Luận án Tiểu thuyết mạc ngôn từ góc nhìn liên văn hóa

MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài và lĩnh vực nghiên cứu. 1.1. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng vào nhiều ngành khoa học khác, văn hoá ngày càng thâm nhập sâu vào văn học tạo nên mối quan hệ gắn kết không thể tách rời. Văn học là sự tự thể hiện của văn hoá, bởi nó chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường văn hoá của một thời đại và truyền thống văn hoá độc đáo của một dân tộc. Quá trình truyền tải mã văn hóa từ nhà văn tới công chúng độc giả là quá trình thăng hoa của ngôn ngữ, các biểu

doc165 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 308 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Tiểu thuyết mạc ngôn từ góc nhìn liên văn hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưng thành mã riêng của nhà văn. Mặt khác, sự phát triển kinh tế, sự giao lưu văn hóa thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Do vậy, nghiên cứu liên văn hóa đã trở thành nhu cầu tất yếu của thời đại. 1.2. Mạc Ngôn là một trong những nhà văn đương đại Trung Quốc có phong cách sáng tác độc đáo và mới mẻ. Ông được xem là “nhân vật khai phá của thế kỷ XXI” và trở thành “hiện tượng” của văn học Trung Quốc cũng như thế giới. Đọc tác phẩm Mạc Ngôn, người đọc ngỡ ngàng trước những cách tân táo bạo của nhà văn cả về nội dung và hình thức. Tác phẩm của Mạc Ngôn được dịch ra nhiều thứ tiếng và được giới nghiên cứu đánh giá cao. Nghiên cứu về Mạc Ngôn và tác phẩm của ông giúp người đọc có được cái nhìn đa diện, đa chiều hơn về tư duy sáng tạo cũng như những trải nghiệm về cuộc sống và bản lĩnh tiếp nhận các giá trị văn hóa của nhà văn. 1.3. Giữa những năm 80 của thế kỷ XX, bằng lối viết phá cách, sáng tạo và độc đáo, Mạc Ngôn bắt đầu khuấy đảo nền văn chương đương đại Trung Quốc. Ở Việt Nam, tác phẩm của Mạc Ngôn đã được bạn đọc biết đến hơn mười năm qua. Trong hơn một thập kỷ đó, cái tên Mạc Ngôn đã thu hút ngày càng nhiều hơn sự quan tâm của giới nghiên cứu lẫn bạn đọc thông thường. Tuy nhiên, lịch sử tiếp nhận Mạc Ngôn cũng không đồng nhất, các nhà nghiên cứu mới tập trung khai thác thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết nhà văn ở góc độ tự sự học hoặc mới chỉ quan tâm đến một khía cạnh về văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn. Chính vì vậy, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Tiểu thuyết Mạc Ngôn từ góc nhìn liên văn hóa nhằm giải mã tiểu thuyết Mạc Ngôn từ góc độ liên văn hoá để khám phá những bí ẩn độc đáo của nhà văn được xem là “khác với các nhà văn phương Tây và cũng khác với các nhà văn Trung Quốc” [43; 108], đồng thời nhận diện đâu là “hương vị” tiểu thuyết Mạc Ngôn. Từ đó, góp phần làm sáng tỏ nhiều điều về giao lưu văn hóa trong bối cảnh hội nhập hiện nay, đồng thời định hướng tiếp nhận tác phẩm của ông đối với độc giả Việt Nam. 2. Mục đích, nhiệm vụ 2.1. Mục đích Chọn đề tài Tiểu thuyết Mạc Ngôn từ góc nhìn liên văn hoá luận án hướng đến bốn mục đích cơ bản sau: Một là, làm rõ cội nguồn giá trị văn hóa truyền thống cũng như văn hóa hiện đại trong tiểu thuyết Mạc Ngôn. Hai là, nêu bật những giá trị liên văn hóa trong hệ thống tiểu thuyết của nhà văn thông qua hệ thống biểu tượng. Ba là, chỉ ra những đặc trưng nghệ thuật liên văn hoá trong hệ thống nhân vật. Bốn là, đánh giá tính liên văn hóa là một trong những phương diện quan trọng, độc đáo và nổi bật của tiểu thuyết Mạc Ngôn. 2.2. Nhiệm vụ Tương ứng với bốn mục đích trên, luận án sẽ đi vào bốn nhiệm vụ chính: Thứ nhất, phân tích chỉ ra sự gắn kết giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại, phương Đông và phương Tây, dân gian và bác học trong tiểu thuyết Mạc Ngôn có nguồn cội sâu xa từ chính cuộc đời và sự biến động của thời đại xã hội. Thứ hai, đi vào giải mã những biểu tượng tiêu biểu cho tính liên văn hóa trong hệ thống tiểu thuyết của nhà văn nhằm xác định được đây chính là điểm độc đáo, đặc sắc trong tiểu thuyết Mạc Ngôn. Thứ ba, đi sâu phân tích hệ thống nhân vật dưới góc độ liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn nhằm xác định đây chính là điểm mấu chốt tạo nên những phá cách trong hệ thống tiểu thuyết nhà văn. Thứ tư, trên cơ sở khái quát toàn bộ các tác phẩm lớn của Mạc Ngôn tiến hành đánh giá những thành công của ông nhìn từ góc độ liên văn hoá. 3. Đối tượng Do nội hàm về văn hóa rất rộng nên khi nghiên cứu tiểu thuyết Mạc Ngôn dưới góc nhìn liên văn hóa chúng tôi chỉ tập trung vào những khía cạnh mà ở đó thể hiện nhiều nhất cái gọi là đặc sắc văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn trên các phương diện: Nguồn gốc liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, hệ thống biểu tượng, cùng với hệ thống nhân vật liên văn hóa trong tiểu thuyết. Từ đó, đánh giá mối quan hệ giữa tiểu thuyết Mạc Ngôn với văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại trên cơ sở so sánh văn học Trung Quốc với văn học các nước trên thế giới tìm ra sự giống và khác nhau giữa các giá trị văn hóa, nhằm thấy được điểm kế thừa và cách tân trong việc tiếp biến các giá trị văn hóa của nhà văn. Đồng thời, để việc nghiên cứu này có hệ thống và rõ ràng, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi luôn đặt tiểu thuyết Mạc Ngôn trong mối quan hệ với văn hóa Trung Hoa để thấy được bản lĩnh trong tiếp biến văn hóa của nhà văn. 4. Phạm vi nghiên cứu 4.1. Phạm vi văn bản khảo sát Sự nghiệp sáng tác của Mạc Ngôn vô cùng đồ sộ. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của Luận án chúng tôi tập trung tìm hiểu các tiểu thuyết được xem là độc đáo và xuất sắc nhất của Mạc Ngôn đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam bao gồm: Cao lương đỏ (2000), Báu vật của đời (2001), Đàn hương hình (2003), Cây tỏi nổi giận (2003), Tửu quốc (2004), 41 chuyện tầm phào (2004), Sống đọa thác đày (2007), Thập tam bộ (2007), Ếch (2010). Ngoài ra, trong luận án khi chứng minh cho các luận điểm đã nêu chúng tôi sẽ khảo sát thêm một số sáng tác khác của Mạc Ngôn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu liên văn hóa là một vấn đề lớn trong văn học, với cấu trúc nhiều tầng bậc, cấp độ như: Biểu tượng, nhân vật, nghi lễ phong tục, giá trị. Tuy nhiên, trong Luận án này, chúng tôi chỉ tập trung khai thác và tìm hiểu hai cấp độ là biểu tượng và nhân vật để minh chứng cho tính liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn. Khi nghiên cứu một nền văn hóa, giá trị văn hóa luôn được xem là vấn đề cốt lõi, vì thế, mặc dù chúng tôi không đi sâu nghiên cứu cấp độ giá trị trong luận án bởi, đó là một vấn đề hết sức phức tạp, nhưng trong quá trình triển khai, khi đi vào phân tích các phần cụ thể, chúng tôi sẽ đề cập đến giá trị văn hóa để từ đó thấy được phần nào sự gặp gỡ, cũng như xung đột văn hóa giữa các nền văn hóa khác nhau. Trong luận án này chúng tôi tập trung tìm hiểu tiểu thuyết Mạc Ngôn dưới góc độ liên văn hóa trên những phương diện cơ bản sau: - Chỉ ra đặc trưng liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn thông qua việc giải mã một số biểu tượng tiêu biểu trong tiểu thuyết của nhà văn này. - Đánh giá tính liên văn hóa từ góc độ nhân vật với tư cách là một trong những phương diện thể hiện rõ nhất sự kết hợp văn hóa Đông - Tây, truyền thống và hiện đại trong tiểu thuyết Mạc Ngôn. 5. Phương pháp nghiên cứu. Căn cứ đối tượng nghiên cứu đã xác định ở trên, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau. 5.1. Phương pháp liên ngành: Khi nghiên cứu nền văn hóa của một quốc gia, dân tộc cần xác định cách thức tiếp cận mang tính tổng thể và toàn diện. Đó là tầm nhìn tổng thể từ địa lý, nhân chủng, ngôn ngữ, lịch sử, kinh tế cho đến chính trị. Có như vậy, người nghiên cứu mới có được cái nhìn bao quát, toàn diện về vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp này trở thành công cụ đắc lực khi giải mã văn học, giúp người đọc thấy được mối quan hệ giữa văn học với các ngành khoa học khác. Do vậy, đây là phương pháp vô cùng quan trọng góp phần giải mã tiểu thuyết Mạc Ngôn để nhận ra đâu là mấu chốt tạo nên những phá cách trong tiểu thuyết nhà văn. Phương pháp hệ thống: Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm có được cái nhìn khái quát về tiểu thuyết Mạc Ngôn từ góc độ liên văn hoá. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở những dữ liệu đã tổng hợp từ văn bản, chúng tôi đi sâu vào phân tích, giải mã nhằm tìm ra những nét đặc sắc, độc đáo của tiểu thuyết Mạc Ngôn. 5.4. Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp này chúng tôi muốn đặt Mạc Ngôn trong mối quan hệ với các nhà văn phương Tây và nhà văn Trung Quốc nhằm tìm ra những đặc sắc đến mức khó trộn lẫn của Mạc Ngôn trên văn đàn Trung Quốc và thế giới. Đồng thời, từ việc so sánh ấy tìm ra quy luật phát triển của văn học, phục vụ cho việc nghiên cứu văn học thế giới. Do vậy, đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình triển khai, thực hiện luận án. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các thao tác kỹ thuật khác như thống kê, phân loại,... với hi vọng chung là hoàn thành tốt mục đích nghiên cứu đã đề ra. 6. Đóng góp mới của luận án Từ sự tìm hiểu, xác định nội hàm của khái niệm liên văn hóa, luận án sẽ đi vào luận giải vấn đề liên văn hóa, từ đó, áp dụng vào trường hợp cụ thể nhà văn Mạc Ngôn để giải mã những nét độc đáo ở phương diện liên văn hóa trong tiểu thuyết nhà văn đã được mã hoá như việc xây dựng hệ thống môtif hình tượng - biểu tượng, hệ thống nhân vật để thấy được sự trở về và vượt lên dân gian của Mạc Ngôn. Đồng thời, cũng thấy được sự tiếp biến các giá trị văn hoá thời đại trong tác phẩm, từ đó thấy được sự độc đáo, đặc sắc trong phong cách của nhà văn Mạc Ngôn. 7. Cấu trúc của Luận án Ngoài các phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của Luận án được trình bày trong bốn chương: Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Chương 2: Cội nguồn liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn Chương 3: Biểu tượng trong tiểu thuyết Mạc Ngôn từ góc nhìn liên văn hóa Chương 4: Nhân vật trong tiểu thuyết Mạc Ngôn từ góc nhìn liên văn hóa Quy ước trong luận án: Trích dẫn tài liệu tham khảo: Trong ngoặc vuông, đứng đầu là số thứ tự tài liệu tham khảo trong thư mục tài liệu tham khảo của luận án, đứng sau là số trang được trích dẫn, ví dụ [8; 286]. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Mạc Ngôn là một trong những hiện tượng văn học mang tính thời đại. Giải thưởng Nobel văn học năm 2012 là sự ghi nhận những nỗ lực và cố gắng của Mạc Ngôn trong hành trình sáng tạo nghệ thuật. Nó không chỉ giải tỏa “mặc cảm Nobel” cho đất nước Trung Hoa mà còn tạo nên “một trào lưu Mạc Ngôn” trên toàn thế giới. Tính đến thời điểm hiện tại, hành trình sáng tạo văn chương của Mạc Ngôn đã kéo dài hơn ba thập kỷ. Trong hơn ba thập kỷ ấy, nhà văn đã từng bước khẳng định cho mình một vị thế vững chắc trên văn đàn Trung Quốc và thế giới. Đồng thời, mang đến một luồng gió mới, góp phần không nhỏ vào việc thay đổi diện mạo văn học đương đại Trung Quốc. Hiện nay, tác phẩm của Mạc Ngôn được dịch ra nhiều thứ tiếng và thu hút sự quan tâm của đông đảo độc giả. Chính sự kết hợp gần như hoàn hảo giữa yếu tố văn hóa Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, cốt truyện vừa thực vừa hư với các yếu tố kỳ ảo, một hệ thống biểu tượng đa nghĩa và các thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã làm nên sức hấp dẫn kì diệu này. Trên cơ sở tìm hiểu các tài liệu trong nước và nước ngoài nghiên cứu Mạc Ngôn, chúng tôi đã tổng hợp tư liệu thành các nhóm để thấy được tình hình nghiên cứu Mạc Ngôn nói chung cũng như nghiên cứu Mạc Ngôn dưới góc độ liên văn hóa, qua đó thấy được quan điểm và cách đánh giá, nhìn nhận về Mạc Ngôn của các học giả và người nghiên cứu. Từ đó, nhận diện những hướng nghiên cứu của người đi trước, trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có đồng thời tìm ra các khoảng trống khoa học còn đang bỏ ngỏ để chúng tôi tiếp tục triển khai trong luận án này. 1. 1. Nghiên cứu về Mạc Ngôn 1.1.1. Quan điểm của các học giả Trung Quốc Nhóm tài liệu Mạc Ngôn “tự bạch” Sau Đại cách mạng văn hóa, văn đàn Trung Quốc bước vào thời kỳ “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Trong không khí văn học ấy, Mạc Ngôn cùng với Giả Bình Ao, Phùng Ký Tài, Vương Mông, đã đem đến một luồng gió mới góp phần “thay đổi diện mạo văn học đương đại Trung Quốc” [43; 55]. Vị trí của nhà văn chân đất, lưng trần với mơ ước lúc khởi nghiệp được ăn mỗi ngày ba bữa bánh chẻo có nhân thịt, một lần nữa được khẳng định khi “Hội nghiên cứu Mạc Ngôn Cao Mật” được thành lập. Đây là diễn đàn nghiên cứu và trao đổi học thuật về sáng tác của Mạc Ngôn được mở tại tỉnh Sơn Đông ngày 12 tháng 8 năm 2006. Dường như những gì của sự nghiệp cầm bút mang lại cho nhà văn cũng như văn học đương đại Trung Quốc đã vượt xa dự định ban đầu của ông. Có lần, Mạc Ngôn tự bạch rằng: “Hai mươi năm trước, khi cầm bút viết tác phẩm đầu tay tôi không nghĩ rằng công việc này lại làm thay đổi số phận của mình, cũng không hề nghĩ rằng một bộ phận tác phẩm của mình lại làm thay đổi diện mạo của văn học đương đại Trung Quốc Động cơ ban đầu khi tôi sáng tác văn học vô cùng đơn giản, đó là kiếm chút nhuận bút để mua đôi giầy bóng loáng, thỏa mãn lòng hư vinh của một chàng thanh niên” [43; 55]. Đó là thành quả ghi nhận cho một nhà văn không ngừng đổi mới, không ngừng sáng tạo trong sáng tác. Hòa chung vào dòng chảy truyền thống văn học Trung Quốc, Mạc Ngôn cũng thường “tự bạch” những quan điểm, cách nhìn nhận của mình về nghệ thuật, về tiểu thuyết, về con người, về xã hội. Những bài viết này được Dương Dương biên soạn trong cuốn Mạc Ngôn, nghiên cứu và tư liệu (莫言研究資料), Nhà xuất bản Nhân dân Thiên Tân ấn hành năm 2005 và Ghi chép đối thoại (对话录) của Vương Nghiên, Lâm Kiến Phát, Nhà xuất bản Đại học Tô Châu, 2003. Ngoài ra, Mạc Ngôn còn trình bày quan điểm của mình về tiểu thuyết, về thế giới nghệ thuật, đặc điểm nổi bật của nghệ thuật tự sự trong cuốn Mùi vị của tiểu thuyết (小 说 的 气 味), Nhà xuất bản Văn nghệ Xuân Phong, 2003. Trong các tác phẩm này, Mạc Ngôn đã trình bày quan điểm, cách nhìn nhận của mình đối với nhiều vấn đề quan trọng như nghệ thuật tiểu thuyết, về vai trò, thái độ của nhà văn và chỉ ra những đặc điểm trong nghệ thuật tiểu thuyết của mình như ngôn ngữ thô tục, kết cấu dân gian, vai trò của cốt truyện Phần lớn những nội dung quan trọng mà Mạc Ngôn tự bạch đã được Nguyễn Thị Thại dịch ra tiếng Việt trong hai cuốn sách Mạc Ngôn và những lời tự bạch, Nhà xuất bản Văn học, 2004 và Chuyện văn chuyện đời, Nhà xuất bản Lao động, 2004. Mạc Ngôn và những lời tự bạch là cuốn sách tập hợp những bài phỏng vấn của nhà văn được giới thiệu với đông đảo độc giả Việt Nam. Qua đó, tác giả trình bày những quan niệm của mình về sáng tác văn học, động cơ thôi thúc ông trở thành nhà văn, những dấu ấn của tuổi thơ, đều được bộc lộ. Đặc biệt, trong cuốn sách, nhà văn đã bật mí quan điểm, lập trường trong sáng tác nghệ thuật, vị trí của người cầm bút và hé lộ những bí mật khi ông viết Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cao lương đỏ,... Ngoài ra, cuốn Chuyện văn và đời cũng do Nguyễn Thị Thại dịch, một lần nữa cho ta hiểu hơn về hoàn cảnh gia đình, động cơ sáng tác, lập trường quan điểm của nhà văn. Ở đó, người đọc còn bắt gặp những chiêm nghiệm mang tính triết lý về nhân sinh, về cuộc đời, về con người của nhà văn. Có lẽ, không ai viết về Mạc Ngôn và tác phẩm của ông chính xác bằng tác giả tự nói về mình. Mảng tài liệu “tự bạch” của Mạc Ngôn còn xuất hiện ở các bài phỏng vấn trên báo chí và những bài diễn thuyết. Những bài này đã được các nhà nghiên cứu và dịch giả Việt Nam dịch ra tiếng Việt. Trên báo Văn nghệ số 15, 2006 có bài Mạc Ngôn: Cá tính làm nên số phận, Nhuệ Anh dịch từ Sina.com, trong bài này nhà văn giới thiệu sơ qua tiểu thuyết Sinh tử vần xoay về chủ đề tác phẩm, ý tưởng xuất phát từ “Lục đạo luân hồi” của Phật Giáo: “Nhân vật chính của tiểu thuyết tập trung lý giải mối quan hệ giữa người nông dân và đất đai. Trong khi đó một nhân vật chính nữa tức người dẫn chuyện lại nằm trong lục đạo luân hồi: Một đời làm Người, một đời làm Ngựa, một đời làm Trâu, một đời làm Lừa, một đời làm Lợn kể lại những chuyện mắt thấy tai nghe từ những góc nhìn khác nhau” [1; 13]. Trên báo văn nghệ số 35 và 36 (2003) có bài phỏng vấn Mạc Ngôn về tiểu thuyết 41 chuyện tầm phào do dịch giả Trần Sơn dịch, trong bài phỏng vấn nhà văn giới thiệu với độc giả về kết cấu cốt truyện và ảnh hưởng của nông thôn đến tác phẩm, đó là những kinh nghiệm trong thời gian dài ông sống ở nông thôn. Những lời “tự bạch” này đã đem đến cho người đọc cái nhìn đa diện, đa chiều về nhà văn, đồng thời còn hé lộ cho chúng tôi một số yếu tố độc đáo góp phần tạo nên nét văn hóa riêng của Mạc Ngôn. Ngoài ra, một số bài viết như Mạc Ngôn - nhà văn của những người nông dân (Báo điện tử dịch từ Nam Phương báo), Báu vật của đời qua tiết lộ của Mạc Ngôn (Văn nghệ Công an nhân dân, tháng 5/2004). Những tài liệu này đã cung cấp cho chúng tôi những thông tin bổ ích về lập trường sáng tác, quan niệm lịch sử, phong cách dân gian,... của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên nhà văn Mạc Ngôn được làm khách mời của chuyên mục Những nhân vật khai phá của thế kỷ XXI do Đài truyền hình NHK của Nhật phát sóng. Đây là tiết mục chuyên đề về các nhân vật toàn Châu Á, chỉ giới thiệu các nhân tài có triển vọng nhất của khu vực này. Trong cuộc trao đổi văn chương này, Mạc Ngôn tiếp tục hé lộ tình cảm của mình về quê hương, những ảnh hưởng sâu sắc của kí ức tuổi thơ và những hiện thực mà người cầm bút không thể né tránh. Từ đó, Mạc Ngôn khẳng định nhà văn cần phải hướng tới cái mới, cái độc đáo để có thể “ngửi thấy mùi vị mà người khác không ngửi thấy, nghe thấy âm thanh mà người khác không nghe thấy, phát hiện ra những sắc màu phong phú hơn người khác, những nhân tố đó một khi được đưa vào tiểu thuyết thì tiểu thuyết của tôi sẽ khác hẳn người khác” [80, 397]. Như vậy, mảng tài liệu "tự bạch" đã cung cấp cho chúng tôi những thông tin về động cơ sáng tác, lập trường tư tưởng của nhà văn cũng như những ảnh hưởng của các nhà văn phương Tây đều được Mạc Ngôn thổ lộ. Những tư tưởng này sẽ soi sáng nhiều vấn đề, nhiều luận điểm được chúng tôi trình bày trong luận án. Nhóm tài liệu nghiên cứu về Mạc Ngôn Tại Trung Quốc, Mạc Ngôn luôn nhận được những ý kiến nhận xét, đánh giá trái chiều nhau. Nhìn chung, đối với sáng tác Mạc Ngôn giới nghiên cứu Trung Quốc có hai thái độ gần như đối lập nhau. Khẳng định và ca ngợi tài năng Mạc Ngôn Phần lớn các học giả Trung Quốc thuộc khuynh hướng này đánh giá Mạc Ngôn là nhà văn có bút lực mạnh, được tán dương như là nhà văn tiên phong trên con đường đổi mới. Cuốn Phê bình văn học Trung Quốc đương đại (Trần Minh Sơn giới thiệu, tuyển chọn và dịch, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2004), có thể thấy rõ giới phê bình đánh giá cao sáng tác của Mạc Ngôn, họ nhận định sớm muộn Mạc Ngôn sẽ được lọt vào tầm nhìn của Viện Hàn Lâm Văn học Thụy Điển và nhận định này đã thành hiện thực vào năm 2012. Tác phẩm của Mạc Ngôn không khoa trương mà trần trụi chứa đầy “quan điểm thế tục”, “tràn ngập khí huyết và hơi thở của sự sống” [80; 432]. Nhiều quan điểm cho rằng, đọc tác phẩm của Mạc Ngôn người đọc như tìm được con đường để bước vào thế giới văn chương đương đại, để khám phá những chân lý giản đơn nhưng sâu sắc về con người. Dường như mọi mặt, mọi khía cạnh của cuộc sống đều được nhà văn chuyển tải đưa vào thế giới nghệ thuật của mình, làm cho thế giới tiểu thuyết của ông phong phú với những vấn đề “sinh tồn của nhân loại: cái đói, cái rét, tình dục, thù oán, tôn giáo, cái sống, cái chết, mê tín dị đoan, chiến tranh và mang đậm màu sắc nguyên sơ man dại” [43; 182]. Lý Hồng Chân là một trong những nhà nghiên cứu có nhiều công trình nghiên cứu về Mạc Ngôn. Ông đã tốn khá nhiều công sức để chỉ ra hệ thống đặc điểm phong cách riêng của Mạc Ngôn một cách toàn diện. Các nhà nghiên cứu Trình Đức Bồi, Quý Hồng Trân lại chỉ ra góc nhìn niên thiếu và ảnh hưởng của ký ức tuổi thơ tới sáng tác của Mạc Ngôn. Gia Trọng Minh với Lập trường của Mạc Ngôn về nông thôn và ý nghĩa văn học (莫言的乡村立场和文学意义) đã khái quát về những "cách viết, tả về nông thôn, con mắt nhìn nhận nông thôn của Mạc Ngôn và ý nghĩa của nó đối với văn học" [140; 18]. Khổng Tiểu Bân trong Luận về tưởng tượng Trung Quốc trong tiểu thuyết Mạc Ngôn (论莫言小说的中国想象) cho rằng, hình ảnh tưởng tượng về Trung Quốc trong tiểu thuyết Mạc Ngôn có ba khía cạnh quan trọng: "tính lịch sử, tính văn hóa và tính nhân văn"[139; 46-48]. Theo đó, tính chu kỳ của lịch sử, tính văn hóa và nhân tính của con người đã trở thành nội dung chủ yếu để Mạc Ngôn xây dựng nên hình ảnh về Trung Quốc. Tất nhiên, tác giả cũng chỉ ra trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn khi tưởng tượng về Trung Quốc còn thiếu một chút phong phú và tính sâu sắc. Như vậy, ngay chính trên quê hương Trung Quốc Đại Lục, Mạc Ngôn được giới phê bình, nghiên cứu quan tâm và đánh giá từ nhiều khía cạnh. Tại “Diễn đàn của các nhà văn Trung Quốc” - đây là diễn đàn thu hút đông đảo các nhà văn được giới học giả Trung Quốc đánh giá là “xuất sắc” và “vĩ đại”, hầu hết các học giả đều thừa nhận và đánh giá cao tài năng văn chương của Mạc Ngôn. Phê phán, phản đối Mạc Ngôn Bên cạnh những lời tán dương và ghi nhận tài năng Mạc Ngôn cũng tồn tại không ít quan điểm phê bình ông. Người ta cho rằng, bên cạnh những ưu điểm về nội dung và nghệ thuật, tác phẩm của Mạc Ngôn rơi vào hiện tượng sắc dục, tính dục, miêu tả nhiều về sự thèm khát xác thịt. Nhân vật của ông thường “quằn quại trong lửa dục”, “giẫy giụa trong bể tình” như nhân vật Cửu Nhi trong Cao lương đỏ, Tôn Mi Nương trong Đàn hương hình, Kim Một Vú trong Báu vật của đời... Điều này được giải thích là do quan điểm mỹ học của tác giả “có vấn đề”. Trong cuốn Mạc Ngôn nghiên cứu và tư liệu do Dương Dương biên soạn, Nhà xuất bản Nhân dân Thiên Tân ấn hành năm 2005 đã tập hợp những ý kiến đánh giá, phê bình Mạc Ngôn. Trước hết, người ta phê phán Mạc Ngôn chống lại quy phạm truyền thống, đối với cái ác và hành vi bạo lực tác giả khoa trương quá đáng, ngoài ra còn những khuyết điểm như miêu tả không mực thước, nhân vật giả tạo. Nhà phê bình Vương Cán phê phán Mạc Ngôn “vứt bỏ cái đẹp tao nhã, cao thượng mà thay thế bằng cái xấu xa bẩn thỉu” [97; 217]. “Mạc Ngôn quá tự tin vào cảm giác của mình, kết quả là tính xã hội, tính báo chí không sao lấp đầy được sự hư rỗng của nội dung. Để che đậy cảm giác đã mòn, Mạc Ngôn dùng những yếu tố bên ngoài thoát ly bản thể để cấu tạo tiểu thuyết, về mặt ngôn ngữ chơi trò lộng ngôn, khoa ngữ làm cho ngôn ngữ tiểu thuyết bị biến chất, làm mất đi hình thái ngôn ngữ vốn có của tiểu thuyết” [97; 218]. Nhà nghiên cứu Hạ Thiệu Tuấn và Phan Khải Hùng một mặt thừa nhận sức tưởng tượng của Mạc Ngôn, nhưng mặt khác cũng cho thấy dưới sự chỉ đạo của tư tưởng “thiên mã hành không” nên “ngòi bút của ông nhiều khi không giữ được mực thước”, “trước cái ác của kẻ thù, Mạc Ngôn lúc đầu còn tỏ ra căm giận, nhưng sau thì lạnh lùng vô cảm,... đối với cái ác và hành vi bạo lực, tác giả khoa trương quá đáng và tỏ ra thích thú thưởng thức chúng” [97; 219] Ngoài ra, nhà phê bình Lý Kiến Quân trong bài Là voi lớn hay là con trùng giáp đã nhặt ra nhiều “hạt sạn” trong tác phẩm Đàn hương hình như văn ngôn và bạch thoại dùng lẫn lộn, sai ngữ pháp “miêu tả quá khoa trương, không mực thước, nhân vật giả tạo” [97; 221]. Nhà nghiên cứu Vương Kim Thành lại đặt ra vấn đề: “Vì sao một nhà văn quân đội xuất thân từ một gia đình nông dân lại viết ra một tác phẩm dở như vậy?” bởi, toàn bộ cuốn tiểu thuyết Báu vật của đời “xuất hiện nhiều sai lầm và phi lý mù quáng” [97; 223]. Sau đó, nhà nghiên cứu tự trả lời nguyên nhân của cái nhìn này: “Một là, do thành phần xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, ăn chẳng no mặc chẳng ấm. Hai là, do quan niệm sáng tác “thiên mã hành không” tác oai tác quái Ba là, do giới phê bình quá tâng bốc nên làm tăng tính tự cao, tự đại của Mạc Ngôn và rồi không biết lắng nghe ý kiến của ai nữa” [97; 223-225]. Nam Chí Cương lại cho ngôn ngữ tiểu thuyết Mạc Ngôn là thứ ngôn ngữ kỳ quái, là thứ ngôn ngữ phóng đãng và hỗn tạp. Ngoài ra, trong bài viết Một số tranh luận về văn học đương đại Trung Quốc đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, dịch giả Trần Quỳnh Hương đã tổng hợp ý kiến của một số nhà phê bình văn học đương đại Trung Quốc. Trong đó, nhà nghiên cứu Trần Hiểu Minh đề cao Mạc Ngôn cùng Giả Bình Ao trong nền văn học Trung Quốc đương đại. Ngược lại, Tiêu Ưng lại cho rằng nhà văn biến sáng tác thành những trò chơi, “những trò đùa u ám, biến thái”, đi xa hơn nhà nghiên cứu còn nhận định Mạc Ngôn xem sáng tác văn học là “trò đùa”. Có thể nói, các công trình nghiên cứu về Mạc Ngôn ngày càng nhiều và tất nhiên không có dấu hiệu dừng lại. Nhà văn với lối viết độc đáo vẫn luôn là đối tượng của nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về văn học đương đại Trung Quốc. Ninh Minh trong bài viết Đánh giá tình hình nghiên cứu Mạc Ngôn ở nước ngoài (莫言海外研究述评) đăng ở Đại học Sơn Đông đã đánh giá tình hình nghiên cứu Mạc Ngôn như sau: Nhà văn đã dành được nhiều sự quan tâm của các học giả nước ngoài, "cho đến nay, tiểu thuyết Mạc Ngôn đã được dịch và xuất bản ở nhiều nước đặc biệt là Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Việt Nam, Vương quốc Anh và Canada, đã xuất hiện rất nhiều tác phẩm giới thiệu, đánh giá và phê bình văn học về tác phẩm của Mạc Ngôn" [143; 50]. Tại Việt Nam, Mạc Ngôn và tác phẩm của ông ngày càng thu hút nhiều hơn sự quan tâm của độc giả. Theo tác giả Phạm Văn Minh trong bài viết Nghiên cứu và dịch thuật tác phẩm của Mạc Ngôn ở Việt Nam (莫言作品在越南的翻译与研究,山西大学学报) đăng trên Học báo Đại học Sơn Tây (Nhà xuất bản Triết học và Khoa học Xã hội) kỳ 1 số 36 phát hành tháng 1 năm 2013 đã tổng kết một cách khái quát không khí nghiên cứu và tình hình dịch thuật các tác phẩm của Mạc Ngôn hiện nay tại Việt Nam. Từ đó, tác giả đi đến khẳng định: "Tiểu thuyết của Mạc Ngôn ở Việt Nam được dịch ra với tốc độ nhanh chóng và đáng kinh ngạc". Như vậy, đối với các tài liệu nghiên cứu về Mạc Ngôn người đọc dễ dàng nhận thấy các nhà nghiên cứu còn có nhiều ý kiến và quan điểm trái chiều nhau. Điều đó cũng cho thấy góc nhìn nhiều chiều của các nhà nghiên cứu, phê bình Trung Quốc hiện nay. Tuy nhiên, hầu hết đều thừa nhận tài năng của Mạc Ngôn trong nghệ thuật tự sự, ảnh hưởng của quê hương và ký ức tuổi thơ đối với nhà văn. Ở khía cạnh khác, một số nhà nghiên cứu đứng từ góc độ của thi pháp học truyền thống để đánh giá lối viết hiện đại theo kiểu “thiên mã hành không” nên tồn tại không ít quan điểm phê phán Mạc Ngôn, đặc biệt là về ngôn ngữ. Phải chăng, Mạc Ngôn hơi "quá tay" khi sử dụng lớp ngôn ngữ quá tục tĩu hay đó chỉ là những ý kiến phê bình Mạc Ngôn có phần khiên cưỡng, tiêu cực và chưa thỏa đáng? Đây sẽ là những vấn đề chúng tôi tiếp tục tìm hiểu trong Luận án. 1.1.2. Quan điểm của các học giả phương Tây Các học giả phương Tây quan tâm ngày càng nhiều đến văn học Trung Quốc nói chung và tiểu thuyết Mạc Ngôn nói riêng. Đặc biệt, trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu về văn học Trung Quốc được xuất bản ngày càng nhiều thể hiện tình hình nghiên cứu, dịch thuật văn học Trung Quốc ở phương Tây thực sự khởi sắc. Alexander C. Y. Huang, Howard Goldblatt trong bài viết Mạc Ngôn như một nhà hài hước (Mo Yan as Humorist) trên cơ sở tìm hiểu hai cuốn tiểu thuyết Tửu quốc và Sống đọa thác đày, tác giả khẳng định: “Mạc Ngôn đã làm hồi sinh truyền thống hài hước đã bị bỏ quên ở văn học Trung Quốc hiện đại” [151; 32]. Lionel M. Jensen (Editor), Timothy B Weston (Editor) trong cuốn China's Transformations: The Stories beyond the Headlines (2007) lại dành hẳn chương 7 để bàn về văn học Trung Quốc trong đó tác giả đánh giá cao Mạc Ngôn và nhận định nhà văn có nhiều khả năng nhận được giải Nobel. Sau khi được giải Nobel văn học 2012, các cuộc tranh luận về Mạc Ngôn và tác phẩm của ông diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong giới học thuật. Trên tạp chí New York Times, Larry Siems, Jeffrey Yang có bài Các giải thưởng Nobel của Trung Quốc (China’s Nobels), Tatlow, Didi Kirsten với The Writer, the State and the Nobel đi vào tìm hiểu sự độc đáo trong tiểu thuyết Sống đọa thác đày. Từ đó, các công trình đi tới khẳng định, việc Mạc Ngôn giành giải Nobel là hoàn toàn xứng đáng, nó là kết quả của một quá trình không ngừng học hỏi, phấn đấu và vươn lên của nhà văn “chân đất lưng trần”. Luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về Việc tiếp nhận Mạc Ngôn ở Anh và Bắc Mỹ (The Reception of Mo Yan in the British and North American Literary Centers) của Victoria Xiaoyang Liu tại Đại học Stockholm đã nghiên cứu quá trình tiếp nhận Mạc Ngôn tại Anh và Bắc Mỹ. Luận văn lý giải nguồn gốc tâm lý của việc tiếp nhận tác phẩm Mạc Ngôn trong công chúng độc giả, đồng thời khẳng định tác phẩm của Mạc Ngôn được hoan nghênh đón đọc ở nhiều nước trên thế giới. Một số tác giả khác lại đi vào tìm hiểu một tác phẩm tiêu biểu của Mạc Ngôn, từ đó chỉ ra sự độc đáo trong bút pháp và phong cách Mạc Ngôn như Mo Yan’s Life and Death Are Wearing Me Out: A Conceptual Integration Analysis (Sống đọa thác đày của Mạc Ngôn: khái niệm, phân tích, tổng hợp) của Omid Akhavan, Esmaeil Zohdi quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ như một công cụ để sắp xếp, xử lý và truyền đạt thông tin trong tiểu thuyết Sống đọa thác đày. Vẫn tìm hiểu tiểu thuyết Sống đọa thác đày nhưng Spence, Jonathan trong “Born Again” Rev. of Life and Death Are Wearing Me Out by Mo Yan (Bùng nổ trở lại: Sống đọa thác đày của Mạc Ngôn) cho thấy sự độc đáo trong sự sáng tạo người kể chuyện. Yinde Zhang, Jonathan Hall trong The (Bio)political Novel: Some Reflections on "Frogs" by Mo Yan (Tiểu thuyết (địa) chính trị: Một số phản ánh về Ếch của Mạc Ngôn) lại đi vào tìm hiểu tiểu thuyết Ếch dưới cái nhìn chính trị đồng thời cho thấy mối quan hệ giữa tiểu thuyết và chính trị vô cùng phức tạp. Shelley W. Chan trong From Fatherland to Motherland: On Mo Yan's Red Sorghum & Big Breasts and Full Hips lại tìm hiểu ảnh hưởng của quê hương trong các tiểu thuyết Cao lương đỏ và Báu vật của đời. Mo Yan through Western Eyes (Mạc Ngôn trong con mắt phương Tây) của M. Thomas Inge cho thấy cái nhìn của các nhà nghiên cứu phương Tây đối với Mạc Ngôn, đồng thời khẳng định Mạc Ngôn là một nhà văn hấp dẫn ở phương Tây, tác phẩm của ông được nhiều người đón đọc. Qua quá trình tổng quan, tìm hiểu các tài liệu phương Tây nghiên cứu về Mạc Ngôn, chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu về Mạc Ngôn nói chung và tiểu thuyết Mạc Ngôn nói riêng thu hút đông đảo sự tham gia của các nhà khoa học cũng như bạn đọc ở phương Tây. Việc nghiên cứu này có quá trình lâu dài, với nhiều hướng nghiên cứu khác nhau. Các nhà nghiên cứu cũng mở rộng đối tượng khảo sát ra toàn bộ sáng tác Mạc Ngôn, đặc biệt tác phẩm của nhà văn đã được tiếp cận và giải mã ở nhiều hướng mới cả về nội dung và hình thức thể hiện. 1.1.3. Quan điểm của các học giả Việt Nam Tại Việt Nam, kể từ tác phẩm đầu tiên được dịch Cao lương đỏ (2000), đến nay Mạc Ngôn là một cái tên quen thuộc đối với độc giả Việt Nam. Theo đó, những bài viết, những công trình nghiên cứu về Mạc Ngôn và tác phẩm của ông ở Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng và có bề dày, nhiều hướng nghiên cứu được mở rộng từ việc tìm hiểu một khía cạnh đến việc nghiên cứu tổng thể thế giới nghệ thuật trong tác phẩm Mạc Ngôn. Sự chú ý này lúc ồn ào, lúc tĩnh lặng, lúc tán tụng, lúc chê bai, nó tạo nên sự phong phú và đa dạng trong những công trình nghiên cứu về nhà văn. Có thể nói, tiểu thuyết Mạc N...c nhà văn Nhật Bản (như Hayashi và Naruse). Cùng nói về ảnh hưởng của học thuyết Freudianism đến Mạc Ngôn, Ning Wang với bài viết Học thuyết S.Freud và văn học Trung Quốc thế kỷ XX (Freudianism and twentieth-century Chinese literature) in trong cuốn Việc tiếp nhận và dịch thuật học thuyết S.Freud ở Trung Quốc (The Reception and Rendition of Freud in China) đã cho thấy quá trình thâm nhập và ảnh hưởng của các học thuyết phương Tây, trong đó ảnh hưởng của tư tưởng S.Freud là một quá trình lâu dài và phức tạp. Nhờ sự cố gắng của các học giả và dịch giả, học thuyết S.Freud đi vào Trung Quốc có tác động mạnh mẽ đến các nhà văn hiện đại cũng như văn hóa truyền thống nước này. Tác giả bài viết cũng đặt ra câu hỏi đồng thời lý giải nguyên nhân tại sao một xã hội truyền thống lâu đời như Trung Quốc vẫn không thể chống đỡ nỗi ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Wendy Larson trong bài viết Tâm lý học và lý thuyết tính dục của S. Freud trong nửa đầu thế kỷ XX ở Trung Quốc (Psychology and Freudian Sexual Theory in Early 20th Century China) lại quan tâm đến vấn đề tâm lý học và lý thuyết tính dục trong học thuyết của S. Freud. Trên cơ sở xem xét sự ra đời của tâm lý học hiện đại, tác giả tập trung vào các khái niệm vô thức, ham muốn tình dục, đồng thời, bình luận về các tranh luận liên quan đến vấn đề tính dục. Từ đó, cho thấy ảnh hưởng của học thuyết này đến văn học Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XX là rất mạnh mẽ. Các nhà nghiên cứu phương Tây còn có nhiều công trình như sách, báo, luận văn đã đánh giá Mạc Ngôn trên các phương diện sáng tác. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đã đánh giá Mạc Ngôn ở phương diện biểu trưng hóa với bài viết Willam Faulkner and Mo Yan, Zhu Shida đã so sánh điểm giống giữa Willam và Mạc Ngôn trên các phương diện như: Cơ sở văn hóa dân gian, nghệ thuật phá vỡ trật tự không gian và thời gian, sự gia tăng hình ảnh và cảm giác, đặc biệt cả hai ông đều huy động lợi thế từ các chất liệu nông thôn để đưa vào tác phẩm, Qua việc tìm hiểu quan điểm nghiên cứu của các học giả phương Tây, chúng tôi nhận thấy, các nhà nghiên cứu đã đụng chạm đến những khía cạnh liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn như phương pháp sáng tác hiện thực huyền ảo, ảnh hưởng phân tâm học của S. Freud Tuy nhiên, đó mới là những vấn đề văn hóa chung, trong phạm vi tài liệu chúng tôi khảo sát được chưa có công trình nào trực tiếp đề cập đến vấn đề liên văn hóa mà mới đụng chạm đến những khía cạnh khác nhau của liên văn hóa. Tuy nhiên, đây là những tài liệu tham khảo bổ ích giúp chúng tôi trong quá trình triển khai đề tài. 1.3.3. Quan điểm của các học giả Việt Nam Nhìn nhận từ yếu tố hậu hiện đại, các nhà nghiên cứu đề cập nhiều tới ảnh hưởng của văn hóa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Mạc Ngôn trên các phương diện như ẩn ức tính dục, giấc mơ, thủ pháp lạ hóa, đồng thời cũng đánh giá tiểu thuyết Mạc Ngôn ở góc nhìn văn hóa dân gian. Nguyễn Vũ Hoài đi vào Tìm hiểu tiểu thuyết Mạc Ngôn dưới góc nhìn phân tâm học. Tác giả cho thấy, Mạc Ngôn đi sâu phân tích tâm lý con người qua đó phát hiện ra những ẩn ức tính dục thể hiện qua các dạng thức giấc mơ, những nỗi ám ảnh, mặc cảm của nhân vật. Nhờ đó mà đời sống tinh thần của con người được hiện lên với đầy đủ tính phức tạp và phong phú của nó. Một hướng đi khác lại tập trung vào tìm hiểu cái “kỳ” trong tiểu thuyết Mạc Ngôn - một biểu hiện của yếu tố văn hóa hiện đại, như luận văn Cái kỳ trong tiểu thuyết Mạc Ngôn của Võ Nguyễn Bích Duyên, Nghệ thuật trần thuật gắn với thủ pháp lạ hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn (Tạp chí Sông Hương, số 224, năm 2007) của Hoàng Thị Bích Hồng, Điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn của Nguyễn Thị Tịnh Thi, Người kể chuyện trong tiểu thuyết Mạc Ngôn của Bùi Thị Thanh Hương. Qua việc nghiên cứu thủ pháp lạ hóa, các công trình trên đều nhấn mạnh cái “kỳ” ở khía cạnh điểm nhìn hư ảo, điểm nhìn súc vật, cốt truyện mê lộ, nhân vật thần kỳ, Sau đó, đưa ra nhận xét về tính “kỳ” từ góc độ cái mới, cái lạ. Đi vào tìm hiểu yếu tố kỳ ảo trong một tác phẩm cụ thể, học viên Nguyễn Thị Khánh Linh trong Luận văn Yếu tố kỳ ảo trong Báu vật của đời đã tập trung nghiên cứu yếu tố kỳ ảo ở phương diện nhân vật và sự kiện lạ để đi tới khẳng định kỳ ảo chính là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn chính cho toàn bộ câu chuyện. Tác giả cũng chú ý đến biểu tượng bầu vú - biểu tượng bầu trời quê hương đồng thời là biểu tượng của tình mẫu tử. Đặc biệt, Luận văn Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Mạc Ngôn của Trần Viết Hoành đã chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng tới tiểu thuyết Mạc Ngôn bao gồm truyền thống văn hóa, văn học phương Đông với truyền thống hiếu kỳ cùng các dòng tư tưởng Nho, Phật, Lão kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại là những yếu tố hợp thành nét độc đáo trong tác phẩm Mạc Ngôn. Vẫn tiếp cận tác phẩm văn học từ các lý thuyết hậu hiện đại, Nguyễn Thị Hà trong Luận văn Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn đã đưa ra một hệ thống những cơ sở hình thành dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Mạc Ngôn mà cụ thể trong tiểu thuyết Thập tam bộ bằng phương pháp “qua giọt nước thấy trời xanh”. Luận văn cũng phân tích dấu ấn hậu hiện đại thể hiện qua hình tượng nhân vật nghịch dị - mã kép và vấn đề ngôn ngữ “cuồng hoan”. Trong đó, tác giả khẳng định: “Ngôn ngữ cuồng hoan đã phá bỏ trật tự quy phạm thông thường của ngôn ngữ, chỉ ra cho chúng ta thấy được ngôn ngữ văn học không hoàn toàn là hệ thống quy phạm ngữ pháp có sẵn, cố định mà dựa vào cách dùng ngôn ngữ của bản thân mỗi người sáng tác, mỗi nhà văn đã sáng tạo nên thế giới ngôn ngữ của riêng mình” [31; 86]. Luận văn Biểu tượng tiêu biểu trong Báu vật của đời của học viên Trần Thị Ngoan lại được khai thác từ góc độ văn hóa. Từ việc xác định ý nghĩa của các biểu tượng trong nguyên bản đến việc giải mã các biểu tượng trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Mạc Ngôn, người đọc một lần nữa nhận diện rõ thêm về văn hóa Trung Hoa. Theo tác giả, biểu tượng là một dạng ký hiệu ẩn chứa vô vàn ý nghĩa khác nhau. Đi sâu vào giải mã biểu tượng sẽ giúp chúng ta mở rộng tầm nhận thức và khám phá ra những giá trị đích thực của tác phẩm, đồng thời cũng hiểu sâu thêm văn hóa dân tộc. Ba biểu tượng được tập trung nghiên cứu là biểu tượng bầu vú, biểu tượng tô tem, biểu tượng nhà, qua đó người viết khẳng định những biểu tượng này là những bài toán ẩn chứa nhiều đáp số tạo nên nét đặc sắc của tác phẩm. Dưới cái nhìn văn hóa dân gian, Nguyễn Thị Hải Xoan trong luận văn Tiểu thuyết Mạc Ngôn dưới góc nhìn văn hóa dân gian đã nêu bật được những tác động của văn hóa dân gian tới tiểu thuyết Mạc Ngôn như tình cảm, tính cách người nông dân Trung Quốc. Đặc biệt là quê hương Cao Mật - mảnh đất giàu truyền thống văn hóa dân gian có ảnh hưởng không nhỏ tới toàn bộ sáng tác của Mạc Ngôn. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những biểu hiện của chất dân gian trong tiểu thuyết Mạc Ngôn như ngôn ngữ khẩu ngữ, người kể chuyện dân gian,... Một hướng nghiên cứu khác lại đi tìm sự độc đáo trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Mạc Ngôn thông qua phép so sánh như So sánh nghệ thuật trần thuật trong Trăm năm cô đơn và Báu vật của đời của Trần Thị Năm. Trên cơ sở tìm, chỉ ra những điểm gặp gỡ trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết, đặc biệt là nghệ thuật trần thuật, tác giả cũng chỉ ra sự khác biệt trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết của hai nhà văn. Từ đó, thấy được cái nhìn mới, cảm nhận mới của Mạc Ngôn về con người qua nhiều góc độ cuộc sống. Bằng những nghiên cứu của mình, Nguyễn Thị Tịnh Thi trong Tự sự kiểu Mạc Ngôn đã khẳng định nét đặc sắc mới trong nghệ thuật tự sự Mạc Ngôn, đó là sự đan quyện giữa tự sự truyền thống và tự sự hiện đại, đặc biệt là hậu hiện đại. Từ đó, xác định nhà văn này không chỉ “vượt trên dân gian” mà còn vượt trên cả tiểu thuyết tiên phong. Đặc biệt, Phan Thị Tâm Thanh với luận văn thạc sĩ Tiểu thuyết Mạc Ngôn dưới góc nhìn văn hóa đã lý giải văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn trên các phương diện: Văn hóa truyền thống với tiểu thuyết Mạc Ngôn và văn hóa hiện đại với tiểu thuyết Mạc Ngôn. Tuy nhiên, công trình này mới chỉ dẫn ra những biểu hiện của văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại mà chưa có sự lý giải cội nguồn của những yếu tố văn hóa ấy. Nhìn lại quá trình nghiên cứu, giới thiệu Mạc Ngôn trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có thể thấy Mạc Ngôn trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều học giả phương Đông lẫn phương Tây. Từ nhiều điểm nhìn khác nhau, với những quan điểm khác nhau, nhưng về cơ bản các công trình nghiên cứu và các tài liệu “tự bạch” đã bước đầu đưa ra một chân dung khái quát về quan điểm, sự nghiệp sáng tác của Mạc Ngôn. Đối với mảng tài liệu nghiên cứu Mạc Ngôn có đề cập đến văn hóa, các công trình tuy đã đề cập đến nội hàm văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn nhưng mới chỉ dừng lại trên một số phương diện của văn hóa hoặc trong một tác phẩm đơn lẻ. Điều này có thể giải thích bởi sự giới hạn của đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và dung lượng tác phẩm mà tác giả xác định, Việc giải mã văn hóa trong một cấu trúc tổng hòa của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, triết học, ảnh hưởng chi phối đến thế giới nghệ thuật của nhà văn vẫn còn là một vấn đề để ngỏ cần được nghiên cứu. Luận văn Tiểu thuyết Mạc Ngôn dưới góc nhìn văn hóa mặc dù có nội dung gần với vấn đề chúng tôi nghiên cứu, tuy nhiên trong luận văn này chưa có sự tách bạch rõ ràng để nhận diện đâu là nguồn gốc của văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn và các biểu hiện của giá trị văn hóa truyền thống cũng như văn hóa hiện đại trong tiểu thuyết của nhà văn cũng chưa được tìm hiểu đầy đủ. Đồng thời, luận văn này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu đơn thuần về văn hóa mà chưa đề cập đến vấn đề liên văn hóa, cũng như chưa đưa ra cơ sở lý luận sự hình thành trào lưu này trong văn học Trung Quốc nói chung và biểu hiện cụ thể trong tiểu thuyết Mạc Ngôn nói riêng. Mặc dù chưa đề cập đến tiểu thuyết Mạc Ngôn dưới góc nhìn văn hoá như một chỉnh thể hoàn chỉnh, song những nhà nghiên cứu ở mặt này mặt kia đã đạt được những thành tựu to lớn. Họ chỉ ra được những vấn đề cơ bản trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, cũng như những nội hàm văn hoá cơ bản. Đặc biệt, trong các công trình trên đã đề cập đến vấn đề biểu tượng (tuy mới trong khuôn khổ một tác phẩm). Các tác giả cũng đề cập đến nhiều yếu tố, nhiều phương diện từ quan niệm nhân sinh của tác giả, nội dung tư tưởng của tác phẩm cho đến tổ chức nghệ thuật. Ở góc độ nào đó, các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến phương diện văn hoá, nhưng tất cả các công trình trên đề cập đến vấn đề văn hoá vẫn còn lẻ tẻ, rời rạc. Tuy nhiên, đây sẽ là những cơ sở và gợi ý khoa học quan trọng, đồng thời là nguồn tài liệu quý giá để chúng tôi tham khảo khi đi vào triển khai làm rõ vấn đề mình đang quan tâm. Xuất phát từ lý thuyết Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học của nhà nghiên cứu Trần Lê Bảo, chúng tôi sẽ đi vào lý giải và tìm hiểu văn hóa Trung Quốc thông qua một hiện tượng văn học độc đáo - Mạc Ngôn. Bởi, theo tác giả để hiểu được một nền văn hóa “không chỉ là quá trình vận dụng những hiểu biết về ngôn ngữ nước ngoài vốn đã không dễ dàng đối với nhiều người, mà quan trọng hơn là phải hiểu được bối cảnh văn hóa của dân tộc khác, hiểu được những ngữ nghĩa văn hóa dân tộc tiềm ẩn trong vỏ ngôn ngữ của họ, hiểu được những mô thức tư duy, tâm thái văn hóa, những mã văn hóa của cộng đồng khác, thậm chí vô cùng khác lạ với người nghiên cứu. Nói khác đi là muốn hiểu văn hóa nước ngoài không chỉ đơn giản là biết tiếng nước ngoài mà còn cần biết cả nền văn hóa của cộng đồng ấy mới mong hiểu được thấu đáo văn học của họ” [7; 7]. Đồng thời, luận án sẽ đi vào phân tích luận chứng và kiến giải nguồn gốc văn hóa trong sáng tác Mạc Ngôn bằng chính đặc trưng sáng tác, tư duy lý luận và thẩm mỹ của văn hóa truyền thống Trung Quốc kết hợp với cảm quan văn hóa hiện đại của phương Tây. Tiểu kết chương 1: Chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu về Mạc Ngôn nói chung và tiểu thuyết Mạc Ngôn nói riêng thu hút đông đảo sự tham gia của các nhà khoa học và bạn đọc trong, ngoài nước. Việc nghiên cứu này có quá trình lâu dài, đồng thời đã được tiếp cận và giải mã ở nhiều hướng khác nhau cả về nội dung và hình thức thể hiện. Thông qua việc tìm hiểu các tài liệu về tình hình nghiên cứu Mạc Ngôn cả trong nước và nước ngoài, chúng tôi xác định tình hình nghiên cứu Mạc Ngôn chủ yếu tập trung vào những phương diện sau. Thứ nhất, các nhà nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu Mạc Ngôn ở góc độ thi pháp tự sự học. Đây là hướng nghiên cứu rộng thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước như chúng tôi đã trình bày ở phần 1 và 2. Ở hướng nghiên cứu này, hầu hết các công trình đều đi sâu vào tìm hiểu sáng tác của Mạc Ngôn dưới ánh sáng của mầu sắc tự sự dưới nhiều phương diện như: Điểm nhìn tự sự, người kể chuyện, kết cấu, giọng điệu, không gian, thời gian tự sự, nhân vật và đánh giá sự đổi mới sách lược tự sự của Mạc Ngôn là sự đổi mới tiểu thuyết một cách toàn diện và có hiệu quả. Thứ hai, đã có một số công trình nghiên cứu các khía cạnh văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn như nghiên cứu tác phẩm của Mạc Ngôn từ lập trường dân gian, sự ảnh hưởng này chi phối việc nhà văn xây dựng người kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu trong sáng tác. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ kế thừa truyền thống mà luôn có sự đổi mới cách tân, chính vì vậy ông không chỉ trở về mà còn vượt lên trên dân gian. Hướng đi khác lại nghiên cứu sự kế thừa và học tập văn hóa phương Tây của Mạc Ngôn. Do vậy, trong tác phẩm của ông người đọc nhận thấy được sự tiếp nối của mạch nguồn văn hóa truyền thống nhưng cũng nhận thấy sự tiếp biến các giá trị văn hóa, văn học phương Tây trên các phương diện như phân tâm học của S.Freud, hay ảnh hưởng của chủ nghĩa cảm giác mới, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ La Tinh. Thứ ba, các công trình nghiên cứu về văn hóa hầu như mới dừng lại ở việc tìm hiểu, nghiên cứu một khía cạnh của văn hóa trong sáng tác Mạc Ngôn hoặc là yếu tố văn hóa dân gian hoặc ảnh hưởng của các nhà văn nước ngoài đến Mạc Ngôn, đây chỉ là vấn đề văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn mà chưa phải liên văn hóa, nghiên cứu liên văn hóa phải có cái nhìn xâu chuỗi để thấy được sự tiếp thu và ảnh hưởng của văn hóa truyền thống và văn hóa các nước khác đối với nhà văn, đồng thời đó còn là sự đối thoại về văn hóa. Có một số công trình, nhà nghiên cứu đã đụng chạm đến vấn đề liên văn hóa, tuy nhiên chưa gọi tên cụ thể nó là liên văn hóa. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng chưa tìm hiểu khái niệm liên văn hóa từ đó áp dụng vào trường hợp tiểu thuyết Mạc Ngôn. Điều này thực sự lôi cuốn chúng tôi trong quá trình tìm đến với sáng tác của nhà văn. Như vậy, chúng tôi nhận thấy rằng, các công trình nghiên cứu về Mạc Ngôn ở Phương Tây cũng như Trung Quốc rất nhiều, ở Việt Nam số lượng người nghiên cứu cũng không hề ít. Các tác giả cũng đề cập đến nhiều yếu tố, nhiều phương diện của tiểu thuyết Mạc Ngôn, tuy nhiên hầu hết các công trình mới nghiên cứu ở góc độ tự sự. Việc giải mã tiểu thuyết của nhà văn dưới góc độ văn hóa thì chưa nhiều và chưa sâu, đặc biệt là vấn đề liên văn hóa hầu như chưa được đề cập đến hoặc nếu như các nhà nghiên cứu có đề cập đến thì cũng chưa chỉ ra đó là liên văn hóa. Đây vẫn là một nguồn đề tài mới để chúng tôi tìm hiểu. Vậy, thế nào là liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, nó kết nối nhiều phong cách trong một phong cách thống nhất, nhiều con người trong một con người, nhiều giọng điệu ngôn ngữ, biểu tượng khác nhau,... sẽ là những vấn đề chính được trả lời trong các chương tiếp theo của Luận án này. CHƯƠNG 2 CỘI NGUỒN LIÊN VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT MẠC NGÔN 2.1. Mạc Ngôn với liên văn hóa 2.1.1. Vấn đề liên văn hóa trong nghiên cứu văn học Văn học nghệ thuật cùng với triết học, đạo đức, tôn giáo, là những bộ phận hợp thành toàn bộ cấu trúc toàn vẹn của văn hóa. Nếu văn hóa thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới thì văn học chính là phương tiện lưu giữ những hoạt động đó. Nói cách khác, văn học chính là văn hóa lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật. Qua tác phẩm văn học ta thấy hình ảnh của văn hóa qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn. Chẳng hạn, trong thơ Hồ Xuân Hương ta thấy bức tranh văn hóa của nữ sĩ này qua ca dao, tục ngữ. Văn hóa tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn trên mọi bình diện kể cả hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của người đọc. Như vậy, văn học chính là thước đo, là sự kiểm nghiệm về trình độ văn hóa của một xã hội. Trên tinh thần đó, nhìn vào các dữ liệu văn học, người đọc có thể cảm nhận được bức tranh văn hóa của dân tộc ấy. Nếu văn hóa chi phối hoạt động của văn học thì ngược lại, văn học có tác động trở lại văn hóa thông qua những bộ phận hợp thành của nó như ngôn ngữ, biểu tượng, nhân vật, bằng các biện pháp nghệ thuật nhà văn đấu tranh chống lại những hiện tượng phản văn hóa, đồng thời khẳng định những giá trị văn hóa tốt đẹp. Giữa văn học và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ và mật thiết như vậy nên bên cạnh hướng tiếp cận văn học từ xã hội học, thi pháp học, thì cách tiếp cận văn học từ văn hóa giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với các mã văn hóa được bao chứa trong nó. Vì vậy, nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa đang là một xu hướng tất yếu trong văn học thế giới và văn học Việt Nam. Nó mở ra những tiềm năng trong việc nghiên cứu tác phẩm văn học, đưa đến cái nhìn mới và sâu sắc về con người và cuộc sống của nhà văn. Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, cơ hội giao lưu học hỏi, đối thoại lẫn nhau giữa các nền văn hóa trên thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Điều này làm gia tăng nhu cầu giao lưu liên văn hóa giữa các nước và các khu vực trên thế giới. Văn học là một bộ phận của văn hóa vì vậy, xu hướng tiểu thuyết liên văn hóa trong văn học thế giới càng có điều kiện để phát triển. Đặc biệt, nó đáp ứng yêu cầu của thời đại với sự gia tăng các cuộc giao lưu tiếp xúc giữa các quốc gia, các châu lục trên thế giới ở mọi phương diện từ kinh tế, giáo dục, luật pháp, ngoại giao đến văn học nghệ thuật. Với nhu cầu phát triển tất yếu đó, các xu hướng, các trào lưu nghiên cứu văn học liên văn hóa đã ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại. Thuật ngữ liên văn hóa (intercultural) ra đời khoảng những năm 70 của thế kỷ XX. Từ đó đến nay, việc nghiên cứu khái niệm này ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình tìm hiểu các ngành Khoa học xã hội và nhân văn trong đó có văn học. Xu hướng của thời đại là tích hợp liên lĩnh vực trong xu thế đối thoại đa dạng, tương tác và thâm nhập lẫn nhau giữa các sắc thái văn hóa tạo nên sự phong phú về văn hóa trên thế giới. Vậy thế nào là liên văn hóa? Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về liên văn hóa. Dù đứng ở những góc độ khác nhau với mục đích nghiên cứu khác nhau nhưng ta thấy khi nhận định về liên văn hóa, các nhà nghiên cứu cùng chung quan điểm: Liên văn hóa là sự kết hợp, giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng dân tộc khác nhau, với những phương thức sống và nhân sinh quan khác nhau, giữa quá khứ và hiện đại, dân gian và bác học, tính địa phương và phổ quát. Các nền văn hóa trên thế giới hiện nay luôn có hai xu hướng đối lập nhau hoặc là các nền văn hóa ảnh hưởng lẫn nhau, thâm nhập vào nhau theo hướng tiếp biến các giá trị văn hóa hoặc là trong quá trình giao lưu ấy các nền văn hóa bài trừ lẫn nhau, loại bỏ nhau. Liên văn hóa không thể tách rời với giao tiếp (communication), không có giao tiếp thì không có liên văn hóa, chính vì vậy trong tiếng Anh hai thuật ngữ này phải gắn liền với nhau để thể hiện khái niệm liên văn hóa (Intercultural communication). Lauring, Jakob đã định nghĩa: “Giao tiếp liên văn hóa là một hình thức giao tiếp nhằm mục đích chia sẻ thông tin giữa các nền văn hóa khác nhau và các nhóm xã hội. Nó được sử dụng để mô tả các quy trình truyền thông và các vấn đề mà tự nhiên xuất hiện trong một tổ chức hay bối cảnh xã hội gồm các cá nhân có nguồn gốc tôn giáo, xã hội, dân tộc và giáo dục khác nhau”.[162; 233] Tiểu thuyết được xem là thể loại chủ chốt và hàng đầu trong văn học nên nó có thể phản ánh sinh động nhất, đầy đủ nhất hiện thực cuộc sống xã hội đương thời. Đồng thời, đây cũng là thể loại đáp ứng hiệu quả nhất xu hướng liên văn hóa hiện nay. Vì vậy, đối với các nhà văn để thấy được sự tương tác về văn hóa hay nói cách khác là sự giao lưu liên văn hóa giữa các quốc gia trong tác phẩm văn học, cần đặt văn hóa trong thế bình đẳng để so sánh sự giống và khác nhau của mỗi cộng đồng dân tộc, từ đó sẽ nhận ra sự thâm nhập về văn hóa cùng sắc màu đa văn hóa trong mỗi tác giả, tác phẩm. Với cách viết theo xu hướng liên văn hóa, nhiều nhà văn thuộc xu hướng này đã đạt những thành tựu rực rỡ với nhiều giải thưởng lớn như giải Nobel văn học (như Orhan Pamuk - Nobel 2006, JMG. Le Clézio - Nobel 2008, Cao Hành Kiện - Nobel 2000,...). Mặt khác, ở một số nước đa văn hóa, đa chủng tộc thì liên văn hóa là nhu cầu tất yếu. Bửu Nam trong bài viết Toàn cầu hóa và xu hướng tiểu thuyết liên văn hóa trong văn học thế giới đăng trên kỷ yếu hội thảo khoa học Nghiên cứu và dạy học Ngữ văn trong bối cảnh ngày nay tại Đại học Sư phạm Huế, tháng 4/2012 đã khẳng định có một kiểu tiểu thuyết gia liên văn hóa. Đồng thời, ông cũng xác định 5 dạng tiểu thuyết gia liên văn hóa bao gồm: “Dạng tiểu thuyết gia “nhập cư” và “lưu vong”; “Dạng tác giả viết bằng ngôn ngữ tiếng Pháp (francophone) hoặc tiếng Anh (anglophone) không phải ngôn ngữ gốc của mình”; “Dạng tác giả sống và trải nghiệm xuyên qua các quốc gia, các nền văn hóa”; “Dạng tác giả sống trong quốc gia của mình nhưng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa nước ngoài hoặc có ý thức đối thoại với văn hóa nước ngoài”; cuối cùng là “Dạng tác giả thuộc nền văn hóa thiểu số trong xã hội đa chủng tộc, đa văn hóa” [58; 108 - 111]. Đi vào trường hợp nhà văn Mạc Ngôn, người đọc nhận thấy ông có nhiều nét của kiểu tiểu thuyết gia liên văn hóa sống trong quốc gia của mình nhưng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa nước ngoài hoặc có ý thức đối thoại với văn hóa nước ngoài. Bởi, đọc sáng tác của Mạc Ngôn, người đọc nhận ra những trăn trở trong sáng tác của nhà văn, đồng thời cũng nhận ra ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa nước ngoài đối với Mạc Ngôn. Vấn đề này sẽ được chúng tôi tìm hiểu cụ thể trong các chương 3 và 4 của Luận án. Liên văn hóa đang được sử dụng khá rộng rãi và thu hút sự chú ý của các nhà văn Trung Quốc cũng như các nhà văn trên thế giới. Bửu Nam đã đi sâu phân tích một số sắc thái liên văn hóa biểu hiện ở một số tác phẩm cụ thể như: “Tính chất liên văn hóa hay sự đối thoại văn hóa Hồi giáo (Thổ) và Thiên Chúa giáo (Venice, Châu Âu), trong tiểu thuyết “Pháo đài trắng” (The White Castle) của Orhan Pamuk”, “Tính chất liên văn hóa sự đối thoại giữa nền văn hóa Bắc Phi và văn hóa Pháp dưới góc nhìn “hậu thực dân, hậu thuộc địa” trong tiểu thuyết “Sa Mạc” của J.M.G. Le Clézio” và “Tính chất liên văn hóa trong lối viết “liên văn bản” của Michel Tournier trong tiểu thuyết “Vendredi ou les limbes du Pacifique (Thứ Sáu hay vành Thái Bình Dương, 1967) hay là sự đối thoại giữa văn minh Châu Âu và văn minh thổ dân” [58; 111 - 114]. Nhìn chung, các đặc điểm của tính liên văn hóa được thể hiện sinh động, đa dạng trên mọi phương diện tiểu thuyết, qua “thế giới nhân vật hoặc trong từng nhân vật, qua các phương thức tự sự, cách kể, qua cách tổ chức các điểm nhìn và cách tổ chức không - thời gian cũng như kết cấu một cách đa dạng, phong phú” [58; 111]. Vậy, nói tới liên văn hóa là nói tới “các hệ giá trị, lối sống, niềm tin, quan niệm của các nền văn hóa thường đan xen, tương tác, đối thoại lẫn nhau một cách đa dạng” [58; 111]. Như vậy, theo chúng tôi liên văn hóa cũng chính là một hình thức của sự giao lưu và tiếp biến văn hóa. Có thể tìm thấy tính liên văn hóa thể hiện trên nhiều phương diện: Giao lưu văn hóa Đông - Tây, truyền thống - hiện đại, dân gian - bác học, địa phương - phổ quát. Từ việc tìm hiểu khái niệm liên văn hóa, chúng tôi nhận thấy, liên văn hóa trong tiểu thuyết của một nhà văn chính là việc nhà văn vừa kế thừa văn hóa dân tộc vừa tiếp nhận văn hóa bên ngoài để đưa vào trong sáng tác. Thể hiện ở các phương diện nội dung (cốt truyện, tình tiết, sự kiện, nhân vật,) và ở các phương diện nghệ thuật (nghệ thuật xây dựng biểu tượng văn hóa, phương thức tự sự, ngôn ngữ, giọng điệu,). Môi trường văn hóa của chúng ta đang thay đổi nhanh chóng và ngày càng trở nên đa dạng hơn. Tuy nhiên, cần phân biệt giữa liên văn hóa và đa văn hóa. Mặc dù đa văn hóa và liên văn hóa là hai khái niệm có nhiều điểm chung và tương đồng nhưng không đồng nhất với nhau, liên văn hóa là một cấp độ khác của đa văn hóa. Đa văn hóa là một hiện tượng xã hội có từ xa xưa, khi các nền văn hóa tiếp xúc và tiếp biến nhau thì sẽ nảy sinh ra hiện tượng đa văn hóa, đây là khái niệm bắt nguồn từ xã hội đa văn hóa, đa chủng tộc. Nếu như đa văn hóa là sự tiếp xúc của nhiều nền văn hóa thì liên văn hóa không đơn giản chỉ là sự tiếp xúc của nhiều nền văn hóa mà giữa các nền văn hóa còn có sự đối thoại, tương tác nhau. Nói cách khác, liên văn hóa nhấn mạnh đến sự cảm nhận, chọn lọc và tìm tòi tri thức. Như nhà nghiên cứu Trevisani, Daniele nhấn mạnh: “Đa văn hóa là một “hình ảnh tĩnh” miêu tả sự khác biệt trong mô hình giao tiếp qua các nền văn hóa khác nhau, trong khi giao tiếp liên văn hóa là “mô hình tương tác động”, những gì sẽ xảy ra khi mọi người từ ít nhất hai nền văn hóa khác nhau đáp ứng và tương tác, và những gì “kết cấu” được tạo ra từ sự tương tác này”[178; 121]. Từ đó, đi vào trong tác phẩm văn học ta thấy, một nhà văn đa văn hóa là nhà văn tiếp nhận các nền văn hóa khác nhau trên thế giới nên thường yếu tố văn hóa nào cũng có, còn nhà văn liên văn hóa là nhà văn tiếp biến văn hóa của các nền văn hóa khác, tuy nhiên nhà văn luôn tự tìm tòi và cảm nhận tri thức của các cộng đồng dân tộc, quá khứ và hiện tại, khi nhìn bất kỳ một hiện tượng, sự vật nào nhà văn cũng luôn đặt trong sự đối thoại gay gắt để tìm ra điểm độc đáo, nổi bật về mặt văn hóa, từ đó nhào nặn nên thứ văn chương thuộc về mình, mang dấu ấn văn hóa riêng vừa mang tính dân tộc vừa mang tính đại chúng. Hay cũng có thể nói, liên văn hóa là cách nhà văn tiếp thu và chọn lọc tinh hoa của các nền văn hóa, các thời đại khác nhau trong một thế giới đa văn hóa trong xã hội ngày nay. Qua sự soi chiếu tính liên văn hóa vào tiểu thuyết Mạc Ngôn, chúng tôi nhận thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện đại cũng như kỹ thuật tiểu thuyết phương Tây đến nhà văn tương đối mạnh mẽ, nó tạo nên phong cách “tự sự kiểu Mạc Ngôn”. Phong cách ấy, thực chất là sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống Trung Hoa với các yếu tố văn hóa phương Tây, giữa quá khứ và hiện đại. Do đó, nói tới Mạc Ngôn là nói tới thành công của ông trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa truyền thống Trung Hoa và văn hóa phương Tây hiện đại. Từ cách viết này nhiều luồng dư luận đánh giá trái chiều nhau về tác phẩm của nhà văn đã nổ ra, người khen nhiều, người chê cũng không ít. Tuy nhiên, đây là kết quả tất yếu của xu thế đồng sáng tạo trong sáng tác văn học, nghĩa là phải để cho độc giả cảm thấy mình cùng ở vị trí bình đẳng như nhà văn. Liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn thể hiện trên tất cả các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Tuy nhiên, trong phạm vi Luận án chúng tôi tập trung nhận diện tính liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn trên hai phương diện tiêu biểu là sự độc đáo trong biểu tượng và sự đặc sắc về nhân vật. Có thể nói, xu hướng tiểu thuyết liên văn hóa đang trở thành mối quan tâm hàng đầu trong văn học. Xu hướng này mở ra những tiềm năng mới cho việc nghiên cứu văn học, hứa hẹn đem lại cái nhìn sâu sắc hơn, độc đáo hơn, thú vị hơn và mới hơn trong giải mã văn học. 2.1.2. Tiểu thuyết Mạc Ngôn và liên văn hóa Cùng với Giả Bình Ao, Phùng Ký Tài, Vương Mông, Trương Hiền Lượng, Mạc Ngôn được xem là một hiện tượng văn học trên văn đàn Trung Quốc và thế giới. Tiểu thuyết của ông đã vượt ra ngoài đất nước Trung Hoa đến với các nước trên thế giới và thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng và người nghiên cứu. Trong sự nghiệp sáng tác của Mạc Ngôn, tiểu thuyết là thể loại để lại ấn tượng sâu đậm hơn cả, nó làm nên một “hiện tượng” Mạc Ngôn nổi tiếng. Đọc tiểu thuyết Mạc Ngôn người đọc không thể phủ nhận ý thức văn hóa luôn thường trực trong tiểu thuyết của nhà văn Sơn Đông - Cao Mật này. Ông luôn có ý thức huy động vốn văn hóa truyền thống của dân tộc và gắn nó với cái hiện đại mà ông tiếp cận được từ mỹ học phương Tây. Chính vì vậy, dấu ấn của văn hóa Đông - Tây là một đặc điểm nổi bật trong tiểu thuyết của nhà văn. Cũng như các nhà văn khác, lớn lên từ suối nguồn văn hóa dân tộc, tắm trong bầu không khí dân gian, Mạc Ngôn luôn trân trọng những giá trị ấy và tiếp thu để sáng tạo đưa vào văn học. Do vậy, ta bắt gặp trong tiểu thuyết nhà văn những phong tục, tập quán dân gian, những tín ngưỡng dân gian và những học thuyết tư tưởng như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Tìm hiểu Mạc Ngôn, một điều không thể phủ nhận là dấu ấn tuổi thơ in dấu lên từng trang viết của nhà văn. Nỗi ám ảnh về cái đói, về miếng ăn luôn thường trực trong tiểu thuyết, nó phải chăng là sự nhớ lại những trải nghiệm ông từng kinh qua thời thơ ấu. Chính vì vậy, nhà văn từng thừa nhận: “Đói rét và cô đơn là những chủ đề được nói tới nhiều lần trong tiểu thuyết của tôi và cũng chính là hai món tài sản của tôi” [43; 113]. Những nhân vật như La Tiểu Thông với nỗi thèm thịt đến “chảy nước mắt”, hay sự đói khát phải ăn than của những đứa trẻ trong truyện Ếch, chuyện đánh đổi nhân phẩm, danh dự để có miếng ăn trong Báu vật của đời, phải chăng đều có liên hệ với ký ức tuổi thơ nhà văn. Tuy nhiên, Mạc Ngôn không chỉ có một tuổi thơ đầy ám ảnh với “đói khát và cô đơn”. Thuở thiếu thời, tâm hồn Mạc Ngôn còn được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện kể của các thế hệ ông bà, cha mẹ, “đó là những câu chuyện truyền thuyết tôi được nghe kể trong những năm tháng tôi sống và lớn lên ở nông thôn” [43; 114], nó chính là món tài sản quý giá của nhà văn. Những câu chuyện mà Mạc Ngôn gọi là “truyền thuyết cố hương ấy” trở thành mạch ngầm nuôi dưỡng tài năng văn chương của nhà văn và có ảnh hưởng sâu đậm đến sáng tác của ông sau này. Từ góc độ nào đó những “câu chuyện mà thế hệ các ông bà tôi kể cơ bản là ma quỷ..., mặc dù tình yêu, tình dục được nói đến nhiều lần với nhiều cung bậc, sắc thái khác nhau, nhưng ông không nhấn mạnh ham muốn xác thịt đơn thuần của con người mà quan trọng hơn nhà văn muốn thể hiện những khát khao, những nỗi niềm sâu kín đầy chất nhân bản của con người. Khao khát ấy thể hiện ở bản lĩnh dám nghĩ dám làm, phá tung mọi ràng buộc của luân lý xã hội. Chính vì thế, họ trở thành những người làm chủ số phận mình như những cô gái nhà Thượng Quan (Báu vật của đời), Đái Phượng Liên (Cao lương đỏ) đã chớm nở tình yêu với người phu kiệu kể từ khi anh nắm lấy bàn chân nhỏ của bà đẩy vào kiệu. Để rồi, ba ngày sau trên đường trở về nhà thăm cha mẹ, họ đã dành trọn cho nhau cả thể xác và tâm hồn “bà và ông yêu mến nhau trong ruộng Cao lương đang sinh sôi nảy nở” và rồi chính người đàn bà “mặt hoa da phấn ấy” cũng là người đi đầu trong cuộc kháng chiến chống giặc Nhật. Đó là sự trỗi dậy của con người luôn nắm chân lý: “Tôi chỉ làm theo cách nghĩ của tôi, tôi yêu hạnh phúc, tôi yêu sức mạnh, tôi yêu cái đẹp, thân tôi là của tôi, tôi phải làm chủ cuộc đời tôi” [61; 133]. Trong dòng ý thức trên, ta nhận ra tư tưởng giải phóng người phụ nữ trong thời đại mới, dám làm, dám chấp nhận để thay đổi số phận cuộc đời mình - một cảm quan của con người hiện đại. Ở khía cạnh bản năng tính dục, Mạc Ngôn đã thể hiện cái nhìn mới về con người. Từ vấn đề tưởng như đã cũ, nhưng nhà văn đã đụng đến những khía cạnh nóng bỏng nhất của thời đại. Bên cạnh việc đề cao tính dục như một phần bản năng của con người, là sự phản tỉnh về nhân cách của con người trong xã hội hiện đại. Chính vì vậy, S.Freud đã cho rằng tình dục chính là thước đo văn minh của nhân loại về nhân cách con người. Từ sự phân tích tính truyền thống và hiện đại ở nhân vật người phụ nữ trên các phương diện ngoại hình, tâm lý, tính cách, suy nghĩ, hành động, có thể thấy, dạng nhân vật này đã thể hiện rõ tính liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn. Tiểu kết chương 4: Nói tới tính liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn không thể không nói đến thế giới nhân vật. Đó là thế giới của “kỳ nhân” được Mạc Ngôn tạo ra trên cơ sở mỹ học của cái kỳ. Nhưng dù có “kỳ” có “dị” đến mấy thì trong nhân vật đều có sự hợp lưu giữa hai dòng thác văn hóa: Đông và Tây, hai thời đại: truyền thống và hiện đại, hai tư tưởng văn hóa: dân gian và bác học. Cách xây dựng nhân vật, vừa mới lạ vừa đậm chất truyền thống, vừa táo bạo, cách tân vừa thân quen là một cống hiến của phong cách Mạc Ngôn đối với văn học đương đại Trung Quốc. Cũng chính ở đây, người đọc có thể tìm thấy ở tiểu thuyết của Mạc Ngôn những điều mới lạ nhưng cũng rất gần gũi và hấp dẫn. Về mặt xây dựng nhân vật mang tính liên văn hóa, tiểu thuyết Mạc Ngôn không chỉ dừng lại các kiểu nhân vật chúng tôi đã nêu ở trên, mà còn các kiểu, các nhóm và các dạng thức nhân vật khác. Song kiểu nhân vật kỳ tài, nhân vật anh hùng, nhân vật hóa thân, đội lốt và nhân vật người phụ nữ là các dạng nhân vật mà Mạc Ngôn đầu tư công sức và bút lực nhất, đồng thời cũng thể hiện rõ tính liên văn hóa trong tiểu thuyết của nhà văn. Những nhân vật ấy là kết quả quá trình trải nghiệm cuộc sống của nhà văn kết hợp với những sáng tạo độc đáo, biến hóa của Mạc Ngôn trong sáng tác. Thông qua nhân vật, nhà văn đã giúp độc giả tri nhận sâu sắc và lĩnh hội toàn diện những vấn đề liên quan đến xã hội và con người mà ông muốn gửi gắm. Chính vì thế, Mạc Ngôn được xem là “quái tài” của văn học đương đại Trung Quốc. KẾT LUẬN 1. Những kết luận khoa học chủ yếu Trong hành trình sáng tác, Mạc Ngôn luôn ý thức về sự đổi mới, tìm tòi của ngòi bút, chính điều này đã tạo nên những phá cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Qua quá trình tìm hiểu đặc sắc của tiểu thuyết Mạc Ngôn từ góc nhìn liên văn hóa, chúng tôi rút ra một số kết luận ban đầu sau: 1.1. Có lần Mạc Ngôn tự bạch rằng: “Dù làm gì, viết gì thì đều phải có tính sáng tạo đầu tiên và độc nhất. Người khác đã làm rồi thì không thể lặp lại, tốt nhất là viết những gì người khác chưa viết, chưa gặp cũng là cái mà mình chưa sử dụng lần nào. [43; 275]. Với quan điểm đó, trong hành trình sáng tác, Mạc Ngôn luôn bám chặt vào cội nguồn văn hóa dân tộc để trở về và vượt lên trên dân gian nhưng lại luôn bắt kịp tư tưởng thời đại qua việc tiếp biến các giá trị văn hóa nghệ thuật hiện đại trong tác phẩm. Qua tiểu thuyết của Mạc Ngôn ta nhận ra dấu ấn đặc trưng văn hóa Trung Hoa, đồng thời cũng nhận ra hơi hướng của văn hóa các nước phương Tây cũng như các nước trên thế giới, ở đó vừa có yếu tố truyền thống, cổ xưa nhưng cũng không thiếu các nhân tố hiện đại. Tuy nhiên, đó không phải là sự sao chép, bắt chước một cách tùy tiện theo kiểu “tiện đâu làm đó” mà là kết quả của quá trình nhà văn học tập, tiếp thu và gạn lọc những tinh hoa văn hóa của thời đại kết hợp với giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc. Do đó, tác phẩm của ông vừa gần gũi với độc giả phương Đông nhưng cũng không xa lạ với độc giả phương Tây cũng như các nước trên thế giới. 1.2. Mỗi một dân tộc đều có dấu ấn riêng về văn hóa và cái để tạo nên dấu ấn ấy chính là biểu tượng. Trong tiểu thuyết của mình Mạc Ngôn đã xây dựng nên một hệ biểu tượng phong phú với biểu tượng tự nhiên, biểu tượng con người, biểu tượng tôn giáo, biểu tượng phồn thực, Đây là những biểu tượng hàm nghĩa, đó có thể là lớp nghĩa gốc nguyên thủy, có thể là vô vàn những ý nghĩa được nhà văn tạo dựng từ nghĩa gốc, cũng có thể là ý nghĩa mới được người đọc khám phá nằm ngoài chủ ý của tác giả. Tất cả đan xen, hòa quyện với nhau giúp chúng ta nhận diện tính liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn một cách hiệu quả. Mạc Ngôn đã chắt lọc tinh hoa văn hóa phương Tây và văn hóa Trung Hoa để kết tinh thành một thứ văn học “thuộc về tôi”, mà ở đó các giá trị văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại được đẩy lên cao, chúng thẩm thấu hài hòa một cách tự nhiên để tạo nên giá trị trường tồn của sự sống. 1.3. Tìm hiểu tính liên văn hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn không thể không tìm hiểu “mô hình nghệ thuật” đầu tiên của thế giới - đó chính là nhân vật. Mạc Ngôn đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn các yếu tố văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại, văn hóa phương Đông và phương Tây, văn hóa dân gian và bác học để xây dựng nhân vật. Bằng sự kết hợp này, Mạc Ngôn đã xây dựng nên các kiểu nhân vật liên văn hóa: nhân vật kỳ tài, nhân vật anh hùng, nhân vật hóa thân, đội lốt và nhân vật người phụ nữ, qua đó nhà văn chuyển tải những điều mình tâm đắc nhất, những suy ngẫm, trăn trở và trải nghiệm của bản thân vào tác phẩm tạo nên một thế giới nhân vật độc đáo, đa dạng và hàm nghĩa mà không gian, thời gian, sự kiện đều nhuốm màu hư ảo. Từ nhân vật có thể hiểu hơn về một Mạc Ngôn vừa rất dân gian, truyền thống nhưng cũng đầy mới lạ, độc đáo và cách tân. 1.4. Mạc Ngôn là một hiện tượng văn học độc đáo, sự độc đáo ấy thể hiện trước hết ở chỗ ông vẫn bám chặt vào mảnh đất văn hóa Trung Hoa, tiếp thu từ suối nguồn văn hóa dân gian truyền thống để cảm nhận và sáng tạo nghệ thuật, mặt khác ông vẫn luôn bắt kịp tư tưởng thời đại qua việc tiếp thu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ La Tinh, học thuyết phân tâm học của S. Freud, chủ nghĩa cảm giác mới của phương Tây. Mặc dù chịu ảnh hưởng từ bên ngoài, nhưng Mạc Ngôn đã thể hiện phong cách riêng của mình, đó là một chủ nghĩa hiện thực huyền ảo mang đặc trưng Trung Quốc, một tư tưởng về phân tâm học mang đặc tính phồn thực của văn hóa nông nghiệp phương Đông và một chủ nghĩa cảm giác mang đậm dấu ấn của tác giả. Điều này, đã tạo nên sự hòa hợp giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa phương Tây, văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại trên tất cả các phương diện trong tiểu thuyết từ cốt truyện, biểu tượng, nhân vật đến nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết. Chính điều này đã khẳng định đẳng cấp thế giới của tiểu thuyết Mạc Ngôn với một phong cách độc đáo không giống ai kể cả các nhà văn phương Tây lẫn Trung Quốc. 1.5. Nghiên cứu về Mạc Ngôn dưới góc độ liên văn hóa không chỉ giúp khám phá sâu hơn và toàn diện hơn những bí ẩn của nhà văn Trung Quốc, mà còn làm sáng tỏ nhiều vấn đề giao lưu văn hóa trong bối cảnh “thế giới phẳng”, đồng thời góp phần vào việc giảng dạy văn học đương đại Trung Quốc, giúp các nhà văn Việt Nam trao đổi, học hỏi những kinh nghiệm sáng tác văn học để trở thành những hiện tượng văn học độc đáo. 1.6. Mạc Ngôn với trí tưởng tượng phong phú, cách diễn đạt cảm xúc tuyệt vời đã tạo ra những kiệt tác văn học thực sự. Kết quả đã đem lại cho ông nhiều giải thưởng cao quý. Tuy nhiên, Mạc Ngôn không vì thế mà cảm thấy thỏa mãn để rồi tự thỏa hiệp với chính mình, người ta vẫn thấy vượt lên trên hết là một Mạc Ngôn cần mẫn, đam mê, nghiêm túc với công việc. Cuối cùng tôi muốn kết thúc Luận án này bằng câu nói của Mạc Ngôn: "Quên đi tất cả các giải thưởng, là sự lựa chọn cao quý nhất của các nhà văn" [183; 216]. 2. Hướng nghiên cứu tiếp của đề tài 2.1. Liên văn hóa là xu thế của thời đại toàn cầu hóa, là xu hướng của các nhà văn Trung Quốc cũng như các nhà văn trên thế giới. Vì vậy, có thể nghiên cứu tính liên văn hóa qua việc so sánh điểm giống và khác nhau giữa liên văn hóa trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn với các nhà văn Trung Quốc khác, hoặc so sánh tính liên văn hóa của Mạc Ngôn với các nhà văn Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới. 2.2. Liên văn hóa đã có từ lâu trong lịch sử. Vậy điểm khác trong liên văn hóa xưa và nay như thế nào. Có thể tìm hiểu sự khác biệt giữa liên văn hóa trong các nhà văn xưa với liên văn hóa trong các nhà văn hiện nay. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 1. Tạ Thị Thủy, Nguyễn Thị Thu Phương (2011), Thế giới kỳ nhân trong Báu vật của đời của Mạc Ngôn, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5, trang 68 - 74. 2. Tạ Thị Thủy (2014), Tiểu thuyết Mạc Ngôn trong mối quan hệ với văn hóa truyền thống Trung Hoa, Tạp chí Khoa học và giáo dục, Đại học Sư phạm Đà Nẵng, Số 12 (tháng 3), trang 47 - 55. 3. Tạ Thị Thủy (2015), Hướng tiếp cận mới trong xử lý cốt truyện “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn, Tạp chí Giáo dục và xã hội, Số 46 (tháng 1), trang 32 - 35. 4. Tạ Thị Thủy (2015), Sự kết hợp truyền thống và hiện đại trong tiểu thuyết Mạc Ngôn trên phương diện ngôn ngữ tiểu thuyết, Tạp chí Khoa học và giáo dục, Đại học Sư phạm Đà Nẵng, Số 14 (tháng 1), trang 65 - 71. 5. Tạ Thị Thủy (2015), Cái đói trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 6, trang 72 - 80. 6. Tạ Thị Thủy (2015), Giải mã biểu tượng Ếch trong tiểu thuyết Ếch của Mạc Ngôn, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 7, tr. 35 - 37. 7. Tạ Thị Thủy (2015), Sự kết hợp văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại trong tiểu Mạc Ngôn trên phương diện nghệ thuật xây dựng cốt truyện, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 8, tr. 48- 59. 8. Tạ Thị Thủy (2015), Biểu tượng trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 8, tr. 68 - 76. TÀI LIỆU THAM KHẢO A. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT Nhuệ Anh (2006), “Mạc Ngôn: cá tính làm nên số phận”, báo văn nghệ số (15), tr.13. Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn) (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết, Nhà xuất bản Hội nhà văn – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. Đào Tuấn Ảnh (2007), Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam qua so sánh với văn xuôi Nga, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số (12), tr. 39 - 57 Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Bakhtin. M (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội. Barthes R. (2008), Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch), Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Trần Lê Bảo (1998), Tiên thoại – một đặc sản văn hóa Trung Hoa, Tạp chí Văn hóa dân gian, số (3), tr. 67 - 69. Trần Lê Bảo (2006), Thể nghiệm mộng ảo của các tác gia cổ đại Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số (8), tr. 3 -17. Trần Lê Bảo (1991), “Cái kỳ trong tổ chức nghệ thuật Tam Quốc Chí của La Quán Trung”, Tạp chí Văn học, số (3), tr.32 - 46. Trần Lê Bảo (2012), Đặc điểm văn hóa Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (2), tr.41-50. Trần Lê Bảo (2013), Đường lối văn nghệ hiện đại của Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số (8), tr.51-65. Trần Lê Bảo (2014), Giải mã biểu tượng gót sen trong tác phẩm Gót sen ba tấc của Phùng Ký Tài, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số (2), tr. 28-37. Lê Huy Bắc (2006), “Cái kì ảo và văn học huyễn ảo”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số (8), tr. 33 - 44. Lê Huy Bắc, Lê Nguyên Cẩn, Đỗ Hải Phong (2013), Văn học hậu hiện đại lý thuyết và thực tiễn, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Cao Hành Kiện (2006), Kỹ thuật hiện đại và tính dân tộc, Báo Văn nghệ, số 32. Lê Nguyên Cẩn (2006), “Thế giới kỳ ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường từ điểm nhìn văn hoá”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số (8), tr. 24 - 32. Phạm Tú Châu (2003), “Tiểu thuyết tiên phong Trung Quốc ra đời nở rộ và trầm lắng”, Tạp chí Văn học số (12), tr. 41 – 48. Phạm Tú Châu (2003), “Văn học Trung Quốc những năm 90: Tổng thể, phồn vinh, nguy cơ và tiềm ẩn”, Tạp chí Văn học nước ngoài số (3), tr. 223 - 227. Chevalier J, Gheebrant A. (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Phạm Vĩnh Cư, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vĩ dịch, Nguyễn Thị Bình viết lời tựa, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du. Võ Nguyễn Bích Duyên, (2011), Cái kỳ trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Đường Đắc Dương (chủ biên), (2003), Cội nguồn văn hóa Trung Hoa, Nhà xuất bản hội nhà văn. Phạm Đức Dương (2000), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội. Phạm Đức Dương (2007), Việt Nam – Đông Nam Á ngôn ngữ và văn hóa, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. Đặng Anh Đào (2007), Việt Nam và phương Tây - Tiếp nhận và giao thoa trong văn học, Nhà xuất bản giáo dục, Hà nội. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội Erich Fromm (2003), Ngôn ngữ bị lãng quên, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, Hà Nội. Freud S. (2004), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (Đỗ Lai Thúy biên soạn), Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội. Nguyễn Thị Hà (2012), Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn, Luận văn Thạc sĩ, ĐH KHXH &NV Võ Hồng Hà (2002), “Yếu tố kỳ trong Tây Du Ký”, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. Nguyễn Thị Bích Hải (2007), Truyền thống hiếu kỳ trong tiểu thuyết Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số (8), tr.77 – 83. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội. Nguyễn Văn Hạnh (2006), Quan hệ giữa tôn giáo và thơ ca trong thế giới biểu tượng, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số (9), tr 55 – 64. Hồ Sĩ Hiệp (2001), Văn học Trung Quốc năm 2000, Tạp chí Văn học số (2), tr. 37 - 40. Hồ Sĩ Hiệp (2005), “Đọc mốt số tác phẩm văn học đương đại Trung Quốc dịch ra tiếng Việt”, Báo văn nghệ trẻ, số 51. Hồ Sĩ Hiệp (2003), Một số vấn đề văn học Trung Quốc thời kỳ mới, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Vũ Hoài (2010), Giấc mơ trong tiểu thuyết mạc Ngôn, Vương Kiến Huy, Dịch Ngọc Kim (20041), Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội. Trần Quỳnh Hương (2011), Một số tranh luận về văn học đương đại Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số (2), tr 91-105 Khravchenkô M.B (1978), “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học”, Lê Sơn - Nguyễn Minh dịch, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội. Lâm Kiến Phát, Vương Nghiêu (2004), Mạc Ngôn và những lời tự bạch (Nguyễn Thị Thại dịch), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. Huy Liên (2003), Wiliam Faulkner và những sáng tạo nghệ thuật của tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số (10), tr.37 - 44. Nguyễn Thị Mai Liên, (2014), Đặc trưng thi pháp nhân vật trong sử thi Ramayana, Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà Nội. Giáp Thị Liễu (2013), Cái đẹp và cái xấu trong Báu vật của đời của Mạc Ngôn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. Nguyễn Thị Khánh Linh (2007), Yếu tố kỳ ảo trong Báu vật của đời, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. Bùi Thùy Linh (2014), Bầu vú và nguyên lý tính mẫu trong Báu vật của đời, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số (6), tr. 31 - 41. Lê Nguyên Long (2006), Về khái niệm cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo trong nghiên cứu văn học, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số (9), tr. 40 - 54. Phùng Ký Tài (1998), Gót sen ba tấc, (Phạm Tú Châu dịch), Nhà xuất bản Phụ nữ. Lỗ Tấn (1996), Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Luơng Duy Tâm dịch, Nhà xuất bản Văn hoá. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. Phương Lựu (2001), Lý luận và phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội. Phương Lựu (chủ biên), (2004), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. Phương Lựu (2010), Khái quát và tranh luận trực tiếp về văn hóa hậu hiện đại, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số (8), tr. 3 - 16. W. Scott Morton, C.M.Lewis (2008), Lịch sử và văn hóa Trung Quốc, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Bửu Nam (2012), Toàn cầu hóa và xu hướng tiểu thuyết “liên văn hóa” trong văn học thế giới, Kỷ yếu hội thảo khoa học Nghiên cứu và dạy học Ngữ văn trong bối cảnh ngày nay, Đại học Sư phạm Huế. tr. 107-114 Trần Thị Ngoan (2009), Biểu tượng tiêu biểu trong Báu vật của đời, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. Mạc Ngôn (2007 tái bản), Cao Lương Đỏ (Lê Huy Tiêu dịch), Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội. Mạc Ngôn (2001), Báu vật của đời (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh Mạc Ngôn (2003), Cây tỏi nổi giận, (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. Mạc Ngôn (2003), Đàn hương hình (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội. Mạc Ngôn (2003), Rừng xanh lá đỏ, (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản văn học, Hà Nội. Mạc Ngôn (2004), 41 chuyện tầm phào, (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội Mạc Ngôn (2004), Chuyện văn chuyện đời (Nguyễn Thị Thại dịch), Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội. Mạc Ngôn (2004), Tửu Quốc (Trần Đình Hiến dịch), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội. Mạc Ngôn (2007), Thập tam bộ, (Trần Trung Hỷ dịch), Nhà xuất bản Văn nghệ. Mạc Ngôn (2007), Sống đoạ thác đày (Trần Trung Hỷ dịch), Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội. Mạc Ngôn (2010), Ếch (Nguyên Trần dịch), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. Mạc Ngôn (2006), Bảo vệ sự tôn nghiêm của tiểu thuyết dài, (Phan Trọng Hậu dịch), Báo Văn nghệ số 43. Nhiều tác giả (1983; 1984), Từ điển văn học (tập 1; 2), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. Hoàng Phê (chủ biên), (1998), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học. Nguyễn Khắc Phê (2002), “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Mạc Ngôn qua hai tiểu thuyết Báu vật của đời và Đàn hương hình”, Tạp chí Sông Hương, số (12), tr.77 - 81. Nguyễn Khắc Phi, Trương Chính (1987), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học cổ Trung Quốc và văn học Việt Nam qua cái nhìn so sánh, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội. Rjanskaya L.P. (2007), Liên văn bản – sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử và lý thuyết của vấn đề (Ngân xuyên dịch), Tạp chí Nghiên cứu Văn học số (11), tr. 195 - 212. Trần Minh Sơn (Giới thiệu tuyển chọn và dịch) (2004), Phê bình văn học Trung Quốc đương đại, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Diệp Tú Sơn (2004), Mỹ học tiểu thuyết, (Nguyễn Kim Sơn dịch), Tư liệu Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN. Đặng Đức Siêu (2005), Văn hóa Trung Hoa, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. Trần Đình Sử (1996), Tính mơ hồ đa nghĩa của văn học, Tạp chí Văn học, số (1), tr. 31 -35 Trần Quang Thái (2006), Chủ nghĩa hậu hiện đại, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. Cao Nhĩ Thái (1990), Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Trung Quốc đương đại, Tạp chí Văn học, số (6), tr.71- 75. Phan Thị Tâm Thanh (2011), Tiểu thuyết Mạc Ngôn dưới góc nhìn văn hóa, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Huế. Trần Ngọc Thêm (1998), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ chí Minh. Nguyễn Thị Tịnh Thi, (2011), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội. Nguyễn Thị Tịnh Thi, (2013), Tự sự kiểu Mạc Ngôn, Nhà xuất bản văn học, Trung tâm Văn hóa – Ngôn ngữ Đông Tây Nguyễn Thị Tịnh Thi, (2007), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy Ngữ văn, Đại học Sư phạm Huế Trần Nho Thìn (2010), Một vài vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu so sánh văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 1. Lê Huy Tiêu (biên dịch) (1993), Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc, Nhà xuất bản Khoa học xã hôi, Hà Nội. Lê Huy Tiêu (2004), Cảm nhận mới về văn hoá, văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Lê Huy Tiêu (2006), Sự đổi mới thi pháp đương đại Trung Quốc, Tạp chí Văn học nước ngoài số (2), tr. 154 - 162. Lê Huy Tiêu (2008), “Thử phản biện Mạc Ngôn”, Báo Văn nghệ, số (46), tr. 12. Lê Huy Tiêu (2011), Tiểu thuyết Trung Quốc thời kỳ cải cách mở cửa, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Lê Huy Tiêu (2003), “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn”, Tạp chí Văn học nước ngoài, số (4), tr. 16 - 24. Lê Huy Tiêu (2012), “ Con đường Mạc Ngôn đi tới giải Nobel văn học”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số (134), tr. 57-60. Phùng Văn Tửu (2006), “Những hướng đổi mới của văn học kỳ ảo thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số (5), tr. 20 - 25. Tzevan Todorov (2008), Dẫn luận về văn chương kỳ ảo, Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào dịch, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm Hà Nội. Vương Văn Anh (chủ biên) (2005), Văn học hiện đại Trung Quốc nhìn từ Thượng Hải (Phạm Công Đạt dịch), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. Tiền phong, Trần Đăng khoa: Thấy Mạc Ngôn được giải Nobel mà sốt cả ruột! Đang-Khoa-Thay-Mac-Ngon-doat Nobel-ma-sot-ca-ruot-tpp.html B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG TRUNG 程文超,郭冰茹 (主编)(2006), 中国当代小说叙事演变史,中国社会科学出版社。 陈思和 (2002), 莫言近年小说的民间叙述,中国当代文学关键词十讲,上海:复旦大学出版社。 樊保玲 (2003), 现代与传统的纠结:莫言小说叙事分析,硕士学位论文,扬州大学。 洪亮 (2008), 背叛与复归间的彷徨- 从莫言小说的艺术形式其对故乡的复杂心理,硕士学位论文,福建师范大学。 李业根 (2007),莫言小说狂欢化叙事研究,硕士学位论文,南昌大学. 李悔吾 (1997), 中国小说史漫稿,湖北教育出版社。 鎏叶秋,苑育新,许振生 (1992), 成语熟语词典,商务印书馆,北京。 莫言 (2007), 说吧,莫言 -仿伎对话集,广东海天出版社。 莫言,王尧 (2003), 莫言王尧对话录,苏州:苏州大学出版社。 莫言研究会 (2006),“高密莫言研究会” 成立, 莫言的写作风格是什么, 宁宗 (1995), 中国小说学通论,安徽教育出版社。 苏方强 (2005), 民族与超越民族的莫言小说论,硕士学位论文,山东师范大学。 石昌渝 (1994), 小说,中国古代文体丛书,人民文学出版社。 陶文刘(2008),以“丰乳肥臀” 为例论莫言小说对越南文学的影响,硕士学位丈,中山大学。 苏静(2006),“独特的腔调”- 莫言小说创作的叙述学研究,硕士学位论文,山东师范大学。 苏忠钊 (2007), 放逐于美与丑之间 - 莫言小说审美特征论,硕士学位论文,西北师范大学。 王保中 (2008), 莫言小说的魔幻现实主义风格, 硕士学位论文, 河南大学。 王剑引(责任编辑)(1985), 中国成语大辞典,上海辞书出版社。 王娟 (2007), 莫言小说与间叙事 - 从“檀香刑” 到“生死疲劳”看莫言的创作转型,硕士学位论文,苏州大学。 王尧, 林健法 (2003), 对话录, 苏州大学出版社 吴蓓 (2007), 中国式的“狂欢”- 论莫言长篇小说的莫言体特征,学位论文,山东师范大学。 吴超 (2009), 苍白而狂乱 - 莫言长篇历史小说批判,硕士学位论文,西南大学。 严晓蓉 (2004), 莫言小说艺术论,硕士学位论文,浙江师范大学人文学院。 杨杨 (2005), 莫言研究資料, 中国当代作家研究资料丛书, 天津人民出版社。 叶开 (2008), 莫言评传,河南:河南文艺出版社。 徐国兵 (2004), 莫言小说的叙事学价值, 硕士学位论文, 苏州大学。 张爱萍 (2007), 莫言小说语言研究, 硕士学位论文, 安徽大学。 张开艳 (2006), 论莫言小说的狂欢化叙事,广州师范大学。 莫言研究会 (2006), “高密莫言研究会" 成立, 孟文彬 (2012), 齐文化视野的文学创作及其审美风格:张炜与莫言, 文学与艺术研究. 周宾忠 (2006),莫言与福克纳比较研究,博士学位论文,武汉大学. 周红霞 (2003), 90年代后莫言小说论,硕士学位论文,山东师范大学. 吴树新 (2012), 莫言文学创作及其成就的文化解读,渊安徽省社会科学院社会学所,合肥. 范文明 (2013), 莫言作品在越南的翻译与研究, 山西大学学报 (哲学社会科学报)。 孔小彬 (2013), 论莫言小说的中国想象, 上海师范大学 人文与传播学院, 上海. 贺重明(2012), 莫言的乡村立场和文学意义,山东大学文学与新闻传播学院. 栾梅健 (2013), 民间传说-论莫言的文学观, 当代作家评论. 张艳梅 (2013), 历史文化视野中的莫言,山西大学学报(哲学社会科学报. 宁明 (2012), 莫言海外研究述评, 山东大学外国语学院. 赵云洁 (2013), 众声喧哗悲族哀歌-论莫言“檀香刑” 中猫腔的艺术价值,昭通学院学报。 徐露 (2011), “檀香刑”的民间叙事,硕士学位论文,中南大学。 孙荣 (2014), 试析“檀香刑” 中的刑罚文化,阿坝师范高等专科学校,四川 阿坝洲。 杨巍 徐今 (2014), 莫言“檀香刑”与中国式传奇的回归,大连理工大学 辽宁大连。 田文兵 (2012), 个人情感与民族叙事的融合 - 论莫言“丰乳肥臀” 中情书写的文化隐喻,海南师范大学学报(社会科学版)。 浅析莫言《檀香刑》的文化内涵, 解读 思考 莫言, C. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH Alexander C. Y. Huang, Howard Goldblatt (2009), Mo Yan as Humorist, World Literature Today, Vol. 83, No. 4, pp. 32-37. Amor C. Dimaano (2015), The 20th Century World of Mo Yan: A Corpus-Based Approach, Ateneo Chinese Studies Program Lecture Series, No. 2, pp. 32-45. Angelica Duran, Yuhan Huang (2014), Mo Yan in context: Nobel laureate and global storyteller, Purdue University Press. David Der-Wei Wang, Michael Berry (2000), The Literary World of Mo Yan, World Literature Today, Vol. 74, No. 3, pp. 487-494. Duke, Michael (1993), “Past, Present, and Future in Mo Yan’s Fiction of the 1980s”, In: Ellen Widmer, David Der-wei Wang (1993), From May Fourth to June Fourth: Fiction and Film in Twentieth-Century China, Cambridge, Harvard University Press, pp. 295-326. Goldblatt, Howard (2000), Forbidden Food: ‘The Saturnicon’ of Mo Yan, World Literature Today. Vol. 74, No. 3 : 477-485. Haiyan Lee (2009), Mo Yan: Laureate of the 2009 Newman Prize for Chinese Literature, World Literature Today, Vol. 83, No. 4, pp. 25. Howard Goldblatt (2009), Mo Yan's Novels Are Wearing Me out: Nominating Statement for the 2009 Newman Prize, World Literature Today, Published by: University of Oklahoma, Vol. 83, No. 4, pp. 28-29. Janice Wickeri (1993), Explosions and Other Stories by Mo Yan, The Australian Journal of Chinese Affairs, Vol. 29, pp. 195-196. Jonathan Stalling (2012), Mo Yan and the Technicians of Culture, World Literature Today, (October 29, 2012). Larry Siems, Jeffrey Yang. “China’s Nobels.” New York Times 18 Oct. 2012. Lauring, Jakob (2011). "Intercultural Organizational Communication The Social Organizing of Interaction in International Encounters". Journal of Business and Communication 48.3: 231–255. Leach, Jim (2011). The Real Mo Yan . Humanities Vol. 32, No. 1: 11–13. Lionel M. Jensen (Editor), Timothy B Weston (Editor) (2007), China's Transformations: The Stories beyond the Headlines, The University of Chicago Press on behalf of the College of Asia and the Pacific, The Australian National University. Liu Hongtao, Haiyan Lee (2009), Mo Yan's Fiction and the Chinese Nativist Literary Tradition, World Literature Today, Vol. 83, No. 4, pp. 30-31. Mo Yan, Benbiao Yao (2010). A Writer Has a Nationality, but Literature Has No Boundary. Chinese Literature Today,  Published by: University of Oklahoma Vol. 1, No. 1, pp. 22–24. Mo Yan, Noël Dutrait, Tina Frow (2000), The Republic of Wine by Mo Yan: Interview with the author, China Perspectives, No. 29, pp. 57-62. Mo Yan as Storyteller: A Conversation with Chinese writer and Nobel laureate Mo Yan in Dialogue with Ha Jin. (Nov. 17, 2014) Sponsored by the Fairbank Center for Chinese Studies, the CCK Inter- University Center for Sinology, and the Department of East Asian Languages and Civilizations, Harvard University, from: M. Thomas Inge (2000), Mo Yan through Western Eyes, World Literature Today, Vol. 74, No. 3, pp. 501-506. Ning Wang (2013), “Freudianism and twentieth-century Chinese literature”, In: Tao Jiang, Philip J. Ivanhoe (2013), The Reception and Rendition of Freud in China: China’s Freudian Slip, published in the USA and Canada by Routledge. Omid Akhavan (2015), Samsara, Karma, and Self-Enlightenment: A Buddhist Perspective on Mo Yan’s Life and Death Are Wearing Me Out, Studies in Literature and Language, Vol. 10, No. 2, pp. 11-18. Omid Akhavan, Esmaeil Zohdi (2015), Mo Yan’s Life and Death Are Wearing Me Out: A Conceptual Integration Analysis, International Journal of Applied Linguistics & English Literature ,Vol. 4, No. 1, pp. 79-88. Ouyang Yu (2013), Mo Yan, My China, Self-Colonization and Hallucination, Antipodes, Published by: Wayne State University Press, Vol. 27, No. 1, pp. 99-104. Rong Cai (2003), Problematizing the Foreign Other: Mother, Father, and the Bastard in Mo Yan's "Large Breasts and Full Hips", Modern China, Vol. 29, No. 1, pp. 108-137. Rong Cai (2004), "Mirror of the Self:The Foreign Other in Mo Yan’s Large Breasts and Full Hips", In: The Subject in Crisis in Contemporary Chinese Literature, University of Hawai'i Press , pp. 154-178. Shelley W. Chan (2000), From Fatherland to Motherland: On Mo Yan's Red Sorghum & Big Breasts and Full Hips, World Literature Today, Vol. 74, No. 3, pp. 495-500. Spence, Jonathan (2008), “Born Again.” Rev. of Life and Death Are Wearing Me Out by Mo Yan. New York Times, 4 May. Trevisani, Daniele (2005). Negoziazione interculturale. Comunicare oltre le barriere culturali. Translated title: Intercultural Negotiation: Communication Beyond Cultural Barriers, Milan, Franco Angeli Yinde Zhang, Jonathan Hall (2010), The Fiction of Living Beings: Man and Animal in the Work of Mo Yan, China Perspectives, Published by: French Centre for Research on Contemporary China, Vol. 83, No. 3, pp. 124-132. Yinde Zhang, Jonathan Hall (2011), The (Bio)political Novel: Some Reflections on "Frogs" by Mo Yan, China Perspectives, Published by: French Centre for Research on Contemporary China, Vol. 88, No. 4, pp. 53-61. Yomi Braester (2003), The Columbia Companion to Modern East Asian Literature: Mo Yan and red sorghum, Columbia University Press, pp. 541-545. Victoria Xiaoyang Liu (2014), The Reception of Mo Yan in the British and North American Literary Centers, Stockholm University (Master Thesis Literature). Wang Xinyan (2014), García Márquez’s Impact and Mo Yan’s Magical Realism, Studies in Literature and Language, Vol. 9, No. 3, pp. 214-217. Wendy Larson (2013), “Psychology and Freudian Sexual Theory in Early 20th Century China”, In: From Ah Q to Lei Feng, Published by Stanford University Press, e-ISBN: 9780804769822.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_tieu_thuyet_mac_ngon_tu_goc_nhin_lien_van_hoa.doc
  • docBìa + ML.doc
Tài liệu liên quan