Luận án Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ ÁNH VĂN HOÁ KINH DOANH CỦA DOANH NHÂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI - 2017 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ ÁNH VĂN HOÁ KINH DOANH CỦA DOANH NHÂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA HỌC Mã số: 62 31 06 40 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Lê Quý Đức 2. PGS.TS. Nguyễn Thị Hương HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đâ

pdf209 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Tác giả luận án Nguyễn Thị Ánh MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 9 1.2. Lý luận về văn hoá kinh doanh 29 Chương 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX 47 2.1. Khái lược điều kiện hình thành 47 2.2. Quá trình hình thành và hoạt động kinh doanh 56 Chương 3 : NHẬN DIỆN VĂN HOÁ KINH DOANH CỦA TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX 75 3.1. Triết lý - tư tưởng kinh doanh 75 3.2. Giá trị, chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh 83 3.3. Thực hành kinh doanh 91 3.4. Nhân cách doanh nhân 101 3.5. Nhận xét chung về văn hoá kinh doanh của tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX 107 Chương 4: BÀN LUẬN VỀ DOANH NHÂN VÀ VĂN HÓA KINH DOANH VIỆT NAM - TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI 113 4.1. Doanh nhân và văn hóa kinh doanh Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - những bài học cho doanh nhân hiện nay 113 4.2. Vấn đề đặt ra đối với việc kiến tạo văn hoá kinh doanh Việt Nam hiện nay 129 KẾT LUẬN 146 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 149 TÀI LIỆU THAM KHẢO 150 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Trang Bảng 2.1: Hoạt động vận tải bằng tàu thuyền của các thương nhân Việt Nam từ năm 1910 đến năm 1924 70 Bảng 2.2: Tình hình xuất cảng lụa 71 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, những yếu tố văn minh phương Tây và sự xáo trộn về chính trị, văn hoá - xã hội, trong lòng xã hội Việt Nam đã hình thành một lớp người mới - tầng lớp doanh nhân. Bắt đầu từ các chí sĩ yêu nước trong phong trào Duy Tân với Lương Văn Can - “người thầy” đầu tiên của các nhà buôn lúc bấy giờ, tác giả của cuốn giáo khoa “Thương học phương châm”, đến giữa thế kỷ XX, tầng lớp doanh nhân Việt Nam phát triển tương đối mạnh mẽ. Họ đã có những đóng góp cho dân tộc, đặc biệt là khi Cách mạng tháng Tám thành công. Ngay từ những ngày đầu mới giành được độc lập, tầng lớp doanh nhân đã trở thành chỗ dựa cho Chính phủ, là “ân nhân” của cách mạng. Những đóng góp quý báu của doanh nhân nửa đầu thế kỷ XX không chỉ là sự cung cấp nguồn tài chính cho các phong trào vận động cách mạng mà họ còn là những người xây dựng nên văn hoá kinh doanh, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của người Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước mất chủ quyền. Tuy nhiên, trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh và những chính sách sai lầm thời hậu chiến đã kìm hãm sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, làm lu mờ vai trò của doanh nhân Việt Nam. Từ năm 1986, chính sách Đổi mới đã làm thay đổi diện mạo đất nước, đã phát huy được mọi lực lượng, mọi thành phần kinh tế, trong đó có tầng lớp doanh nhân. Sau hơn ba mươi năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ doanh nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, cùng các giai tầng khác góp phần quan trọng trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Tầng lớp doanh nhân Việt Nam - chủ thể của văn hoá kinh doanh có vai trò vô cùng lớn đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Năm 2004, Chính 2 phủ đã ra Quyết định lấy ngày 13 tháng 10 (ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi giới công thương - tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX) là ngày Doanh nhân Việt Nam để tôn vinh những con người đang ngày đêm đóng góp cho nền kinh tế nước nhà. Đó là dấu mốc quan trọng nhắc nhở các doanh nhân Việt Nam nhớ đến vai trò của mình trong quá trình thúc đẩy, phát triển kinh tế xã hội, góp phần xây dựng một nước Việt Nam ngày càng lớn mạnh trong quá trình hội nhập kinh tế, cũng là dịp để các thế hệ doanh nhân ngày nay ôn nhớ về những tấm gương doanh nhân trong lịch sử, thúc đẩy tinh thần kinh doanh trong xã hội. Đối với nước ta hiện nay, để trở thành một quốc gia vững mạnh cần xây dựng một nền văn hoá kinh doanh hiện đại trên cơ sở kế thừa các giá trị văn hoá kinh doanh của dân tộc. Mặt khác, nghiên cứu, xây dựng và phát triển văn hoá kinh doanh hiện đại là một nhiệm vụ trong xây dựng và phát triển văn hoá và con người Việt Nam. Nhằm làm sáng tỏ đặc điểm, nội dung của văn hóa kinh doanh nửa đầu thế kỷ XX, qua đó thấy rõ ý nghĩa của văn hoá kinh doanh thời kỳ này trong việc xây dựng văn hoá kinh doanh ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề “Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ, chuyên ngành Văn hoá học. 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Trên cơ sở tìm hiểu văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, luận án nêu ý nghĩa của văn hóa kinh doanh thời kỳ này và những vấn đề đặt ra cho công cuộc xây dựng văn hoá kinh doanh hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ - Luận án làm rõ khái niệm văn hoá kinh doanh, cơ cấu và vai trò của nó từ phương diện Văn hóa học. 3 - Tìm hiểu hoàn cảnh xuất hiện tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và khái quát về hoạt động kinh doanh của họ. - Làm rõ những nội dung cơ bản, đặc điểm của văn hoá kinh doanh của tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. - Phân tích một số ý nghĩa cơ bản của văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng văn hoá kinh doanh của tầng lớp doanh nhân Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu văn hoá kinh doanh của lớp doanh nhân giai đoạn đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng Tám thành công. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung phân tích văn hóa kinh doanh của tầng lớp doanh nhân Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Để làm rõ văn hoá kinh doanh nửa đầu thế kỷ XX, nghiên cứu sinh cũng tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời và hoạt động kinh doanh của tầng lớp doanh nhân giai đoạn này. Tham chiếu tình hình hiện nay. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận án 4.1. Phương pháp luận 4.1.1. Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng làm nền tảng cho việc nghiên cứu điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội xuất hiện tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và văn hoá kinh doanh của họ. Đặc điểm, vai trò của văn hoá kinh doanh của họ tác động đến đời sống xã hội như thế nào. Văn hoá kinh doanh là một kiểu, một “tiểu văn hoá”, tồn tại trong một môi trường văn hoá nhất định của một thời đại, một cộng đồng cụ thể. Luận 4 án nghiên cứu bối cảnh nửa đầu thế kỷ XX mà lớp doanh nhân tồn tại với những sự kiện, những ảnh hưởng tác động lên nó. Để nghiên cứu bối cảnh ra đời của tầng lớp doanh nhân Việt Nam, tác giả chủ trương mở rộng phạm vi nghiên cứu ra khỏi hoàn cảnh của từng cá nhân đơn lẻ, thay vào đó là việc nghiên cứu, tìm hiểu các tác nhân như sự biến đổi của tình hình thế giới, tác động của nhà cầm quyền Pháp và sự chuyển biến về kinh tế, văn hóa, xã hội giai đoạn này. Đây chính là những yếu tố sẽ giúp giải thích các hành động của chủ thể văn hóa, tránh được cái nhìn phiến diện, chủ quan khi nghiên cứu. 4.1.2. Lý thuyết cộng đồng Lý thuyết cộng đồng của D.W. McMillan và D.M. Chavis tiếp cận từ góc độ tâm lý học được vận dụng trong nhiều nghiên cứu văn hóa học. Hai nhà nghiên cứu cho rằng ý thức cộng đồng dựa trên cơ sở của bốn yếu tố:1) tư cách thành viên, 2) ảnh hưởng, 3) sự hội nhập và sự đáp ứng các yêu cầu, 3) sự gắn bó chia sẻ tình cảm. Cho dù các cộng đồng khác nhau nhưng đều có điểm chung là sức cố kết và bản sắc của cộng đồng. Cũng nghiên cứu văn hóa cộng đồng, nhà nghiên cứu A. Wildavsky tiếp cận văn hóa của các nhóm cộng đồng theo hướng “lựa chọn văn hóa”. Mặc dù đối tượng nghiên cứu của luận án là văn hóa kinh doanh nhưng tác giả cũng đi sâu tìm hiểu cộng đồng doanh nhân Việt Nam giai đoạn 1900-1945 vì họ là chủ thể của nền văn hóa này; trong luận án, tác giả nêu mối quan hệ giữa quy định nội bộ của cộng đồng doanh nhân với sự cố kết, gắn bó làm nên sức mạnh của lớp doanh nhân nửa đầu thế kỷ XX cũng như văn hóa ứng xử của cộng đồng doanh nhân trong quá trình hoạt động kinh doanh. Qua quá trình tìm hiểu đặc điểm doanh nhân Việt Nam với những giá trị nhân cách, bản sắc cộng đồng, tổ chức thiết chế... luận án thể hiện cấu trúc của văn hóa kinh doanh Việt Nam được hình thành trong lòng xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. 5 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, luận án sử dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vừa là cơ sở phương pháp luận vừa là phương pháp nghiên cứu cơ bản và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa. Bên cạnh đó, luận án kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành (hay cách tiếp cận liên ngành), phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp phỏng vấn sâu của xã hội học..., cụ thể như sau; 4.2.1. Phương pháp liên ngành Văn hoá học là bộ môn nằm ở giao điểm của các ngành khoa học xã hội và nhân văn, nói cách khác là một chuyên ngành không chuyên ngành (“non discip linary” discipline). Đó cũng là phương pháp liên ngành/hậu liên ngành. Theo tác giả Trần Ngọc Thêm, văn hoá học là khoa học chuyên sâu đặc biệt. Cái đặc biệt là ở độ bao quát rộng các sự kiện và tính khái quát cao trong yêu cầu khảo cứu (...). Văn hoá học là sự tổng hợp và khái quát hoá thế giới con người về mặt định tính. Vì vậy, không có một khoa học xã hội và nhân văn nào không liên quan đến văn hoá học [xem 96]. Và chính do vậy, như đã nói ở trên, văn hoá học là một ngành khoa học giáp ranh giữa khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Hơn nữa đề tài luận án “Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX” là đề tài nằm trên ranh giới giữa Văn hoá học, Nhân học, Xã hội học, Kinh tế học và Đạo đức học nên việc sử dụng phương pháp liên ngành vào nghiên cứu là rất cần thiết và phù hợp. Nó cho phép sử dụng các khái niệm, phạm trù, các kết quả nghiên cứu của các chuyên ngành trên vào hệ thống, khái quát các vấn đề mà đề tài đặt ra. Sử dụng phương pháp liên ngành vào đề tài luận án còn giúp tác giả khai thác và xử lý hiệu quả các nguồn tư liệu khác nhau trong vấn đề nghiên cứu của đề tài. 6 4.2.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu Phương pháp phân tích được sử dụng để đánh giá, phân loại các loại tài liệu dùng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Sử dụng phương pháp phân tích, để tìm ra đặc điểm văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các tài liệu thứ cấp. Phương pháp tổng hợp sẽ giúp nghiên cứu sinh tìm hiểu nhiều nguồn tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Từ những dữ liệu thu thập được qua quá trình tổng hợp tài liệu, nghiên cứu sinh lựa chọn, phân tích, dựa trên các cơ sở lý luận để đưa ra luận chứng và giải quyết vấn đề. Để phục vụ việc nghiên cứu đề tài của luận án, tác giả đã thu thập, tổng hợp và phân tích hồi cố một số nguồn tài liệu từ Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Viện Thông tin khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Thư viện quốc gia Việt Nam; những đề tài, đề án, các công trình khoa học viết về văn hoá kinh doanh và đặc biệt những tài liệu về các doanh nhân đầu thế kỷ XX và những hoạt động kinh doanh của họ. Từ những tài liệu đơn lẻ về hoạt động của các công ty, những bài viết trên tạp chí, kể cả những bài quảng cáo tiếp thị sản phẩm..., luận án khái quát về quy mô, hoạt động của các tổ chức sản xuất kinh doanh... của doanh nhân nửa đầu thế kỷ XX. 4.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu Trong nghiên cứu khoa học, để thu nhận và xử lý kết quả sát với vấn đề nghiên cứu, đòi hỏi kiến thức chuyên ngành, sự nhạy cảm về mặt tâm lý, sự am hiểu về đối tượng được hỏi... Để có được kết quả sát với yêu cầu của đề tài luận án, tác giả đã phân loại, soạn câu hỏi phỏng vấn phù hợp với từng nhóm đối tượng như sau: - Những nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá, kinh tế. Để tìm hiểu về ý nghĩa, vai trò của tầng lớp doanh nhân đối với dân tộc, đất nước buổi đầu thế kỷ XX, tác giả đã tiến hành phỏng vấn 3 nhà nghiên cứu gồm các nhà sử học 7 và kinh tế học. Nội dung phỏng vấn đi sâu vào những ý kiến nhận xét đánh giá của các chuyên gia về những giá trị trong văn hóa kinh doanh, về sự tồn tại và phát triển tất yếu của doanh nhân giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. - Doanh nhân và hậu duệ của tầng lớp doanh nhân đầu thế kỷ XX . Đây là những nhân chứng sống trực tiếp kinh doanh hoặc là con cháu của gia đình doanh nhân. Để thu nhập các ký ức, các cảm nhận của họ về sự nghiệp kinh doanh và văn hoá kinh doanh của cha ông họ , tác giả đi sâu tìm hiểu truyền thống gia đình, những hình ảnh hoặc câu chuyện về sự nghiệp kinh doanh của doanh nhân. - Một số doanh nhân Việt Nam hiện nay. Đây là thế hệ doanh nhân đang trực tiếp kinh doanh trên thương trường. Tác giả đã tiếp cận 3 doanh nhân, trong đó có doanh nhân là chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ, có doanh nhân là nhà quản lý của tập đoàn kinh tế lớn; qua đó thấy được họ suy nghĩ như thế nào trước các doanh nhân tiền bối, họ học tập được gì ở lớp doanh nhân ấy để xây dựng văn hoá kinh doanh hiện nay. 4.2.4. Phương pháp so sánh và đối chiếu So sánh, đối chiếu là một phương pháp nghiên cứu được dùng trong nhiều ngành khoa học khác nhau, đặc biệt phổ biến trong nghiên cứu nhân học văn hoá, văn hoá dân gian và văn hoá học. Tuỳ vào đặc điểm bản chất của đối tượng nghiên cứu, vào nhiệm vụ nghiên cứu của từng ngành khoa học mà phương pháp này sẽ phát huy vai trò quan trọng. Với luận án nghiên cứu về văn hoá kinh doanh của doanh nhân cách đây gần một thế kỷ, phương pháp so sánh và đối chiếu là một phương pháp thích hợp để tham chiếu điều kiện lịch sử trong hai giai đoạn khác nhau, đặc điểm khác nhau trong văn hoá kinh doanh của từng thời kỳ. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án làm rõ khái niệm văn hoá kinh doanh và vai trò của nó; phân tích đặc điểm văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ 8 XX. Từ đó rút ra những ý nghĩa lịch sử và những vấn đề đặt ra cho doanh nhân Việt Nam trong xây dựng và phát triển văn hoá kinh doanh hiện nay. Luận án có những nhận xét, đánh giá khách quan đặc điểm, giá trị văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Kết quả nghiên cứu của luận án là tư liệu tham khảo cho các nghiên cứu về lịch sử doanh nhân và văn hoá kinh doanh Việt Nam. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án có kết cấu gồm 4 chương, 11 tiết: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và lý luận về văn hóa kinh doanh. Chương 2: Sự hình thành và hoạt động kinh doanh của tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Chương 3: Nhận diện văn hoá kinh doanh của tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Chương 4: Bàn luận về doanh nhân và văn hóa kinh doanh Việt Nam - truyền thống và hiện đại. 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về văn hóa kinh doanh Văn hoá kinh doanh được xem như là một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Cho đến nay vẫn chưa thể khẳng định khái niệm văn hoá kinh doanh đã xuất hiện từ khi nào, song ý niệm về văn hoá kinh doanh đã xuất hiện từ lâu trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Nghiên cứu các tài liệu về văn hoá kinh doanh trong nước và trên thế giới, chúng ta thấy có một số nội dung sau: 1.1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về các yếu tố văn hoá trong kinh doanh xuất hiện khá sớm. Ngay từ thế kỷ XVIII, Adam Smith (1722- 1790), nhà kinh tế học nước Anh đã cho rằng kinh tế không thể vận hành nếu thiếu hiểu biết về vai trò của quan điểm đạo đức. Quan điểm đạo đức được đề cập ở đây chính là một phương diện của văn hoá kinh doanh. Benjamin Franklin (1706-1790), nhà chính trị, nhà khoa học Mỹ gốc Anh đã viết “Hãy nhớ rằng sự tín nhiệm (credit) là tiền bạc”, “Hãy nhớ câu châm ngôn: người trả tiền đàng hoàng là người chủ của túi tiền người khác”, “Anh hãy xuất hiện như một người chu đáo và lương thiện, điều này sẽ làm tăng tín nhiệm của anh” [xem 65,tr.89-90]. Max Werber cho rằng đó là “hình ảnh văn hoá Mỹ” hay “đạo đức kinh tế”. Đây không chỉ đơn giản là “mẹo kinh doanh” - những lời dạy như vậy có rất nhiều - đó là một ethos (thói quen, tập quán hay lối sống) hay “phẩm chất” của người làm kinh doanh. Đây được xem là tinh thần của văn hoá kinh doanh [65, tr.90-91]. Từ những năm 1970, khái niệm đạo đức kinh doanh, một nội dung tương đồng với văn hóa kinh doanh trở nên phổ biến trên các diễn đàn học 10 thuật và các phương tiện truyền thông. Từ những năm 1980, tại các trường đại học ở một số quốc gia, môn học Đạo đức kinh doanh (business ethics) đã được đưa vào chương trình giảng dạy. Tiêu biểu là cuốn “Business Ethics, Ethical Decision making and cases” của O. C. Farrell, J. Fraedrich, L. Farrell [121]. Đây là một trong những tài liệu được sử dụng rộng rãi trong giảng dạy đạo đức kinh doanh tại một số trường đại học trên thế giới. Trong đó, các tác giả trình bày về đạo đức kinh doanh từ góc độ quản lý / tổ chức. Tác phẩm trình bày tổng quan về đạo đức kinh doanh, đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của đạo đức kinh doanh với sự phát triển bền vững trong nền kinh tế toàn cầu và mối quan hệ giữa các bên liên quan, trách nhiệm xã hội và quản trị doanh nghiệp. Tài liệu cũng đưa ra những tình huống cụ thể trong môi trường phức tạp đòi hỏi các nhà quản lý ra quyết định thể hiện trách nhiệm, vai trò của doanh nghiệp với xã hội. Bài viết Business Ethics and Corporate Social Responsibility - Is there a Dividing Line của tác giả Mridula Goel, Preeti E. Ramanathan [119]. Trong đó, các tác giả đã đưa ra khái niệm về đạo đức kinh doanh, các nguyên tắc luân lý và ra quyết định, vấn đề quản trị và quy tắc ứng xử của doanh nghiệp; khẳng định trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) là một yếu tố cấu thành của đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp cần được nhìn nhận trong bối cảnh của một mô hình tổng thể của đạo đức kinh doanh. Bài viết nghiên cứu vai trò của đạo đức và trách nhiệm xã hội chi phối các hoạt động của một công ty và các hệ thống giá trị làm nền tảng cho hoạt động kinh doanh của họ. Ngày nay, các nghiên cứu về văn hóa kinh doanh càng được quan tâm nhiều hơn. Vấn đề văn hoá kinh doanh được nghiên cứu theo hai hướng: thứ nhất, quan niệm văn hoá kinh doanh là văn hoá doanh nghiệp (corporate culture) như Organisational Culture của tác giả Andrew Brown, Culture and Enterprise - development, representation and morality of business của 11 Donlavoie và Emily Chamlee. Nhiều mô hình văn hoá doanh nghiệp được xây dựng như mô hình văn hoá tháp Eiffel, mô hình văn hoá tên lửa dẫn đường... Thứ hai, quan niệm văn hoá kinh doanh là sự hiểu biết phong tục, tập quán kinh doanh, những đặc điểm về văn hóa truyền thống của một quốc gia, dân tộc hoặc khu vực cụ thể như cuốn Business Passport to Japan của tác giả Sue Shinomiya và Brian Szepkouski, Business Culture in Euroque của W. Brierley, et al (2012), hay Managing Cultural Differences, của Robert T. Moran,... Các tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thấu hiểu khi giao tiếp và làm việc với đối tác tại các nước và các nền văn hóa khác nhau trên thế giới để đạt được lợi nhuận tốt nhất và hiệu suất cao nhất. Đặc biệt, cuốn When culture collide - Managing successfully [122] của Richard D. Lewis đã được tái bản nhiều lần, đi sâu tìm hiểu sự đa dạng văn hoá; sự khác biệt về văn hóa trong kinh doanh quốc tế, tác giả nhấn mạnh mỗi quốc gia có những đặc tính văn hóa kinh doanh khác nhau; mỗi nền văn hóa có các tiêu chí đánh giá vì vậy cần tôn trọng văn hoá của các dân tộc khác nhau; phân loại các nền văn hoá và cú sốc văn hoá. Tác giả cũng đề cập đến vấn đề quản lý và lãnh đạo trong các nền văn hóa khác nhau, để giành lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế cần có những ứng xử hợp lý với sự khác biệt về văn hoá; tìm hiểu văn hoá các nước trên thế giới, giới thiệu một số quốc gia trong đó có Việt Nam. Như vậy, các nghiên cứu về văn hoá kinh doanh ở nước ngoài dù được tiếp cận ở các hướng khác nhau nhưng đều nhấn mạnh yếu tố bền vững, nhân văn trong kinh doanh và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội. 1.1.1.2. Nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam, đầu thế kỷ XX, vấn đề “đạo làm giàu”, “thương đức, thương tài”, “giữ chữ tín” đã được đề cập trong nhiều tài liệu như Thương học phương châm của Lương Văn Can [11] cũng như trên rất nhiều bài viết báo chí. Đây được coi là những chuẩn mực trong kinh doanh mà các doanh nhân 12 phải tuân thủ. Tuy nhiên, khái niệm về văn hoá kinh doanh mới chỉ được quan tâm nghiên cứu khi công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng gắn với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu tiên khái niệm văn hoá kinh doanh xuất hiện trong Hội thảo khu vực châu Á - Thái Bình Dương về chủ đề “Văn hoá và kinh doanh” do Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia tổ chức năm 1995. Trong cuốn kỷ yếu đề tài có một số bài đề cập trực tiếp về văn hoá kinh doanh như bài “Văn hoá kinh doanh ở nước ta - thực trạng và giải pháp” của tác giả Đỗ Huy. Theo tác giả Đỗ Huy, “văn hoá kinh doanh là một bộ phận cấu thành nền văn hoá chung, phản ánh trình độ của con người trong lĩnh vực kinh doanh”, “bản chất của văn hoá kinh doanh là làm cho cái lợi gắn chặt chẽ với cái đúng, cái tốt, cái đẹp”. Đây cũng là quan niệm được nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận trong các công trình về lĩnh vực này. Cuối những năm 1990, đầu những năm 2000, văn hoá kinh doanh đã được nghiên cứu và đưa vào giảng dạy tại một số trường đại học kinh tế như: Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Thương mại, Đại học Kinh tế (thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Đại học Ngoại thương... với các nhà nghiên cứu như: Đỗ Minh Cương, Dương Thị Liễu, Phùng Xuân Nhạ, Nguyễn Hoàng Ánh,... Trong số những tài liệu chuyên sâu về văn hóa kinh doanh có cuốn Triết lý kinh doanh với quản lý doanh nghiệp do Nguyễn Thị Doan, Đỗ Minh Cương chủ biên [17]. Các tác giả phân tích và nhấn mạnh vai trò của triết lý kinh doanh trong hoạt động của các doanh nghiệp, có vai trò định hướng, dẫn dắt các hoạt động của chủ thể kinh doanh. Cũng về đề tài này, Đỗ Minh Cương còn biên soạn cuốn sách Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh [15]. Trong cuốn sách, tác giả đã đề cập đến vấn đề văn hoá kinh tế, văn hoá kinh doanh, triết lý kinh doanh, những kiến 13 thức chung về văn hoá và vai trò của văn hoá đối với sự phát triển kinh tế xã hội; nội dung, vai trò của triết lý doanh nghiệp; triết lý kinh doanh Việt Nam. Theo tác giả “Văn hoá kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ” [15,tr.69-70]. Văn hoá kinh doanh của các nhà kinh doanh, doanh nghiệp được nhận biết từ hai phương diện chính: một là các nhân tố văn hoá (hệ giá trị, tâm lý dân tộc, triết lý chung mà chủ thể lựa chọn từ văn hoá dân tộc, tức là lối kinh doanh có văn hoá, kiểu kinh doanh phù hợp với văn hoá các dân tộc; hai là các giá trị, sản phẩm văn hoá như hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng, nghệ thuật mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt động, tức là lối sống có văn hoá của các chủ thể kinh doanh. Tác giả khẳng định văn hóa kinh doanh là một bộ phận của văn hóa kinh tế, “văn hóa kinh doanh Việt Nam chính là kiểu, cách thức làm kinh tế của người Việt Nam khi ta so sánh với kiểu kinh doanh của các dân tộc, quốc gia khác để tìm ra những đặc thù văn hóa có tính bền vững của nó” [15,tr.183]. Văn hóa kinh doanh là một hệ thống với nhiều thành tố khác nhau; cả yếu tố tích cực và tiêu cực, vì vậy, muốn nhận diện đúng về văn hóa kinh doanh Việt Nam cần nhận thức đầy đủ tính hai mặt của nó. Phần triết lý kinh doanh, theo tác giả, đó là những tư tưởng triết học phản ánh thực tiễn kinh doanh thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm và khái quát hoá của các chủ thể kinh doanh. Tác giả cũng trình bày sơ lược về sự hình thành và phát triển triết lý kinh doanh ở nước ta, đặc điểm triết lý kinh doanh Việt Nam trong các thời kỳ. Trong cuốn Giáo trình Đạo đức kinh doanh và văn hóa công ty [84], tác giả Nguyễn Mạnh Quân cho rằng đạo đức kinh doanh gồm những nguyên tắc và chuẩn mực có tác dụng hướng dẫn hành vi trong mối quan hệ kinh doanh; 14 chúng được những người có liên quan (như người đầu tư, khách hàng, người quản lý, người lao động, đại diện cơ quan pháp lý, cộng đồng dân cư, đối tác, đối thủ) sử dụng để phán xét một hành động cụ thể là đúng hay sai, hợp đạo đức hay phi đạo đức [84 tr.18]. Tác giả cũng cho rằng văn hoá công ty hay văn hoá doanh nghiệp cũng chính là văn hoá tổ chức, văn hoá kinh doanh. Văn hoá công ty là một hệ thống các ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo (cách) nhận thức và phương pháp tư duy được mọi thành viên của một tổ chức cùng đồng thuận và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến cách thức hành động của từng thành viên. Văn hoá công ty thể hiện sự đồng thuận về quan điểm, sự thống nhất trong cách tiếp cận và trong hành vi của các thành viên một tổ chức, công ty. Đó là bản sắc riêng hay bản sắc văn hoá của một tổ chức mà mọi người có thể xác định được và thông qua đó có thể nhận ra được quan điểm và triết lý đạo đức của một tổ chức, công ty. Văn hoá kinh doanh là biểu hiện của đạo đức kinh doanh của tổ chức. Như vậy, tác giả đã đồng nhất văn hoá công ty/văn hoá doanh nghiệp với văn hoá tổ chức/văn hoá kinh doanh và văn hoá kinh doanh với đạo đức kinh doanh. Bên cạnh đó, các phân tích còn chưa rõ ràng giữa các khái niệm. Giáo trình văn hóa kinh doanh do Dương Thị Liễu chủ biên [54] là cuốn giáo trình phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy của trường Đại học Kinh tế quốc dân và một số trường đại học kinh tế khác. Trong đó, các tác giả cung cấp kiến thức tổng quan về văn hoá kinh doanh và các yếu tố cấu thành văn hoá kinh doanh; phân tích sự đa dạng, phong phú của văn hoá kinh doanh Việt Nam và quốc tế; giới thiệu một số tình huống trong văn hoá kinh doanh. Tác giả đưa ra khái niệm văn hoá kinh doanh theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hoá kinh doanh là toàn bộ các giá trị vật chất và các giá trị tinh thần do chủ thể kinh doanh sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động kinh doanh, trong sự tương tác giữa chủ thể kinh doanh với môi trường 15 kinh doanh [54, tr.43]. Theo nghĩa hẹp, văn hoá kinh doanh là một hệ thống các giá trị, các chuẩn mực, các khái niệm và hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, được thể hiện trong cách ứng xử của họ với xã hội, tự nhiên ở một cộng đồng hay một khu vực [54,tr.43]. Văn hoá kinh doanh là toàn bộ các giá trị văn hoá được chủ thể kinh doanh sử dụng và tạo ra trong hoạt động kinh doanh tạo nên bản sắc kinh doanh của chủ thể đó. Văn hoá kinh doanh là làm cho cái lợi gắn bó với cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Theo các tác giả, văn hoá kinh doanh được cấu thành bởi các yếu tố chính là triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn hoá doanh nhân, văn hoá doanh nghiệp và văn hoá ứng xử trong hoạt động kinh doanh. Nhận diện văn hoá kinh doanh của Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử, tác giả dành ra gần chục trang khái quát về văn hoá kinh doanh thời kỳ Pháp thuộc với hai tấm gương doanh nhân tiêu biểu là Lương Văn Can và Bạch Thái Bưởi. Có thể nói, đây là một trong những tài liệu rất có giá trị, nghiên cứu chuyên sâu về văn hoá kinh doanh và là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho những người quan tâm về lĩnh vực này. Trong tài liệu Nhân cách doanh nhân và văn hoá kinh doanh ở Việt Nam trong thời kì đổi mới, hội nhập quốc tế [75], các tác giả Phùng Xuân Nhạ, Dương Thị Liễu, Đỗ Minh Cương trình bày khái niệm, cấu trúc của nhân cách doanh nhân, văn hoá doanh nhân và khẳng định nhân cách doanh nhân, văn hoá doanh nhân chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là yếu tố thể chế kinh tế, môi trường kinh doanh. Theo các tác giả “Nhân cách doanh nhân Việt Nam là tổng hoà các yếu tố hợp thành mẫu hình con người doanh nhân Việt Nam bao gồm đức, tài, phong cách, thể chất, sự cống hiến và phát triển... có đặc điểm tâm lý và bản sắc riêng so với cộng đồng và tầng lớp khác trong xã hội nước ta cũng như so với doanh nhân các nước khác” [75, tr.18]. 16 Cấu trúc của nhân cách doanh nhân gồm: đức, trí, thể, lợi, trong đó yếu tố lợi vừa là mục tiêu, vừa là động lực tạo nên thành công của doanh nhân, trí là yếu tố tiền đề, thể là yếu tố “giá đỡ”, đức là yếu tố quan trọng nhưng cũng là điểm yếu của doanh nhân Việt Nam. Từ nghiên cứu về văn hoá và giá trị văn hoá, các tác giả đưa ra định nghĩa “văn hoá kinh doanh là một hệ thống các giá trị, chuẩn mực, quan niệm và hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, được thể hiện trong cách ứng xử của họ với xã hội - tự nhiên ở một cộng đồng hay khu vực nào đó” [75,tr.42]. Văn hoá kinh doanh bao gồm văn hoá doanh nghiệp, văn hoá trong tiêu dùng, văn hoá trong đàm phán kinh doanh, văn hoá trong marketin... động sản xuất hay cung ứng dịch vụ, nhằm không ngừng tạo ra giá trị thặng dư, làm gia tăng tài sản cho doanh nghiệp, tức là góp phần vào sự tăng trưởng sản phẩm xã hội. Hoạt động kinh doanh của doanh nhân diễn ra trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường trong xã hội công nghiệp hiện đại. Như vậy, hiểu theo nghĩa hẹp, doanh nhân là khái niệm chỉ những người đứng đầu các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, có khả năng lãnh đạo, quản lý và tham gia lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp và đại diện cho doanh nghiệp trước pháp luật. Hiểu theo nghĩa rộng thì doanh nhân là những người trong cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (tư nhân, quốc doanh, liên doanh với nước ngoài); họ có thể là chủ sở hữu (hay tham gia sở hữu) sản xuất, phân phối (hay tham gia phân phối) sản phẩm lao động [xem 19, tr. 15] Trong luận án, tác giả sử dụng cách hiểu khái niệm doanh nhân theo nghĩa rộng. Doanh nhân là người trong tổ chức quản lý doanh nghiệp, người kết hợp sử dụng nguồn vốn (con người, tài chính, nguồn lực vật chất) nhằm làm cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Như vậy, doanh nhân không chỉ dùng để chỉ người sáng lập, chủ sở hữu hoặc cổ đông chính của một doanh nghiệp, mà còn để chỉ một thành viên cấp cao, những CEO quản lý tức là những người được thuê để quản lý, điều hành doanh nghiệp. 1.2.1.3. Khái niệm văn hoá kinh doanh Văn hoá kinh doanh là một phạm trù rất rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực gắn với văn hoá của nhân loại nói chung và mỗi cộng đồng, quốc gia, dân tộc nói riêng nên có nhiều quan niệm (cách hiểu) khác nhau. 33 Như đã trình bày ở trên, đến tận những năm 1990, nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam mới bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu về văn hoá kinh doanh. Sau khi vận hành cơ chế kinh tế thị trường, nền kinh tế xã hội Việt Nam đã thay đổi cơ bản diện mạo. Sau rất nhiều năm tư tưởng tư hữu của con người bị chế ngự nay đã được bung ra, khơi gợi cho những ý tưởng sáng tạo cũng như là bàn đạp cho những nỗi lực không ngừng của con người trong lao động sản xuất. Nhiều doanh nghiệp, doanh nhân ra đời với mong muốn làm giàu cho bản thân và cho ước vọng xây dựng đất nước “công bằng, dân chủ, văn minh”. Tuy nhiên, bản chất của con người là ham lợi. Trong kinh doanh, lợi nhuận là mục đích có thể làm cho người kinh doanh phải bỏ ra bao trí tuệ và công sức, thậm chí bất chấp tất cả để giành lấy. Chính sự xuống cấp của đạo đức kinh doanh đã đặt ra những lo ngại cho toàn xã hội và đặt ra cho các nhà khoa học vấn đề cần nghiên cứu và giải quyết. Vấn đề văn hoá kinh doanh bắt đầu được đề cập như là chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh là “kinh doanh có văn hoá” hay “Làm cho cái lợi gắn bó chặt chẽ với cái đúng” [xem 30]. Ở đây, văn hoá được hiểu như là “cái đúng”, “cái thiện”. Như vậy, phổ biến nhất là quan niệm đồng nhất văn hóa kinh doanh là đạo đức kinh doanh [84, đã dẫn]. Đáng chú ý, một số nhà nghiên cứu chuyên sâu về văn hoá kinh doanh như Dương Thị Liễu, Đỗ Minh Cương, Phùng Xuân Nhạ đều thống nhất cho rằng Văn hoá kinh doanh là toàn bộ giá trị vật chất và giá trị tinh thần do chủ thể kinh doanh sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động kinh doanh. Khái niệm này trở thành công cụ nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học về văn hóa kinh doanh. Như vậy, các quan niệm đều có sự nhấn mạnh đến tính văn hoá (thuộc tính văn hoá trong kinh doanh như: tri thức, đạo đức, nghệ thuật, cách thức kinh doanh) hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ, ích. Đồng thời chỉ rõ các yếu tố văn hoá mà chủ thể kinh doanh tiếp thu được hoặc sáng tạo ra trong quá trình kinh doanh. Có thể nói rằng, các quan niệm trên đều đúng khi nhìn 34 văn hoá kinh doanh ở những góc độ khác nhau. Song chúng chỉ dừng lại ở mức độ quan niệm mà thôi, chưa phải là một định nghĩa có tầm bao quát nội hàm và ngoại diên của khái niệm văn hoá kinh doanh một cách khái quát. Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài của luận án, tác giả cho rằng văn hoá kinh doanh cần được định nghĩa bằng một khái niệm lột tả được bản chất của nó. Vận dụng phương pháp định nghĩa khái niệm và ý kiến của các nhà nghiên cứu nước ta, dưới góc độ văn hoá học, nghiên cứu sinh đưa ra một định nghĩa về khái niệm văn hoá kinh doanh sau đây: Văn hoá kinh doanh là một bộ phận của văn hoá kinh tế nằm trong tổng thể của một nền văn hóa, bao gồm toàn bộ hoạt động kinh doanh có sự thẩm thấu các thuộc tính, đặc trưng, trình độ văn hoá mà chủ thể kinh doanh (doanh nhân của một cộng đồng) tiếp thu và sáng tạo nên, biểu hiện ra như một kiểu, dạng hay nền văn hoá kinh doanh nhất định. Phân tích định nghĩa này cho thấy, nó đã chỉ rõ nội hàm và ngoại diên của khái niệm văn hoá kinh doanh mà các quan niệm của các nhà nghiên cứu nước ta ít nhiều đã đề cập đến. Về nội hàm: Văn hoá kinh doanh chính là thuộc tính văn hoá hay “cái văn hoá” thẩm thấu vào toàn bộ nền kinh doanh (trong đó có những đặc trưng văn hoá dân tộc và đặc tính văn hoá do doanh nhân sáng tạo ra). Về ngoại diên: Văn hoá kinh doanh là văn hoá của nhóm xã hội đặc thù (doanh nhân) là một bộ phận của văn hoá cộng đồng biểu hiện ra như một kiểu, dạng, nền văn hoá kinh doanh nhất định. Văn hoá kinh doanh không chỉ bó hẹp trong phạm vi doanh nghiệp mà có ảnh hưởng đến mọi thành viên trong xã hội. Văn hóa kinh doanh phản ánh đặc trưng của nền văn hoá của mỗi cộng đồng dân tộc. Nói cách khác, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc đều có một văn hoá kinh doanh với những đặc trưng khác nhau. Thậm chí, ở mỗi giai đoạn, văn hoá kinh doanh của mỗi dân tộc 35 cũng có những đặc điểm khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội của cộng đồng. 1.2.2. Cơ cấu của Văn hoá kinh doanh Do có nhiều quan niệm về văn hoá kinh doanh nên cũng có nhiều cách khái quát (cách chia) cơ cấu của văn hoá kinh doanh khác nhau. Trong luận án, tác giả cũng dựa vào cách chia cơ cấu văn hoá kinh doanh của các nhà khoa học đi trước và trên cơ sở định nghĩa văn hoá kinh doanh để phân chia lại cơ cấu văn hoá kinh doanh với mong muốn sắp xếp các yếu tố của nó theo một cấu trúc thích hợp nhất và làm cơ sở cho việc khảo sát vấn đề của đề tài. Theo tác giả Hoàng Vinh, văn hoá kinh doanh gồm có cơ cấu 5 thành tố như một hệ thống xã hội. Đó là đạo lý kinh doanh trong văn hoá kinh doanh; Định hướng giá trị kinh doanh (xây dựng tinh thần doanh nghiệp hướng vào “làm giàu” cho tập thể trong đó có lợi ích của cá nhân); Hệ thống biểu hiện trong hoạt động kinh doanh (bao gồm logo, trang phục, nghi thức thương hiệu,...) Hệ thống công nghệ trong hoạt động kinh doanh (bao gồm phương hướng, công nghệ, thông tin, năng lực quản lý, tổ chức... doanh nghiệp) và Hệ thống nhân cách chủ thể kinh doanh (bao gồm phẩm chất quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, linh hoạt, thích ứng, đổi mới, năng lực tổ chức, sử dụng nguồn lực...) Một số nhà nghiên cứu như Dương Thị Liễu, Đỗ Minh Cương, Nguyễn Ngọc Anh,... cũng đều thống nhất cho rằng văn hoá kinh doanh có cơ cấu gồm 5 thành tố. Đó là Triết lý kinh doanh, Đạo đức kinh doanh, Văn hoá doanh nhân, Văn hoá doanh nghiệp, Văn hoá ứng xử trong hoạt động kinh doanh. Trong đó, triết lý kinh doanh là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng, dẫn dắt hoạt động kinh doanh; đạo đức kinh doanh tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh giá hành vi của người kinh doanh; văn hoá doanh nhân là văn hoá của người làm kinh doanh bao gồm năng lực kinh doanh (tài lực, trí lực, thể lực), trình độ quản lý kinh doanh và các năng 36 lực khác; văn hoá doanh nghiệp là tổng hợp các giá trị, các biểu trưng huyền thoại, nghi thức, điều cấm kỵ, các quan điểm triết học, đạo đức tạo thành nền tảng duy nhất đối với một tổ chức doanh nghiệp và văn hóa ứng xử bao gồm toàn bộ hành vi của cá nhân và cộng đồng trong quan hệ của doanh nghiệp thẩm thấu thuộc tính văn hóa; biểu hiện rõ rệt nhất trong bộ quy tắc ứng xử của doanh nghiệp. Tuy cách hiểu cơ cấu của văn hoá kinh doanh như trên có tầm bao quát tất cả các yếu tố có liên quan đến hoạt động kinh doanh, song không khỏi ôm đồm và lẫn lộn giữa các khái niệm: Văn hoá kinh doanh là văn hoá hoạt động, văn hoá hành vi của chủ thể (doanh nhân) trong hoạt động kinh doanh; văn hoá doanh nghiệp là văn hoá tổ chức doanh nghiệp (tập hợp các thành viên của doanh nghiệp để sản xuất, kinh doanh, bao gồm chủ doanh nghiệp và cán bộ, nhân viên...); văn hoá doanh nhân là văn hoá nhân cách của các cá nhân doanh nhân. Ba loại hình văn hoá này là khác nhau mặc dù chúng có quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau, biểu hiện qua nhau, song không thể đồng nhất với nhau, lẫn nhau như cơ cấu mà các tác giả trên nêu ra. Do đó, luận án kế thừa các nghiên cứu của các tác giả đi trước và đưa ra một cơ cấu của Văn hoá kinh doanh, nhìn từ đặc trưng văn hoá hoạt động của nhóm cộng đồng đặc thù (nhóm doanh nhân) với các thành tố cơ bản sau. Thứ nhất là hệ thống triết lý - tư tưởng kinh doanh; Thứ hai là hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh; Thứ ba là hệ thống thực hành (công nghệ) kinh doanh; Thứ tư là hệ thống nhân cách doanh nhân ; Thứ năm là hệ thống những yếu tố ngoại hiện của văn hoá kinh doanh Đây là cách chia mang tính hệ thống ước lệ để NCS thao tác trong quá trình nghiên cứu đặc điểm, đặc trưng của văn hóa kinh doanh bởi các thành tố này đều có sự giao thoa, cái này biểu hiện qua cái kia và ngược lại. 37 Xem sơ đồ sau: Sau đây xin giải thích rõ nội dung các thành tố của Văn hoá kinh doanh: * Hệ thống triết lý - tư tưởng về kinh doanh Triết lý là những tư tưởng có tính triết học được rút ra từ thực tiễn đời sống xã hội và trên cơ sở thế giới quan, nhân sinh quan định hướng cho hoạt động của con người. Triết lý kinh doanh là những tư tưởng có tính triết học phản ảnh thực tiễn kinh doanh của các chủ thể kinh doanh được rút ra qua sự trải nghiệm, suy ngẫm của họ [54, tr.77]. Triết lý kinh doanh là những nguyên tắc cơ bản nhất của hoạt động kinh doanh gắn với đạo lý - quan hệ người - người trước lợi ích kinh tế (kinh doanh vì cái gì? Vì lợi ích của ai?). Những tư tưởng cốt lõi này trong văn hóa kinh doanh có vai trò định hướng, dẫn dắt hoạt động kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Tư tưởng kinh doanh là những lý thuyết về kinh doanh mang tính lý luận và kinh nghiệm kinh doanh nhằm chỉ ra các mục tiêu kinh doanh và các cách thực hành kinh doanh khác nhau nhằm đạt được mục tiêu của người làm Hệ thống triết lý - tư tưởng kinh doanh Hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh Hệ thống thực hành (công nghệ) kinh doanh Hệ thống nhân cách doanh nhân Hệ thống những yếu tố ngoại hiện 38 kinh doanh. Tư tưởng kinh doanh là sự cụ thể hoá các triết lý kinh doanh thông qua một hệ thống quan điểm lý luận của các trường phái kinh doanh hay các nhà lý luận kinh tế khác nhau. * Hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh (bao gồm giá trị, chuẩn mực đạo đức, pháp luật, kinh tế, kỹ thuật và trách nhiệm xã hội, trước hết là giá trị, chuẩn mực đạo đức kinh doanh là một bộ phận của giá trị, chuẩn mực đạo đức xã hội thuộc lĩnh vực kinh doanh (đạo đức nghề nghiệp - nghề kinh doanh) bao gồm các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của chủ thể kinh doanh. Bản chất đạo đức kinh doanh là giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong kinh doanh giữa người kinh doanh với người tiêu dùng, bạn hàng, xã hội (lợi ích được hiểu một cách đúng đắn là toàn bộ cơ sở của đạo đức trong kinh doanh), chúng có vai trò điều chỉnh hành vi và đánh giá phẩm chất của người kinh doanh. Đạo đức kinh doanh bao gồm những chuẩn mực như trung thực, giữ chữ tín với khách hàng và bạn hàng và đặc biệt là đảm bảo nguyên tắc trách nhiệm xã hội. Trách nhiệm xã hội của doanh nhân, doanh nghiệp là cam kết và thực hiện sự phục vụ xã hội, phục vụ cộng đồng, vì sự phồn vinh của cộng đồng. Giá trị chuẩn mực pháp luật là những giá trị, chuẩn mực bảo đảm cho doanh nhân hoạt động đúng những yêu cầu pháp lý mà nhà nước đặt ra, tôn trọng lợi ích chung của cộng đồng, nhà nước,... và cả lợi ích của doanh nhân, doanh nghiệp. Nếu triết lý kinh doanh có vai trò định hướng hoạt động của doanh nhân và doanh nghiệp thì chuẩn mực đạo đức, pháp luật... kinh doanh là sự cụ thể hóa định hướng đó. Giá trị, chuẩn mực, đạo đức, pháp luật kinh doanh điều chỉnh hành của các chủ thể kinh doanh, là chất keo gắn kết các nhà kinh doanh trong các cộng đồng doanh nhân và các doanh nghiệp, là điều kiện gây tin tưởng và sự ủng hộ của người tiêu dùng. Chỉ cần một biểu hiện vi phạm giá trị, chuẩn mực đạo đức kinh doanh hay vi phạm các quy định pháp luật kinh doanh lập tức gây nên sự 39 nghi kỵ, cản trở sự phát triển, thậm chí có thể làm tan rã một tổ chức kinh doanh. Bởi vậy, xây dựng ý thức về đạo đức, pháp luật kinh doanh chính là tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh, là nguồn lực to lớn giúp cho doanh nhân, doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận, đồng thời đóng góp cho sự phát triển của cộng đồng và xã hội. Giá trị chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh là yếu tố vô cùng quan trọng. Lợi nhuận là kết quả của hoạt động kinh doanh, là giá trị cơ bản của kinh doanh, còn chuẩn mực đạo đức không chỉ đem lại lợi ích vật chất mà còn đem lại lợi ích tinh thần cho người kinh doanh. Nó không chỉ là cơ sở tồn tại của doanh nghiệp, doanh nhân mà còn vì sự tồn tại và phát triển của cộng đồng xã hội. * Hệ thống thực hành (công nghệ) kinh doanh (năng lực chủ thể, các thể chế, thiết chế, tổ chức kinh doanh). Khi nói đến năng lực chủ thể kinh doanh là nói đến trình độ, kỹ năng hoạt động của họ, cái thuộc về năng lực sáng tạo của nhà doanh nhân, đó là một thuộc tính văn hóa. Để tạo nên năng lực hoạt động của một doanh nhân, doanh nghiệp, người ta phải tích lũy và sáng tạo các tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, nghệ thuật kinh doanh, nghệ thuật ứng xử trong và ngoài doanh nghiệp hay còn gọi là năng lực lãnh đạo, quản lý của doanh nhân. Tri thức của doanh nhân được đúc kết từ kinh nghiệm, hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người. Trong thực tế, những doanh nhân thành công không phải chỉ học được các tri thức kinh doanh tại các trường, lớp (nhà trường) mà họ còn tích luỹ được qua hoạt động thực tiễn (trường đời). Để hoạt động kinh doanh có được thành công, doanh nhân phải có đầu óc tổ chức lãnh đạo, quản lý khoa học. Đây chính là một trong những yếu tố có vai trò then chốt. Kỹ năng và nghệ thuật hoạt động của doanh nhân và doanh nghiệp là khả năng tổ chức và thực hành hoạt động trở nên thuần thục, nhạy bén linh hoạt đến mức điêu luyện và tinh nhạy. Đó là khả năng giải quyết các vấn đề nảy sinh mới, thỏa thuận trong các cuộc đàm phán... để nhanh chóng đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời. 40 Cách thức hoạt động kinh doanh là hành vi thực tiễn của doanh nhân và doanh nghiệp, biến các nguồn lực (vật chất và tinh thần) thành sản phẩm của doanh nghiệp, đem lại lợi ích cho doanh nghiệp, thể hiện rõ nhất trí tuệ, tầm vóc của doanh nhân, Cách thức tổ chức hội đoàn doanh nhân và bộ máy doanh nghiệp là một yếu tố của văn hóa kinh doanh. Hội đoàn doanh nhân được thành lập trên cơ sở kết hợp của nhiều doanh nhân với các tiêu chí nghề nghiệp, lứa tuổi, địa phương... nhằm kết nối giữa các doanh nhân, bảo vệ lợi ích cho các doanh nhân. Mỗi hội đoàn doanh nhân có những thể chế, mục tiêu khác nhau nhưng về cơ bản là thông tin trong cộng đồng, bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động kinh doanh, sẻ chia và đóng góp cho cộng đồng. Trong hoạt động thực hành kinh doanh của doanh nhân phải thông qua các doanh nghiệp, các công ty nên việc tổ chức các doanh nghiệp, công ty và vận hành chúng như thế nào là yếu tố quan trọng của việc thực hành kinh doanh. Do vậy, việc xây dựng các doanh nghiệp thành một thiết chế kinh doanh với những quy tắc vận hành, ứng xử của nó là những nội dung quan trọng của văn hoá kinh doanh. * Hệ thống nhân cách doanh nhân Nhân cách doanh nhân hay tổng thể phẩm chất năng lực của doanh nhân trong lĩnh vực kinh doanh là mẫu hình con người doanh nhân với những đặc điểm tâm lý và bản sắc riêng, cái phân biệt với các cộng đồng, tầng lớp khác trong xã hội cũng như cộng đồng doanh nhân các dân tộc khác. Hệ thống nhân cách doanh nhân bao gồm nhân cách của những doanh nhân tiêu biểu, thành đạt và mẫu mực trong tầng lớp doanh nhân của một cộng đồng, dân tộc và thời đại. Khi nói đến một nền văn hoá kinh doanh không thể không nhắc đến các doanh nhân tiêu biểu của nó. Đây là những nhân cách đại diện và kết tinh các phẩm chất, tài năng và những đóng góp cho nền kinh tế của cộng đồng và các lĩnh vực khác. Các nhân cách đó nêu tấm gương cho cộng đồng, 41 xã hội noi theo. Họ có sức hấp dẫn, tập hợp và lôi kéo các thành viên của cộng đồng, xã hội trong lĩnh vực kinh doanh. Hệ thống nhân cách doanh nhân còn giữ vai trò cốt yếu ngoại hiện của nền văn hoá kinh doanh. Lớp doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX với rất nhiều nhân cách tiêu biểu mà đề tài luận án sẽ nghiên cứu. * Hệ thống yếu tố ngoại hiện của văn hoá kinh doanh Hệ thống các yếu tố ngoại hiện của văn hóa kinh doanh là những sự vật, hiện tượng,... hiện ra bên ngoài và người ta dễ quan sát được, cảm nhận được; chúng biểu đạt cái bên trong một nền văn hóa kinh doanh của doanh nhân, doanh nghiệp. Yếu tố ngoại hiện bao gồm bộ phận các doanh nhân tiêu biểu và yếu tố trực quan hữu hình của doanh nghiệp. Những yếu tố trực quan hữu hình của doanh nghiệp như biểu tượng (logo, trụ sở, hình ảnh); những yếu tố vô hình như: nghi lễ (kỷ niệm, đại hội...), ngôn ngữ (khẩu hiệu, bài hát, giai thoại...). Đó là những thứ làm nên hình ảnh trực quan của tổ chức doanh nhân, doanh nghiệp là những điều dễ nhìn thấy của văn hóa kinh doanh. Trong 5 yếu tố trên của văn hóa kinh doanh, mỗi yếu tố đóng vai trò khác nhau nhưng có liên hệ mật thiết lẫn nhau, mang đặc trưng của văn hóa cộng đồng một thời đại nhất định. 2.1.3. Mối quan hệ giữa văn hoá kinh doanh với môi trường kinh tế xã hội 2.1.3.1. Văn hoá kinh doanh chịu sự tác động của môi trường kinh tế xã hội Văn hoá kinh doanh là một thành tố của nền văn hoá dân tộc. Cũng như thành tố khác của nền văn hoá dân tộc, văn hoá kinh doanh luôn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố, trong từng giai đoạn, từng thời điểm. Nhìn chung, quá trình hình thành và phát triển, văn hoá kinh doanh chịu sự tác động của một số yếu tố cơ bản sau: * Môi trường các thể chế xã hội Văn hoá kinh doanh được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, vì vậy, cũng chịu sự quy định của các thể chế như thể thế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế văn hoá. 42 Hoạt động kinh doanh là một trong những dạng hoạt động vật chất của con người. Mỗi doanh nhân, doanh nghiệp đều phải tiến hành kinh doanh trong một môi trường cụ thể, một quốc gia cụ thể vì vậy, họ phải thực hiện mọi quy định, thủ tục, nguyên tắc của pháp luật, chịu sự giám sát của nhà nước đó. Bên cạnh đó, doanh nhân là những người trực tiếp tổ chức sản xuất, phân phối sản phẩm, lưu thông hàng hoá... làm cho dòng chảy kinh tế luôn thông suốt. Trong quá trình làm ra của cải vật chất cho toàn xã hội, họ là những người thường xuyên “va chạm”, tiếp xúc với chính quyền và chịu ảnh hưởng trực tiếp và nhanh nhất các thay đổi về chủ trương, chính sách kinh tế của nhà nước. Vì vậy, nếu thể chế và bộ máy công quyền minh bạch, trong sạch sẽ góp phần quan trọng trong việc tạo niềm tin nơi doanh nhân, thúc đẩy văn hoá kinh doanh ngày càng phát triển. Thể chế có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển văn hoá kinh doanh bởi vì “thể chế nào, doanh nhân ấy” [Phụ lục 2, STT 3]. Trong một nhà nước pháp quyền, thể chế phản ánh những quy tắc, quy định nhằm quản lý xã hội và các thành phần kinh tế. Thể chế có thể khuyến khích, thúc đẩy hoạt động kinh doanh, ngược lại có thể kìm hãm sự sáng tạo của doanh nhân, làm suy giảm sức mạnh của cả một thế hệ. Thực tế cho thấy, thể chế nhà nước có thể kìm hãm hoặc xoá bỏ thành phần kinh tế tư nhân, dẫn đến sự vắng bóng gần như hoàn toàn của một tầng lớp ưu tú của dân tộc trong vài thập kỷ. Ngược lại, nếu nhà nước có thể chế đúng đắn, minh bạch, nhất quán, công bằng, hợp lòng dân sẽ có sức mạnh khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực trong nhân dân, kích thích sức sáng tạo cá nhân và làm thay đổi vận mệnh đất nước. Tóm lại thể chế nhà nước là yếu tố quyết định sự cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo cho đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội được thực thi, tạo điều kiện phát triển văn hoá kinh doanh. * Môi trường văn hoá xã hội Nền văn hoá kinh doanh được định hình trong một môi trường văn hoá xã hội cụ thể. Môi trường đó gồm các yếu tố như hệ giá trị, tập tục, lối sống, 43 tư tưởng, tôn giáo tín ngưỡng... Cũng có thể nói, đó là truyền thống dân tộc được hun đúc qua thời gian, được các doanh nhân - chủ nhân của văn hoá kinh doanh thẩm thấu qua quá trình sinh sống, học tập, lao động, giao tiếp trong xã hội. Những yếu tố này làm nên đặc trưng của văn hoá kinh doanh từng dân tộc. Ví dụ: tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản, tinh thần hy sinh trung thành của người Nhật phản ánh vô cùng rõ rệt trong tư tưởng trung thành với công ty. Xã hội Nhật Bản đề cao chữ tín (high trust society) thể hiện sâu sắc trong tính kỷ luật trong lao động, chữ tín trong từng sản phẩm họ. Trong xã hội hiện đại, môi trường văn hoá tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc đến văn hoá kinh doanh. Một xã hội được xây dựng từ niềm tin và lòng tự trọng sẽ hình thành nên văn hoá kinh doanh trọng chữ tín. Ngược lại nếu môi trường văn hoá xã hội không ổn định, tiêu cực sẽ có ảnh hưởng xấu đến văn hoá kinh doanh. Vì vậy, xây dựng môi trường văn hóa tổng thể có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiến tạo văn hóa kinh doanh. * Môi trường toàn cầu hoá kinh tế và giao lưu văn hoá Nhân loại đã trải qua nhiều lần toàn cầu hoá với các mức độ phạm vi khác nhau như: quá trình toàn cầu hoá bắt nguồn từ những phát kiến địa lý thế kỷ XV-XVI do các nước phương Tây tiến hành hay sự xâm lược các nước châu Á, châu Phi với mục đích mở rộng thị trường của các nước thực dân và đế quốc thế kỷ XIX. Quá trình toàn cầu hoá diễn ra, kể cả tiến hành bằng các cuộc chiến tranh đều dẫn đến sự giao lưu văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, quá trình toàn cầu hoá được mở rộng về cả quy mô và tốc độ nhanh chưa từng thấy và không một quốc gia nào có thể đứng ngoài xu thế đó. Văn hóa kinh doanh là một thành tố của văn hóa dân tộc, vì vậy cũng chịu ảnh hưởng của quy luật giao lưu và tiếp biến văn hóa. Có thể thấy rằng, toàn cầu hoá dẫn đến sự giao thoa giữa các nền văn hoá và ảnh hưởng đến văn hoá kinh doanh của từng quốc gia, dân tộc. Ngày nay văn hoá kinh doanh và 44 văn hoá tiêu dùng len lỏi đến cả các làng quê. Quan trọng hơn cả là sự mở rộng của các tập đoàn, công ty đa quốc gia, các công ty đầu tư nước ngoài đã mang theo những giá trị văn hoá kinh doanh đòi hỏi doanh nhân phải tìm hiểu và thích ứng, từ đó bồi đắp thêm giá trị văn hoá kinh doanh dân tộc. 2.1.3.2. Vai trò của văn hoá kinh doanh với sự phát triển kinh tế - xã hội * Văn hoá kinh doanh giữ vai trò cơ sở tinh thần của hoạt động kinh doanh Văn hóa kinh doanh là cơ sở tinh thần (nền tảng) của hoạt động kinh doanh, định hướng và điều tiết hoạt động kinh doanh. Bản chất hoạt động của con người không chỉ là mong muốn được đáp ứng các nhu cầu cơ bản ăn - ở - mặc mà còn luôn khao khát vươn lên những giá trị chân- thiện - mỹ. Văn hóa kinh doanh hướng các doanh nhân và cộng đồng doanh nghiệp vào các hoạt động vì con người, vì sự phát triển của cộng đồng xã hội. Thông qua triết lý kinh doanh, văn hóa kinh doanh định hướng cho mọi hoạt động của doanh nghiệp tới những mục tiêu kinh doanh đúng đắn. Với mỗi quốc gia, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực là những yếu tố thúc đẩy nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó các giá trị tinh thần cũng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Giá trị văn hóa dân tộc nói chung và Văn hóa kinh doanh nói riêng giúp các doanh nhân, doanh nghiệp đoàn kết, là sức mạnh vô hình trong việc cố kết cộng đồng doanh nhân. Bên cạnh đó văn hóa kinh doanh còn cung cấp cho doanh nhân những tri thức, kinh nghiệm, trình độ, kỹ năng, nghệ thuật kinh doanh để kinh doanh có hiệu quả. Văn hóa kinh doanh chính là yếu tố cốt lõi thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc in đậm trong từng doanh nghiệp và thế hệ doanh nhân trong từng giai đoạn của lịch sử. * Tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững Văn hóa kinh doanh giữ vai trò cơ sở nền tảng tinh thần của hoạt động kinh doanh đồng thời còn là nguồn lực cho hoạt động kinh doanh phát triển. Với hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức, pháp luật, văn hóa kinh doanh giúp cho việc điều chỉnh lợi ích của cá nhân trong các doanh nghiệp và trong xã hội . 45 Với hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức, tuân thủ pháp luật, văn hoá kinh doanh giúp cho việc ngăn ngừa những hành vi vi phạm đạo đức kinh doanh, khuyến khích chủ thể kinh doanh thực hiện trách nhiệm xã hội. Văn hóa kinh doanh đem lại sự hài lòng cho doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội tạo nên động cơ tích cực cho mọi người phấn đấu thúc đẩy hoạt động kinh doanh, sản xuất, tiêu dùng xã hội theo hướng lành mạnh, bền vững. Kinh tế thị trường phát triển bền vững là tiền đề có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển xã hội, con người bền vững, an sinh, lành mạnh. * Tạo điều kiện hội nhập quốc tế Văn hóa kinh doanh thúc đẩy hoạt động giao thương quốc tế, góp phần vào việc bảo đảm chất lượng sản phẩm hàng hóa; trao đổi, buôn bán đúng với những giao kèo (chữ tín), tôn trọng khách hàng làm cho giao thương ngày càng phát triển. Không phải ngẫu nhiên, các tài liệu về văn hoá kinh doanh tại các quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,... được xuất bản ngày càng nhiều. Đây là những tài liệu phục vụ cho các chuyên ngành Quan hệ kinh tế quốc tế, các nhà doanh nhân trong quá trình hợp tác kinh tế. Việc tìm hiểu về đặc điểm văn hoá kinh doanh của các nước giúp cho các bên đối tác nhanh chóng tìm được tiếng nói chung, thuận lợi hơn trong hợp tác phát triển vì vậy cũng thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. Như đã trình bày ở trên, văn hóa kinh doanh góp phần phát triển kinh tế theo hướng bền vững. Đồng thời, đội ngũ doanh nhân với phẩm chất, trí tuệ và sự nhiệt huyết luôn là tiếng nói quan trọng tham mưu cho nhà nước trong quá trình cải thiện môi trường kinh tế - xã hội, cũng là môi trường đầu tư, tạo sự hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Trên đây là những vấn đề chung về văn hóa kinh doanh. Những vấn đề cụ thể trong các yếu tố khác của văn hóa kinh doanh của tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX sẽ được nghiên cứu ở chương sau. 46 Tiểu kết chương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài cho thấy, trên thế giới, đạo đức kinh doanh, một yếu tố cốt lõi của văn hoá kinh doanh được nghiên cứu từ khá sớm. Tại nhiều trường đại học kinh tế trên thế giới, môn học Đạo đức kinh doanh được giảng dạy phổ biến. Những tài liệu về đạo đức kinh doanh, văn hoá doanh nghiệp được giới thiệu nhằm giúp các doanh nhân thấu hiểu đặc điểm văn hoá kinh doanh của các quốc gia khác nhau, giúp các doanh nhân thành công trong hợp tác kinh tế quốc tế. Ở Việt Nam, nghiên cứu về văn hoá kinh doanh chỉ thực sự được quan tâm nhiều sau đổi mới (1986). Với nền kinh tế nhiều thành phần, doanh nhân giữ vai trò quan trọng, nghiên cứu về văn hoá kinh doanh cũng ngày càng xuất hiện nhiều. Tuy nhiên, các tài liệu về văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX còn thiếu vắng, sự phân tích đánh giá văn hoá kinh doanh của họ còn sơ lược. Đây chính là những vấn đề nghiên cứu sinh có nhiệm vụ làm sáng tỏ trong nội dung của Luận án. Kế thừa những kết quả nghiên cứu cùng các khái niệm về doanh nhân, kinh doanh, văn hoá kinh doanh, luận án đã bổ sung thêm một vấn đề lý luận về các khái niệm liên quan, đặc biệt là khái niệm văn hóa kinh doanh. Cấu trúc của văn hóa kinh doanh gồm 5 yếu tố cơ bản: triết lý và tư tưởng kinh doanh; đạo đức kinh doanh; thực hành văn hóa kinh doanh; hệ giá trị nhân cách doanh nhân; hệ thống ngoại hiện. Trong đó, các yếu tố quan hệ hữu cơ với nhau, xâm nhập vào nhau, biểu hiện và tác động lẫn nhau. Đây sẽ là cơ sở lý luận để nghiên cứu sinh nhận diện về văn hóa kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. 47 Chương 2 SỰ HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX 2.1. KHÁI LƯỢC ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH 2.1.1. Điều kiện chính trị, kinh tế thế giới Sau những phát kiến địa lý, các nước tư bản phương Tây càng ráo riết tìm tòi các miền đất mới nhằm mở rộng thuộc địa của mình. Cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, các cuộc thăm dò của các nước này ở châu Á ngày càng dày. Đặc biệt khi chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa đã đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường và nguồn nguyên liệu sản xuất dẫn đến các cuộc chiến tranh xâm lược tại châu Á thế kỷ XIX. Nhiều quốc gia ở châu Á lần lượt trở thành thuộc địa của các nước phương Tây. Cùng với phương thức sản xuất tư bản, các quốc gia phương Tây áp đặt một nền văn hoá, văn minh với những tư tưởng mới và những thành tựu về khoa học kỹ thuật và vũ khí tối tân lên những nước thuộc địa; đặc biệt trong đó, tư tưởng khai sáng phương Tây đã tác động mạnh mẽ đến các nước phương Đông thuộc địa, nửa thuộc địa và phụ thuộc. Các nước như Nhật Bản, Thái Lan với quan điểm thức thời đã kịp thời đón nhận luồng gió mới từ phương Tây, cải cách dân chủ theo khuynh hướng tư sản và thành công vang dội, từ đ... đã thoát ra từ hệ tư tưởng Nho giáo, một hệ tư tưởng “trọng nông ức thương”, kìm hãm kinh doanh. Bên cạnh đó còn có những nhà Tân học, thông ngôn, ký lục, những điền chủ, thợ thủ công,... như Bạch Thái Bưởi, Trương Văn Bền, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Đình Kính, Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô... tiếp thu tư tưởng tiến bộ phương Tây và dũng cảm vượt qua khó khăn của người dân mất nước, quyết đấu với tư bản nước ngoài trên thương trường. Sự vượt trội của họ chính là trong hoàn cảnh vừa bị sự cạnh tranh khốc liệt của tư bản nước ngoài như Hoa, Ấn... vừa chịu sự kìm hãm của nhà cầm quyền Pháp mà vẫn vươn lên và ngày càng lớn mạnh. Hoạt động kinh doanh của họ ngày càng được mở rộng về quy mô sản xuất, thị trường và ngành nghề. Bên cạnh những nghề truyền thống, doanh nhân tham gia nhiều lĩnh vực kinh doanh mới mẻ như khai khoáng, công nghệ, tài chính - ngân hàng... Các sản phẩm của doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn chinh phục thị trường khu vực và quốc tế. 147 3. Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX vừa mang yếu tố văn hoá dân tộc, vừa tiếp thu giá trị văn hoá thế giới. Thứ nhất, Đó là nền văn hoá kinh doanh lấy tư tưởng yêu nước làm đầu. Tiếp thu truyền thống dân tộc, doanh nhân Việt Nam luôn lấy giá trị yêu nước làm triết lý kinh doanh, dẫn dắt các nhà doanh nhân thực hiện lý tưởng phụng sự tổ quốc, thể hiện sâu sắc trong Cách mạng tháng Tám; Thứ hai, văn hoá kinh doanh của doanh nhân đầu thế kỷ XX đã dần thoát khỏi ảnh hưởng của mặt tiêu cực trong văn hoá Việt Nam truyền thống với nền kinh tế lạc hậu, không khuyến khích kinh doanh buôn bán. Đó là nền văn hoá kinh doanh thể hiện sự “thoát xác”, lột bỏ hạn chế của văn hoá làng xã, của nền nông nghiệp tự cung tự cấp trong xã hội Việt Nam; đồng thời xây dựng nên những giá trị mới. Thứ ba, Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam giai đoạn này tiếp cận mặt tích cực của văn minh phương Tây, phát triển công nghiệp gắn với thị trường, tiếp thu thành tựu khoa học vào trong sản xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trong một thời gian không dài, với việc nâng cao kỹ năng quản lý kết hợp với áp dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ, nền sản xuất kinh doanh của Việt Nam đã bước đầu có những sản phẩm mang dấu ấn của trí tuệ Việt. 3. Tầng lớp doanh nhân yêu nước nửa đầu thế kỷ XX - chủ thể của nền kinh doanh giai đoạn này đã thể hiện ý nghĩa đích thực của đạo làm giàu với tâm - tài - trí - dũng. Đó chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các thế hệ doanh nhân nửa đầu thế kỷ XX, tạo nên một thế hệ doanh nhân lấy mục tiêu làm giàu gắn với công cuộc cứu nước để đến khi gặp được ngọn lửa Cách mạng Tháng Tám thì bùng cháy khát vọng cống hiến. Những tấm gương doanh nhân từ Lương Văn Can đến Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà... trở thành những gương doanh nhân văn hóa được tôn vinh trong các thế hệ doanh nhân sau này. 4. Mặc dù bị ngắt quãng một khoảng thời gian khá dài, văn hoá kinh doanh của doanh nhân nửa đầu thế kỷ XX có ý nghĩa quan trọng đối với thế 148 hệ doanh nhân Việt Nam ngày nay. Những bài học về sự phát triển của doanh nghiệp luôn gắn với sự giàu có của quốc gia; bài học về giữ chữ tín trong kinh doanh, về đoàn kết cộng đồng doanh nhân và đấu tranh bảo vệ quyền lợi của giới doanh nhân, đặc biệt là đấu tranh vì một nền kinh tế minh bạch và cạnh tranh bình đẳng; bài học về ý chí vượt qua thử thách khắc nghiệt của thương trường và định kiến của xã hội để tìm tòi một hướng đi của doanh nhân nửa đầu thế kỷ XX vẫn luôn được các doanh nhân coi trọng và coi là triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp. 5. Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế và công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, vai trò của doanh nhân càng được khẳng định. Đó chính là lực lượng chủ yếu làm ra của cải vật chất, giải quyết việc làm cho toàn xã hội, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Xây dựng văn hóa kinh doanh là cả một quá trình lâu dài. Đó không chỉ là việc riêng của doanh nhân hay doanh nghiệp nào mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Để xây dựng văn hóa kinh doanh cần có một môi trường văn hoá tổng thể, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của xã hội dân chủ, nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường. Tạo điều kiện cho sự chuyển đổi giá trị văn hóa, tôn vinh doanh nhân phát triển vừa là nhu cầu, vừa là điều kiện phát triển khi mà ý chí làm giầu để trở thành một đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta; đồng thời cũng góp phần thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển văn hoá và con người Việt Nam hiện nay. 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Nguyễn Thị Ánh (2013), “Văn hóa doanh nhân và lớp doanh nhân yêu nước nửa đầu thế kỷ XX” Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, (348), tr.20-24. 2. Nguyễn Thị Ánh (2013), “Tư tưởng cải cách văn hóa trong phong trào Duy Tân”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, (349), tr.3-7. 3. Nguyễn Thị Ánh (2013), “Lớp doanh nhân yêu nước Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (8), tr. 65-68. 4. Nguyễn Thị Ánh (2016), “Đạo đức kinh doanh của lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí khoa học, (9), tr. 127-134. 5. Nguyễn Thị Ánh (2016), “Triết lý kinh doanh của doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (11), tr. 65-68. 150 TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2010), “Tìm hiểu hoạt động kinh doanh và văn hoá kinh doanh cổ truyền của người Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (3), Tr.83-87. 2. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2010), Vấn đề văn hoá kinh doanh ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội. 3. Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá kinh doanh ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Ngoại thương, Hà Nội, 2004. 4. Nguyễn Hoàng Ánh (2004), “Văn hoá kinh doanh Nhật Bản”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, (8), tr.68-72. 5. Nguyễn Trần Bạt (2005), “Xây dựng nền văn hoá kinh doanh”, Tạp chí Khoa học và tổ quốc, (261), Tr.3-6. 6. Nguyễn Văn Bảy và các cộng sự (2006), Doanh nhân Việt Nam xưa và nay, Tập 3, Nxb Thống kê, Hà Nội. 7. Nguyễn Công Bình (1959), Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc, Nxb Văn - Sử - Địa, Hà Nội. 8. Nguyễn Công Bình (1958), “Tình hình và đặc tính của giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc”, Tập san Nghiên cứu Văn - Sử - Địa, (43), tr. 40-64. 9. Phan Kế Bính (2014), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội. 10. Bộ Chính trị (2011), “Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, tại [truy cập ngày 15/6/2015]. 11. Lương Văn Can (1928), Thương học phương châm, Nhà in Thuỷ Ký, Hà Nội. 151 12. Thượng Chi (1919), “Chấn chỉnh thương trường - một cái gương cho thương giới nước ta: ông Bạch Thái Bưởi”, Nam Phong tạp chí, (29), tháng 11, tr.381-394. 13. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật doanh nghiệp (2015), Nxb Lao động, Hà Nội. 15. Đỗ Minh Cương (2001), Văn hoá kinh doanh và triết lý kinh doanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đỗ Minh Cương (2002), “Văn hoá kinh doanh Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1), tr.30-34 17. Nguyễn Thị Doan, Đỗ Minh Cương chủ biên (1999), Triết lý kinh doanh với quản lý doanh nghiệp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 18. Nguyễn Hồng Dung, các chuyên gia của Pace (2007), Lương Văn Can : Xây dựng đạo kinh doanh cho người Việt, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 19. Vũ Tiến Dũng (2010), Tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội - giai cấp thời kỳ đổi mới, Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội. 20. Phạm Đức Dương (2007), “Văn hoá kinh doanh”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (1), tr.35-39. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm, khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), “Toàn văn Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân”, tại [truy cập ngày 8/6/2017] 24. Lê Quý Đức (2009), “Những gương mặt doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn hóa doanh nhân, (4), tr.16-18. 152 25. Geffrey G. Meredith, Robert E. Nelson, Philip A. Neck (1996), Quản lý và tinh thần doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Trung tâm Thông tin Tư liệu, Hà Nội. 26. Võ Nguyên Giáp và các cộng sự (2013), Gia đình doanh nhân Trịnh Văn Bô và những cống hiến cho nền tài chính cách mạng Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội. 27. Đinh Quang Hải (2007), “Nhà tư sản Đỗ Đình Thiện- Một nhân sĩ trí thức yêu nước có nhiều cống hiến cho cách mạng”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (8), tr.56-62. 28. Lê Văn Hiến và các cộng sự (2007), Đỗ Đình Thiện - cuộc đời và những cống hiến cho nền tài chính cách mạng Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội. 29. Lý Tùng Hiếu (2005), Lương Văn Can và phong trào Duy Tân - Đông Du, Nxb Văn hoá Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh. 30. Đỗ Huy (1996), “Văn hóa kinh doanh ở nước ta - Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Triết học, (2), tr.22-25 31. Nguyễn Văn Húy (1919), “Thương mãi luận”, Lục Tỉnh Tân Văn, (674), ngày 19/9. 32. Trần Thanh Hương (2012), Tư sản Việt Nam ở Bắc Kỳ trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 33. Nguyễn Văn Khánh (2004), Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 34. Trần Khánh (2004), “Đặc trưng văn hoá kinh doanh của người Hoa”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (4), tr.59-63. 35. Bùi Huy Khoát (2009), “Giá trị châu Âu - giá trị Nhật Bản - những khác biệt văn hoá trong kinh doanh”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (4), tr.22-27. 36. Không rõ tác giả (1940), “Bình dân phạn điếm - nơi cực lạc của những kẻ đầu đường xó chợ”, Báo Trung Bắc Tân Văn, ngày 17/3. 153 37. Không rõ tác giả (1919), “Cả tiếng kêu Nam Việt”, Lục tỉnh tân văn, ngày 10/9. 38. Không rõ tên (2016), “Tinh thần đoàn kết dân tộc của doanh nhân Đặng Lê Nguyên Vũ”, tại [truy cập ngày 13/6/2016]. 39. Không rõ tên (1921), “Hiện tình buôn bán người mình còn thua người khách”, Khai hóa nhật báo, (132), ngày 20/12. 40. Không rõ tên (1907), “Lời kêu gọi góp vốn”, Lục tỉnh Tân văn, (3), ngày 28/11. 41. Không rõ tên (1927), “Một nhà từ thiện”, Hà Thành ngọ báo, (95), ngày 25/8. 42. Không rõ tên (1922), “Muốn nước giàu dân thịnh kíp dùng đồ nội hóa”, Thực nghiệp dân báo, ngày 19/1. 43. Không rõ tên (1922), “Nghề buôn muốn phát đạt nên phải làm sao”, Hữu Thanh tạp chí, (12), ngày 15/1. 44. Không rõ tên (1997), Nguyễn Sơn Hà - nhà doanh nghiệp yêu nước, đại biểu quốc hội (1997), Nxb Lao động, Hà Nội. 45. Không rõ tên (1924),“Sự thực thà là căn bản của nhà buôn”, Khai Hóa nhật báo, (757), ngày 28/1. 46. Không rõ tên (1921), “Thành lập các Hội công thương”, Hữu Thanh tạp chí, (8), ngày 15/11. 47. Không rõ tên (1919), “Việt Nam đoàn thể hội - An Nam thương cuộc công ty”, Lục Tỉnh Tân Văn, (674), ngày 19/9. 48. Võ Văn Kiệt và các cộng sự (2010), 35 năm thành tựu kinh tế Việt Nam và doanh nghiệp, doanh nhân trong thời đổi mới, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 49. Jérome Ballet Francoise de Bry (2005), Doanh nghiệp và đạo đức, Dương Nguyên Thuận, Đinh Thuỳ Anh dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội. 50. Nguyễn Phương Lan (2005), “Sắc thái văn hoá kinh doanh ở Việt Nam”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, (12), tr.24-29. 154 51. Đoàn Vô Lạng (1919), Thương mãi - tái luận, Lục Tỉnh Tân Văn, (670), ngày 10/9. 52. Đinh Xuân Lâm và các cộng sự (2012), Doanh nhân Nguyễn Sơn Hà với doanh nhân Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng. 53. Mộng Huê Lầu (1919), “Tâm bổn tân thương - Annam xin ghé mắt, ghi đề kế lâu dài”, Lục Tỉnh Tân Văn, (674), ngày 19/9. 54. Dương Thị Liễu (2011), Giáo trình văn hóa kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 55. Dương Thị Liễu (2005), “Văn hóa kinh doanh và một số giải pháp xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (6), tr.54-59. 56. Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (1997), Nguyễn Sơn Hà - nhà doanh nghiệp yêu nước, Nxb Lao động, Hà Nội. 57. Nguyễn Viết Lộc (2012), Văn hoá doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh, Trường Đại học quốc gia, Hà Nội. 58. Vũ Tiến Lộc và các cộng sự (2013), Doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam vinh quang và gian khó: Sáng tạo để thành công, Nxb Thông tấn, Hà Nội. 59. Lê Lựu (2005), Doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam - Văn hóa và trí tuệ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 60. Lê Lựu (2007), “Văn hoá doanh nhân thời hội nhập”, Tạp chí Cộng sản- chuyên đề cơ sở, (2), tr.24-27. 61. Lê Hồng Lý (2005), “Bàn về việc xác lập những tiêu chí của văn hoá doanh nhân”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (4), tr.24-32. 62. LTTV (1919) “Chớ nên để bọn Kiều thương khinh dễ”, Lục Tỉnh Tân Văn, (610), ngày 27/3. 63. Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nxb Văn học, Hà Nội. 155 64. Lưu Thanh Mai (2007), “Văn hoá kinh doanh trong xu thế hội nhập quốc tế”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (6), tr.47-52. 65. Max Werber (2008), Nền đạo đức tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản, Bùi Văn Nam Sơn dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội. 66. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Nguyễn Bình Minh (1957), “Tính chất và giai cấp lãnh đạo hai phong trào Đông Kinh Nghĩa thục và Đông Du, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (33), tr.20. 68. Nguyễn Tuấn Minh (2013), Văn hoá kinh doanh Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam: Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội. 69. Mitokaru Aoki (1993), Nghệ thuật kinh doanh kiểu Nhật Bản, Nguyễn Văn Nguyệt dịch, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 70. Phạm Xuân Nam (1996), Văn hóa và kinh doanh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 71. Phạm Xuân Nam (1999), “Văn hóa, đạo đức trong kinh doanh”, Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 21-25. 72. Thanh Nghị (1967), Việt Nam tân từ điển, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn. 73. Trần Viết Nghĩa (2014), “Tư tưởng trọng thương của Lương Khắc Ninh trên tờ “Nông cổ mín đàm”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (6), tr.45-53. 74. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 75. Phùng Xuân Nhạ và các cộng sự (2013), Nhân cách doanh nhân và văn hoá kinh doanh ở Việt Nam trong thời kì đổi mới, hội nhập quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 76. Paul Doumer (2016), Xứ Đông Dương, Lưu Đình Tuân dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội. 77. Hoàng Phê (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 156 78. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2003), Doanh nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 79. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2016), “Điều lệ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam”, tại [truy cập ngày 1/12/2016]. 80. Vũ Huy Phúc (1996), Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam (1858-1945), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 81. Nguyễn Văn Phượng (2015), Tư sản người Việt ở Trung Kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1930, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 82. Võ Trọng Quang (2005), “Bàn về văn hoá kinh doanh và văn hoá doanh nhân”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (4), tr.19-23. 83. Đào Duy Quát chủ biên và các cộng sự (2007), Văn hoá doanh nghiệp - văn hoá doanh nhân trong quá trình hội nhập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 84. Nguyễn Mạnh Quân (2011), Giáo trình Đạo đức kinh doanh và văn hóa công ty, Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. 85. Dương Trung Quốc (2007), “Bàn về đạo kinh doanh của người Việt”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (5), tr.12-16. 86. Dương Trung Quốc (2005), Việt Nam những sự kiện lịch sử 1919-1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 87. Lê Minh Quốc (2004), Doanh nghiệp Việt Nam xưa và nay, tập 1, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh. 88. Lê Minh Quốc, các chuyên gia của Pace (2007), Bạch Thái Bưởi - khẳng định doanh tài nước Việt, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh. 89. Lê Minh Quốc biên soạn (2002), Những người Việt Nam đi tiên phong (Kể chuyện danh nhân Việt Nam), Phần 2, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 157 90. Hồ Sỹ Quý (2005), “Văn hoá doanh nhân: từ đời sống thực tế đến khái niệm học thuật”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (6) , tr.205-212. 91. “Quyết định số 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025" (2016), tại [Truy cập ngày 26/10/2016]. 92. T.L (1919), “Nghề buôn phải dọ giá”, Lục Tỉnh Tân Văn, (620), ngày 2/5. 93. Đoàn Duy Thành (2000), Diện mạo doanh nhân Việt Nam thế kỷ XXI, doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ đổi mới, Phòng Thương Mại Công nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 94. Nguyễn Q. Thắng (2006), “Hồ Tá Bang và phong trào Duy Tân tại Phan Thiết”, Tạp chí Xưa và nay, (270), tr.16-18. 95. Nguyễn Q. Thắng (2006), Phong trào Duy Tân - các khuôn mặt tiêu biểu, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 96. Trần Ngọc Thêm (2014), Những vấn đề văn hoá học - lý luận và ứng dụng, Nxb Văn hoá - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 97. Lương Dũ Thúc (1901), “Thương cổ luận”, Nông Cổ mín đàm, ngày 22/8, tr.2-3. 98. Lương Dũ Thúc (1903), “Thương cổ luận”, Nông cổ mín đàm, ngày 23/4, tr.1-2 99. Lương Dũ Thúc (1903), “Thương cổ luận”, Nông cổ mín đàm, ngày 19/11, tr.1-2. 100. Đỗ Thị Minh Thuý, Nguyễn Hồng Sơn chủ biên (2010), Phong trào Duy Tân với sự chuyển biến của văn hoá Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nxb Từ điển bách khoa, Viện Văn hoá, Hà Nội. 101. Tạ Thị Thuý (2013), “Nền kinh tế thương nghiệp của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (6), tr.26-32. 158 102. Nguyễn Trung Toàn, Interpress (2007), Triết lý kinh doanh, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 103. Võ Thành Trí (2006), “Triết lý 3P trong văn hoá kinh doanh”, Tạp chí Phát triển kinh tế, (10), tr.40,58. 104. Trompenarars F., Hampden-Turner C. (2006), Chinh phục các làn sóng văn hoá: Những bí quyết kinh doanh trong môi trường văn hoá đa dạng, Long Hoàng, Nhóm BKD47 dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội. 105. Liêu Chí Trung chủ biên (2010), Hà Nội: Nghề, thương hiệu và doanh nhân tiêu biểu xưa & nay, Nxb Công thương, Hà Nội. 106. Nguyễn Văn Trung (2015), Hồ sơ về Lục Châu học - tìm hiểu con người ở vùng đất mới, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 107. Vũ Quốc Tuấn (2001), Doanh nghiệp, doanh nhân trong kinh tế thị trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 108. Phạm Hồng Tung (2006), “Tìm hiểu thêm về Bạch Thái Bưởi, nhân tài kinh doanh tiêu biểu thời cận đại”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (5), tr.55-61. 109. Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 2 (2002), Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa, Hà Nội. 110. Nguyễn Văn Uẩn (2010), Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, tập 1, Nxb Hà Nội. 111. Hoàng Vinh (2005), “Bàn về thuật ngữ văn hóa và văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân từ góc nhìn của văn hóa học xã hội”, Hội thảo Văn hóa doanh nhân, Hà Nội, 23/9. 112. Hoàng Vinh (2006), “Văn hoá doanh nhân một thuật ngữ khoa học”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, (6), tr.20-27. 113. Nguyễn Quang Vinh (2002), Hoàn thiện và nêu cao hệ giá trị Việt Nam trong văn hóa kinh doanh như một lợi thế của cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 114. Trần Quốc Vượng, và các cộng sự (1984), Hà Nội- thủ đô nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. 159 115. Phạm Xanh, Nguyễn Dịu Hương (2003), “Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp và Hữu Thanh tạp chí với vấn đề bảo vệ quyền lợi của giới tư sản Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (1), tr.10-20. 116. Nguyễn Như Ý chủ biên (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. B. Tài liệu tiếng Anh 117. F. Schein (2004), Corporate Culture and Leadership, Jossey Bass Publisher. 118. Hofstede G. (1991), Culture and Organization – The Software of Mind, McGraw-Hill Book Company. 119. Mridula Goel, Preeti E. Ramanathan (2014), “Business Ethics and Corporate Social Responsibility – Is there a Dividing Line”, tại [truy cập ngày 20/3/2016]. 120. Nina Bandelj, Paul J. Morgan (2015), “Culture and Economy”, International Encyclopedia of the Social & Behavioral Sciences, Pages 535–541 121. O.C.Farrell, J. Fraedrich, L. Farrell (2016), Business Ethics, Ethical Decision making and cases, Houghton Mifflin Company. 122. Richard D. Lewis (2006), When culture collide - Managing successfully, Nicholas Brealey Publisher, London 123. W. Brierley, et al (2012), Business Culture in Euroque, Routledge, London. C. Tài liệu tiếng Pháp 124. Association amicale des employés indegènes de commerce et d’industrie au Tonkin, (1921), Imprimerie MAC-DINH-TU, HaNoi, Fonds RST hồ sơ 1148, TTLTQG 1, Hà Nội. 125. Associatuon Amicale des Employes Indigenes de Commerce et d’Industrie du Tonkn et de l’Annam (1923) (A.M.E.C.I), Imprimerie Bui Huy Tin, HaNoi. 160 126. Briqueterie Giêm, Annuaire esconomique de L’indochine, S415, S341-8, TTLTQG 1, Hà Nội. 127. Hung-Ky&Cie, Annuaire esconomique de L’indochine, S415, S341-6, TTLTQG 1, Hà Nội. 128. Les “Dong-Loi” sociétés coopératives indegènes au Tonkin”, “Bulletin é conomique de L’indochine”, 1906, TTLTQG 1, Hà Nội. 129. Société Dong-loi de Kien-an, Annuairé économique de L’Indochine 1926- 1927, Filatures et tissages de la soie, S.418, S425-2, TTLTQG 1, Hà Nội 130. Société ecommerciale Annamite “Quang-Hung-Long”, Annuaire economique de L’indochine 1926-1927 (Huileries et savonneries), S42-1, S42-2, TTLTQG 1, Hà Nội. 131. Société ecommerciale Annamite “Quang-Hung-Long” (savonneries) , Annuaire economique de L’indochine, S42-1, S42-2, TTLTQG 1, Hà Nội. 132. Société Nguyen-Ba-Chinh & Cie, annuaire esconomique de L’indochine, S415, S342-1->342-3 161 PHỤ LỤC 1 MỤC LỤC Trang Phụ lục 1 Mẫu phiếu phỏng vấn sâu 2 Phụ lục 2 Danh sách những người cung cấp thông tin chính 5 Phụ lục 3 Chân dung một số doanh nhân tiêu biểu 6 Phụ lục 4 Trụ sở công ty và hình ảnh quảng cáo sản phẩm 9 Phụ lục 5 Điều lệ của Hội Công thương đồng nghiệp Bắc kỳ 14 Phụ lục 6 Báo cáo hoạt động của một số công ty 26 2 PHỤ LỤC 1 MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Đề tài VĂN HÓA KINH DOANH CỦA DOANH NHÂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX Kính thưa ông/bà! Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, vấn đề phát triển văn hóa kinh doanh không chỉ tạo ưu thế cạnh tranh trong quan hệ kinh tế quốc tế mà còn góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhằm góp phần tìm hiểu lịch sử văn hóa kinh doanh của Việt Nam và tiếp thu những bài học kinh nghiệm vào quá trình xây dựng văn hóa kinh doanh hiện nay, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Văn hóa kinh doanh của doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX. Để nghiên cứu đạt được các mục tiêu đề ra, xin kính mong ông/bà bớt chút thời gian trò chuyện với chúng tôi. Xin ông/bà chia sẻ về sự hiểu biết, quan điểm, sự đánh giá những vấn đề liên quan đến văn hóa kinh doanh của doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX và ý nghĩa của văn hóa kinh doanh thời kỳ này trong quá trình xây dựng văn hóa kinh doanh hiện nay. Thông tin do ông/bà cung cấp hoàn toàn nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học. THÔNG TIN CHUNG - Họ tên người được phỏng vấn: - Tuổi; - Nghề nghiệp: - Thời gian, thời điểm phỏng vấn: 3 NỘI DUNG PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA (Nhà nghiên cứu và doanh nhân) 1. Ông/ bà có biết về lớp doanh nhân đầu thế kỷ XX không? Điều gì làm ông/ bà khâm phục nhất ở thế hệ doanh nhân đầu tiên của Việt Nam? 2. Theo ông bà, khó khăn lớn nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của thế hệ doanh nhân đầu thế kỷ XX là gì? (hạn chế trong quan niệm truyền thống dân tộc, chính sách pháp luật của nhà cầm quyền, chưa có kinh nghiệm về kỹ năng quản lý hay hạn chế về khoa học kỹ thuật?...)? 3. Ông/ bà có nghĩ rằng thế hệ doanh nhân đầu thế kỷ XX đã có một nền/kiểu văn hóa kinh doanh đầu tiên? Nền văn hóa kinh doanh đó có đặc điểm gì? (triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, kỹ năng/nghệ thuật kinh doanh, tổ chức hội đoàn kinh doanh...) 4. Trong giới doanh nhân đầu thế kỷ XX, ai là người ông/bà ấn tượng nhất? Tại sao? 5. Theo ông/ bà, thế hệ doanh nhân hiện nay có đặc điểm gì giống và khác so với những doanh nhân đầu thế kỷ XX? Họ có gặp khó khăn như thế hệ cha ông của mình? 6. Theo ông/ bà, doanh nhân ngày nay có thể học hỏi gì từ thế hệ doanh nhân đầu thế kỷ XX? Làm gì để doanh nhân hiện nay hiểu biết, tự hào và học hỏi văn hóa kinh doanh của thế hệ doanh nhân đầu thế kỷ XX? 7. Theo ông/bà, sự thiếu hụt lớn nhất của thế hệ doanh nhân hiện nay là gì? 8. Theo ông/bà những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng văn hóa kinh doanh hiện nay là gì? Xin trân trọng cảm ơn! 4 NỘI DUNG PHỎNG VẤN GIA ĐÌNH DOANH NHÂN ĐẦU THẾ KỶ XX 1. Cô chú/ anh chị có hay được nghe bố mẹ/ ông bà kể chuyện về công việc kinh doanh của họ dưới thời Pháp thuộc đầu thế kỷ XX không? Câu chuyện gì làm ông bà nhớ nhất? 2. Theo cô, chú/ anh, chị, đức tính quan trọng nhất khiến ông, bà/bố mẹ của cô chú/ anh, chị thành công trong kinh doanh là gì? 3. Mối liên hệ của ông, bà/bố mẹ của cô chú/ anh, chị với quê hương, họ hàng như thế nào? 4. Mối liên hệ của ông, bà/bố mẹ của cô chú/ anh, chị với những doanh nhân khác như thế nào? 5. Ông, bà/bố mẹ của cô chú/ anh, chị có muốn con cháu mình nối nghiệp kinh doanh không? Nếu có, ông, bà/bố mẹ của cô chú/ anh, chị đã làm gì để dạy dỗ, giúp đỡ con cháu? Nếu không thì tại sao? 6. Bản thân cô, chú/anh, chị có muốn nối nghiệp ông, bà/bố, mẹ mình không? Tại sao? 7. Trở ngại lớn nhất họ phải đối mặt trong quá trình kinh doanh là gì? 8. Mục đích lớn nhất của họ khi dấn thân vào con đường kinh doanh là gì? 9. Phương châm/ triết lý kinh doanh quan trọng nhất của bố mẹ/ ông bà của cô chú/anh chị? 10. Theo cô chú/ anh chị, doanh nhân ngày nay có thể học hỏi gì từ thế hệ doanh nhân đầu thế kỷ XX? (về triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, nghệ thuật kinh doanh, v.v.) Xin trân trọng cảm ơn! 5 PHỤ LỤC 2 DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN CHO LUẬN ÁN STT Họ tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ Thời gian khảo sát Chuyên gia 1 Phạm Xanh 73 PGS.TS, Giảng viên sử học, Đại học Quốc gia Hà nội 2013-2016 2 Dương Trung Quốc 67 Nghiên cứu lịch sử, TBT Tạp chí Xưa và nay 2013-2016 3 Vũ Tiến Lộc 56 Chủ tịch Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) 2013-2016 Gia đình doanh nhân 4 Hoàng Thị Minh Hồ 103 Doanh nhân, địa chỉ: Số 34, Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội 2013-2016 5 Trịnh Cần Chính 68 Con trai ông bà Trịnh Văn Bô và Hoàng Thị Minh Hồ 2013-2016 6 Trịnh Đình Tiến 78 Con trai doanh nhân Trịnh Đình Kính, địa chỉ: số 65 Hàng Bồ, Hà Nội 2013-2016 Doanh nhân hiện nay 7 Trần Kim Oanh 42 Phó Giám đốc, Công ty TNHH Thiết bị trường học, Số 21 Giang Văn Minh, Hà Nội 2013-2016 8 Nguyễn Anh Tuấn 39 Giám đốc, Công ty GTO, Nha Trang, Hà Nội 2013-2016 9 Lê Mai Lan Tập đoàn Vingroup 2013-2016 6 PHỤ LỤC 3 CHÂN DUNG MỘT SỐ DOANH NHÂN TIÊU BIỂU Lƣơng Văn Can Nguồn dẫn: truy cập ngày 5/9/2010 Gibert Trần Chánh Chiếu Nguồn dẫn: http:// www.chungta.com.vn truy cập ngày 12/8/2015 Bạch Thái Bƣởi Nguồn dẫn: truy cập ngày 19/5/2014 Hồ Tá Bang Nguồn dẫn: truy cập ngày 25/9/2016 7 Trịnh Văn Bô và Hoàng Thị Hồ (ảnh do Gia đình cung cấp) Nguồn dẫn: thoai-ve-ty-phu-xa-bong-co-ba-truong- van-ben-i- truy cập ngày 15/9/2016 Nguyễn Đình Khánh Nguồn dẫn: nam-Thang-Long-Ha-Noi/Nguyen-Dinh-Khanh- Ong-to-lang-nghe-nhiep-anh-Lai-Xa-2469/ truy cập 4/10/2010 Nguyễn Sơn Hà Nguồn dẫn: kientrucsonha.com truy cập ngày 15/9/2013 8 Ông bà Đỗ Đình Thiện và Trịnh Thị Điền (nguồn dẫn: ngày 2/9/2012, truy cập ngày 12/8/2016) Trịnh Đình Kính Ngô Tử Hạ (Ảnh do gia đình cung cấp) (Nguồn dẫn: (truy cập ngày 15/9/2016) 9 PHỤ LỤC 4 TRỤ SỞ CÔNG TY VÀ HÌNH ẢNH MỘT SỐ QUẢNG CÁO SẢN PHẨM Khách sạn Chiêu Nam lầu nằm giữa khu kinh doanh sầm uất Nguồn dẫn: truy cập ngày 25/10/2016 Trụ sở nước mắm Liên Thành Phan Thiết Nguồn dẫn: truy cập ngày 25/9/2016 10 Hình ảnh: Bến tàu và chi điếm công ty Bạch Thái Bưởi ở Hà Nội, ông Nguyễn Văn Thịnh - đại biểu của công ty (Nguồn dẫn: Nam Phong tạp chí, số 29, tháng 11-2019) 11 Những người thành lập công ty Liên Thành đầu thế kỷ XX (Nguồn dẫn: truy cập ngày 25/9/2016) Hình ảnh con voi đỏ biểu tượng của công ty (Nguồn dẫn: truy cập ngày 25/9/2016) 12 Mẫu quảng cáo của công ty vận tải ô tô Phạm Văn Phi ở Vinh Nguồn:Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, mã số S.1097 13 Hình ảnh sản phẩm của công ty Trƣơng Văn Bền và các con (nguồn dẫn: bong-viet-nam-83171.html, truy cập ngày 1/11/2015) Một góc kho trong khu nhà máy Sơn của Nguyễn Sơn Hà Nguồn: Nguyễn Sơn Hà, nhà doanh nghiệp yêu nước, Nxb Lao Động, 1997 14 PHỤ LỤC 5 ĐIỀU LỆ CÔNG THƢƠNG ĐỒNG NGHIỆP BẮC KỲ 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 PHỤ LỤC 6 SỐ LIỆU BÁO CÁO VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ CÔNG TY Các tuyến đƣờng thủy của công ty Bạch Thái Bƣời Nguồn dẫn: Nam Phong tạp chí, số 29, tháng 11-2019 27 28 Hoàn lại thuế thu nhập cho công ty Nguyễn Sơn Hà Nguồn: Tài liệu lưu trữ Trung tâm lưu trữ Quốc gia 1, số hồ sơ 2368-phông sở trước bạ, tài sản và tem Đông Dương 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_van_hoa_kinh_doanh_cua_doanh_nhan_viet_nam_dau_the_k.pdf
  • pdftom tat ta.pdf
  • pdftom tat.pdf
  • pdfTrang thong tin Nguyen Thi Anh.pdf
Tài liệu liên quan