Mô hình Công ty tài chính trong Tổng Công ty nhà nước

Mở đầu I. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ đã ra các quyết định 90-91/1994/TTg thành lập các tổng Công ty Nhà nước trên cơ sở sắp xếp lại các tổng Công ty và liên hiệp các xí nghiệp cũ. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện của mình, Chính phủ luôn lưu ý đến việc kiện toàn tổ chức bộ máy của các Tổng Công ty trong đó rất lưu ý đến các Công ty tài chính. Từ các quyết định 90 và 91/TTg, Nghị định 39/1995/CP Chính phủ

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1508 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mô hình Công ty tài chính trong Tổng Công ty nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã cho phép thành lập các Công ty Tài chính tại các Tổng Công ty có đủ điều kiện nhằm tìm kiếm khơi thông các nguồn vốn nội bộ, thu hút vốn từ bên ngoài, quản lý và nâng cao việc sử dụng vốn của toàn bộ các Tổng Công ty. Cho đến nay đã có 5 Công ty tài chính như thế được thành lập là Công ty Tài chính dầu khí, Bưu điện, Công nghiệp tàu thủy, Dệt may và Cao su. Tuy nhiên nhìn chung cho đến nay, chúng đều có quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, vì thế phải có định hướng phát triển và hoàn thiện chúng nhằm khai thác tốt hơn nguồn lực sẵn có của các Tổng Công ty, bản thân Công ty Tài chính và những vấn đề khác. Việc làm này có tính chất chiến lược lâu dài, là một biện pháp rất quan trọng để tiến đến những hình thức sản xuất lớn. Đó là điều quan tâm của toàn xã hội, nhất là đối với chính phủ và bản thân các Tổng Công ty. Những vấn đề bức xúc trên đã là điểm xuất phát để tôi chọn đề tài "Giải pháp hoàn thiện và phát triển mô hình Công ty Tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước ở Việt Nam” II. Mục đích của đề tài: - Nhìn nhận được một số vấn đề lý luận về Công ty Tài chính cũng như về mô hình công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế. - Đánh giá thực trạng hoạt động của các Công ty Tài chính trong các Tổng Công ty Nhà nước trong thời gian qua và rút ra những bài học bước đầu. - Nêu lên một số giải pháp và kiến nghị cơ bản để hoàn thiện mô hình. III. Phạm vi của đề tài: Đây là một nội dung lớn về vấn đề như: Hoàn thiện phát triển về cơ cấu tổ chức, nghiệp vụ, cơ chế hoạt động. Nhưng vấn đề này nếu xem xét kỹ thì đều có thể trở thành những vấnđề lớn cần nghiên cứu sâu. Vì thế trong phạm vi đề tài chỉ đề cập chủ yếu đến vấn đề hoạt động nghiệp vụ, và các vấn đề khác liên quan chỉ đề cập ở mức độ thấp hơn. IV. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp được sử dụng ở đây bao gồm phương pháp luận chung cho mọi khoa học: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê. V. Kết cấu nội dung: Xuất phát từ phạm vi đã nêu ra, kết cấu nội dung của đề tài gồm có: - Phần mở đầu - Phần nội dung với 3 chương: + Chương I: Một số lý luận chung về mô hình Công ty Tài chính trong tập đoàn kinh tế. + Chương II: Thực trạng hoạt động của các Công ty Tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước. + Chương III: Giải pháp hoàn thiện và phát triển mô hình Công ty Tài chính trong Tổng Công ty ở Việt Nam. - Phần kết luận chung. Để có được những kiến thức phục vụ cho quá trình tìm hiểu này, em đã được sự giúp đỡ của các thầy cô của khoa tiền tệ - thị trường vốn. Nhân đây em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy cô. Hà Nội, tháng 09 năm 2003 Sinh viên Lê Lương Hùng Chương I Một số lý luận chung về mô hình Công ty Tài chính trong tập đoàn kinh tế. I. Khái quát về tổ chức tài chính phi Ngân hàng. 1. Khái niệm về tổ chức tài chính phi ngân hàng. Dưới sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, bản thân các chủ thể của nó cũng có những bước phát triển không ngừng. Các hoạt động của hệ thống ngân hàng càng được mở rộng về tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, từ các hình thức mang tính chất ngắn hạn đến trung và dài hạn… Đồng thời chúng đã được chuyên môn hóa theo các lĩnh vực khác nhau để đáp ứng nhu cầu thị trường. Tuy nhiên trước sự phát triển rất mạnh của thị trường tài chính, có những nơi, những lĩnh vực mà bản thân các ngân hàng không thể bao quát hết, vì thế đòi hỏi phải có những tổ chức nhất định đảm nhận công việc này. Đó là các tổ chức tài chính phi ngân hàng. “Những tổ chức này kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, được thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và không cung cấp hệ thống thanh toán”. 2. Đặc điểm và vai trò. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng có đặc điểm khác biệt với các ngân hàng ở chỗ: Chúng không nhận tiền gửi không kỳ hạn, chỉ được nhận tiền gửi có kỳ hạn nhất định, không được làm các dịch vụ thanh toán như các ngân hàng. Do đó chúng không tham gia quá trình tạo tiền gửi và không bị điều hành chặt chẽ của Ngân hàng Trung ương như các Ngân hàng Thương mại. Với đặc thù của mình, chúng đã đưa các khoản tiết kiệm nhỏ lẻ vào phục vụ quá trình sản xuất và đời sống theo các hoạt động thế mạnh của mình như: chứng khoán, cho vay tiêu dùng, thế chấp đồng thời làm các dịch vụ như: môi giới, đại lý.Với những đặc thù của mình, các tổ chức tài chính phi ngân hàng có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội.Chúng góp phần làm đa dạng hóa các dịch vụ, tài chính cho nền kinh tế, đem lại những lợi ích thiết thực: tạo cơ hội sinh lời cho các nguồn tiết kiệm nhỏ lẻ thúc đẩy cạnh tranh và tiến bộ tài chính… Các hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng đem lại các hợp đồng bảo hiểm, các dịch vụ cung cấp thông tin… cho các khách hàng, giúp họ được bảo vệ tài chính và phân tán rủi ro. Đây là một khía cạnh đặc thù mà các tổ chức này đem lại. 3. Phân loại: Nhìn chung các tổ chức tài chính phi ngân hàng chủ yếu gồm: - Các trung gian đầu tư: Đặc trưng của loại này là huy động vốn trung và dài hạn để đầu tư vào một số lĩnh vực. Các quỹ đầu tư bao gồm 2 loại hình cơ bản: Công ty tài chính và các quỹ đầu tư. - Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng: Thuộc loại hình này có các Công ty Bảo hiểm và các quỹ trợ cấp. Tại đây, tài sản nợ của tổ chức được hình thành từ các hợp đồng, bằng cách nhận được các khoản nộp theo định kỳ và có trách nhiệm chi trả khi có sự kiện nảy sinh. Sự chênh lệch thời gian thu và chi tạo cơ hội cho các tổ chức này sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư. II. Công ty tài chính và mô hình Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế. 1. Công ty tài chính. 1.1. Khái niệm: Công ty tài chính là trung gian tài chính thành nguồn vốn bằng cách huy động tiền gửi có kỳ hạn hoặc phát hành các chứng khoán nợ hay vay của các ngân hàng. Nguồn vốn này được dùng để cho vay sản xuất tiêu dùng, thực hiện nghiệp vụ phục vụ riêng hay thuê mua.Bản thân Công ty tài chính là một trung gian đầu tư, vì thế một trong những nội dung quan trọng của chúng hướng tới là tham gia các hoạt động đầu tư để thu lãi. 1.2. Các loại hình Công ty tài chính. Căn cứ vào hoạt động kinh doanh, Công ty tài chính được phân loại thành ba loại hình chủ yếu: * Các Công ty tài chính tiêu dùng: Cung ứng phần lớn vốn cho các gia đình và cá nhân này, phục vụ mục đích mua sắm tiêu dùng. Hầu hết các khoản cho vay đều được trả góp theo định kỳ. Loại cho vay này thường là các món nhỏ với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường để giảm rủi ro. * Các Công ty tài chính bán hàng: Cung cấp tín dụng gián tiếp cho người tiêu dùng để mua sắm các loại hàng do Công ty mẹ hay một nhà sản xuất nào đó bán ra. Các Công ty tài chính này mua lại khoản nợ của người mua hàng, từ người bán hàng và thu nợ từ người mua hàng. * Công ty tài chính - thương mại: Chúng mua những khoản tiền phải thu hoặc chiết khấu các khoản phải thu của doanh nghiệp. Các khoản phải thu này là vốn lưu động phí dịch vụ chưa thu tiền. Ngoài cách này, các Công ty tài chính còn cung cấp các loại hình như: cho thuê tín dụng, thuê thiết bị… Như vậy, mỗi loại hình Công ty có những khách hàng riêng biệt của mình và đi đôi với nó là một phạm vi cung ứng dịch vụ riêng.Tuy nhiên thời gian gần đây, sự phân biệt trên đã dần mờ nhạt dần. 2. Về mô hình Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế. 2.1. Những điểm chính về Tập đoàn kinh tế. Tập đoàn kinh tế đã ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới. Quá trình tích tụ, tập trung sản xuất đã tạo ra một làn sóng chưa từng có để hình thành các tập đoàn lớn hoạt động trong các ngành, các lĩnh vực then chốt có lợi nhuận cao. Tập đoàn là một hình thức sản xuất tiên tiến, đại diện cho trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, đóng vai trò chi phối mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế các nước trong giai đoạn hiện nay. Chúng có một số đặc điểm sau: Một là: Có quy mô rất lớn về vốn, doanh thu và thị trường. Hai là: Phạm vi hoạt động rất rộng; đa số các tập đoàn lớn trên thế giới là các Công ty đa quốc gia hoạt động trên toàn cầu. Ba là: Tập đoàn có thể sản xuất theo đơn ngành hay đa ngành. Xu thế hiện nay là mở rộng ra đa ngành mà lĩnh vực tài chính là đặc biệt quan trọng. Bốn là: Tập đoàn là một tổ hợp các Công ty, trong đó các Công ty đóng vai trò là Công ty mẹ chi phối các thành viên về các mặt tài chính và chiến lược phát triển. Để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của mình đồng thời đảm bảo sự vững chắc cho sự phát triển đó, đòi hỏi trong mỗi tập đoàn phải có Công ty tài chính trong mô hình của mình. 2.2. Sự cần thiết của mô hình công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế. - Thứ nhất: Các Công ty tài chính giúp tập đoàn tìm hiểu và khai thông các nguồn vốn; huy động các nguồn vốn cho Công ty mẹ từ nguồn bên ngoài đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu về vốn. - Thứ hai: Công ty tài chính giúp quản lý một cách có hiệu quả thông qua sử dụng vốn đúng mục đích, đúng dự án đem lại hiệu quả kinh tế. - Thứ ba: Các Công ty tài chính giúp tập đoàn mở rộng lĩnh vực, đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh, nhằm giảm thiểu rủi ro vì nâng cao lợi nhuận. - Thứ tư: Với sự hoạt động của mình, các Công ty tài chính giúp các tập đoàn đạt được sự thống nhất cao, khai thác được tất cả các nguồn lực của tập đoàn thông qua một số cơ chế tài chính chung. Nói chung, với một xu thế là tiền tệ hóa các mối quan hệ kinh tế, tiến đến một nền kinh tế tiền tệ, thì các Công ty tài chính ngày càng trở thành bộ phận then chốt của tập đoàn. 2.3. Đặc điểm: Xuất phát từ đặc thù của mình Công ty tài chính trong tập đoàn có một số đặc điểm sau đây: - Về mục đích thành lập:Nó có hai nhiệm vụ cơ bản là: Huy động vốn để phục vụ tập đoàn và kinh doanh tiền tệ. - Về loại hình sở hữu: Công ty tài chính có thể là 100% vốn thuộc sở hữu của tập doan hoặc là sở hữu hỗn hợp, trong đó tập đoàn giữ đa số cổ phần. - Về nội dung hoạt động: Công ty tài chính thuộc các tập đoàn kinh tế chú trọng đến chức năng huy động vốn để phục vụ nhu cầu của tập đoan. Tiếp đó, nội dung này có thể được mở rộng hơn nữa khi quy mô của bản thân Công ty phát triển. - Về phạm vi hoạt động: Thị trường đầu tiên và chủ yếu của nó là các thành viên của tập đoàn, sau đó là mở rộng phạm vi ra bên ngoài gắn liền với phạm vi và thị trường hoạt động của tập đoàn. - Về mối quan hệ giữa Công ty Tài chính và các thành viên: Gắn bó chặt chẽ với nhau; vừa là khách hàng và bạn hàng của nhau . Chúng cùng quan hệ với nhau thông qua một mức lãi suất nội bộ. Để thấy rõ hơn phần nào đặc điểm của các Công ty tài chính trong các tập đoàn kinh tế ta sẽ so sánh một số điểm giữa Công ty tài chính và các phòng ban tài chính trong các doanh nghiệp. Sự khác biệt được thể hiện dưới bảng sau: STT Phòng ban tài chính Công ty tài chính 1 Là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ có chức năng tham mưu cho lãnh đạo. Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ 2 Không có tư cách pháp nhân Hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân 3 Theo dõi, kiểm tra, giám sát về lĩnh vực kế toán, thống kê, tài chính của doanh nghiệp. - Giao dịch với các thành viên với tư cách là các khách hàng đặc biệt - Kinh doanh tiền tệ, được ủy thác thực hiện huy động, điều hòa vốn và đầu tư tài chính 4 Thực hiện chức năng kế hoạch hóa tài chính: Kế hoạch tài chính, cân đối và quản lý các nguồn vốn, các quỹ - Là trung gian giữa các thành viên, giữa tập đoàn với các tổ chức tín dụng và thị trường tài chính Như vậy quy mô và phạm vi hoạt động của Công ty tài chính là rộng hơn nhiều so với phòng ban tài chính, chúng hoạt động với tư cách là doanh nghiệp thực sự. 2.4. Các hoạt động chủ yếu của Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế. 2.4.1. Huy động vốn: 2.4.1.1. Phát hành giấy tờ có giá: * Phát hành cổ phiếu: Quy mô của phát hành và số lượng phát hành phụ thuộc vào quyết định của Công ty mẹ, cũng như phụ thuộc vào quy mô ban đầu của Công ty tài chính. Phát hành Cổ phiếu thực hiện khi Công ty huy động vốn ban đầu hay bổ sung vốn điều lệ. * Phát hành trái phiếu trung và dài hạn với quy định không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, thì loại hình huy động vốn này trở thành công cụ chủ yếu để huy động vốn từ bên ngoài của các Công ty tài chính. * Phát hành chứng chỉ nợ: Đó là giấy nhận nợ của Công ty, nó sẽ phát hành loại này khi có nhu cầu cấp thiết về vốn ngắn hạn. Có hai loại chủ yếu là: - Chứng chỉ nợ loại lớn: Ghi rõ thời hạn trả và mức lãi suất. - Hợp đồng mua lại: Đó là các hợp đồng bán chứng khoán cho các đối tượng, thửa tiền mặt và thỏa thuận mua lại trong thời gian ngắn. 2.4.1.2. Vay từ các tổ chức tín dụng: - Các Công ty tài chính có thể vay các nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng theo những điều kiện nhất định. Tùy theo cơ chế hoạt động mà vay các hình thức như: vay mượn trực tiếp, tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư từ các tổ chức tín dụng để cho vay các dự án phát triển. 2.4.1.3. Vay từ tâp đoàn: Theo hình thức này, các tập đoàn với uy tín của mình đưa ra phát hành các giấy tờ có giá để huy động vốn rồi chuyển chúng cho Công ty tài chính vay. 2.4.2. Hoạt động đầu tư vốn: 2.4.2.1. Cho vay Đây là hoạt động chủ yếu của các Công ty tài chính để tạo lợi nhuận. Hoạt động này rất đa dạng, phong phú, bao gồm: * Nếu căn cứ vào thể thức cho vay, bao gồm: - Tín dụng ứng trước:. - Thấu chi:. - Chiết khấu thương phiếu:. * Nếu căn cứ vào đối tượng, hoạt động cho vay gồm: - Cho vay theo ngành nghề - Cho vay tiêu dùng. - Cho các tập đoàn và thành viên vay. - Cho các tổ chức tín dụng khác vay. 2.4.2.2. Đầu tư chứng khoán: Các Công ty tài chính còn là nhà đầu tư trên thị trường tài chính. Đầu tư chứng khoán là nguồn lợi quan trọng thứ hai sau cho vay. Hoạt động này giúp Công ty tài chính có thể phân tán rủi ro trong hoạt động của mình. 2.4.2.3. Cho thuê tài sản. Đó là hình thức mà theo đó, khách hàng có thể sử dụng tài sản vào mục đích nhất định. Đáng chú ý là: nếu trong hợp đồng có kèm theo lời hứa của người cho thuê sẽ bán lại tài sản này cho người đi thuê chậm nhát là khi kết thúc hợp đồng thì gọi là cho thuê tài chính; nếu không có thì gọi là cho thuê hoạt động. Hợp đồng thuê tài chính được nêu ở trên có 4 tiêu chuẩn đó là: * Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi kết thúc hợp đồng. * Hợp đồng có quy định quyền chọn mua * Thời hạn hợp đồng: Phần lớn thời gian hoạt động của tài sản. * Hiện giá tiền thuê cao hỏn giá trị tài sản. 2.4.3. Các hoạt động kinh doanh khác. * Các dịch vụ kinh doanh ngoại hối: mua- bán ngoại tệ huy động vốn ngoại tệ, đầu tư tài chính trên thị trường tài chính quốc tế. * Bao thanh toán: Hoạt động này gần giống chiết khấu thương phiếu nhưng có điểm khác là: Các khoản nợ được mua là có hóa đơn; Công ty tài chính thường giữ lại từ 10 -20% số tiền nợ để dự phòng hàng hóa bị trả lại. Lãi suất người mua được hưởng là cao bởi vì hoạt động này có tính rủi ro cao. * Các dịch vụ khác như: chuyển nhượng chứng khoán cầm cố: tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính. 2.5. Các yếu tố tác động đến hoạt động của Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế. 2.5.1. Tác động từ Nhà nước: Nhà nước co tác động cực kỳ quan trọng đến hoạt động của Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế cũng như các trung gian tài chính khác. - Xây dựng hệ thống pháp luật, tạo ra khuôn khổ cho các Công ty tài chính hoạt động, nhất là các pháp luật về kinh tế. - Tạo dựng môi trường kinh tế - xã hội, thực hiện các chính sách phát triển từ đó tác động đến xu hướng phát triển, hỗ trợ các trung gian tài chính phát triển. - Đầu tư vào các ngành quan trọng có vai trò là cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế từ đó giúp các chủ thể kinh tế phát triển. 2.5.2. Tác động từ tập đoàn. Công ty tài chính là một bộ phận trong chiến lược phát triển chung của tập đoàn. Tuy nhiên, các Công ty tài chính cũng có tính độc lập của nó. Công ty tài chính là một bộ phận của tập đoàn, vì thế nó chịu sự ràng buộc của các mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau trong tập đoàn. Nó hoạt động không những vì lợi ích riêng mà còn xuất phát từ lợi ích chung của các tập đoàn. bản thân của tập đoàn đưa ra cơ chế hoạt động rõ ràng cho các thành viên để tránh sự chồng chéo, cạnh tranh lẫn nhau. Bản thân các Công ty tài chính phải tự vận động trong cơ chế đó. 2.5.3. Những tác động từ thị trường. Các Công ty tài chính tham gia thị trường cũng phải tuân theo các quy luật kinh tế khách quan, cũng phải gánh chịu những rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra Công ty tài chính là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ nên nó cũng chịu sự tác động của những yếu tố đặc thù riêng. III. Về mô hình Công ty tài chính trong Tổng Công ty ở nước ta. Trong công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta, cải cách doanh nghiệp Nhà nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Những Nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước đều nhất quán quan điểm là: Phải tạo dựng được những tập đoàn kinh tế mạnh để trở thành đầu tầu của nền kinh tế. Hướng đi chủ yếu của các Tổng Công ty 91 là hướng tới trở thành các tập đoàn kinh tế và trong mô hình của nó có các Công ty tài chính. Đây được coi là bước đột phá trong phát triển doanh nghiệp Nhà nước.Thực hiện chủ trương này, đã có 5 Tổng Công ty 91 thành lập Công ty tài chính trong cơ cấu của mình, đó là: Bưu chính Viễn thông, Dầu khí, Cao su, Dệt may và Công nghiệp Tàu thủy. Những Công ty tài chính này hoạt động trong khuôn khổ điều chỉnh của hai luật là: Luật doanh nghiệp Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng. Mục tiêu thành lập là góp phần làm đa dạng hóa các dịch vụ và các loại hình tổ chức tín dụng Việt Nam, thực hiện chủ trương phát huy nội lực và nhất là tạo thêm kênh dẫn vốn để bổ sung cho các hoạt động ngân hàng truyền thống ở nước ta. Việc ra đời các Công ty tài chính góp phần thu hút nhiều nguồn vốn cho Tổng Công ty như: vay ưu đãi, tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư phát hành giấy tờ có giá… tạo điều kiện thuận lợi cho các Tổng Công ty. Các Công ty tài chính này có sự hiểu biết trong ngành, vì vậy nó có lợi thế về khả năng tiếp cận thông tin của các thành viên, nắm bắt được tình hình, đồng thời thời gian thẩm định, chi phí thẩm định dự án thấp hơn so với các ngân hàng. Sau một thời gian hoạt động, các Công ty này đã đáp ứng phần nào yêu cầu đề ra là: Tạo ra định hướng phát triển lâu dài cho mô hình Tổng Công ty; cung cấp vốn và khâu trung gian về vốn cho Tổng Công ty và các thành viên. Đặc biệt là chưa thấy xuất hiện nợ xấu, tất cả đều kinh doanh có lãi do biết tận dụng ưu thế của mình. Tuy nhiên, mô hình này vẫn còn là mới mẻ ở nước ta, do đó trong quá trình hoạt động còn rất nhiều vướng mắc cần tháo gỡ. Những nội dung này sẽ được làm rõ hơn khi tìm hiểu hoạt động của mô hình được thực hiện ở chương sau. Kết luận chương I Trong nền kinh tế thị trường, Công ty tài chính là một loại hình tổ chức tài chính phi ngân hàng, thực hiện một số hoạt động ngân hàng và cung cấp một số dịch vụ tài chính cho thị trường tài chính. Hình thức của các Công ty tài chính là rất đa dạng, trong đó một hình thức phổ biến là Công ty tài chính trong các tập đoàn kinh tế. Sự tồn tại của mô hình này là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế đã góp phần làm tăng thêm các nguồn huy động và sử dụng vốn của tập đoàn, góp phần làm đa dạng hình thức kinh doanh của các tập đoàn kinh tế, từ đó đưa các tập đoàn tiến sâu hơn vào lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Quá trình này được Công ty tài chính thực hiện tuần tự từ các nghiệp vụ trong nội bộ tập đoàn sau đó là vươn ra bên ngoài. Phần lớn các Công ty tài chính trong tập đoàn lớn có phạm vi hoạt động rất rộng, vượt qua biên giới quốc gia. Phạm vi đa quốc gia này giúp cho bản thân các Công ty tài chính cũng như các tập đoàn tăng phạm vi, sức mạnh của mình trên thế giới. Mô hình Công ty tài chính trong Tổng Công ty ở nước ta đã bắt đầu được chú ý phát triển từ các Quyết định 90 - 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Ban đầu nó được triển khai tại một số TCT 91 và cho đến nay đã có 5 Công ty tài chính được thành lập. Hiệu quả ban đầu đem lại của các Công ty này là đáng khích lệ, tuy nhiên, trong quá trình hoạt động bản thân các Công ty này còn rất nhiều khó khăn và vướng mắc. Chương II. Thực trạng hoạt động của Công ty tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước ở nước ta. I. Những thành tựu ban đầu: 1. Huy động vốn. - Mục tiêu thành lập Công ty tài chính là để tích tụ vốn, tập trung chuyên môn hóa để nâng cao sức cạnh tranh cho các Tổng Công ty và các thành viên của nó. Tuy nhiên, các Công ty tài chính còn bị ràng buộc bởi những quy định khác nên tổng số vốn huy động và tự có của 5 Công ty tài chính tính đến 6/2001 là gần 827 tỷ đồng thì trong đó nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng cao. Tỷ lệ vốn huy động so với vốn tự có như sau: Bảng 1. Tỷ lệ vốn huy động so với vốn tự có của Công ty tài chính. Đơn vị: % Tên Cty Năm Bưu điện Dầu khí Công nghiệp tàu thủy Dệt may Cao su 1999 17% - - 152% 295% 2000 69% 2% 192% 147% 275% Nguồn: Tạp chí Ngân hàng 3/2002 Nguồn vốn huy động từ CBCNV Chiếm tỷ lệ nhỏ (1,7% vào tháng 6/2001), nguồn vốn ủy thác đầu tư có vị trí quan trọng, nguồn vốn đi vay từ các tổ chức, tín dụng có tỷ lệ tăng trưởng khá và ngày càng chiếm tỷ trọng khá: chiếm từ 10,8% tháng 3/1999 tăng lên 23,9% tháng 11/2000 và 29,4% tháng 6/2001. - Một chỉ tiêu đáng lưu ý là vốn điều lệ của Công ty là khá thấp (như trên). Trong đó: Duy nhất Công ty tài chính dầu khí có vốn Điều lệ là 100 tỷ, còn lại chỉ từ 30 đến 70 tỷ đồng. - Nguồn vốn từ phát hành giấy tờ có giá gần như không có gì bởi phải sau 3 năm hoạt động có lãi mới được xem xét cấp giấy phép, và phải có dưới sự bảo lãnh của một tổ chức tín dụng có uy tín. Hơn nữa các Tổng Công ty mẹ vẫn chưa thực hiện bất cứ nghiệp vụ nào loại này. Bảng 2: Các chỉ tiêu nguồn vốn Đơn vị: Triệu đồng TT Chỉ tiêu 3/1999 11/2000 6/2001 1 Vốn điều lệ 130.000 279.000 287.000 2 Các loại quỹ khác 11.208 3 Tiền gửi CBCNV và tổ chức kinh tế 2.439 4.609 14.200 4 Vay các tổ chức tín dụng 18.451 124.261 243.220 5 Vốn ủy thác 20.083 112.520 234.708 6 Tài sản nợ khác 31.570 Nguồn: Tạp chí Ngân hàng 3/2002. - Nguồn vốn ngắn hạn vay từ các ngân hàng thương mại có tỷ lệ cao (từ 80% - 90% vốn thu hút là của Ngân hàng thương mại là ngắn han và ủy thác đầu tư, nguồn vốn trung và dài hạn là quá ít. - Nguồn vốn từ vốn vay ưu đãi Nhà nước lại phụ thuộc vào quỹ hỗ trợ phát triển với nguồn này, con số vay lúc dồi dào nhất cũng không vượt quá 100 tỷ đồng. 2. Về sử dụng vốn: - Theo báo cáo chưa đầy đủ, trong 2 năm 1999 - 2000: Ba Công ty tài chính là Cao su, Dệt may, Bưu điện: Tăng dư nợ cho vay ủy thác mới đạt gần 580 tỷ, còn lại các hoạt động khác bằng vốn tự có và huy động được, chỉ chiếm 1/3 tổng tài sản có, như vậy, khó có thể nói các Công ty tài chính có những dự án đích thực. Đặc biệt, đối với 2 ngành dầu khí và tàu thủy, một dự án thuộc nhóm B cần vốn từ 50 đến 400 tỷ thì với nguồn vốn hạn chế không thể được của hàng chục dự án mỗi năm. - Với cơ cấu nguồn vốn là ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao, tỷ trọng dư nợ ngắn hạn của các Công ty tài chính khá cao. Trong khi đó vốn trung và dài hạn khá khiêm tốn. - Một trong những điều cần quan tâm là khả năng cho vay nội bộ trong các Tổng Công ty. Đến năm 2002, 65% số đơn vị thành viên của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông, 44% ở Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ và 100% ở Tổng Công ty Dầu khí. Tuy nhiên quy mô vốn cho vay thấp, điều đó thể hiện ở tỷ lệ vốn vay của các thành viên với Công ty tài chính so với tổng vốn vay của các đơn vị này là rất thấp, lần lượt là: 0,21%; 10%, 10% ở 3 Tổng Công ty trên vào năm 2000. Điều này xuất phát từ nghịch lý là: Nhu cầu vốn của các Tổng Công ty 91 là rất lớn nhưng năng lực của các Công ty Tài chính thì có hạn. Ngay bản thân các Ngân hàng thương mại lớn khi cho các Tổng Công ty 91 vay vốn phải áp dụng hình thức đồng tài trợ do gặp phải các quy định về hạn chế cho vay. Kết quả sử dụng vốn được thể hiện ở bảng dưới dây. Bảng 3: Chỉ tiêu sử dụng vốn Đơn vị: Triệu đồng TT Chỉ tiêu 3/1999 11/2000 6/2001 1 Tiền mặt - Tiền gửi tại NHNN 333 1.979 11.420 2 Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng 68.150 81.028 185.909 3 Dư nợ ngắn hạn 64.382 145.632 284.799 4 Dư nợ dài hạn 8.693 53.668 68.034 5 Góp vốn mua cổ phiếu 16.958 6 Cho vay ủy thác đầu tư 20.082 113.354 229.062 7 Tài sản có khác 19.846 Nguồn: Tạp chí Ngân hàng 3/2002. 3. Các hoạt động khác: * Đầu tư tài chính và dịch vụ tài chính tiền tệ: Theo quy định các Công ty tài chính được phép đầu tư với mức tối đa là 40% vốn Điều lệ. Mặt khác, trong quy chế tài chính của Tổng Công ty, đầu tư vốn của công ty tài chính chỉ được coi là đầu tư vào các đơn vị sản xuất thông thường. Nó đã lãng quên một chức năng của Công ty tài chính là giúp Tổng Công ty đầu tư vốn ra ngoài. Vì thế hạn chế việc đầu tư tài chính của Công ty tài chính. Về các hoạt động dịch vụ tài chính tiền tệ tại Công ty tài chính đã giúp các Công ty mẹ và các thành viên về các vấn đề như: cổ phần hóa, thẩm định dự án. Nhưng các khoản phí thu từ dịch vụ này khá thấp. Đơn cử tại Công ty tài chính Bưu điện. Năm 2001 đã giúp thẩm định 640 dự án với tổng vốn đầu tư 2.240 tỷ; nghiên cứu các phương án hỗ trợ về quản lý vốn, tài sản, cổ phần hóa… Tổng phí dịch vụ thu được chỉ đạt khoảng 600 triệu, khá thấp so với yêu cầu đề ra. * Về hoạt động ngoại hối: Do những yêu cầu từ phía Ngân hàng Nhà nước nên chưa Công ty tài chính nào được phép hoạt động trong lĩnh vực này. Đã có một số Công ty hội tụ đủ điều kiện nhưng vẫn chưa được cấp phép. Nhìn chung sau một thời gian hoạt động, các Công ty đã ổn định tổ chức và bắt đầu thu được hiệu quả nhất định. Theo đó thu nhập hàng năm trước thuế của các Công ty là khoảng 4 - 5 tỷ / năm. Như vậy hoạt động của các Công ty là bước đầu có lãi, tuy vẫn còn nhiều điểm hết sức hạn chế. II. Những khó khăn, hạn chế: 1. Khó khăn trong hoạt động nghiệp vụ: * Đối với huy động vốn: Do được quy định một cách hạn hẹp nên không thể huy động vốn một cách rộng rãi, hơn nữa các nguồn đi vay khác lãi suất cao hơn do đó gây bất lợi cho các Công ty tài chính. * Đối với việc cho vay: Do không được cho vay quá 15% vốn tự có nên khả năng cho vay thấp (do vốn tự có thấp, hơn nữa khách chủ yếu của các Công ty tài chính là các đơn vị hạch toán độc lập (theo Quyết định 296/1999/NHNN của Ngân hàng Nhà nước) nên đối tượng cho vay bị hạn chế. Hơn thế nữa việc cho vay phần lớn là dưới hình thức ngắn hạn do đó chưa thực sự đem lại hiệu quả rõ rệt. * Đối với việc kinh doanh ngoại hối: Do chưa được cấp phép nên gặp nhiều khó khăn trong thực hiện cấp tín dụng cho các vấn đề có liên quan đến các yếu tố nước ngoài như: đầu tư, loại hoạt động xuất nhập khẩu… * Chất lượng dịch vụ về tài chính tiền tệ còn thấp do bản thân các Công ty còn chưa thực sự nhập cuộc về lĩnh vực này. * Khả năng sử dụng vốn của các Công ty còn hạn chế, tỷ trọng tiền gửi của tại các tổ chức tín dụng của các Công ty lớn, do đó doanh thu hàng năm của các Công ty xuất phát từ các hoạt động này là chủ yếu, kéo theo nó là hạn chế về hoạt động ngân quỹ. Rõ ràng là các hoạt động nghiệp vụ mà các Công ty này thực hiện là hết sức hạn chế. Nổi bật là hoạt động phát hành giấy tờ có giá chưa hề được thực hiện. 2. Khó khăn - hạn chế trong các hoạt động nội bộ: - Các Tổng Công ty can thiêp sâu vào hoạt động của các Công ty tài chính, do đó các Công ty này không thể quyết định những vấn đề then chốt như: quyết định lãi suất cho vay và huy động. - Bản thân các Tổng Công ty chưa thực sự nhuần nhuyễn với một cơ chế có một Công ty tài chính trong cơ cấu. Bản thân các đơn vị thành viên còn khá lạnh nhạt với các Công ty tài chính. III. Nguyên nhân và bài học bước đầu. 1. Nguyên nhân: Những hạn chế mà các Công ty tài chính gặp phải là toàn diện ở mọi mặt khó khăn về nghiệp vụ, cơ chế hoạt động, mô hình tổ chức. Những hạn chế này nảy sinh là do Công ty tài chính còn là một mô hình còn mói nên dễ nảy sinh những vướng mắc. Những hạn chế này thể hiện từ cơ chế chính sách của Nhà nước, của các cấp quản lý và từ bản thân các Công ty. 1.1. Nguyên nhân từ các cơ quan quản lý Nhà nước. Chúng ta đã thấy được rằng phải có Công ty tài chính trong các Tổng Công ty mạnh. Nhưng chúng ta chưa hình dung được cụ thể về mô hình này. Một la: Chưa xác định được vị trí, định hướng cho Công ty tài chính trong Tổng Công ty ngoài việc coi đây là mô hình mới đã được đưa tên vào Điều lệ mẫu thành lập các Tổng Công ty 91. Hai là: Các Công ty tài chính phải tự xoay xở với hệ thống cơ chế chính sách về tài chính tiền tệ còn nhiều bất cập. Ba là: Các Công ty tài chính không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong khi các Tổng Công ty muốn sử dụng chúng như một công cụ điều tiết vốn của Tổng Công ty. Bốn là: Các quy định của Ngân hàng Nhà nước về cơ chế và phạm vi hoạt động còn rất nhiều bất cập về huy động vốn sử dụng vốn, về hoạt động ngoại hối, về đầu tư tài chính, như đã nêu ra ở các phần trên. Các Công ty tài chính đứng trước hoàn cảnh là lực bất tòng tâm. 1.2. Nguyên nhân từ các tổng công nhà nước * Một là: Cơ chế quản lý vốn đầu tư. Đa số các Tổng Công ty chưa thực sự tin tưởng vào các Công ty tài chính. Vẫn thực hiện chế độ bao cấp về vốn, đầu mối thanh toán, cho các đơn vị phụ thuộc. Rõ ràng là tồn tại tới hai đầu mối về vấn đề vốn trong TCT. * Hai là: Cơ chế điều hòa vốn nhàn rỗi Các Tổng Công ty chưa có chính sách quản lý, điều hành vốn nhàn rỗi tại Tổng Công ty mà để các thàn viên "mặc ai nấy làm" làm mất đi vai trò thu hút và điều hòa vốn của Công ty tài chính. Trong một Tổng Công ty, có những đơn vị thừa vốn để gửi thu lợi nhuận, trong khi một số khác lại phải đi vay vốn các Ngân hàng thương mại với lãi suất cao dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn nhàn rỗi tại các Tổng Công ty thấp. * Ba là: Cơ chế quản lý của Tổng Công ty còn bất cập. - Một cơ chế quản lý điều hành chung vẫn còn nhiều vướng mắc bởi bản thân các Tổng Công ty đang vẫn phải loay hoay tìm lời giải cho vấn đề này. Mối quan hệ giữa Công ty mẹ - Công ty con giữa các thành viên với nhau còn rất nhiều mâu thuẫn về lợi ích, nên rất nhiều các Công ty con chỉ hoạt động vì lợi ích riêng. Do đó khi có thêm một Công ty tài chính rất mới mẻ sẽ gây rất nhiều lúng túng trong các mối quan hệ nội bộ. 1.3. Nguyên nhân chủ quan từ bản thân các Cô._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8921.doc
Tài liệu liên quan