật, nhất là về cỏ cây các tỉnh phía Nam. +     Bản thảo cương mục, do    Lí Thời Trân thời Minh soạn, gồm 52 quyển, hoàn thành năm Vạn Lịch 6 (1578). Toàn sách phân ra 16 bộ, 60 loại, chép 1892 giống thuốc. Mỗi giống đều có “thích danh” để xác định danh xưng; “tập giải” để thuật về nơi sinh, hình thái, tài bồi cũng như các cách thức thu hái, sao tẩm, công năng chủ trị bệnh Bản in lần đầu vào năm 1590, sau đó được nhiều lần in lại. Đây là tài liệu được nhiều nhà dược liệu học, thực vật học thế giới coi trọng. +    Quần phương phổ, do    Vương Tấn Tượng, người Tân Thành, tiến sĩ thời Minh soạn, soạn từ thời Vạn Lịch. Lúc đầu là sưu tập tên 41 các loài cây cỏ, sau gia công thành sách vào năm Thiên Khải nguyên niên (1621), biên tập theo 12 môn loại như: “ thiên”, “ tuế”, “ sơ”, “ huỷ”, “ hạc”, “ ngư”,Sách có ghi cả phương pháp vun trồng (tài bồi). +   Tì nhã, sách huấn hỗ do   Lục Điền người Sơn Âm, Chiết Giang soạn. Lúc đầu có tên là     Vật tính môn loại sau đổi thành tên này, lấy nghĩa của chữ  bì (ta quen đọc tì - thường dùng chữ tì  ), ý chỉ nó là sách phụ của   Nhĩ nhã. Sách phân ra 8 loại như: “ thích ngư”, “  thích thú”, “  thích mã” trong đó giải thích tên sự vật đại lược về hình trạng, tường minh về nghĩa tên. +     Tam tài đồ hội, do   Vương Kì và con trai là    Vương Ân Nghĩa soạn khoảng những năm Gia Tĩnh triều Minh, gồm 106 quyển, phân ra 14 môn như “  thiên văn”, “  địa lí”, “  nhân vật”, “  thời lệnh”, “  cung thất”, “  khí dụng”, “  thân thể”, “  y phục”, “  nhân sự”, “  y chế”, “  toàn bảo”, “  văn sử”, “  điểu thú”, “  thảo mộc” Mỗi sự vật đều có hình vẽ để thuyết minh. +    Chính tự thông, 12 quyển, do    Trương Tự Liệt, người Nghi Xuân, Giang Tây biên soạn vào cuối thời Minh; thu thập 33.000 chữ theo thể lệ của “Tự vựng” (  Từ vựng, 14 quyển,    Mai Ứng Tộ thời Minh soạn, thu thập 33.179 tự , xếp theo 214 bộ). +    Thông tục văn, 38 quyển, do   Địch Hạo thời Thanh soạn, sưu tập từ ngữ thường nhật của Hán ngữ lúc bấy giờ. +     Cách trí kính nguyên, loại thư, do    Trần Nguyên Long biên tập thời Khang Hi, gồm 100 quyển, phân ra 30 loại, như: “  thiên văn”, “  địa lí”, “  kiến trúc” “  động vật”, “  thực vật”, sưu tập về công nghệ (kĩ thuật) từ thời cổ cho đến bấy giờ. Qua danh mục này ta thấy, các sách trên đều thuộc phạm trù tự điển, tự thư, từ thư chữ Hán; danh sách chúng cho thấy sự liên tục về thời gian của 42 chúng (từ Tiên Tần qua Hán, Đường đến Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Chúng phản ánh sự liên tục và cập nhật về thời gian. 2.2.2. Nguồn các sách Việt Nam Bài tựa của Nam phương đã dẫn ở trên có đoạn: “Tiền bối Lê Quí Đôn “Vân Đài loại ngữ”; Tuệ Tĩnh “Dược tính chỉ nam”; Phạm Đình Hổ “Nhật dụng thường đàm” đẳng thư diệc thường bác thái quần thư dĩ thụ hậu học nhi quải nhất lậu vạn lãm giả, bất vô hám yên - Các sách Vân Đài loại ngữ của tiền bối Lê Quý Đôn, Dược tính chỉ nam của Tuệ Tĩnh, Nhật dụng thường đàm của Phạm Đình Hổ cũng từng tham bác nhiều sách để dạy cho bọn hậu học, đeo lấy một mà bỏ sót đến muôn”. Đoạn trích này cũng cho ta biết bộ sách có nguồn dẫn liệu từ các sách Việt Nam. Ta biết rằng,     Vân Đài loại ngữ, 4 quyển, bách khoa thư theo môn loại do Lê Quí Đôn    soạn, gồm 8 môn loại (1.    Lí khí ngữ; 2.    Hình tượng ngữ; 3.    Khu vũ ngữ; 4.    Vựng điểu ngữ; 5.    Văn nghệ ngữ; 6.    Âm tự ngữ; 7.    Thư tịch ngữ; 8.    Sĩ qui ngữ), được xem như là một bách khoa thư. Trần Văn Giáp đã nhận xết về Vân Đài loại ngữ như sau: “Theo thuật ngữ thư mục học thì “loại thư” là những bộ sách có nội dung tổng hợp, không chuyên hẳn về một môn loại nào, nếu chuyển ngang sang thuật ngữ hiện đại thì có thể gọi những sách ấy thuộc loại Bách khoa toàn thư. Cố nhiên, trong truyền thống biên soạn, khảo cứu của Trung Quốc và Việt Nam thì những bộ Bách khoa toàn thư ấy không xếp theo thứ tự chữ cái như Bách khoa toàn thư của các nước phương Tây, mà thường là chia riêng theo từng môn loại tùy theo nội dung của từng bộ sách. Trong ý nghĩa, Vân Đài loại ngữ là một Bách khoa toàn thư do riêng một tác giả là Lê Quí Đôn biên soạn. Với tư cách là một công trình cá nhân, Vân Đài loại ngữ đã thể hiện tầm hiểu biết rộng lớn của nhà bác học Lê Quí Đôn. Công trình đó là một trong những di sản rất quí báu mà ông 43 đã để lại cho chúng ta ngày nay. Nội dung Vân Đài loại ngữ có 9 đề mục; trong từng đề mục, tác giả cứ theo từng điều mà viết, không thật hẳn tuân theo một trật tự nào”[15, tr.257]. +     Dược tính chỉ nam, do Tuệ Tĩnh soạn. Theo Trần Văn Giáp, Tuệ Tĩnh tên là Nguyễn Bá Tĩnh   , biệt hiệu là Tráng Tử Vô Dật, quê làng Xưa, tổng Văn Thai, Cẩm Giàng, Hải Dương. Tuệ Tĩnh có các sách Nam dược thần hiệu, Phú thuốc Nam Qua tìm hiểu, chúng tôi không thấy Tìm hiểu kho sách Hán Nôm và Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu nhắc đến tên sách Dược tính chỉ nam, nên trong điều kiện tư liệu và phạm vi nghiên cứu, luận án chưa dám khẳng định Nam dược thần hiệu và Dược tính chỉ nam có phải là một hay không!. +     Nhật dụng thường đàm, do Phạm Đình Hổ (1769 - 1839) soạn. Đây là bộ sách được Nam phương nhắc đến với tư cách là nguồn dẫn liệu cho sự biên soạn, song cũng chính là bộ sách cùng loại và đồng đại với Nam phương, đã được luận án giới thiệu ở phần trên đây. +    Nhất thống chí tức      Đại Nam nhất thống chí, gồm 28 quyển, Sử quán triều Nguyễn (Tự Đức) soạn; sách chép tay, giấy bản thường, khổ 28cm x 16cm; mỗi quyển riêng về một tỉnh. Theo Trần Văn Giáp: “Sách chép riêng từng tỉnh, theo lối Nhất thống chí triều Thanh, mỗi tỉnh gồm có các mục: 1. Phận dã  (giới hạn theo vị trí các sao trên bầu trời); 2. Kiến trí diên cách     (lịch sử thay đổi); 3. Hình thế   (vị trí địa dư); 4. Khí hậu   (thời tiết, mưa nắng); 5. Phong tục   (tục lệ thói quen); 6. Thành trì   (Thành, hào, có phụ bản địa đồ) ; 7. Học hiệu   (trường học); 8. Hộ khẩu   (số người); 9. Điền phú   (thuế ruộng); 10. Sơn xuyên   (núi non, sông ngòi); 11. Cổ tích   (di tích lịch sử); 12. Quan tấn   (cửa ải và đồn biển); 13. Thị tập   (chợ búa); 14. Tân lương   (bến đập); 15. Đê uyển   (đê điều); 16. Lăng mộ   (mồ mả vua quan); 17. 44 Từ miếu   (đền miếu); 18. Tự quán   (chùa thờ phật, đền đạo sĩ); 19. Nhân vật   (truyện các bậc nổi tiếng); 20. Liệt nữ   (phụ nữ tiết liệt và giỏi); 21. Tiên thích   (các bậc tu Phật, tu đạo); 22. Thổ sản   (sản vật địa phương); 23. Giang đạo   (đường sông); 24. Tân độ   (bến đò ngang, đò dọc). [14, tr.338-339]. Như vậy, theo như lời tiểu dẫn của Nam phương đã dẫn ở trên, nguồn các sách được Nam phương nhắc đến có xuất xứ từ Trung Quốc gồm 12 quyển và xuất xứ từ Việt Nam gồm 4 quyển. Từ danh mục những sách được coi là mẫu, hay là nguồn dẫn liệu cho việc biên soạn này cho thấy, tất cả chúng đều là sách thuộc phạm trù tự thư, từ thư, loại thư, hay các sách có tính cập nhật tri thức. Có những sách thuộc loại thư về tất cả lĩnh vực (tam tài) hay về một số lĩnh vực, đặc biệt nhất là những lĩnh vực về cỏ cây, chim thú, y dược mà theo cách nói hiện đại là các lĩnh vực động vật, thực vật, kĩ thuật, công nghệ, kiến trúc cũng như địa lí Việt Nam, con người Việt Nam, văn hóa xã hội Việt Nam cả trong lịch sử và đương thời. Đa phần các sách được dẫn ra làm mẫu có nguồn gốc cả từ Trung Quốc và Việt Nam, về cơ bản đều thuộc phạm trù phi kinh điển, được biên soạn theo hướng “cách trí” hay “đa thức” nhằm cập nhật kiến thức. Chúng đều có mang ý nghĩa nhận thức về thế giới tự nhiên, xã hội tức là phạm trù danh vật. Trong số sách đó có một số sách liên quan đến đời sống cụ thể của đất nước Việt Nam ở thế kỉ XIX cả về tự nhiên - xã hội - con người. Điều đó cho thấy các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX được định hướng biên soạn theo hướng cập nhật kiến thức của nguồn sách làm mẫu. Đây là vấn đề sẽ được nghiên cứu trong chương 4 của luận án này. 2.3. Bảng từ và cấu trúc bảng từ Cấu trúc tổng quát của các từ điển nói chung bao gồm: cấu trúc bảng từ tổng thể và cấu trúc mục từ cụ thể. Từ điển học hiện đại gọi cấu trúc bảng từ là 45 cấu trúc vĩ mô, cấu trúc mục từ là cấu trúc vi mô. Dưới đây là sự mô tả cấu trúc tổng quát đó của các TĐHN.TkXIX Trong mọi mục từ được dẫn ra làm ví dụ minh họa cho cấu trúc bảng từ dưới đây, phần chữ Hán được phiên âm sẽ được in hoa, chữ Nôm phiên ra quốc ngữ được in thường, còn phần chữ Hán dùng để thích nghĩa phiên ra quốc ngữ được in nghiêng. 2.3.1. Bảng từ của Nhật dụng thường đàm     Bộ sách được xếp theo 32 môn loại, gồm các môn loại như bảng sau: Bảng 2.1: Danh mục cơ cấu môn loại của Nhật dụng Stt Môn loại Âm Hán Việt Nghĩa Mục từ 1    Thiên văn môn Môn loại về thiên văn 89 2    Địa lí môn Môn loại về địa lí 78 3    Luân tự môn Môn loại về trật tự luân lí 89 4    Thù ứng môn Môn loại về đối đáp 70 5    Nho giáo môn Môn loại về Nho giáo 6 6    Đạo giáo môn Môn loại về Đạo giáo 65 7    Thích giáo môn Môn loại về Phật giáo 27 8    Thân thể môn Môn loại về thân thể 336 9    Bảo ốc môn Môn loại về nhà cửa 78 10    Tác dụng môn Môn loại về tác dụng 142 11    Thực phẩm môn Môn loại về thực phẩm 23 12    Quả thực môn Môn loại về hoa quả 60 Môn loại về công dụng 13    Hoả dụng môn 63 của lửa Môn loại về đồ dùng 14    Phục dụng môn 63 y phục 15    Nữ trang môn Môn loại về nữ trang 46 16    Chức nhậm môn Môn loại về tơ tằm 61 Chúng hương Môn loại về các loại 17    18 môn hương thơm 18    Trân bảo hương Môn loại về của quí 98 46 19    Thái sắc môn Môn loại về màu sắc 21 20    Khí dụng môn Môn loại về đồ dùng 182 21    Công dụng môn Môn loại về công dụng 58 22    Văn nghệ môn Môn loại về văn nghệ 45 23    Âm nhạc môn Môn loại về âm nhạc 35 24  Binh khí môn Môn loại về binh khí 17 25    Nhân phẩm môn Môn loại về nhân phẩm 108 26    Du hí môn Môn loại về du hí 26 27    Tục ngữ môn Môn loại về tục ngữ 46 28    Tật bệnh môn Môn loại về bệnh tật 24 29    Thảo mộc môn Môn loại về cây cỏ 79 30    Cầm thú môn Môn loại về cầm thú 64 31    Thuỷ tộc môn Môn loại về sinh vật nước 66 32    Trùng loại môn Môn loại về côn trùng 29 TỔNG 2.479 Nhìn vào cơ cấu bảng từ qua môn loại, mục từ và các ví dụ trên cho thấy bảng từ, môn loại, mục từ có liên hệ với nhau phục vụ cho yêu cầu học chữ. Nếu mỗi môn loại có thể xem như một bài học thì sẽ có 32 bài học. Nếu xếp theo trật tự theo số lượng mục từ thì ta có trật tự là: Môn loại Thân thể (336 mục từ), môn loại Khí dụng (182 mục từ), môn loại Tác dụng (142 mục từ), môn loại Nhân phẩm (108 mục từ), rồi đến các môn loại ít mục từ hơn như môn loại Trân bảo (98 mục từ), Thiên văn (89 mục từ), Luân tự (89 mục từ) Trật tự này kéo dài đến những môn loại có ít mục từ nhất, là các môn loại: Du hí (26 mục từ), Tật bệnh (24 mục từ), Thái sắc (21 mục từ), Chúng hương (18 mục từ), Binh khí (17 mục từ), Nho giáo (6 mục từ). Số lượng mục từ thông thường của môn loại nằm trong khoảng 60 đến 80 mục từ, như các môn loại: Địa lí (78 mục từ), Bảo ốc (78 mục từ), Thù ứng (70 mục từ), Thủy tộc (66 mục từ), Đạo giáo (65 mục từ), Cầm thú (64 mục từ), Hỏa dụng (63 mục từ), Phục dụng (63 mục từ), Chức nhậm (61 mục từ), Công dụng(58 mục từ). Bài 47 học ít mục từ nhất là Nho giáo với 6 mục. Bài học có nhiều mục từ nhất là Thân thể với 336 mục. Mỗi bài học khoảng chừng 77 mục từ. Ở đây ta thấy quan hệ giữa bảng từ - môn loại - mục từ về mặt số lượng như sau: Bảng từ có nhiều môn loại thì khả năng phân chia cao hơn, do đó số chữ trong một môn loại ít hơn. Lượng chữ cho một bài học cũng ít hơn. Điều này dẫn đến việc học một bài cũng dễ hơn. Tính phân tích về môn loại sẽ giúp cho lượng chữ trong một bài học phải đảm nhận sẽ giảm đi. Như vậy có thể nói, với 32 bài học và bình quân số mục từ trong mỗi bài học là 77 mục, Nhật dụng có phạm vi bao quát tương đối rộng và dung lượng kiến thức cho mỗi một lĩnh vực là vừa phải. Điều đó làm cho Nhật dụng với tư cách là sách dạy chữ Hán, có thể dễ dàng đáp ứng được khả năng tiếp nhận kiến thức của người học chữ. Số lần được in của nó cũng lớn nhất so với các bộ sách khác phần nào đã nói lên điều đó. Như vậy, cấu trúc bảng từ bộ sách này gồm 32 môn loại; cấu trúc mục từ gồm 2.479 mục từ (bao gồm cả đơn âm tiết và đa âm tiết). Với dung lượng như vậy, có thể nói rằng, Nhật dụng của Phạm Đình Hổ (1768-1839), là bộ tự điển bách khoa song ngữ Hán - Nôm cỡ vừa, thuộc nhóm các tự điển sắp xếp theo môn loại. Cấu trúc bảng từ ở đây mang đặc trưng cấu trúc bao hàm, trong đó bảng từ bao gồm các môn loại, các môn loại lại bao gồm các mục từ. Ví dụ các mục từ trong môn loại Văn nghệ ( Văn nghệ môn) dưới đây đã thể hiện cấu trúc bao hàm đó:                NGŨ KINH là năm bộ kinh - Dịch kinh, Thư kinh, Thi kinh, Lễ, Xuân Thu;              TỨ THƯ là bốn truyện - Đại học, Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung dung;       TẢ TRUYỆN là sách Tả truyện;                             CHƯ SỬ là sách chư sử chép việc nước người, có sách Thiếu Vi, sách Cương mục, sách Cương giám Chung Bá Kính, sách Cương giám Vi Liễu Phàm;         QUỐC SỬ là sách quốc sử chép việc nước ta;  48         THI VẬN TẬP YẾU là Thi vận tập yếu;      ĐỐI LIÊN là câu đối;       TIỂU ĐOẠN là làm đoạn một;       KINH NGHĨA là văn kinh nghĩa;        TỨ LỤC là văn - chiếu - chế - biểu;      THI PHÚ là thi phú;               VĂN SÁCH là văn trường sách, trước làm cổ văn sau làm kim văn; 2.3.2. Bảng từ của Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca Bộ sách này được phân chia làm 7 môn loại, mỗi môn loại lại chia thành thượng và hạ (riêng môn loại Cầm thú và Trùng ngư không chia thượng - hạ, môn loại Nhân sự có 3 phần: thượng, trung và hạ. Cơ cấu vốn từ trong các môn loại của Tự Đức như bảng dưới đây: Bảng 2.2: Danh mục cơ cấu môn loại của Tự Đức STT Môn loại Âm Hán Việt Nghĩa Mục từ 1    Kham dư loại Môn loại về trời, đất 1379 2    Nhân sự loại Môn loại về người 2162 3    Chính hoá loại Môn loại về giáo hóa 1587 4    Khí dụng loại Môn loại về đồ dùng 1474 5   Thảo mộc loại Môn loại về cây, cỏ 1114 6    Cầm thú loại Môn loại về cầm, thú 770 7    Trùng ngư loại Môn loại về trùng, ngư 546 8 Tổng cộng 9.032 Nhìn vào cơ cấu bảng từ qua môn loại và mục từ trên cho thấy: Bộ sách có 7 môn loại. Nếu xem mỗi môn loại là một bài học thì đây có thể xem như 7 bài học. Số bài học trong đó ít, số chữ trong mỗi bài học nhiều. Bài học ít mục từ nhất là Trùng ngư với 546 mục. Bài học có nhiều mục từ nhất là Nhân sự với 2162 mục, đa phần là trên 1000 mục. Bình quân mỗi bài học trong bộ sách là 1290 mục. Điều này cho thấy tính tổng hợp xét về môn loại cao dẫn đến sự phân tích tính trong lượng chữ từng môn loại lớn. Do vậy khó có thể nhớ được hơn 1000 chữ Hán trong một bài học được, dẫn đến khó cho việc dùng Tự Đức 49 vào việc học chữ. Có lẽ để khắc phục tình hình này, người soạn đã xếp mục từ theo môn loại nhưng lại theo vần lục bát cho dễ đọc, dễ nhớ. Đó cũng là điểm khác biệt của bộ sách này so với sách cùng loại. Xin dẫn ra đây các mục từ trong môn loại Chính hoá ( Chính hoá loại (hạ)) được giải nghĩa theo cách diễn thơ lục bát, như một bài học về chính trị, giáo hóa làm minh họa:      DỤC sinh, VĨ lạ, XUẨN dày        KHỔNG nhà họ Khổng, NI thầy Trọng Ni ....       HIỆU là dạy bảo người ta         NHAN thầy Nhan tử, TĂNG là họ Tăng      PHẢ vả, THỨ thứ, NHƯ bằng      KHIÊN thầy Mẫn tử, KHUÊ rằng họ Khuê      PHÀN là họ thầy Phàn Trì         NHIỄM là họ Nhiễm, CẤP thầy Tử Tư. Cấu trúc bảng từ ở bộ tự điển này gồm 9.032 mục từ (có 2 mục lặp lại), được trình bày theo trật tự: chữ Hán cỡ to ghi ở trên, chữ Nôm nhỏ hơn ghi ở dưới, chữ Hán nhỏ nhất ghi dưới cùng để chú âm, thích nghĩa thêm cho chữ Hán ở trên. Đơn vị cho sự sắp xếp mỗi mục từ cơ bản là tự nhưng có khi mục từ gồm hai tự trở lên. Đây là bộ tự thư Hán Nôm có dung lượng lớn nhất. Các mục từ trong môn loại Nhân sự (thượng) sau đây là một minh chứng:      CỦ mũi gãy, HIỆP răng hô.         LỊCH LỘC mắt rõ, NHIẾP NHU tai bùng. Cấu trúc bảng từ ở đây cũng mang tính cấu trúc bao hàm. Bảng từ bao gồm các môn loại, các môn loại lại bao gồm các mục từ. Ví dụ trong môn loại Chính hóa (hạ), bao hàm trong đó các mục từ, như các mục từ sau:       ĐÔN hậu, THỨ thứ, TƯ tư 50         DUỆ sáng, NGHỊ cứng, ỦY THA khoan hòa 2.3.3. Bảng từ của Nam phương danh vật bị khảo       Bộ sách gồm các môn loại và cơ cấu mục tự như sau: Bảng 2.3: Danh mục cơ cấu môn loại của Nam phương Stt Môn loại Âm Hán Việt Nghĩa Mục từ 1    Thiên văn môn Môn loại về thiên văn 139 2    Địa lí môn Môn loại về địa lí 178 3    Tuế thời môn Môn loại về năm, mùa 90 4    Thân thể môn Môn loại về thân thể 344 5    Tật bệnh môn Môn loại về bệnh tật 219 6    Nhân sự môn Môn loại về việc người 712 7    Nhân luân môn Môn loại về luân lí 231 8    Nhân phẩm môn Môn loại về nhân phẩm 122 9    Chức chế môn Môn loại về chức vị 127 10    Ẩm thực môn Môn loại về ăn uống 87 11    Phục dụng môn Môn loại về trang phục 236 12    Cư xứ môn Môn loại về chỗ ở 172 13    Cung thất môn Môn loại về nhà cửa 167 14    Chu xa môn Môn loại về xe, thuyền 96 15    Khí dụng môn Môn loại về đồ dùng 258 16    Lễ nhạc môn Môn loại về lễ nhạc 201 Môn loại về quân đội - 17    Binh hình môn 129 hình phạt Môn loại về công việc 18    Hộ công môn 129 trong nhà 19    Nông tang môn Môn loại về nông, tang 228 Môn loại về đánh cá, săn 20    Ngư liệp môn 33 bắt Môn loại về nghề thủ 21    Xảo nghệ môn 43 công 22    Ngũ cốc môn Môn loại về ngũ cốc 105 23    Sơ thái môn Môn loại về rau cỏ 61 51 24   Hoa môn Môn loại về hoa 79 25   Quả môn Môn loại về quả 66 26   Thảo môn Môn loại về cỏ 167 27   Mộc môn Môn loại về cây cối 107 28   Trúc môn Môn loại về trúc 24 29   Cầm môn Môn loại về cầm 109 30   Thú môn Môn loại về thú 48 31   Lân môn Môn loại về loài cá 93 32   Giới môn Môn loại về loài có mai 23 33    Côn trùng môn Môn loại về côn trùng 65 34 TỔNG 4.767 Qua cấu trúc bảng từ, cấu trúc môn loại và các ví dụ trên có thể nói 33 môn loại của bộ sách như 33 bài học. Bài học nhiều nhất có 358 mục từ là bài học về đồ dùng (Khí dụng môn), bài học ít nhất có 23 mục từ là bài học về loài có mai (Giới môn). Bình quân trong mỗi bài học có 144 mục từ, nhiều gần gấp 2 lần so với bình quân mỗi bài học của Nhật dụng (77 mục). Do vậy cũng khó hơn khi đưa bộ sách vào việc dạy chữ nếu so với Nhật dụng. Điều này thể hiện cái học cách trí của bộ sách này. Cấu trúc bảng từ ở bộ tự điển này gồm 33 môn loại và cấu trúc mục từ gồm 4.767 mục. Trật tự thông thường của một mục từ là: chữ Hán cỡ to ở trên được thích nghĩa bằng Hán hoặc chữ Nôm nhỏ hơn ở dưới. 2.3.4. Bảng từ của Đại Nam quốc ngữ     Bộ sách có cơ cấu môn loại và số lượng mục từ như sau: Bảng 2.4: Danh mục cơ cấu môn loại của Đại Nam Stt Môn loại Âm Hán Việt Nghĩa Mục từ 1    Thiên văn môn Môn loại về thiên văn 185 2    Địa lí Môn loại về địa lí 275 3    Nhân luân môn Môn loại về nhân luân 261 4    Thân thể môn Môn loại về thân thể 331 5      Thân thể cử động Môn loại về cử động 158 52 môn thân thể 6    Cung thất môn Môn loại về nhà cửa 216 7    Hôn nhân môn Môn loại về hôn nhân 8 8    Canh nông môn Môn loại về cày, cấy 24 9    Tàm tang môn Môn loại về dâu, tằm 15 10    Thục túc môn Môn loại về lúa gạo 90 11    Ẩm thực môn Môn loại về ăn uống 268 12    Bính nhị môn Môn loại về bánh trái 47 13    Nữ trang môn Môn loại về nữ trang 45 14    Chức nhậm môn Môn loại về dệt 64 15    Thái sắc môn Môn loại về màu sắc 20 16    Y quan môn Môn loại về mũ, áo 37 17    Cẩm tú môn Môn loại về gấm lụa 55 18    Y phục môn Môn loại về quần áo 119 Môn loại về công dụng 19    Hoả dụng môn 27 của lửa 20    Khí dụng môn Môn loại về đồ dùng 296 21    Tản võng môn Môn loại về Đan lát 25 22    Chu thuyền môn Môn loại về thuyền bè 45 23    Chú dã công Môn loại về gang đúc 81 24    Pháp khí môn Môn loại về pháp khí 35 25    Công khí môn Môn loại về công khí 26 26    Tác dụng môn Môn loại về tác dụng 141 27    Văn sự môn Môn loại về văn sự 66 28    Binh khí môn Môn loại về binh khí 75 29    Trân bảo môn Môn loại về của quí 154 30    Chúng hương môn Môn loại về mùi vị 32 31    Tạp kĩ môn Môn loại về tạp kĩ 47 32    Nhân phẩm môn Môn loại về nhân phẩm 178 33    Thù ứng môn Môn loại về đối đáp 74 34    Tật bệnh môn Môn loại về bệnh tật 28 35    Tang tế môn Môn loại về tang tế 45 36    Tang lễ môn Môn loại về tang lễ 15 37    Tục ngữ môn Môn loại về tục ngữ 48 53 38    Bách hoa môn Môn loại về hoa 113 39    Bách quả môn Môn loại về quả 151 40    Sơ thái môn Môn loại về rau cỏ 111 41    Bách thảo môn Môn loại về các loài cỏ 172 42    Bách mộc môn Môn loại về gỗ, cây 94 Môn loại về côn trùng 43    Vũ trùng môn 106 có cánh Môn loại về côn trùng 44    Mao trùng môn 126 có lông Môn loại về côn trùng 45    Lân trùng môn 105 có vảy Môn loại về côn trùng 46    Giáp trùng môn 63 vỏ cứng 47    Trùng trãi môn Môn loại về thú dữ 81 48   Thuỷ bộ Môn loại về nước 41 49   Thổ bộ Môn loại về đất 25 50   Kim bộ Môn loại về kim loại 22 TỔNG 4.790 Qua cấu trúc bảng từ, cấu trúc môn loại và các ví dụ trên có thể nói: Mỗi môn loại trong bộ sách này là một bài học. Bài học nhiều mục từ nhất có 331 mục là bài học về thân thể (Thân thể môn), bài học ít mục từ nhất có 22 mục là bài học về kim loại (Kim bộ), đa phần các bài học có trên dưới 50 mục từ và trên dưới 100 mục từ, bình quân mỗi bài có 95 mục từ. Điều này cho thấy tính sư phạm của bộ sách trong việc dạy chữ Hán nếu nhìn từ góc độ sách học chữ Hán. Bảng từ của Đại Nam cũng được xây dựng theo cấu trúc bao hàm, cấu trúc mẹ con, trong đó bảng từ gồm các môn loại. Các môn loại lại bao gồm các mục từ thành phần. Cấu trúc bảng từ ở bộ tự điển này gồm có 50 môn loại, cấu trúc mục từ gồm 4.790 mục từ. Ví dụ các mục từ trong môn loại Địa lí như một bài học về địa lí: 54 Nói đến  SƠN là đề cập đến muôn hình muôn trạng của núi theo cách nói của người xưa như:   ĐỈNH đỉnh núi;      PHONG trái núi nhọn đầu;      NHAM trái núi thia lia;      ĐẶNG bậc đá lên núi;     KHÊ đường trên núi;    SA cát to;    CƯƠNG trái đồi;...; các kết hợp của núi với các chữ khác để biểu hiện các nét và sắc thái của núi tương ứng với sự đa dạng vốn có của núi cũng như những gì đang tồn tại trên núi như:   XUÂN SƠN;   THU SƠN;   DU SƠN;...;   THẠCH KHỐI;   BÀN THẠCH;   SƠN TÍCH sống núi,     TÙNG LÂM rừng cấm;   LỤC NGẠN;   BÌNH NGUYÊN;   QUẢNG DÃ;     TRƯỜNG THÀNH thành dài;... rồi đến cả những đơn vị hành chính được xây dựng theo lãnh thổ như:  XÃ,  ẤP,  PHƯỜNG,  THÔN; các tiết lễ theo vùng miền; các sản vật trên đất; các dòng sông, nguồn suối... Trên đây là sự giới thiệu về cơ cấu môn loại và mục từ của bốn bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX. Trong đó, các môn loại tạo nên cấu trúc bảng từ (cấu trúc vĩ mô) bao hàm trong nó các mục từ (cấu trúc vi mô). Mối quan hệ chung giữa môn loại và mục từ của chúng sẽ được đề cập trong phần dưới đây của luận án. 2.4. Bảng từ và tính chất của bảng từ Qua sự trình bày mang tính mô tả về bảng từ của bốn bộ tự điển, từ điển Hán Nôm Việt Nam thế kỉ XIX cho phép nhận xét để nêu ra một số đặc điểm cơ bản về bảng từ và đồng thời cũng là những đặc điểm về phương diện cấu trúc vĩ mô của chúng như: qui mô và kích cỡ của bảng từ; tính môn loại, tính tầng bậc, tính biểu ý, mối quan hệ giữa bảng từ với mục từ để làm nổi bật một số đặc trưng của bảng từ cũng như là của 4 tự điển, từ điển đó nói chung. 2.4.1. Qui mô cấu trúc bảng từ, tính phân tích và tổng hợp của bảng từ 55 Nếu xếp theo dung lượng môn loại trong từng bộ thì ta có trật tự sau về qui mô của cấu trúc bảng từ: 1.     Đại Nam quốc ngữ: có 50 môn loại, 4.790 mục từ. 2.       Nam phương danh vật bị khảo: có 33 môn loại, 4.795 mục từ. 3.  Nhật dụng thường đàm: có 32 môn loại, 2.479 mục từ. 4.          Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca: có 7 môn loại, 9.030 mục từ. Điều này cần phải được nhìn từ kết cấu cũng như mục đích soạn sách. Kết cấu của sách được tổ chức theo cấu trúc bảng từ, một thuộc tính mang tính chất tiêu biểu của tự thư, từ thư trong ngữ văn chữ Hán truyền thống. Mục đích của sách nhằm cho việc học chữ Hán, cập nhật và phổ biến kiến thức qua chữ Hán. Do vậy, xét về số lượng môn loại và mục từ từ góc nhìn của từ thư, từ điển, tự điển ta có thể rút ra nhận xét sau đây: Nhật dụng, Nam phương, Đại Nam là 3 bộ tự điển, từ điển cỡ nhỏ, có đơn vị số lượng tương ứng với vốn tự tối thiểu và tối thuận trong văn tự học chữ Hán. Còn Tự Đức lại là bộ tự điển tầm trung, có số lượng mục tự tương đương với Thuyết văn của Trung Hoa. Xét về số lượng môn loại và mục từ từ góc nhìn của sách dạy chữ Hán cho phép chúng ta nêu ra một số nhận xét sau đây về tính phân tích và tính tổng hợp của bảng từ. Do môn loại là sự tập hợ...ng thế kỉ XIX. Đó cũng là nét Việt Nam của loại hình loại thư Việt Nam nói chung. 139 4.3.2. Cập nhật tri thức ngoài kinh điển Nho học Tính chất phi kinh điển - phi khoa cử của mục từ Hán trong từ điển Hán Nôm là tính chất mà như Nguyễn Văn San nói là “không phục vụ cho lối học kinh tế”. Lối học “Kinh tế” là lối học ra làm quan (kinh thế tế dân) theo tinh thần Nho học mà trong khuôn khổ, điều kiện của Việt Nam thế kỉ XIX là lối học khoa cử. Tính chất này được thể hiện qua 27/32 môn loại của Nhật dụng (trừ 5 môn loại Nho giáo, Đạo giáo, Thích giáo, Văn nghệ, Binh khí), 6/7 môn loại của Tự Đức (trừ Chính hóa loại), 31/33 môn loại của Nam phương (trừ Lễ nhạc môn và Binh hình môn) và 48/50 môn loại của Đại Nam (trừ Văn sự môn và Binh khí môn). Như vậy, các mục từ Hán đã chuyển tải các nội dung của mọi mặt đời sống sinh động, từ trời đất thiên nhiên, con người, bệnh tật và các hoạt động sống, đồ vật, đến cây cỏ, chim cá... Đây chính là những tri thức nằm ngoài khoa cử từ chương và kinh điển Nho học. Vì thế có thể nói đây là đặc trưng tiêu biểu của mục từ trong các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX. Ngoài những dẫn dụ về sự định hướng biên soạn cái học “phi kinh điển”, cái học “phi kinh tế”, cái học “phi khoa cử” trong trường hợp của Đại Nam đã trình bày trong mục 3.2.4 có thể vận dụng và tham khảo trong nội dung phần này; dưới đây chúng tôi xin dẫn một số môn loại trong Nhật dụng như là một đại biểu của loại hình loại thư cung cấp và cập nhật tri thức nhật dụng ngoài kinh điển: Môn loại Quả thực gồm 61 loại quả, như:      AM LA là quả dâu;     LĂNG là quả ấu;      LẠI QUA là dưa chuột;    KHIẾM là súng;      KHỔ QUA là mướp đắng;      MỘC MIẾT là quả táo; ...     NGŨ LIÊM là quả khế;      PHIÊN THÙY là quả ổi;      ĐẬU GIÁP là đậu ván;      TÂY QUA là dưa hấu;      THẢI QUA là quả mướp;       VƯƠNG QUA là quả dưa gang;     GIA là quả cà;      PHẤN QUA là bí đao;... 140 Môn loại Hỏa dụng gồm 24 mục từ ghi chép về lửa và công dụng của lửa:      HỎA NHUNG là bùi nhùi;      ĐĂNG LUNG là lồng đèn;      TRIỆP ĐĂNG là đèn xếp;        BÁC HỎA THẠCH là đánh đá lửa;        PHÁT PHONG LÔ là quạt hoả lò;      ỦNG MINH là chuyên trà;      TIÊN DƯỢC là sắc thuốc;       THIÊU THANG là nấu nước nóng;      BÀO TRÀ là om trà; Môn loại Phục dụng gồm 64 mục từ ghi về trang phục nói chung và Nữ trang môn lại chi tiết về trang phục và đồ đoàn của phụ nữ với 48 mục từ, như là:      SƠ là cái lược thưa;      BỀ là cái lược bí;        LƯỢC PHÁT TỬ là cái chẽ tóc;       NHƯỠNG HOA LỘ là nước hoa;         OẠT NHĨ là cái môi lấy ráy tai; ...       PHẤN HẠP là cái bạng phấn;      KHẨU CHI là sáp thơm;       KHẨU CHI HẠP là cái bạng sáp;         KÍNH HẠP là cái gương có khung gỗ;        MẠCH HOA KÍNH là cái gương đồng...       UẤT ĐẤU là cái bàn là;        HUÂN LUNG là cái lồng xông áo;       TÚ HÀI là cái giày thêu;      TÚ LÍ là cái dép thêu;        NÊ NHUNG LÍ là dép da lợn;        TIỄN NHUNG LÍ là dép thung thúc;          LỘC BÌ LÍ là cái dép buộc da hươu;          THỦY MÃ TỬ là cái chậu đàn bà tiểu tiện. Những tri thức ngoài kinh điển này là những tri thức không có trong cái học khoa cử. Đó là những tri thức phục vụ cho sự hiểu biết. Chúng đã được cập nhật trong các bộ sách dạy và học chữ Hán. Qua chúng, ta nhận thấy rằng nhận thức của các soạn giả đã chuyển biến. Họ nhận ra sự bất cập của cái học khoa cử, cái học mà lúc này phần nhiều mang tính giáo điều, không giúp gì nhiều cho sự mở mang tri thức, mà tri thức lúc này đang rất cần kíp cho sự 141 nhận thức và kinh bang trong hoàn cảnh xã hội mới của các nhà Nho Việt Nam lúc bấy giờ. Tiểu kết chương 4: Trong chương này, luận án đã trình bày về những định hướng biên soạn nhằm bổ sung và cập nhật tri thức qua chữ Hán của các TĐHN.TkXIX trên cơ sở xem xét chúng trong môi trường song ngữ Hán - Việt lúc đó. Môi trường song ngữ Hán Việt mà các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm này ra đời chính là bối cảnh xã hội - ngôn ngữ mà ở đó, chữ Hán, Hán văn có ngôi vị thượng đẳng, là chữ chở đạo thánh hiền. Việc học chữ Hán từ cách nhìn chính thống trong bối cảnh đó đồng nghĩa với cái học khoa cử. Song cái học chữ Hán đâu chỉ là khoa cử. Chữ Hán, Hán văn còn là kênh chủ yếu cho sự cập nhật và mở mang những kiến thức có tính thời đại, quốc gia, thường nhật. Học chữ Hán đâu chỉ dành cho sĩ tử đào luyện để làm quan. Vả lại, cả một xã hội ai cũng muốn làm cha mẹ của dân thì lấy đâu ra dân để họ làm cha mẹ. Khắc phục tình trạng ấy của việc học chữ Hán là một trong những nguyên nhân chủ yếu cho sự ra đời của hàng loạt các bộ sách học chữ Hán mà cấu tạo của chúng ở dạng bảng từ, bố trí theo môn loại, thích nghĩa bằng Nôm, bổ cứu cho cái học chữ Hán chính thống đương thời mà Nhật dụng thường đàm; Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; Nam phương danh vật bị khảo; Đại Nam quốc ngữ là những bộ tiêu biểu nhất. Mỗi người một vẻ, mỗi bộ sách ấy đã được biên soạn theo hướng riêng của mình để góp sức cho một sự nghiệp chung làm phong phú đời sống Hán học và đời sống Hán Nôm của thế kỉ XIX trong nhiệm vụ là công cụ và phương tiện cho sự truyền tải và cập nhật kiến thức, mở rộng phạm vi những người biết chữ Hán, chữ Nôm. 142 Bốn bộ TĐHN.TkXIX ra đời trong môi trường song ngữ Hán Việt của thế kỉ này, mỗi bộ có những định hướng biên soạn của mình. Nhật dụng thường đàm biên soạn theo định hướng nhật dụng hóa tri thức Hán học; Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca biên soạn theo định hướng “chính hóa” mang tính nhà nước; Nam phương danh vật bị khảo biên soạn theo định hướng cái học “đa thức” và “cách trí”; Đại Nam quốc ngữ biên soạn theo định hướng cái học phi khoa cử “tường tận được tên của muôn vật”, chuyển tải tri thức mang tính phi khoa cử. KẾT LUẬN Luận án với đề tài Nghiên cứu các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX nhằm nghiên cứu bốn bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm được biên soạn, trùng san vào thế kỉ XIX từ góc nhìn từ điển học nói chung, tự điển, từ điển chữ Hán và Hán Nôm nói riêng và từ góc nhìn xem chúng như là những sách dạy, sách học chữ Hán. Các nhiệm vụ đó được cụ thể hóa qua việc triển khai các vấn đề như sau: Chương 1: Nghiên cứu những vấn đề tổng quan về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài và xác lập những vấn đề lí thuyết về từ điển học, từ thư học cho hướng triển khai vấn đề của luận án. Chương 2: Giới thiệu về danh mục các bộ tự điển, từ điển, cấu trúc bảng từ của chúng. Chương 3: Nghiên cứu mục từ và cấu trúc tổng quát của mục từ trong tự điển, từ điển. Chương 4: Nghiên cứu những định hướng biên soạn, mục đích và nội dung kiến thức mà các bộ sách này cung cấp với tư cách là các sách dạy chữ Hán. Qua quá trình nghiên cứu, cho phép rút ra những kết luận như sau: 143 1. Thế kỉ XIX là thế kỉ có nhiều bộ sách dạy, sách học chữ Hán được biên soạn theo môn loại có chú quốc âm, có tính chất tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm. 1.1. Các bộ tự điển, từ điển được chọn nghiên cứu đều được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, lần lượt có kí hiệu là:     Nhật dụng thường đàm, kí hiệu AB.511;          Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca, kí hiệu VHv.626;       Nam phương danh vật bị khảo, kí hiệu A.155;     Đại Nam quốc ngữ có kí hiệu AB.106. Đây là những định bản có độ qui phạm về mặt văn bản học (có bộ được kiểm đính bởi Tu thư cục Quốc sử quán) và chúng đều được in nhiều lần (có bộ được in ấn và lưu hành liên tục suốt gần một thế kỉ). 1.2. Trong bối cảnh xã hội - ngôn ngữ Việt Nam thế kỉ XIX, Hán văn, văn ngôn chữ Hán là quốc văn; chữ Hán là chữ thánh hiền, chữ chở luân thường đạo lí; Khổng học là quốc học. Chữ Hán, Hán văn là kênh chủ yếu cho mọi sự chuyển tải và cập nhật tri thức từ cộng đồng hẹp như gia đình dòng tộc, họ mạc, xóm thôn đến tầm rộng cả quốc gia xã hội. Tăng số người biết chữ Hán như là một nhu cầu tự nhiên. Phổ cập kiến thức là yêu cầu cấp bách cho dù những kiến thức cần được phổ cập ấy đương nhiên bị giới hạn bởi nền học vấn đương thời, mang đặc trưng trung đại, nền học vấn được gọi là "cái học tam tài", "cái học cách trí". Đó là những yêu cầu xã hội cho sự ra đời của những bộ sách dạy chữ Hán được sắp xếp và tổ chức theo dạng tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm mà Nhật dụng thường đàm; Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; Nam phương danh vật bị khảo; Đại Nam quốc ngữ là những bộ tiêu biểu nhất. 2. Nghiên cứu bốn bộ sách trên theo hướng tự điển và từ điển học là hướng tiếp cận của luận án này. Theo hướng tiếp cận đó, trọng tâm của vấn đề là xác lập cấu trúc bảng từ (cấu trúc vĩ mô) và cấu trúc mục từ (cấu trúc vi mô) của các bộ tự điển, từ điển này để từ đó rút ra những đặc trưng chủ yếu của chúng về qui mô, cách thức tổ chức bảng từ, tính chất môn loại và tính chất biểu ý của chúng 144 trên phương diện tổ chức trong mối liên hệ với chức năng dạy và học chữ Hán ứng với các định hướng biên soạn nhằm nhật dụng chữ Hán và tri thức qua chữ Hán, mở mang và phổ cập chữ Hán, bổ cứu những hạn chế của việc học chữ Hán đang chi phối học thuật đương thời là học chữ Hán vì khoa cử. 3. Cấu trúc vĩ mô hay cấu trúc bảng từ của bốn bộ tự điển được tổ chức theo môn loại, mỗi môn loại lại bao gồm các mục từ. Tổng hợp của các mục từ tạo nên bảng từ của từng bộ tự điển, từ điển. Cấu trúc bảng từ của chúng thể hiện theo bảng sau: STT Tên sách Môn loại Mục từ 5  Nhật dụng thường đàm 32 2.479          Tự Đức Thánh chế Tự 6 7 9.030 học giải nghĩa ca 7       Nam phương danh vật bị khảo 33 4.767 8     Đại Nam quốc ngữ 50 4.790 Cấu trúc bảng từ hay cấu trúc vĩ mô của bốn bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm thế kỉ thứ XIX cho phép qui chúng về cơ bản thuộc loại tầm trung, tương ứng với vốn tự, vốn từ chữ Hán tối thiểu (Nhật dụng thường đàm), tương ứng với vốn từ chữ Hán tối thiểu và tối thuận (Nam phương danh vật bị khảo; Đại Nam quốc ngữ; Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca). Cấu trúc bảng từ được sắp xếp và tổ chức theo môn loại mà mỗi môn loại lại ứng với một phạm trù kiến thức của học thuật lúc bấy giờ. Về phương diện tổ chức, kết cấu bảng từ theo môn loại cho phép xếp chúng vào phạm trù tự điển, từ điển biểu ý. Hơn nữa, cấu trúc bảng từ của cả bốn bộ tự điển, từ điển này lại còn được tổ chức theo cấu trúc bao hàm, cấu trúc mẹ con. Các môn loại tạo nên cấu trúc bảng từ, bảng từ lại bao hàm trong nó các mục từ, cho nên tính chất môn loại và tính chất biểu ý là đặc điểm nổi trội nhất về phương diện tổ chức bảng từ. 145 Tổ chức bảng từ theo môn loại đã làm cho các bộ sách này có khả năng phản ánh các vấn đề của học thuật lúc bấy giờ. Học thuật lúc bấy giờ thuộc phạm trù học thuật thời trung đại, tính phân ngành hầu như chưa có. Cái học trung đại có tính truyền thống đó được gọi bằng các tên như "cái học tam tài", "cái học cách trí". Riêng về phương diện Nho học thì mọi chú giải phục vụ cho khoa cử từ chương hay định hướng giáo hóa của triều đình thì được gọi là "chính học". Các bộ tự điển này đã phản ánh những vấn đề của học thuật đương thời cho dù mức độ thể hiện của chúng có sự khác nhau. 4. Mục từ là đơn vị hạt nhân của các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX, chúng tạo nên từng môn loại và cấu trúc bảng từ. Cấu trúc mục từ của các tự điển, từ điển này là một chỉnh thể bao gồm 2 bộ phận chính: “Phần được giải thích” và “Phần giải thích”. Giữa 2 phần này đôi khi có phần nối, thường dùng hệ từ “là” được ghi bằng chữ Nôm. “Phần được giải thích” trong cấu trúc mục từ là phần chữ Hán, về mặt trình bày được in cỡ chữ to. Đây chính là những chữ, từ cần dạy, cần học, hay là phần “danh”. “Phần giải thích” là phần giải nghĩa cho “phần được giải thích”, hay nói cách khác đó là phần nghĩa của “danh”. Phần này có thể là Việt ngữ ghi bằng chữ Nôm, có khi là Hán văn. “Phần nối” thường được ghi bằng chữ Nôm “ là", có khi không có. 5. Bảng từ - môn loại - mục từ hình thành nên quan hệ tam thể, bao hàm, có tính tầng bậc. Môn loại là sự tập hợp, khái quát kiến thức theo từng lĩnh vực nhất định. Mục từ là sự cụ thể hóa kiến thức theo từng danh vật cụ thể. Mỗi môn loại được xem như một bài học. Nếu số mục từ trong một bài học mà lớn thì sẽ khó học, khó nhớ và khó đáp ứng được tính sư phạm trong việc bố trí bài học. Ngược lại, mục từ trong một bài học ít thì bài học càng đơn giản và giá trị sư phạm, dạy chữ càng tăng. Theo tinh thần đó, thứ tự sư phạm học chữ Hán 146 của bốn bộ tự điển, từ điển được nghiên cứu sẽ được sắp xếp theo trật tự sau: 1. Nhật dụng thường đàm; 2. Nam phương danh vật bị khảo; 3. Đại Nam quốc ngữ; 4. Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca. 6. Đơn vị được mang ra giải thích trong mục từ của các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX hoặc là "tự" hoặc lớn hơn tự ( từ, ngữ, cú). Qua việc xác định đơn vị mục từ, cho phép xếp các bộ tự điển và từ điển song ngữ Hán Nôm theo loại hình từ điển sau : tự điển, tự thư, từ thư. Theo đó, Tự Đức, là bộ sách thuộc phạm trù tự điển, tự thư; Nam phương là bộ sách vừa có thể xếp vào phạm trù tự điển, tự thư cũng như từ thư; Đại Nam là bộ sách cần được xếp vào phạm trù từ thư; Nhật dụng là bộ sách cần được xếp vào phạm trù từ thư. 7. Việc nghiên cứu tổ chức của đơn vị mục từ còn cho phép xác định tính phân tích và tính tổng hợp của đơn vị mục từ, qua đó liên tưởng đến mức độ tổng hợp kiến thức của từng bộ sách qua đơn vị mục từ. Việc lựa chọn đơn vị mục từ mang trong mình tính tổ chức đơn và tổ chức phức (danh) có liên quan đến tính phân tích và tổng hợp của mục từ về phương diện diễn đạt (nghĩa). Các đơn vị mục từ gồm từ 2 chữ trở lên thường biểu thị một khái niệm hoàn chỉnh, đồng nghĩa với tính tổng hợp cao hơn trong việc truyền tải kiến thức. Như thế, ta có trật tự sau về mức độ tổng hợp tính: Đại Nam; Nhật dụng; Nam phương; Tự Đức. Trật tự về mức độ phân tích tính lại theo trật tự ngược lại. 8. Các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX không chỉ là những bộ tự điển, từ điển song ngữ mà chúng có vai trò kép, chúng còn là những bộ loại thư song ngữ chuyên chở và cập nhật những tri thức của khu vực, của đất nước bằng chữ Hán theo định hướng chủ đề, chủ điểm. 8.1. Nhật dụng thường đàm được biên soạn theo định hướng “nhật dụng hóa” tri thức Hán học. Bộ sách sưu tập những đơn vị mục từ chữ Hán có tính "nhật dụng”. Bộ sách đã nhật dụng hóa tri thức Hán học vốn cao xa thành tri thức nhật dụng. Hơn nữa ở đây lại đưa nhiều tri thức Việt Nam. Do vậy, bộ 147 sách này không chỉ "nhật dụng hóa" kiến thức qua Hán học mà còn là một thử nghiệm "Việt Nam hóa" những tri thức cần thiết qua chữ Hán. 8.2. Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca được biên soạn theo định hướng “chính hóa” Nho học của nhà nước: “Chính hóa” là một trong những nội dung thể hiện định hướng Nho học chính thống của triều Nguyễn được tác giả thể hiện trong bộ sách này mà cụ thể và cô đọng nhất là môn loại Chính hóa. Bộ sách đề cập đến các vấn đề chính trị, giáo hóa, tổ chức nhà nước, tôn sùng chính học. Đó là sự cụ thể hóa cái định hướng Nho học nhà nước ra xã hội. 8.3. Nam phương danh vật bị khảo được biên soạn theo định hướng phổ biến cái học “đa thức” và cái học “cách trí”: Nội dung bài tựa và các môn loại, mục từ mà bộ sách chuyển tải thể hiện khát vọng biết đến ngọn nguồn sự vật mà cái học từ chương không đề cập. Những sách ấy (chỉ các sách vở của người Bắc) nhan nhản những chỗ chê bai, bài xích lẫn nhau. Cái khuyết thiếu của sách vở đời xưa chủ yếu thuộc phạm trù những cái mà đương thời mới có, hay sản vật nước ta có mà Hán văn không ghi được tác giả Nam phương danh vật bị khảo nhận ra và dành tâm huyết để bù lấp cho những khoảng trống đó. 8.4. Đại Nam quốc ngữ được biên soạn theo định hướng phổ biến cái học phi khoa cử. Chữ Hán không chỉ để cho khoa cử mà còn cho sự mở mang các tri thức ngoài khoa cử như các tri thức liên quan đến động thực vật. Nguyễn Văn San nhận thức: “Việc làm sách này không phải là việc lập ngôn theo chính giáo, mà để khảo cứu và dạy cho con em”. Vì vậy, định hướng của người soạn sách này là lấy mục đích khảo cứu danh vật, thoát li khoa cử làm tôn chỉ. 9. Sự đóng góp của tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX cho truyền thống Ngữ văn Việt Nam thực là đáng trân trọng. Sự xuất hiện của các bộ sách dạy, học chữ Hán thế kỉ XIX đã thể hiện sự cố gắng của bậc thức giả Việt Nam trong việc sử dụng chữ Hán, chữ Nôm cho sự nhật dụng, cập nhật, mở mang tri thức. Chúng là công cụ, phương tiện cho sự 148 mở mang văn hoá, khắc phục những hạn chế hiểu biết của cái học từ chương. Chúng là những loại thư song ngữ Hán Nôm làm phong phú cho Hán học đương thời và cho truyền thống biên soạn tự điển, từ điển, từ thư Việt Nam. Các nhà ngữ văn truyền thống đã cố gắng thông qua việc biên soạn các bộ sách có tính từ điển nhằm góp phần mở mang nhận thức qua chữ Hán, chữ Nôm trên nền cái học “đa thức”, “cách trí”. Điều đó cho phép nói rằng trong cấu trúc văn hoá Việt Nam truyền thống nói chung, thế kỉ XIX nói riêng, tiếng mẹ đẻ luôn là nhân tố chủ yếu cho sự nhận thức, mở rộng mức độ phổ biến của kiến thức. 10. Kiến nghị về những hướng nghiên cứu tiếp theo: Các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX đã được luận án này nghiên cứu dưới góc nhìn tự điển, từ điển, từ thư học và góc nhìn biên soạn sách học, sách dạy chữ Hán qua chữ Nôm. Qua đó gợi mở những hướng nghiên cứu tiếp theo trên cơ sở những gì đã được vạch ra trên cơ sở của luận án này. Đó là: Nghiên cứu truyền thống ngữ văn học Việt Nam về phương diện biên soạn tự điển, từ điển chữ Hán, chữ Nôm và song ngữ Hán Nôm. Nghiên cứu truyền thống biên soạn sách giáo khoa dạy chữ Hán ở Việt Nam thời phong kiến. Nghiên cứu về song ngữ Hán Việt, Việt Hán; sự vươn lên của nhân tố tiếng Việt trong môi trường song ngữ Việt Hán. Nghiên cứu sự cập nhật và mở mang văn hóa thế kỉ XIX qua nhân tố chữ Hán, chữ Nôm trên cơ sở nguồn tư liệu Hán Nôm của giai đoạn này. Nghiên cứu các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX theo góc nhìn từ điển, từ điển học với những khái niệm của văn tự học, tự điển, tự thư, từ thư học là một hướng nghiên cứu mới. Từ hướng nghiên cứu này, có thể mở rộng phạm vi với đối tượng là các tự điển, từ điển song ngữ, tự điển, từ điển 149 đơn ngữ hoặc đa ngữ ở những thế kỉ trước thế kỉ XIX và kể cả các từ điển tiếng Việt sau thế kỉ XIX. 150 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Hà Đăng Việt (2008), “Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca và vấn đề chuẩn hoá chữ Nôm thời Nguyễn”, Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội, tr 49-59. 2. Hà Đăng Việt (2012), “Loại thư song ngữ Hán - Nôm: sự bù đắp tri thức cho Hán học Việt Nam thế kỉ XIX”, Tạp chí Khoa học, số 6, ĐHSP Hà Nội, tr 115-126. 3. Hà Đăng Việt (2012), Nghiên cứu chữ Nôm trong các từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX - Đề tài KHCN cấp Trường mã số SPHN - 11 - 31. 4. Phạm Văn Khoái - Hà Đăng Việt (2013), “Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca - từ điển song ngữ Hán Nôm có tính bách khoa thư”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, tr 17-28. 5. Hà Đăng Việt (2013) “Chữ Hán ở Việt Nam” (giới thiệu, dịch), Hán Nôm học trong nhà trường - Một số vấn đề nghiên cứu và trao đổi, Nxb ĐHSP, Hà Nội, tr 167-184 . 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT [1]. Đào Duy Anh (1975), Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo diễn biến, Nxb KHXH, Hà Nội. [2]. Phan Văn Các (chủ biên), Giáo trình Hán Nôm, Nxb Giáo dục, 1985. [3]. Nguyễn Tài Cẩn (1985), Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb ĐH&THCN, Hà Nội. [4]. Nguyễn Tài Cẩn (2001), Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. [5]. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ảnh hưởng của Hán văn Lí - Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [6]. Hoàng Thị Châu (2001), Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb ĐHSP, Hà Nội. [7]. Thiều Chửu (1999), Hán Việt tự điển, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. [8]. Lê Văn Cường (2012), “Nhật dụng thường đàm, cuốn từ điển bách khoa song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX”, Tạp chí Hán Nôm, (số 3). [9]. Doãn Chính (2012), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. [10]. Trần Trí Dõi, Vấn đề chữ viết nhìn từ góc độ lịch sử tiếng Việt, ngonngu.net/index.php?p= [11]. ĐHQG Hà Nội - Trường ĐH KHXH&NV (1997), Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [12]. Phan Đăng [chủ biên] (1996), Thơ văn Tự Đức, (tập 3 - Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca), Nxb Thuận Hoá, Huế. [13]. Phan Đăng (1998), “Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca”- một bộ sách quí trong các tác phẩm của vua Tự Đức” - Kỉ yếu Hội thảo khoa học Miền Trung - những vấn đề về ngôn ngữ học và văn học, Huế. 152 [14]. Trần Văn Giáp (1970), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 1, Thư viện Quốc gia xuất bản, Hà Nội. [15]. Trần Văn Giáp (1990), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội. [16]. Nguyễn Thiện Giáp [chủ biên] Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [17]. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, tr239-2510, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. [18]. Nguyễn Thiện Giáp (2005), Lược sử Việt ngữ học, tập một, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [19]. Vũ Quang Hào (1999), Từ điển về từ điển, Nxb Văn hóa, Hà Nội. [20]. Vũ Quang Hào (2005), Kiểm kê từ điển học Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội. [21]. Phạm Văn Hảo, (2011) “Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô của từ điển”, Từ điển học & Bách khoa thư, (số 2), tr45-52. [22]. Lã Minh Hằng (2013), Khảo cứu từ điển song ngữ Hán - Việt Đại Nam quốc ngữ, Nxb ĐHQG, Hà Nội. [23]. Trịnh Thị Thu Hiền (2011), “Một số vấn đề về cấu trúc vĩ mô của từ điển thuật ngữ Công nghệ thông tin Việt Nam”, Từ điển học & Bách khoa thư (số 3), tr39-47. [24]. Nguyễn Thừa Hỷ (2000), Lịch sử văn hoá Việt Nam truyền thống giản yếu, in lần thứ 2, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. [25]. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội. [26]. Nguyễn Quang Hồng (2008), Khái luận văn tự học chữ Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội. [27]. Nguyễn Văn Khang (1991), “Bình diện văn hoá xã hội ngôn ngữ học của các thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt”, Tạp chí văn hóa dân gian, số 1. 153 [28]. Nguyễn Văn Khang (1995), “Từ Hán Việt và vấn đề dạy học Từ Hán Việt ở trường phổ thông”// Tiếng Việt trong trường học, Nxb KHXH, Hà Nội. [29]. Vũ Văn Kính (1999), Đại tự điển chữ Nôm, Nxb Văn nghệ TP HCM - Trung tâm nghiên cứu Quốc học, TP. HCM . [30]. Đoàn Khoách, “Chữ Nôm trong một tác phẩm của vua Tự Đức”, đăng trên trang Web viethoc.org. [31]. Phạm Văn Khoái (2001), Một số vấn đề chữ Hán thế kỉ XX, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội. [32]. Phạm Văn Khoái (1996), “Vài vấn đề về sách giáo khoa dạy chữ Hán trong kho sách Hán Nôm”, Thông báo Hán Nôm học, Nxb KHXH, Hà Nội. [33]. Phạm Văn Khoái (2004), “Từ Tứ thư ước giải đến Tự Đức Thánh chế Luận ngữ thích nghĩa ca suy nghĩ về bước vận động xây dựng chính tả chữ Nôm”, Kỉ yếu Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm, Hà Nội. [34]. Phạm Văn Khoái, Đời sống tự điển chữ Nôm trong những thập niên cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 [Bài viết thuộc Đề tài trọng điểm Quốc gia, 2006 - 0101. Hán Nôm Việt Nam những thập niên cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 trong bước chuyển của văn hóa Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại]. [35]. Phạm Văn Khoái (2010), Khoa thi Tiến sĩ cuối cùng trong lịch sử khoa cử Việt Nam (Kỉ Mùi, Khải Định), Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội. [36]. Phạm Văn Khoái, Hà Đăng Việt (2013), “Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca - từ điển song ngữ Hán Nôm có tính bách khoa thư”, Tạp chí Hán Nôm, (số 1), tr 17-28. [37]. Nguyễn Thị Lan (2002), Tìm hiểu loại hình sách song ngữ Hán Nôm dạy chữ Hán, Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm, ĐH KHXH&NV Hà Nội. [38]. Nguyễn Thị Lâm, Chữ Nôm và tiếng Việt qua văn bản Thiên Nam ngữ lục, Nxb KHXH, Hà Nội.2006. 154 [39]. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử kí toàn thư, bản dịch, tập 2, Nxb. KHXH, Hà Nội. [40]. Nguyễn Văn Lợi (2013), “Từ điển học và bách khoa thư học: Đôi điều suy nghĩ về Ngành, Nghề và Nghiệp”, Từ điển học & Bách khoa thư (số 6), tr.10 - 17. [41]. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX, NXB ĐH&THCN, Hà Nội. [42]. Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XIX (1900 - 1925), Nxb Văn học, Hà Nội. [43]. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [44]. Nhiều tác giả (2002), Tam tự kinh, Bách gia tính, Thần đồng thi, Thiên tự văn, Thanh Thủy dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế. [45]. Trần Nghĩa, Prof.Francois Gros (1993), , Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu, 3 tập, Nxb KHXH, Hà Nội. [46]. Hoàng Thị Ngọ (1999), Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Nxb KHXH, Hà Nội.1999. [47]. Lê Văn Quán (1981), Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội. [48]. Phương Thủ Nguyễn Hữu Quì (1971), Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca (phiên âm), Uỷ ban dịch thuật phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa của chính quyền Sài Gòn cũ xuất bản, Sài Gòn. [49]. Nguyễn Ngọc San (2001), Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm, Nxb ĐHSP, Hà Nội. [50]. Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện (2001), Từ điển từ Việt cổ, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. [51]. Nguyễn Ngọc San (1993), Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [52]. Nguyễn Kim Thản (1984), Lược sử ngôn ngữ học, tập 1, Nxb ĐH&THCN, Hà Nội. [53]. Nguyễn Q. Thắng (2001), Huỳnh Thúc Kháng - con người & thơ văn, Nxb Văn học, Hà Nội. 155 [54]. Lí Toàn Thắng (2011), “Từ điển học trên đường học tập và nghiên cứu” (Bài thứ hai: Loại hình từ điển học), Từ điển học & Bách khoa thư (số 2), trXII - XX. [55]. Lí Toàn Thắng (2011), “Từ điển học trên đường học tập và nghiên cứu” (Bài thứ ba: Một số vấn đề về cấu trúc vi mô của từ điển), Từ điển học & Bách khoa thư (số 3), tr17 - 24. [56]. Lạc Thiện (1996), Tự điển Hán Việt thông dụng, Nxb TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. [57]. Chu Bích Thu (2005), “Từ điển và từ điển học Việt Nam”, Lược sử Việt ngữ học (Nguyễn Thiện Giáp chủ biên), Nxb.Giáo dục, Hà Nội. [58]. Lê Anh Tuấn (1986), “Tìm hiểu chữ Nôm có dấu phụ trong hệ thống cấu tạo chữ Nôm”, Nghiên cứu Hán Nôm, (số 1). [59]. Lê Anh Tuấn (2008), “Bước đầu tìm hiểu những vấn đề về chữ nôm thế kỷ XX”, Thông báo Hán Nôm học. [60]. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐH&THCN, Hà Nội. [61]. Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu (2002), Tiếng Việt trên đường phát triển (tái bản lần 2), Nxb KHXH, Hà Nội. [62]. Ngô Đức Thọ (chủ biên), Nguyễn Thuý Nga, Vũ Lan Anh, Nguyễn Đức Toàn (2002) Thư mục sách Hán Nôm ở Thư viện Quốc gia, Bộ Văn hoá thông tin - Thư viện Quốc gia, trang 354. [63]. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb KHXH, Hà Nội. [64]. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn [sưu tầm tuyển chọn và giới thiệu] (2007), 10 thế kỉ bàn luận về văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [65]. Hoàng Văn Vân (2003), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa (dịch từ nguyên bản tiếng Anh Linguistics Acrorr Cultures, Michigan University press, 1957 của Robrt Lado), Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội. 156 [66]. Nguyễn Công Việt (2006), Ấn chương Việt Nam từ thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XIX, Nxb KHXH, Hà Nội. [67]. Hà Đăng Việt (2006b), “Chữ Nôm trong Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Hán Nôm, Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội. [68]. Hà Đăng Việt (2008), “Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca và vấn đề chuẩn hoá chữ Nôm thời Nguyễn”, Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội. [69]. Hà Đăng Việt (2009), “Một số kết quả nghiên cứu về chữ Nôm trong Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học, Khoa Việt Nam học - ĐHSP Hà Nội. [70]. Hà Đăng Việt (2012), “Loại thư song ngữ Hán - Nôm: sự bù đắp tri thức cho Hán học Việt Nam thế kỉ XIX”, Tạp chí Khoa học, (số 6), ĐHSP Hà Nội, Hà Nội. [71]. Hà Đăng Việt (2012), Nghiên cứu chữ Nôm trong các từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX - Đề tài KHCN cấp Trường mã số SPHN - 11 - 31. [72]. Hà Đăng Việt (2012), “Mạn đàm về chữ Nho”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học, Khoa Việt Nam học, ĐHSP Hà Nội. [73]. Hà Đăng Việt (2013), “Chữ Hán ở Việt Nam”, Hán Nôm học trong nhà trường - Một số vấn đề nghiên cứu và trao đổi, Nxb ĐHSP, Hà Nội. [74]. Viện Ngôn ngữ học (1976), Bảng tra chữ Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội. [75]. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học & Nxb.KHXH, Hà Nội. [76]. Trần Ngọc Vương (1995), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [77]. Viện KHXH (2002), Ngữ văn Hán Nôm, Tập 1 - Tứ Thư, Nxb KHXH, Hà Nội. [78]. Viện KHXH (2002), Ngữ văn Hán Nôm, Tập 2 - Ngũ kinh, Nxb KHXH, Hà Nội. 157 [79]. Viện KHXH (2004), Ngữ văn Hán Nôm, Tập 4 - Hán Văn Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội. [80]. Nguyễn Như Ý (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. [81]. II. TÀI LIỆU TIẾNG TRUNG QUỐC [82]. [](2 000), , ,  [83]. ,  [84].  (1956),  [85].  (1996),  . III. TÀI LIỆU HÁN NÔM (theo kí hiệu của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm). [86].      , AB.372/ VNv.201 [87].     , AB.106 [88].       , A.155/ VHb.288 [89].     , AB.511 [90].    , A.1542 [91].      , AB.19 [92].      , AB.227/AB.91 [93].          , VHv,626/1-4

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_cac_tu_dien_tu_dien_han_nom_the_ki_xix.pdf
  • docBIA 2.doc
  • docBIA TOM TAT TIENG ANH.doc
  • docBIA TOM TAT.doc
  • docThong tin tom tat ve ket luan moi, tieng Viet.doc
  • docThong tin tom tat ve ket luan moi. tieng Anh.doc
  • docTom tat TV.doc
  • docTomtat t.anh,Ha Dang Viet.doc
Tài liệu liên quan